THUYẾT TRÌNH MÔN VĂN HỌC PHÁP
THỦ PHÁP TƯƠNG PHẢN TRONG TIỂU THUYẾT “NHÀ THỜ ĐỨC
BÀ PARIS” CỦA VICTOR HUGO
Mục lục
THUYẾT TRÌNH MÔN VĂN HỌC PHÁP 1
THỦ PHÁP TƯƠNG PHẢN TRONG TIỂU THUYẾT “NHÀ THỜ ĐỨC BÀ PARIS”
CỦA VICTOR HUGO 1
Mục lục 1
3. Tác phẩm “nhà thờ Đức Bà Paris” 3
3.1. Hoàn cảnh sáng tác 3
3.2. Tóm tắt nội dung 3
Quyển 1, 2, 3 3
Quyển 3 đến quyển 6 4
Quyển 7 4
Quyển 8-10 4
Quyển 11 4
1
I.GIỚI THIỆU CHUNG
1.Thời đại lịch sử.
Ở Pháp thế kỉ XIX có nhiều biến động của những cuộc cách mạng và tư tưởng
lớn.Cách mạng tư sản Pháp 1789 thành công đã đập tan chế độ phong kiến lạc hậu
lâu đời mở ra thời kỳ phát triển mới cho nước Pháp nói riêng và Châu Âu nói chung.
Phái Jacobanh lúc này quyết đập tan mọi trở ngại phong kiến kìm hãm sự phát triển
xã hội nhằm thiết lập một nền chuyên chính cách mạng.
Cuộc đảo chính 27/7/1794 đưa tầng lớp tư sản mới lên nắm chính quyền.
9/11/1799 sau cuộc đảo chính 18 tháng, Napolion lên nắm chính quyền thiết lập chế
độ độc tài và Đế chế I. Sau khi nắm quyền Napolion tiến hành các cuộc chiến tranh
xâm lược và hầu hết các nước ở Châu Âu là thuộc địa của Pháp.
1850 các thế lực phản động Châu Âu đánh bại Napolion ở trận Naterloo đưa
vua Louis lên ngôi thiết lập nền Trùng Hưng (1815 – 1830).
1830 giai cấp tư sản lật đổ nền Trùng Hưng thiết lập nền quân chủ (1830 –
1848), Sau đó đàn áp nhân dân lao động như ở Lyon (1831, 1834), Paris
(1832,1834) và nhất là những ngày đẫm máu tháng 6/1848, 1848 cuộc bầu cử nước
cộng hòa Louis, Bonapac trúng cử. 2/1852, thiết lập chế độ Đế chế II, Louis
Bonapac lên ngôi hoàng đế xưng Napolion III. Đế chế II tiếp tục gây chiến và thua
Phổ (2/9/1870). Nhân dân phế truất Napolion III ( 4/9/1870) đế chế II sụp đổ nền
cộng hòa III được thành lập.
Nền cộng hòa III là thời kỳ bành trướng của CNTB Pháp. Công cuộc chinh
phục thuộc địa thành chiến quốc sách. Thời kỳ này cuộc đấu tranh của các thế lực
dân chủ tiếp diễn và giành một số thắng lợi. Bối cảnh xã hội Pháp được phản ánh rất
rõ nét trong văn học, và là tiền đề cho văn học phát triển. Bên cạnh nền văn học hiện
thực thì trào lưu văn học lãng mạn phát triển rực rỡ và đạt nhiều thành tựu lãng mạn
được hiểu theo nghĩa triết tự là sóng tràn bờ chỉ một sự phóng túng, tự do, vượt lên
trên mọi ràng buộc. Chủ nghĩa lãng mạn dựa trên các nguyên lý như: Đề cao mộng
tưởng, đề cao tình cảm đề cao sự tự do. KarlMarx đã nói: “ Chủ nghĩa lãng mạn là
phản ứng đầu tiên đối với cách mạng Pháp và tư tưởng khai sáng gắn liền với cuộc
cách mạng đó”. Và đây là thời đại Victor Hugo sống và sáng tác nên những đứa con
tinh thần của mình.
2. Victor Hugo.
Victor Hugo là bậc thầy vĩ đại của văn học Pháp, là lá cờ sáng chói về chủ
nghĩa lãng mạn. Ông sinh ngày 26/2/1802 tại Bersancon – một thành phố nhỏ nằm
phía Đông nước Pháp. Cha ông là Joseph Lessopold Sigisbert Hugo (1773- 1828),
một vị tướng phục vụ trong quân đội. Mẹ là bà Sophie Trébuchet (1772 – 1821). Do
Cha suốt năm đi chinh chiến nên thời thơ ấu của Hugo luôn đi theo mẹ lăn lội nhọc
nhằn khắp nước Pháp, Ý, Tây Ban Nha. Trong thời gian đi học Hugo đã tiếp xúc với
những tác phẩm mà thời bấy giờ về tư tưởng được xem là quá khích của Voitaire,
Rousseau và Denis Diderot. Ông sùng bái Francois Renéde Chateaubriande. Nhìn
xuyên suốt cả cuộc đời của Hugo cũng giống như chúng ta đọc một bản biên niên sử
của nước Pháp vào thế kỷ XIX. Cuộc đời huy hoàng của Hugo gắn chặt với lịch sử
của dân tộc Pháp. Lập trường chính trị của Hugo mặc dù có nhiều phen thay đổi
nhưng tinh thần chủ nghĩa nhân đạo của Ông thì trước sau như một. Ông đồng tình
sâu sắc nỗi dâu khổ của đông đảo nhân dân đại chúng. Ông luôn đề cao cái thiện và
2
phủ định cái ác. Hugo trước sau như một luôn đồng tình với số phận của nhân dân ở
các xứ thuộc địa bị đế quốc chủ nghĩa dày vò, lên án chúng là một lũ ăn cướp là
hành động làm sỉ nhục đến nhân loại. Ông đề cao Chân - Thiện - Mỹ, lên án những
gì thuộc về đen tối xấu xa, tàn bạo. Đó là cốt lõi chính trong sáng tác của Hugo.
Hugo là thi nhân của dân tộc Pháp. Ông đã viết một số lượng lớn tác phẩm thi
ca ưu tú để ca ngợi cũng như than thở về cuộc sống, mơ ước tự do, bày tỏ tình yêu,
ca ngợi thiên nhiên như những tập “LesVois untérieures”( tiếng lòng).“Les Feuille
d’automme” ( Lá mùa thu), “Les Orientales”( Đông phương ngâm), “Les Chant du
Crépúcule ( Những bài hát buổi sáng). Ngoài ra có các bài thơ chính luận chống lại
chính quyền tàn bạo, vạch trần xã hội đen tối và bất công, tràn ngập hơi thở chiến
đấu như “Les Châtiment (trừng phạt), “L’ Année terrible” ( Năm bất hạnh)… lại có
những bài thơ kể chuyện như “La Légende des siècles” ( truyền thuyết nhiều đời).
Hugo lại là một tác gia vĩ đại trong văn học sử nước Pháp. Những cuốn tiểu
thuyết dài “ L’Homme qui rit” ( Người mặt cười), “Les Travailleurs de la mer”
( Người lao công trên biển), “nhà thờ Đức Bà Paris”, “Những người khốn khổ”…
Hugo còn là một nhà viết kịch theo chủ nghĩa lãng mạn trứ danh. Ông viết
những tác phẩm hay như: “Cromwell”, “Hernani”, “Marion de Lorme”, “Luerèce
Borgia”… trong đó vở “Hernani” là thành công nhất, gây chấn động cả kịch trường
nước Pháp.
Ngày 22/5/1885 Victo Hugo – ngôi sao lớn trên văn đàn của thế kỉ XIX đã rơi
rụng. Cả nước Pháp trở nên nghiệm trọng rụng rời, lá cờ tam sắc xanh trắng đỏ buông
rủ nghẹn ngào, Ngày 1/6 tất cả nhân dân Paris tuôn hết ra đường đứng nghẹt từ Khải
Hoàn Môn cho tới tận điện Pathéon đưa linh hồn ông về nơi an nghỉ cuối cùng.
Ngôi sao vĩ đại sáng chói Victo Hugo đã soi sáng tiến trình văn minh của
nhân loại. Ông và những trước tác vĩ đại của Ông sẽ được nhân dân toàn thế giới
truyền nhau đọc mãi.
3. Tác phẩm “nhà thờ Đức Bà Paris”
3.1. Hoàn cảnh sáng tác.
Tác phẩm ra đời xuất phát từ việc tác giả muốn viết một cuốn tiểu thuyết về
ngôi nhà thờ nổi tiếng ở thủ đô Paris (pháp), đã đến với Victor Hugo vào năm 1828.
Ông đã nhiều lần đến nhà thờ Đức Bà Paris để ngắm kiến trúc kiên cổ của ngôi nhà
thờ, và nảy ra ý tưởng viết một cuốn tiểu thuyết có tính chất lịch sử lấy bối cảnh Paris
thời Trung cổ. Ông muốn ngôi nhà thờ cổ kính tráng lệ vượt lên trên thời gian và tất
cả những biến cố.
Tác phẩm đã thể hiện được sự vươn đến một tầm cao triết lý, qua cách mô tả
một định mệnh đã dẫn các nhân vật gắn liền với ngôi nhà thờ này cho đến chỗ chết,
chỗ hủy diệt. Chính cảm hứng bi quan này đã đem đến cho tác phẩm vẻ lớn lao và
hoang dại. Tác phẩm xuất bản được chia làm 11 quyển.
3.2. Tóm tắt nội dung
Quyển 1, 2, 3
3
Bối cảnh lịch sử là ngày 06/01/1482, ngày lễ hội của những người điên diễn ra
ở Paris. Trong đại sảnh của pháp đình, công chúng đang xem một vở thánh kịch của
Pierre Gringoire (một thi sĩ nghèo). Cô gái Bohémiens xinh đẹp Esméralda thì làm
nghề múa rong ngoài phố trên quảng trường trước nhà thờ Đức bà. Hành động múa
hát này đã bị gặp phải sự cấm đoán của phó giám mục nhà thờ là Claude Frollo vốn
được xem là một người đạo hạnh, uyên bác. Nhưng bản thân ông lại là một người rất
cô đơn, xanh xao, u uất vì nếp sống tu hành. Hơn hết, ông đã bắt đầu thấy được hiểm
họa sa vào địa ngục khi ông bắt đầu say mê cô gái múa rong. Ông đã cố gắng để thoát
khỏi “địa ngục” ấy, nhưng cuối cùng bị tình yêu lôi kéo vĩnh viễn. Lễ hội tan, màn
đêm buông xuống. Người kéo chuông nhà thờ Đức bà Quasimodo, kẻ dị hình, dị dạng,
vừa mù, vừa chột, vừa thọt theo lệnh của phó giám mục Claude Frollo mưu toan bắt
cóc Esméralda. Nhưng đội tuần tra của đại úy Phoebus đã kịp giải cứu cô gái và bắt
Quasimodo đi. Thi sĩ Gringoire lang thang lạc vào vương quốc ăn mày, suýt bị treo
cổ, nhưng nhờ Esméralda nhận làm chồng theo luật lệ cái bang nên thoát chết. Tuy
nhiên, cô chỉ nhận trên danh nghĩa để cứu mạng Gringoire vì lòng cô đã hoàn toàn
hướng về đại úy Phoebus, người đã cứu cô.
Quyển 3 đến quyển 6
Vốn nhân từ, Esméralda bỏ qua vụ bắt cóc và đã đem nước cho Quasimodo
uống trong lúc hắn bị xử phạt trên đài bêu vì tội bắt cóc và gây rối loạn ban đêm.
Tâm hồn hoang dã của Quasimodo từ lâu không quen giao tiếp với thế giới con
người, chỉ biết có cha nuôi là phó giám mục Frollo, người đã đem hắn về nuôi khi
hắn còn là một quái thai dị dạng bị bỏ trước cửa nhà thờ. Vẻ đẹp và tấm lòng của
Esméralda đã làm thức tỉnh trái tim hoen rỉ của hắn. Quasimodo bắt đầu yêu, một
tình yêu bất diệt không cần đền đáp.
Quyển 7
Esméralda yêu Phoebus một cách mù quáng, dù Phoebus thực chất chỉ là một
gã sở khanh ăn chơi đàng điếm, đã có hôn thê là một tiểu thư quý tộc. Esméralda đã
nhận lời hẹn hò của y tại một căn nhà trọ ở vùng ngoại ô. Phó giám mục yêu
Esméralda điên dại nên đã theo dõi rình mò đôi tình nhân và y đã không kìêm chế
được nỗi ghen tuông đã đâm Phoebus rồi bỏ trốn. Esméralda bị kết án vì hai tội: giết
người và làm phù thủy.
Quyển 8-10
Esméralda bị kết án treo cổ, Quasimodo phá pháp trường để cứu Esméralda,
đem cô vào trú ẩn an toàn trong nhà thờ Đức Bà. Những người ăn mày đang nóng
lòng chờ Esméralda nhưng không thấy cô trở lại đã tấn công vào nhà thờ để cứu cô.
Bị Quasimodo đẩy lùi.
Quyển 11
Phó giám mục Claude Frollo tuyệt vọng đến mức mất cả lý trí và nhân tính.
Hắn phát hiện ra Esméralda đang trú ẩn trong nhà thờ nên đã ép buộc và đe dọa cô.
Với sự che chở của Quasimodo, Esméralda vẫn sống bình an và vẫn yêu Phoebus.
4
Frollo cho thi sĩ Gringoire đến để lừa cô ra ngoài, một mặt hắn lại báo cho bọn cảnh
binh biết để truy bắt. Frollo đã đặt điều kiện buộc Esméralda phải ưng thuận mình,
bằng không ông sẽ giao cô cho bọn cảnh binh đang truy đuổi cô ráo riết. Esméralda
quyết chịu chết chứ không ưng thuận nên Frollo đã giao cô cho một bà ẩn tu điên dại
đã tự chôn mình trong ngôi mộ lộ thiên từ khi đứa con gái của bà bị người
Bohémien bắt cóc và để lại một đứa trẻ dị dạng (bà đã đem đứa trẻ dị dạng đó để
trước thềm nhà thờ Đức bà, Frollo đã đem đứa trẻ về nuôi, đó là Quasimodo). Vì thế
người ẩn tu này rất ghét bọn Bohémien nên Frollo nghĩ rằng Esméralda sẽ bị bà
hành hạ cho đến chết. Nhưng sau đó, hai mẹ con đã nhận ra nhau nhờ vật kỷ niệm
(đôi giày của trẻ con mà Esméralda luôn mang bên người là do mẹ làm cho). Cuối
cùng, cảnh binh đã tìm được nơi ẩn nấp của hai mẹ con. Người mẹ hết sức bảo vệ
con, nhưng Esméralda vẫn bị bắt đi và bà đã chết ngay vì quá tuyệt vọng. Esméralda
bị đem đi treo cổ một lần nữa. Quasimodo biết được đầu đuôi câu chuyện và khi
chứng kiến tận nụ cười thâm độc của phó giám mục khi thấy Esméralda bị đưa ra xử
tử, đã xô Frollo ngã từ trên tháp chuông nhà thờ xuống đất. Sau đó, Quasimodo đã
ôm xác Esméralda vào cùng chết chung trong hầm mộ
II.Thủ pháp tương phản trong tiểu thuyết “ Nhà thờ đức Bà Paris”.
1.Thủ pháp tương phản là gì?
Là một thủ pháp nghệ thuật sử dụng hai hay nhiều cái khác nhau, đối lập nhau
đặt song song nhau trong cùng một chỉnh thể để làm nổi bật và khắc họa rõ nét hơn
cái được mô tả, đồng thời thấy được sự khác biệt của những cặp đối lập nhau đó.
2. Thủ pháp tương phản trong tiểu thuyết “ Nhà thờ đức Bà Paris”.
2.1 Sự tương phản trong xã hội.
Thời đại cắt nghĩa con người, con người cắt nghĩa tác phẩm. Trong văn, trong
kịch, trong thơ, nghệ thuật của Victor Hugo đã cải biến, mở đường và phát triển cùng
với thế kỷ XIX mà ông chung sống, đang đi lên ở nước Pháp. Thoạt đầu dựa vào kinh
nghiệm của người cùng thời, cuối cùng ông vượt xa họ. Tham gia hết sức nồng nhiệt
vào mọi niềm say mê, quan điểm, khát vọng của thời đại, trong đó không thiếu cái
khắc khoải, lầm lạc, tác giả đã đau buồn, vui sướng như một con người thực sự trần
thế. Bằng tác phẩm, trong đó có cuốn “Nhà Thờ Đức Bà Paris” bất hủ, ông đã đem
nỗi vui buồn đó thấm sâu vào tư tưởng và tình cảm của mọi người, từ đó cống hiến vẻ
vang vào sự nghiệp văn học tiến bộ của nhân loại.
Những gì còn lại với độc giả là một làn sương mỏng manh dễ vỡ, nhưng dày đặc,
bao phủ là một nhà thờ cổ kính và đẹp đẽ, sang trọng và bí ẩn, chứa đầy nỗi oan
nghiệt và đớn đau.
5
Nội dung của các tác phẩm chủ yếu xoay quanh những mâu thuẫn nảy sinh trong
lòng xã hội. Cụ thể là do tàn dư của chế độ phong kiến và mầm mống của chế độ tư
bản độc quyền đang được hình thành. Hậu quả của hoàn cảnh xã hội đó là sản sinh ra
những tầng lớp người dân bần cùng và nghèo khổ, đồng thời nhiều bất công ngang trái
cũng trở thành những vấn đề nhức nhối. Giá trị tư tưởng của tác phẩm này chính là
tiếng nói bảo vệ lẽ phải và sự công bằng của xã hội.
Mở đầu của vở thảm kịch ấy, là hình ảnh của đô thành Paris tráng lệ và rực rỡ,
cổ kính và uy nghiêm nhưng lại đầy bí ẩn và nhuốm một sắc màu tăm tối và vô tình.
Hugo đã thật tài tình khi vẽ nên Paris của những năm thế kỉ XV với một sự tưởng
tượng vô hạn nhưng cùng thực tế vô cùng. Hình ảnh nhà thờ Đức Bà là biểu trưng
đồng thời cũng là tất cả những gì mà tác phẩm xoay quanh.
Nhà thờ Đức bà, nơi uy nghiêm và sang trọng , đáng lẽ phải là nơi cho những
vị giáo hoàng, những vị tăng lữ làm nhiệm vụ của Chúa. Nhưng thực tế lại là nơi để
giáo hội tổ chức những trò vô bổ. Quảng trường Grevơ tổ chức đốt lửa liên hoan, lễ
trồng cây tháng năm ở nhà nguyện Bracơ và diễn mixterơ ở Tòa pháp đình đã thu hút
sự có mặt của đông đảo quần chúng ồn ào náo nhiệt. Vở kịch “sự phán xét tốt lành
của Đức Bà đồng trinh Mari” là bối cảnh tác giả miêu tả sâu hơn sự sa đọa của tầng
lớp tăng lữ, quí tộc. Vở kịch mà dân chúng rất háo hức lại bị trì hoãn vì Đức Hồng Y
Giáo Chủ chưa có mặt, đoạn thơ giáo đầu là “Cày bừa” kết hôn với “Hàng hóa”,
“Tăng lữ” kết hôn với “Qúi tộc”. Những chi tiết này cho ta thấy rõ tương phản giữa
một bên là uy quyền và sự sa đọa của giáo hội, một bên là cuộc sống nghèo khổ và
giốt nát của quần chúng nhân dân, đồng thời ta cũng thấy rõ sự bóc lột của giáo hội
đối với những người nông dân bần hàn và sức mạnh của những món lợi sinh ra từ
hàng hóa đối với giai cấp quí tộc.
Các nhân vật đại diện cho những tầng lớp trong xã hội được Victor Hugo khắc
họa với những nét đặc trưng. Hồng y giáo chủ, người đáng được trọng vọng vô cùng
lại được Virto Hugo miêu tả: “ tóm lại đây là một người tốt, ngoài cuộc đời giáo chủ
đầy hoan lạc, sẵn sàng vui thú với món rượu vang cung tiến Sayô,…thích bố thí cho
gái đẹp hơn là bà già và vì mọi lí do đó rất được bình dân ưa chuộng, ái mộ, đang
trong tình trạng phát triển thần tốc, có thể nói nó đè bẹp luôn mất tăm chút phần tử
6
quyền lợi tí tẹo mà vừa nãy ta đã nhận thấy trong cấu tạo của thi sỹ…”. Lời của
Clôđơ khi nói với Exmeranda: “ là bác học ta nhạo báng khoa học,…là linh mục ta
lấy sách kinh làm chiếc gối dâm dật, ta nhổ toẹt vào giữa mặt đức cha của ta…”.Tầng
lớp bần cùng trong xã hội được tác giả miêu tả là những những kẻ cùng đinh, là đám
ăn mày rách rưới trong “hội đoàn cuồng đãng, vương quốc tiếng lóng”…
Nước Pháp thế kỉ XV là nơi hội tụ của những hủ tục, lề lối cũ rích giết người,
sự bất công trong xã hội với những con người cùng khổ mà đức hạnh, sự kì thị sắc
tộc,…“Hành hình là chuyện xảy ra giữa đường phố như cái nồi hầm của chủ quán ăn
hoặc là sát sinh của đồ tể. Đao phủ cũng chỉ là gã hàng thịt nặng tay hơn kẻ khác”.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm đâu đâu ta cũng thấy nào là giàn bêu tù, giá treo cổ hoặc
ngựa kéo lê…những hủ tục giã man thời trung cổ vẫn được thi hành khi mà văn minh
của tầng lớp quí tộc và tăng lữ đang trên đà phát triển. Những kẻ bất hạnh sẽ là trò vui
cho giáo hội và chính quyền. Sự bất công trong xã hội và sự kì thị sắc tộc thể hiện rõ
qua thái độ như vỡ mộng của Pie Grigoa khi nhận ra người có điệu múa say lòng
người lại là Esmesralda -cô gái Bôhêmiêng.
Quang cảnh của Paris hiện lên qua ngòi bút của tác giả là nơi ung nhọt và đầy
kinh hãi, những cảnh khảo đả, tra tấn diễn ra hàng ngày, các phiên tòa xử án của giáo
hội chỉ là bù nhìn và những trò hề lố bịch, nhằm chà đạp lên những người dân phúc
hậu nghèo khó, các thứ thuế chất đống là thứ đè nặng lên những con người khốn khổ
ấy, ở nhà thờ và tu viện đầy những pháo đài và giá treo cổ, những bà phước độc ác và
lạnh lùng, các vị linh mục đầy quền lực nhưng rượu chè, cờ bạc và dâm dật. Cả chính
quyền lẫn thần quyền đều hợp sức tạo ra một nền pháp chế thô sơ mà dã man. Tôn
giáo, nhữngh hủ tục lề thói tất cả đều tụ họp vào ngôi nhà thờ cổ kính với từng tiếng
chuông rung não nề và lạnh lẽo. Cũng cần phải thấy những thay đổi của ngôi nhà thờ :
“Ở đấy lần lượt và đồng thời có ba cổng khoét hình cung nhọn: một dãy hăm tám
khám trượng quốc vương xẩy trổ kiểu thêu ren; cái cửa sổ hoa thị lớn ở chính giữa
với hai bên của sổ …dãy hành lang cao vút và mảnh khảnh, có cửa tò vò hình tam
điệp…cuối cùng hai tòa tháp đen và to, với mái hiên lớp đá đen, những bộ phận hài
hòa của một chỉnh thể tuyệt mỹ, chồng lên nhau thành năm tầng gác đồ sộ…có thể
nói đây là bản giao hưởng đá dài đặc; là tác phẩm khổng lồ của một người và của
một dân tộc ”. Với tất cả những gì là hùng vỹ nhất, qua bàn tay con người và sự tàn
7
phá của thời gian thì : “Qua vết tích tàn phá, có thể phân biệt ba loại vết thương, cả
ba đều hủy hoại với mức độ nặng nhẹ khác nhau: trước hết là thời gian đã dần dà xói
lở đây đó và làm hoen ố khắp các bề mặt; rồi đến các cuộc cách mạng chính trị và
tôn giáo, vốn bản chất mù quáng và giận dữ đã ào ào xông tới xé rách bộ áo ngoài
phong phú gồm những điêu khắc và chạm trổ, đập vỡ cửa sổ hoa thị, phá tan sợi dây
chuyền những hoa văn và tượng nhỏ, tước đoạt các pho tượng…cuối cùng là thói thời
thượng ngày càng thô bỉ và ngu ngốc, kể từ những bước chệch đường hỗn loạn và
tráng lệ thời Phục Hưng, cứ liên tiếp thay thế nhau trong cảnh suy thoái tất yếu của
kiến trúc…”
Từ hình tượng Paris hoa lệ cho tới ngôi nhà thờ cổ kính và giáo đường với
những vị giáo chủ, thầy tu biến chất cùng đám dân nghèo khổ, bần cùng hiện lên sinh
động dưới ngòi bút sắc sảo và điêu luyện của Victor Hugo thông qua thủ pháp nghệ
thuật tương phản được sử dụng thành công trong tác phẩm. Qua đó càng bộc lộ bức
tranh hỗn độn và mâu thuẫn tồn tại trong xã hội Pháp đương thời.
2.2 Sự tương phản trong chính bản thân nhân vật.
2.2.1 Nhân vật phó giám mục Frollo.
Trong toàn bộ tác phẩm ta thấy nổi lên nhân vật-giám mục Frollo. Với bút pháp
tương phản đã đạt đến trình độ đỉnh cao, Victo Hugo đã xây dựng rất thành công
một tên gián mục, một người cha của nhà thờ nhưng sự ích kỉ, ham muốn và dục
vọng tầm thường đã biến tâm hồn thành quỷ dữ.
Từ nhỏ Claude Phrollo đã được cha mẹ chuẩn bị để bước vào hàng giáo phẩm.
“Thực ra đó là một đứa trẻ u buồn, nghiêm trang đúng đắn , học rất chăm và mau
hiểu biết. Chàng không hò hét lúc ra chơi,ít đua đòi nhậu nhẹt . Chàng học từ môn
thần học, pháp lệnh rồi sau đó lao vào y khoa và văn nghệ. Chàng học ngôn ngữ
tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp, tiếng Do Thái. Năm mười tám tuổi, chàng hoàn thành
bốn khoa đại học. Chàng trẻ tuổi đó hình như cho cuộc đời chỉ có mục đích duy
nhất là: kiến thức”. Khi ba mẹ chàng mất, chàng tưởng rằng chỉ cần tình yêu cho
em trai là đầy đủ cho cả cuộc đời. “Cho nên chàng bập vào yêu đứa em Jehan với
niềm say mê. Đối với đứa trẻ, chàng còn hơn một người anh, mà trở thành người
mẹ. Ở nhà thờ Đức bà, chàng nhanh chóng được cả tu viện kính trọng và khâm phục
vì kiến thức lẫn lối sống khắc khổ, vốn hiếm thấy vào tuổi này”. Rồi khi nhận nuôi
Quasimodo, Frollo thấy nó xấu xí càng thêm yêu thương.
“Còn điều chắc chắn nữa là phó chủ giáo say mê một cách lạ lùng cái cánh
cổng tượng trưng của nhà thờ Đức bà, đó là những giờ dài dặc ông thường ngồi
trên lan can sân thượng nhà thờ để ngắm dãy điêu khắc tạc trên cổng thành”.
8
“ Do cương vị và tính nết, ông thường xa lánh đàn bà; nay ông càng thù ghét họ
hơn bao giờ hết. Chỉ nghe tiếng áo lụa đàn bà sột soạt, ông đã vội kéo mũ trùm sụp
xuống tận mắt”.
Nhưng tất cả những thứ ấy do ông cố công xây dựng bao nhiêu năm trời đều bị
sụp đổ và Frollo như rơi vào địa ngục khi gặp cô gái Ai Cập có tên Esmeralda.
Ông say mê cô đến mức điên cuồng, thậm chí chấp nhận từ bỏ tất cả nếu như cô
nhận lời yêu ông.
Frollo dựa vào quyền hành của mình, lợi dụng lòng tin và tình yêu tuyệt đối nơi
Quasimodo để ra lệnh cho tên gù bắt cóc Esmeralda. Nhưng khi mọi chuyện bị bại
lộ, tên gù bị hành hạ đến mức thê thảm, bị dân chúng chế giễu và phải đối mặt với
giá treo cổ, Frollo vẵn dửng dưng như đó chẳng phải là chuyện để ông quan tâm,
cho dù Quasimodo nhìn ông với một sự khẩn cầu nơi vị cha sứ, vị linh mục và như
một người thầy, một người cha.
Frollo là một con quỷ đội lốt thầy tu, một tên ma dâm dục.
Dường như những năm tháng tu luyện khổ hạnh, kiêng khem những gì thuộc về
bản năng của một người đàn ông, giờ đây khi gặp Esmeralda bản năng về dục vọng,
về yêu cuồng si trong ông càng trổi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Frollo đã tự thú nhận với Esmeralda: “Ta sống trong sạch tâm hồn tràn đầy ánh
sáng tinh khiết. Không có cái đầu nào ngẩng cao kiêu hãnh và vui sướng hơn ta.
Các linh mục học hỏi tới học hỏi ta về sự thanh khiết, các học giả hỏi ta về học
thuyết. Phải, kiến thức là tất cả đối với ta.” Nhưng khi lần đầu tiên gặp cô gái Ai
Cập đang nhảy múa dưới quảng trường vị linh mục “sững sờ, say đắm, mê mẩn, để
mặc mình cứ việc ngắm nàng”. “Tôi mải mê ngắm em đến mức đột nhiên rùng mình
run sợ, cảm thấy số phận đã bị định đoạt. Ta muốn dùng mọi phương thuốc, nào
nhà tu, nhà thờ, công việc, sách vở. Rõ hão huyền! Ôi! Khoa học thật trống rỗng khi
ta tuyệt vọng vùi cái đầu đầy ham mê vào đó! Cô em, liệu em có biết từ đó ta luôn
nhìn thấy gì giữa cuốn sách và ta không? Chỉ có em, bóng dáng em. Luôn luôn nghe
tiếng em âm vang trong đầu óc, luôn luôn thấy chân em nhảy múa trên cuốn kinh
thánh, đêm đêm mơ thấy vóc dáng em trườn trên da thịt ta, ta thèm gặp lại em, sờ
mó em, xem em là ai”.Những ham muốn dục vọng đã khiến con người ta thay đổi
nhanh chóng.Frollo cố gắng che dấu những dục vọng của mình để cố giữ cái vỏ bọc
tôn kính của một vị linh mục.Chính vì ham muốn dục vọng quá lớn này đã đẩy ông
xuống vực thẳm tội lỗi để rồi có những hành động man rợ, khủng khiếp để làm hại
những người xung quanh ông.
Cuộc sống tu hành qua bao năm tháng không cho ông biết được thế nào là
tình yêu và khi đã yêu rồi ông lại không biết cách để yêu, không biết thế nào là hy
sinh cho tình yêu. Trong ông chỉ là một sự ích kỉ, ích kỉ đến điên rồ, ông làm mọi
cách để chiếm đoạt được tình yêu, chiếm được Esméralda cho dù nàng điên cuồng
từ chối và còn căm hận Frollo đến cực độ.Tình yêu vốn không phải cố gắng chiếm
đoạt là bằng được, không phải là sự chiếm đoạt về thể xác, không phải là sự ích kỉ
chỉ biết có bản thân mình, Frollo không hề biết được điều đó, Frollo như một tên mù
lao và biển lửa của tình yêu. Ông dùng mọi cách: đe dọa, dụ dỗ, hành hạ cô gái
Bôhêmiêng đáng thương nhưng đáp lại chỉ là sự căm hận ngày càng tăng của
Esmeralda mà thôi.
Tên quỷ đội lốt thầy tu ấy càng trở nên độc ác khi biết được rằng Esmeralda đã
dành trọn tình yêu cho Phoebus. Hắn ta bám dai dẳng Esmeralda cho dù cô ở bất cứ
đâu.
9
Vì sự ghen tuông đến mù quán, vì sự ích kỉ không muốn sự trinh trắng của
Esmeralda thuộc về bất kì người đàn ông nào. Frollo đã giáng cho Phoebus một nhát
dao bốc khói và giáng cho Esmeralda một vết thương, một tai họa khủng khiếp khi
chứng kiến cảnh yêu đương của Esmeralda và Phoebus.
Một giám mục, một vị cha, một con người đạo mạo, trí thức nhưng là một tên
giết người không dám tự thú. Và cái giá mà vị linh mục phải trả cho sự tàn ác của
mình là sự hành hạ, chế giễu của mọi người và cuối cùng chính là cái giá treo cổ
dành tặng cho người yêu của vị linh mục – cô Esméralda. Còn đối với linh mục
chính là sự khốn khổ, dày xéo nơi tâm hồn.
Yêu nhưng vị cha sứ không dám làm gì để bảo vệ người mình yêu, không dám
thú tội mình là kẻ giết người để bảo vệ cái địa vị, danh dự của một vị linh mục. Và
ông ta cho rằng đó chính là sự trừng phạt thỏa đáng cho việc Esméralda không yêu
ông. Frollo đã đưa ra điều kiện cho Esméralda: yêu ông ta hoặc là cái giá treo cổ và
Esmeralda đã chọn cái chết còn hơn một tên quỷ.
Con người của Frollo càng biến chất hơn trong khỏang thời gian này. Ông đã
lần mò tìm đến Esméralda khi cô ở trong nhà thờ và đã làm những chuyện vượt xa
khuôn khổ của một thầy tu. Những lời yêu thương ông dành cho Esmeralda đến dồn
dập. Là một vị phó giám mục được mọi người kính trọng nhưng khi đối diện với
tình yêu, với cô gái, Frollo đã vứt bỏ hết tất cả chỉ để cầu xin cô gái ban cho tình
yêu. Gã giám mục khốn khổ lải nhải: “Ban ơn cho tôi! Nếu em biết tình yêu của tôi
đối với em như thế nào? Như lủa đốt, như chì sôi, như trăm ngàn lưỡi dao trong tim
tôi.” Yêu tôi đi! Yêu tôi đi! Tội nghiệp! Vị linh mục sờ soạng, ôm ghì lấy cô nhưng
cô gái lại nguyền rủa, ghê tởm: “Cút đi, đồ quái vật! Cút đi, quân giết người!” “
Hãy buôn ra, nếu không tao nhổ vào mặt mày! Bị cự tuyệt, ông ta đã dành tặng cho
cô gái đáng thương những cực hình, nhốt Esmeralda với nỗi sợ hãi khủng khiếp nhất
đời cô, giao cô cho một bà ẩn tu điên dại và nghĩ rằng cô sẽ bị hành hạ cho đến chết.
Cuối cùng ông ta chỉ đường cho quỷ đến bắt cô, bỏ mặt cô với cái giá treo và dửng
dưng, đứng trơ mắt chứng kiến cô gái đối diện với cái chết.
Cuối cùng chính Quasimodo đã tự tay chấm dứt sự tàn ác của tên linh mục, đưa
hắn ta về với quỷ Satăng cho dù đối với Quasimodo Frollo như một người cha, một
người mà tên gù tôn sùng, một người thân yêu duy nhất của Quasimodo.
Tóm lại bằng bút pháp tương phản, Victo Hugo đã xây dựng thành công tên
phó giám mục – một con người đại diện cho một tầng lớp cao quý trong xã hội
nhưng vì những ham muốn, dục vọng tầm thường ngự trị mà biến chất trở thành một
con quỷ. Đồng thời qua nhân vật Frollo tác giả muốn mượn nhân vật này để làm
điển hình cho một tàng lớp cao trong xã hội thời báy giờ. Nhưng ngoài lớp vỏ bọc
tôn giáo thì họ không đẹp đẽ như những vị thánh mà thực chất là những kẻ mượn uy
quyên và lòng tin tôn giáo để che đậy bản chất xấu xa và đê tiện của họ. Con người
dùng nhà thờ, dùng chức danh thầy tu để che đậy tội ác, cái xấu xa, còn xã hội thì lại
mộ đạo, quá tin tưởng vào các vị linh mục để rồi bị cái tốt đẹp bên ngoài làm cho
mờ mắt mà không biết được đâu là cái tốt, đâu là cái xấu.
2.2.2. Nhân vật đại úy Phoebus.
Victor Hugo đã dùng ngòi bút sắc sảo của mình để dựng nên một nhân vật
phản diện trong tác phẩm, đó là đại úy Phoebus. Một con người có sự tương phản
nhau về ngoại hình và tính cánh.
10
Trong truyện, Phoebus được miêu tả là đại úy cung thủ ngự lâm quân, trang bị
từ đầu đến chân, tay cầm siêu đao đang dẫn quân lính đi tuần. Đặc biệt đại úy
Phoebus là một con người rất điển trai và hào hoa, được nhiều cô gái để ý đến.
Phoebus lại xuất thân trong một gia đình quý tộc được dạy dỗ giáo dục từ nhỏ và
được đào tạo để trở thành một sĩ quan quân đội.
Victor Hugo không chỉ xây dựng nhân vật cuả mình bằng chất liệu hình thức
đẹp đẽ như thế mà bằng thủ pháp tương phản sở trường về thủ pháp nghệ thuật của
mình, một mặt Victor Hugo xây dựng nên một Phoebus đẹp trai, hào hoa, đa tình và
nhất là khi được đầu tư về trang phục thì trông đại úy càng thêm lịch lãm và rất oai
phong nhưng mặt khác khi miêu tả tính cách của phoebus thì với lớp vỏ bọc hào hoa
phong nhã đó tác giả thổi vào Phoebus là một gả sở khanh, mê ăn chơi, đàn đùm,
thích la cà nơi quán xá. “chỉ thấy thoái mãi giữa đám ăn tục nói nhảm, chơi bời lính
tráng và đàn bà dễ tính, và thành công dễ dàng”. “Là người có tính khí bất nhất và
sở thích tầm thường”.
Không phải ngẫu nhiên mà Victo Hugo lại miêu tả một cách tương phản về
phoebus, mà trong đó là cả một thế giới nghệ thuật được gửi gắm qua nhân vật này.
Dân tộc ta có câu : “ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Còn phoebus trong tác phẩm là kẻ
“.tốt nước sơn hơn tốt nước gỗ”. Sự tương phản hoàn toàn giữa ngoại hình và tính
cảnh với dụng ý vạch trần bộ mặt xấu xa của một kẻ tốt mã rỗng tuếch. Phoebus là
một sĩ quan quân đội, oai vệ lắm, quý tộc lắm nhưng mở miệng ra là chủi thề “
Đếch ra làm sao, tao giữ được con đĩ còn hay hơn” hay “ thương hại cái đếch gì!
Thương hại vớ vẫn như vậy khác gì cắm cái lông vào trôn lợn”. Câu nói tục tĩu và
kệch cỡm chẳng có ý nghĩa gì lại được thốt ra từ miệng của một sĩ quan điển trai.
Phoebus chỉ huy một đội quân đi tuần, nhưng lại mãi mê bực bội vì không giữ được
gái. Thật là hết biết, chính vì vậy với vẻ bề ngoài tuấn tú, oai vệ thì bên trong
Phoebus hiện ra là một kẻ dại gái, kẻ ong bướm, trơ trẽn. Chất sở khanh của hắn
hiện ra rõ khi mà hắn đã có đính ước với một tiểu thư quý tộc, nhưng lúc thì thích
lúc thì chán ngán cô ta nhưng vẫn thề thốt với lời : “ Anh yêu em, xưa nay anh chỉ
yêu có mình em thôi”. Gặp ai , phoebus ấy, hắn cũng nói như vậy. Vì vậy mà tính
khí của hắn thất thường trái ngược với tướng mã đẹp trai của hắn.
Là một sĩ quan quân đội, bị tiêm nhiễm thói quen lính tráng, lẽ ra hắn phải
sống và làm việc cho đúng với tư cách và chức tước của hắn, thế nhưng hắn chỉ là
một kẻ sáo rỗng với hình thức thì đầy đủ còn tâm hồn thì thiếu hụt và bệnh hoạn gần
hết. Đại úy Phoebus làm bao cô gái phải đảo điên, bao tiểu thư mơ mộng, và chính
cô bé xinh đẹp Esmeralda cũng yêu sống yêu chết. Chính vẻ ngoài và kiểu anh hùng
rởm đời đã làm mờ mắt các cô gái, làm cho các cô chết mệt nên hắn càng ngày càng
sát gái. Đồng thời hắn chán ngán nhất việc kết hôn mà chỉ thích vui chơi qua
đường, đây quả là một thứ ham muốn ích kỷ và xấu xa
Khi xây dựng nhân vật Phoebus với ngoại hình điển trai, phong lưu nhưng
tương phản với tính cách xấu xa, dâm dục. Tác giả muốn phê phán tầng lớp quý tộc
đang ngày càng xuống cấp trầm trọng, càng lúc càng ăn chơi, đàm đúm, và ham mê
dục vọng, tất cả chạy theo sự giả dối về hình thức bên ngoài. So sánh Phoebus với
hình ảnh chàng hiệp sĩ Tristan thời Trung đại mới thấy một sự khác biệt rõ rệt,
Chàng Tristan thì luôn trung thành và ý thức về nghĩa vụ, bổn phận, và đam mê
trong tình yêu thì đại úy Phoebus lại là kẻ hời hợt, lừa đảo, trăng hoa. Hơn nữa hắn
còn là kẻ nhút nhát và ngu dốt khi mà hắn bị đâm bởi kẻ nào đó thì lại cho là cô
người yêu Esmeralda là mụ phù thủy gây nên. Hắn còn là kẻ nhút nhát như con rùa
rụt cổ, hắn sợ bị thẩm vấn, sợ mang tiếng và nhất là khi biết Esmeralda sắp bị đem
11
đi treo cổ, hắn vẫn làm lơ không tìm cách cứu. Trong khi đó Esmeralda thì yêu hắn
hết lòng ,yêu đến cuông si, ngu muộn và sẵn sàng hy sinh vì hắn.
Phoebus không mang trong mình những đức tính quý báu của người sĩ quan
như ý thức về nghĩa vụ, bổn phận, ý thức bảo vệ công lý, sống hiên ngang hùng
dũng mà là ngược lại tất cả. Vì thực chất hắn chỉ là một sĩ quan dỏm đời , thích háo
sắc, sàm sỡ và phè phởn theo tình tư dục của hắn mà thôi.Nó đánh dấu sự xuống cấp
trầm trọng về mặt đạo đức của tầng lớp thống trị thời bấy giờ.
Nhân vật của Victor Hugo không bao giờ thuần túy theo một chiều mà nó luôn
được xây dựng trong mâu thuẫn, đối lập và tương phản với nhau. Để từ đó thể hiện
sự phong phú, đa dạng của cuộc sống. Đôi khi trong xã hội và con người chứa đựng
những mặt hoàn toàn trái ngược nhau mà vẫn tồn tại song song, cùng lúc với nhau
như một sự vô lý có thật. Qua Phoebus tác giả đã cho ta thấy một bức chân đung
điển hình của tầng lớp quý tộc, sĩ quan có chức quyền trong xã hội đương thời , tất
cả đang biến chất ,sa đọa và đang rỗng xốp như khúc củi mục nát mặc dù nó được
che đậy rát tinh tế bởi lớp ngoài hào nhoáng,xa hoa .Rốt cuộc những số phận ấy
cũng sẽ bị chôn vùi trong bi kịch của định mệnh mà thôi.Cũng như chính cái xã hội
thối nát ấy dần dần vạch trần và xóa bỏ mà thôi.
2.2.3 Nhân vật Quasimodo.
Quasimodo là một nhân vật dặc biệt và kỳ lạ ngay trong chính vẻ bề ngoài của
hắn. Dưới ngòi bút của Victo Huygo . Quasimodo hiện lên với hình dạng xấu xí đến
ghê tởm, mà ngay từ trang đầu bộ mặt xấu xí của hắn đã ăn đứt trong cuộc bầu cử
cũng thật là lạ lùng trong cương vị giáo hoàng với thể lệ :người nào có khuôn mặt
xấu xí nhất sẽ được làm giáo hoàng của những thằng điên: “có thể nói toàn bộ con
người hắn là một cái nhăn nhó.Cái đầu to tướng lởm chởm tóc hung, giữa hai vai là
một cái bướu lớn dúi hắn về phía trước. Cặp đùi và cẳng chân lệch vẹo một cách kỳ
lạ khiến chúng chỉ có thể chạm vào nhau ở đầu gối . Những bàn chân kềnh càng.
Những bàn tay to bè , với tất cả những kỳ hình, dị dạng ấy …Có thể nói đó là một
thằng khổng lồ bị gãy rời ra, rồi được gắn lại bừa bãi” Hình dáng của hắn làm cho
mọi người phải xa lánh, hắt hủi hắn, đối xử với hắn như một con vật. Cho dù lúc
nhỏ, hắn bị cha mẹ bỏ rơi, nhưng cũng không ai tỏ ra là thương xót cho hắn cũng là
bởi: “đứa trẻ bị bỏ rơi này là một con quỷ ghê tởm” “đó là một đống ngọ nguậy
không ngừng…chỉ thấy một đám tóc hung , một con mắt, một cái mồm và những cái
răng. Mắt ướt nhoèn nước mắt. Mồm kêu gào”. Tuy còn là một đứa trẻ nhưng với
hình dạng ấy hắn khiến mọi người tránh xa hắn, xua đuổi hắn, không chấp nhận hắn
đến nỗi mà mọi người chỉ thấy hắn “ là một cái gì đó gần giống con người chứ
không phải là con người”. Thêm vào đó hắn còn bị chột, khoèo, gù và điếc . Dường
như bao cái xấu xí nhất được tập chung lại, kết lại mà tạo lên Quasimodo vậy.Cuộc
sống đã cực khổ, hình dáng xấu xí của hắn lại càng làm cho hắn thêm bao nhiêu khổ
nhục trói buộc vào cuộc đời con người tội nghiệp này. Hắn bị lôi ra làm trò cười cho
thiên hạ ,bị mọi người bỡn cợt. Họ sợ hãi và cũng mỉa mai vào hình dáng xấu xí của
hắn.
Cho dù hình dạng xấu xí là một cản trở, một sự khó khăn, một nỗi đau và cũng
là nỗi khổ của hắn ,nhưng trong con người ấy vẫn không hề thui chột đi những bản
chất tốt đẹp của một con người trong hắn. Gã luôn ý thức được hình dạng xấu xí của
mình: “Nỗi bất hạnh của tôi là quá giống con người. Tôi chỉ muốn mình hoàn toàn
là một con vật,như con dê này”. Để không làm trò cười cho thiên hạ, hắn luôn giữ
12
im lặng, chọn cho mình một cuộc sống thầm lặng trong nhà thờ Đức Bà với công
việc kéo chuông cho nhà thờ . Nhưng cũng nhờ vaò hình dáng ấy mà lần đầu tiên
trong cuộc đời : “hắn được hưởng cảm giác tự trọng”, lần đầu tiên mọi người đối
xử với hắn như một con người. Còn trước kia trước thái độ của người đời, sự từ chối
và bất công trong xã hội, đã khiến hắn: “quay lưng lại với tất cả mọi người dù
không phải không tiếc nuối”. Cũng là bởi: “lớn lên, gã chỉ toàn thấy sự hằn học
xung quanh hắn”. Vòng xoáy cuộc đời đã thay đổi cả bản chất của một con người
chỉ vì hình dạng khác thường : “gã trở nên độc ác.độc ác vì hoang dã .hoang dã vì
xấu quá”. Sâu thẳm trong con người gã gã vẫn là một con người tràn đầy tình
thương yêu. Đó là lòng biết ơn sâu sắc đối với claude frollo, người đã đưa tay ra cứu
vớt cuộc đời gã, đem gã về nuôi dưỡng và dạy bảo khi gã còn là một đứa trẻ bị bỏ
rơi không ai dám ngó tới trước nhà thờ Claude Frollo đã nhận gã làm con nuôi, đã
nuôi nấng, dạy dỗ, che trở cho gã, đã làm gã thành người kéo chuông cho dù “bộ
mặt của cha nuôi lúc nào cũng u uất, cứng đanh khắc nghiệt, cũng không thể lay
chuyển được tấm lòng của hắn dành cho cha nuôi” của mình, tình cảm đặc biệt mà
hắn dành cho Esméralda cũng thật đáng trân trọng. Hắn sẵn sàng hi sinh cả bản thân
mình để bảo vệ, chở che cho cô, chỉ một ngụm nước cô gái đưa cho gã trong lúc gã
khát đã in đậm trong tâm trí gã. Mà gã không bao giờ quên được: “Một giọt nước ,
một chút lòng thương dố là những cái tôi trả bằng mạng sống của mình. Cô thì quên
kẻ khốn nạn đó, còn hắn thì hắn nhớ”. Đối với Esméralda, trong hắn có một thứ tình
yêu cao thượng mà không cần cô đáp lại, cũng không cần cô biết. Hắn nhường suất
ăn của hắn, nhường giường ngủ của hắn cho cô, lánh mặt cô để cô khỏi hoảng sợ vì
vẻ xấu xí của hắn. Hắn canh cho cô ngủ. Và hình ảnh hắn chết theo cô để tiếp tục
được ở bên cô, được bảo vệ và che chở cho cô đã thấy tình yêu của hắn đối với cô
thật quá lớn lao.
Trong con người hắn có sự đối lập hoàn toàn giữa con người bên trong và hình
dáng bên ngoài. Đằng sau lốt người như một con quỷ của hắn là một con người tràn
đầy tình yêu thương con người. Gã cũng có hy vọng , có ước mơ của một con
người . Xã hội lúc đó càng không chấp nhận hắn, mọi người càng chế giễu hắn, xa
lánh, căm ghét hắn, cuộc đời càng đẩy hắn ra xa thì khát khao cuộc sống tốt đẹp
trong con người hắn lại càng mãnh liệt và dữ dội hơn: “Lúc đầu hắn còn định giật
dây trói. Mắt hắn nảy lửa. Bắp thịt hắn căng ra, tứ chi hắn gồng lên”. Không bất cứ
một thế lực nào có thể khiến hắn bị mất đi tình cảm của hắn , niềm hy vọng của hắn.
Cho tới cuối cùng hắn vẫn được ở bên người con gái mà hắn thương yêu. Hình dáng
xấu xí chỉ là lớp vỏ bọc cho một con người cao thượng đối với Esméralda, hiếu lễ
với cha nuôi, và vươn lên trong cuộc sống của hắn. Cứ ngỡ hình dáng của một con
quỷ sẽ làm cho hắn trở lên độc ác hơn với thái độ khinh bỉ của mọi người nhưng sự
thật lại hoàn toàn trái ngược. Mọi người có nhìn hắn dưới con mắt nào thì trong tâm
hồn hắn vẫn cứ tồn tại những phẩm chất ấy.
Qua Quasimodo chính là những gửi gắm của tác giả về lòng tin con người , tin
vào những phẩm chất tốt đẹp trong con người, dù nó có tồn tại dưới một hình thức
kinh dị, hay được bao trùm bởi một xã hội loạn lạc, xấu xa, những phẩm chất ấy sẽ
luôn tỏa sáng trong vũng bùn đen tối của xã hội. Những gì tốt đẹp sẽ luôn được giữ
gìn, được bảo vệ và tỏa sáng giữa cái xấu xa.
Victo Hugo là người đã khám phá tính cách nhân vật một cách sâu sắc nhất rõ
ràng nhất. Hình ảnh xã hội như tấm mạng nhện giăng ra như đẩy con người đang
tuyệt vọng thoát ra khỏi cá tù túng. Tác giả đã có sự phân tuyến rạch ròi giữa thiện
13
và ác qua các nhân vật tiêu biểu Đức Hồng y, Quasimodo, Phoebus và vị linh mục
Claude Frollo.
2.3 Sự tương phản giữa các nhân vật.
2.3.1 Quasimodo và Frollo:
Quasimodo được miêu tả là một kẻ hội tụ đầy đủ những cái xấu xí của hình
dáng một con người. Hắn bị chột ,khoèo, gù, điếc và câm. Gã trở nên độc ác với mọi
người.gã bị cha mẹ bỏ rơi khi còn nhỏ chỉ có vài chiếc răng. Hình dạng xấu xí người
không ra người, quỷ không ra quỷ của Quasimodo dường như là điềm báo về số
phận bi thảm và nhân cách của con người này.
Frollo là một vị linh mục trẻ với cương vị là một vị linh mục ở tuổi 36 xuất
thân trong dòng dõi quí tộc bậc thấp. Ông có vẻ “ nghiêm nghị, cái trán rộng và
hói ,cái mặt thâm trầm, bộ mặt lúc nào cũng u uất, cứng đanh , khắc nghiệt”.Bố mẹ
ông chết trong một trận đại dịch hạch, từ nhỏ ông đã là “ một đứa trẻ rầu rĩ, khắc
khổ, nghiêm nghị, ham học và học nhanh.Ông đã học thần học, y học, các nghệ
thuật tự do. Ông thông thạo cách chữa bệnh sốt , dập gãy xương”.
Tính cách:
Quasimodo có vẻ bề ngoài xấu xí nên không ai muốn gần hắn, người ta khinh
thường hắn, xem hắn là trò đuà nên hắn trở nên độc ác, độc ác vì hoang dã , hoang
dã vì xấu quá “hắn quay lưng lại với tát cả mọi ngừi chỉ biết đến nhà thờ Đức Bà “
tâm hồn gã rơi vào đêm đen thăm thẳm”. Tuy chịu sự chê cười của mọi người
nhưng ẩn sâu trong tâm hồn hắn vẫn còn có tình yêu của con người. Đó là tình cảm,
lòng biết ơn của hắn dành cho Claude Frollo và Esméralda. Hắn yêu Esmeralda
bằng cả tấm lòng của hắn mà không hy vọng được đáp lại. Bên trong hình hài xấu xí
của hắn là tâm hồn cao thượng.
Frollo không có hình dạng xấu xí như Quasimodo. Ông sống trong cảnh kham
khổ và chiếm được cảm tình của mọi người. Người ta còn lên án ông là phù thủy.
Ông ý thức được trách nhiệm của mình với người em trai Jehan, “là một nhà suy
tưởng nghiêm cẩn”. Ông cũng đã nuôi nấng Quasimodo với tư cách là người cha
nuôi. Ông là một con người tràn đầy tình yêu thương con người. Nhưng ông lại ích
kỉ trong tình yêu. Không tìm được tình yêu với Esméralda, ông bèn quay sang bán
đứng cô cho cảnh binh
Hai nhân vật đại diện cho hai chiến tuyến, hai tầng lớp giai cấp trong xã hội
Pháp lúc bấy giờ. Frollo đại diện cho tầng lớp tăng lữ cao quý, đại diện cho quyền
lực trong xã hội con người đối xử với nhau dựa trên địa vị tầng lớp. Quasimodo lại
là con người dưới đáy xã hội, cuộc đời không thừa nhận hắn, người đời xua đuổi
hắn. Hắn bị chìm sâu dưới đáy xã hội qua cách nhìn, cách đánh giá của mọi người
dành cho hắn. Một xã hội mà dường như trong chính bản thân nó cũng như một con
người khổng lồ đang thối rữa từng bộ phận bên trong, được khoác bởi tấm áo
choàng hào nhoáng bên ngoài. Cái xã hội phẩm chất, tư cách con người được đánh
giá qua vẻ bên ngoài, qua lăng kính của quyền lực. Con người bị đè nén tới nỗi ngột
thở trong chế độ phân chia giai cấp. Chính những điều đó đã làm mất đi đạo đức của
con người. Nếu Frollo là cái giả dối của xã hội, thì Quasimodo là ánh sáng nhỏ, le
lói của những cái gì tốt đẹp nhất còn giữ lại được trong con người của xã hội lúc bấy
giờ. Victor Hugo luôn để cho nhân vật của mình thiếu sót mà không bao giờ toàn
14
diện vì ông không tin vào điều đó. Ông dùng bút pháp tương phản để nhân vật của
mình tự bộc lộ và bộc lộ thông qua sự tương phản với các nhân vật khác.
3.2.2 Quasimodo và Phoebus
Vị trí trong xã hội:
Quasimodo chỉ là một gã cho nhà thờ Đức Bà, sống bên ngoài xã hội Phoebus
hiện lên đầy quyền uy “là đại úy của quân cung thuộc đội bảo vệ nhà vua, vũ trang
từ đầu đến chân, kiếm lăm lăm trong tay”, được xây dựng trên nền tảng của nhà quý
tộc. Một con người được mọi người kính nể
Tính cách:
Quasimodo dù xuất thân trong khó khăn, lại thêm xấu xí, bị mọi người ghét bỏ,
nhưng hắn không đánh mất bản chất trong chính con người hắn. Hắn sẵn sang làm
mọi việc để bảo vệ người con gái mà hắn yêu, cho dù người con gái ấy không hề
đoái hoài đến hắn.
Phoebus thì ngược lại, Hắn vốn có một địa vị xã hội cao quý, nhưng chính địa
vị xã hội ấy đã làm hắn trở nên ích kỷ. Hắn chỉ biết mọi người phục tùng hắn. Hắn
thóat chết trong tay Phó giám mục nhưng lại không giám ra minh oan cho
Esméralda, sau đó lại chính hắn là người dẫn lính đến bắt cô gái tội nghiệp ấy.
Cô gái Bô hê miêng và Quasimodo lại xuất hiện trong sự đối lập với Phoebus
như sự đối lập giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị với những bất công trong xã
hội. Người nắm giữ quyền lực cũng là người nắm giữ công lý và pháp luật trong tay.
Họ hành sử bất chấp đạo lý. Họ cho người nào sống thì sẽ sống, còn nếu không thì
dù có chạy tới đâu cũng không thể thoát khỏi lưỡi kiếm cuả họ. Quyền con người bị
xã hội chuyên quyền phong kiến xã hội Pháp xóa bỏ mà thông qua sự tương phản
giữa Quasimodo, Claude Frollo, Phoebus và Đức Hồng y, Victo Huygo đã thể hiện
rất rõ hiện thực xã hội cũng như những bất công trong xã hội lúc bấy giờ.
2.3.3. Quasimodo và Esméralda.
Quasimodo và Esméralda, một nam một nữ, một xấu xí một xinh đẹp. Đây là
hai nhân vật đáng thương nhất trong tác phẩm. Từ thủa bé thơ đến hiện tại đều mang
tấn bi kịch của số phận cuộc đời.và cũng là hai nhân vật được Victor Hugo ưu ái
nhất.
Quasimodo được mô tả là kẻ người không ra người, quỷ không ra quỷ.
Quasimodo thủa nhỏ như một đống ngọ nguậy “Quả thật, đứa trẻ con này không
phải là một đứa bé sơ sinh. Đó là một đống ngọ nguậy không ngừng, bị nhốt trong
một cái túi, đầu thò ra ngoài. Cái đầu ấy khá dị dạng. Chỉ thấy một đám tóc hung,
một con mắt, cái mồm và những cái răng. Mắt ướt nhoèn nước mắt. Mồm kêu
gào,răng thì như muốn cắn ai…Đứa bé có một mụn cóc phía dưới trán, đầu rụt
dưới vai, xương sống cong vẹo, xương óc nhô ra, chân khoèo”. Nhìn vào
Quasimodo, ai ai cũng phải kiếp sợ. Trong khi đó Esméralda thủa nhở chính là bé
gái Agnès xinh đẹp, làn da óng mượt và đôi chân xinh xắn đáng yêu đến nỗi người
15
mẹ luôn luôn hôn vào đôi chân ấy. Bé đẹp đến mức mấy mụ Ai Cập bói rằng sau
này có thể làm đến Hoàng Hậu.
Ngày từ nhỏ mới được ít tuổi, Quasimodo và Esméralda đã được miêu tả với
ngoại hình trái ngượi nhau. Và hiện tại Quasimodo còn xấu xí khủng khiếp hơn
trước “ Có thể nói toàn bộ con người hắn là một cái nhăn nhó. Cái đầu to tướng lởm
chởm tóc hung, giữa hai vai là một cái bướu lớn dúi hắn về phía trước. Cặp đùi và
cẳng chân lệch vẹo một cách kỳ lạ khiến chúng chỉ có thể chạm nhau ở đầu gối.
Những bàn chân kềnh càng. Những bàn tay to bè, với tất cả những kỳ hình, dị tướng
ấy, hắn có một vẻ cường tráng dẻo dai, hung tợn đáng sợ. Có thể nói đó là một thằng
khổng lồ bị gẫy rời ra, rồi được gắn lại bừa bãi”. Thực tế thì Quasimodo chột,
khoèo, gù, chỉ là một cái gì gần giống như người. Trái lại khi bước vào tuổi 16, hằng
ngày đi nhảy múa giữ đám đông thì Esméralda đã làm cho bao con mắt phải dòm
ngó và thèm muốn, bao cặp môi phải trầm trồ trước vẻ đẹp của Cô. Vẻ đẹp của
Esméralda là vẻ đẹp của “thân hình mảnh mai, Nước da cô bánh mật, bàn chân nhỏ
nhắn, thoải mái trong đôi giày xinh xinh. Cô nhảy, cô lượn vòng, cô xoay tít trên
tấm thảm Ba Tư cũ, trải cẩu thả dưới chân cô, cặp mắt to đen láy, Đôi tay nâng cao
trên đầu, mảnh mai, mềm mại, sống động như một con ong bầu. Bộ đồ lót óng ánh
vàng. Cái váy sặc sỡ phồng lên. Mái tóc huyền. Cặp mắt bừng lửa: “Cô là một tạo
vật siêu nhiên!” Một nét đẹp tuyệt vời, là kết tinh của thiên nhiên, chính vì vậy nó
cũng rất hoang dại và gợi cảm. nói theo ngôn ngữ bây giờ có thể là sexy, nhưng lại
rất hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng.
Tác giả thật xuất sắc khi miêu ta hai nhân vật nổi trội trong tác phẩm với những
nét tương phản rõ ràng về ngoại hình. Quasimodo thì xấu xa ghê hồn, còn Esméralda
thì xinh đẹp gợi cảm. Asméralda càng xinh đẹp lộng lẫy bao nhiêu thì Quasimodo
càng xấu xí và ghê rợn bấy nhiêu.Victor Hugo dưới ngòi bút sắc sảo của mình đã để
cho hai nhân vật tương phản nhau, đối lập nhau để rồi phần nào báo trước số phận bi
kịch đau xót của họ.
Quasimodo xấu xí, may mắn được phó giám mục Claude Frollo đem về nuôi,
vì vậy mà hắn chỉ biết một mình ông ta và phục tùng mệnh lệnh một cách tuyệt đối.
Quasimodo trước khi gặp Esméralda thì hắn chỉ biết mỗi nhà thờ và cha nuôi của
hắn “ Gã trở nên độc ác. Độc ác vì hoang dã. Hoang dã vì xấu quá. Sức khỏe phát
triển lạ lùng cũng là nguyên nhân nữa của tính độc ác của gã. Từ bước đầu đến với
con người gã đã cảm thấy và thực sự thấy bị xua đuổi. Lớn lên, gã toàn chỉ thấy sự
hằn học xung quanh gã. Rốt cuộc gã quay lưng lại mọi người dù không phải không
nuối tiếc. Nhà thờ Đức Bà là đủ cho gã rồi.” Xấu xí và hơi và có tính độc ác. Còn
nàng Esméralda thì có tấm lòng nhân hậu, và biết giúp đỡ cho người khác. Nàng sẵn
sàng nhận Gringoire làm chồng để cứu anh ta khỏi đám ăn mày. Nàng sẵn sàng bỏ
qua tội bắt cóc nàng của Quasimodo, để rồi trong đám quần chúng đang xem hắn bị
hành hạ thì chỉ có mình nàng dám đứng ra cho hắn uống nước, “và một giọt nước
mắt đã đổi lấy một giọt nước” . Quasimodo đã cảm kích trước tấm lòng của nàng
Esméralda và đã dành cho nàng một tình yêu tha thiết không cần nàng đáp trả và
Quasimodo âm thầm, lặng lẽ bảo vệ nàng cho đến chết. Và khi Esméralda chết rồi
hắn đã vào mồ ôm lấy xác Esméralda và chết chung với nàng. Phần Esméralda thì
chỉ dành tình yêu duy nhất cho tên đại úy Phoebus, một tên sĩ quan sở khanh nhút
nhát. Esméralda yêu hắn đến gần như mu muội và đến chết vẫn chỉ yêu mỗi mình
hắn. Esméralda đã cự tuyệt phó giám mục Claude Frollo, để sau đó Cô phải chết vì
dám chống lại tình yêu cuồng dại của hắn. Đến chết Esméralda vẫn yêu Phoebus.
16
Qua diễn biến của câu truyện, chúng ta thấy rằng Victor Hugo miêu tả hai nhân
vật Quasimodo và Esméralda với những mặt trái ngược nhau về ngoại hình từ lúc
nhỏ cho đến lúc biết yêu. Thủ pháp tương phản của tác giả trong việc miêu tả hai
nhân vật được sử dụng triệt để. Nhưng dụng ý của tác giả cho thấy rằng hai nhân vật
dù trái ngược nhau hoàn toàn, nhưng họ lại là đại diện cho tầng lớp thường dân hiền
lành, chất phát,họ yêu hết mình, yêu đến cuồng si, yêu điên dại, để rồi chết cho tình
yêu của mình. Định mệnh hay số phận thật ác nghiệt và trớ trêu làm sao. Xấu xí yêu
người rồi cũng phải chết vì người, đẹp xinh yêu người rồi cũng chết vì người yêu.
Tuy Quasimodo và Esméralda thật dại dội nhưng qua đó mà ta thấy được sức mạnh
của tình yêu trong tâm hồn mỗi người. Dù xấu dù đẹp, con người vẫn biết yêu và
sống chết cho tình yêu.Niềm tin vào con người vào tình yêu vẫn luôn soi sáng cho
ngòi bút của Victor Hugo dù dướ góc độ nào, hình thức nào đi chăng nữa.
2.4 Sự tương phản trong ngôn ngữ.
Ngoài tương phản trong các mối quan hệ xã hội, tương phản trong các nhân
vật, trong tình yêu… ta còn thấy lớp vỏ ngôn từ cũng được tác giả chọn lựa và sử
dụng một cách đặc sắc. Tương phản ngôn ngữ được thể hiện trực tiếp qua lớp vỏ ngôn
từ.
Miêu tả Đức Hồng y giáo chủ: ngài đi đâu cũng vây quanh cả một triều đình nho nhỏ
những giám mục và tu viện trưởng thuộc dòng dõi “cao quí><đàng điếm và tục tĩu
và nếu cần thì chè chén và nhậu nhẹt ngay”.
- Cuộc nói chuyện giữa Côppơnôlơ và cầm trong Clôpanh Truiơphu: “tay cầm trong
tay, trong khi mớ quần áo rách rưới của Clôpanh Truiơphu” phơi bày trên nền da
vàng kim tuyến phủ chiếc bục giống như con sâu đục quả cam.”
- Miêu tả Cadimođô: “Khi tên quỉ hiện ra trên ngưỡng của nhà nguyện, bất động,
mập mạp, chiều ngang gần bằng chiều cao, vuông vắn ở cái nền, giống như một vĩ
nhân với áo ngoài nửa đỏ nửa tím thêu hình gác chuông hình ngân tuyến nhất là
với kẻ xấu xí ><hoàn hảo, đám dân chúng”.
- Lời ngài Côppơnôlơ: “ Lạy chúa! Cha mẹ ơi! Suốt đời tao chưa thấy ai xấu
xí><tuyệt diệu như mày”.
- Miêu tả không gian bên trong nhà thờ : Bên trong nhà thờ đã tối và vắng. Hai gian
bên đầy bóng đêm, các đèn trên bàn thờ sáng lóe như sao, vì vòm mái đã tối đen.”
- Đức cha Clôđơ hỏi Pie Gringoa về cô gái Ai Cập và khi biết họ là vợ chồng : “Con
mắt tối sầm của linh mục liền rực lửa”. Khi Pie Gringoa hỏi lại thì “khuôn mặt tái
xanh của phó giáo chủ đỏ bừng như má cô gái.”
- Viết về cậu học trò Giăng- em trai phó giáo chủ: “cậu học trò vui nhộn không hề
nghĩ vẫn có thứ nham thạch sôi sục, hung hãn và lắng sâu bên dưới vầng trán phủ
tuyết của núi lửa Etna”.
- Khi theo dõi Phoebus và Esméralda: “Vị linh mục có nước da nâu vầ đôi vai rộng;
bấy lâu phải sống khắc khổ, thanh khiết nơi tu viện nay run rẩy, sôi sục trước
cảnh ái ân đen tối và khoái lạc”. Khi nhìn cô gái múa thì “chân băng giá, đầu sôi
sục”. Khi thổ lộ tình cảm với Esméralda : “áo tang cứ việc cũ mòn và phai bạc: trái
tim ta vẫn đen màu tang tóc”.
17
Chính sự tương phản ngôn ngữ làm nền cho các tương phản khác và càng
khẳng định trình độ bậc thầy của Virto Hugo trong việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật
tương phản.
III. Giá trị và sự đóng góp của thủ pháp nghệ thuật tương phản đối với tiểu
thuyết “Nhà thờ Đức Bà Paris”.
Phương pháp lãng mạn trong sáng tác văn học vốn ưa dựng cốt truyện ly kỳ,
tính cách xuất chúng, hoàn cảnh đặc biệt, trong đó mỗi nhân vật thường đại diện cho
một phẩm chất cố định, tượng trưng cho một đặc tính vĩnh cửu, như Thiện – Ác,
Đẹp – Xấu, còn thế giới nội tâm tách khỏi cuộc đời bên ngoài, hành động không
quan tâm đến môi trường, tất cả dựa trên một đầu óc tưởng tượng phóng khoáng,
một thích thú ngẫu hứng, một khát vọng huyền ảo, nên rất ít chú ý quan sát, đối
chiếu với thực tế.
Cũng thuộc dòng văn học này, tiểu thuyết “Nhà Thờ Đức Bà Paris” (1831) là
một sáng tác độc đáo của đại văn hào Pháp Victor Hugo. Với tư cách là chủ soái của
chủ nghĩa lãng mạn, cây sồi già xanh ngắt Hugo đã có những sáng tạo tuyệt vời vượt
qua sự truy bức của giới hạn thời gian, vượt qua những hạn chế của tư tưởng thời đại
và cả những đặc điểm về mặt hình thức của phương pháp sáng tác lãng mạn chủ
nghĩa mang tính lịch sử cụ thể đương thời.
Một trong những yếu tố làm nên sự thành công cho tác phẩm này đó là thủ
pháp tương phản. Có thể nói đây là thủ pháp nghệ thuật theo suốt tác giả đi đến cuối
cùng tác phẩm. Sở dĩ Victor Hugo lại sử dụng nhiều tương phản trong tác phẩm của
mình vì những đối tượng mà ông muốn mô tả trong tác phẩm vốn chứa đựng nhiều
mặt đối lập nhau và đối lập trong chính mỗi đối tượng ấy. Qua ngòi bút của ông, quá
khứ nước Pháp dưới triều vua Louis XI ( thế kỷ XV) hiện ra với những đường phố,
những phong tục lễ hội hóa trang, những đám đông kiến trúc kỳ vĩ, tinh vi nhưng
đầy vẻ huyền bí của nhà thờ Đức Bà; bên cạnh là những cảnh người khốn khổ lầm
than chịu đựng những sự cưỡng chế tàn nhẫn của các nhà cầm quyền. Nổi lên trên
nền lịch sử đó là sự đối lập của những số phận con người đại diện cho những hạng
người, những tầng lớp khác nhau trong cuộc sống., thông qua mối quan hệ đuổi bắt
tình cảm giữa ba con người quanh cô vũ nữ Boheime lang thang xinh đẹp
Esmeralda. Có thể nói, Quasimodo tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn và sự tận tụy.
18
Frollo tiêu biểu cho sự uyên bác, trí thức khoa học, khả năng trí tuệ, còn Phoebus
tiêu biểu cho vẻ đẹp thân thể. Nếu như vậy thì Hugo đã có ý định tuyệt diệu để ba
nhân vật điển hình đó, cùng một thực chất như chúng ta, đối mặt với một cô gái
ngây thơ, gần như man dại giữa nền văn minh, trao cho cô quyền được lựa chọn và
để cô lựa chọn một cách tự nhiên.
Điều mà Hugo muốn thể hiện là sự phong phú, đa dạng của đời sống. Trong tác
phẩm, xã hội và con người chứa đựng những mặt hoàn toàn đối lập nhau mà vẫn tồn
tại song song, cùng lúc với nhau như một sự vô lý – có thật. Vì thế, Hugo muốn mô
tả nhiều đối tượng dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong tác phẩm tác giả đề cập rất
nhiều đến các mặt trái của xã hội đương thời mà được phủ bên ngoài nó là vẻ uy
nghiêm trầm mặc. Đó là các phiên tòa xử án của pháp đình và giáo hội diễn ra như
các trò hề; các án lệnh tùy tiện bất công, các luật lệ chồng chất và loại trừ nhau; các
thứ thuế thông hành, thuế đèn, thuế bùn, thuế người nghèo…; vua, quan, lãnh chúa,
giáo hội đều có quyền thu thuế, xét xử, thi hành nhục hình; tu viện trưởng cũng có
pháo đài và giá treo cổ; các bà phước độc ác, linh mục dâm dật, rượu chè… Cả
chính quyền lẫn thần quyền họp sức tạo nên nền pháp chế thô sơ mà dã man, tự tố
cáo thói tàn bạo đêm dài trung cổ. Theo đó là đủ các hạng người của một xã hội
phong kiến thu nhỏ: một nhà thơ nhu nhược, thích sống bằng ảo mộng; một thầy tu
lạnh lùng, độc ác; một anh gù kéo chuông bị số phận bạc đãi đến mức vừa chột, vừa
thọt, vừa điếc nhưng có một tấm lòng vàng, biết cách yêu và biết chết vì người yêu;
một chàng sĩ quan đẹp trai, nhưng hời hợt, nhẫn tâm đến độ độc ác; một nàng
Esméralda cực kỳ xinh đẹp, trong trắng, thơ ngây một lòng một dạ với người tình
Nàng đã khêu gợi tình yêu cho nhiều người và tự mình cũng yêu cuồng nhiệt. Giữa
họ đã nảy sinh tình yêu tay tư, tạo thành một vòng tròn đuổi bắt, mang tới bất hạnh
nhiều hơn vui sướng.
Là người hiểu tư tưởng nghệ thuật của Hugo một cách sâu sắc Dostoievski viết:
“Tư tưởng của Victor Hugo là tư tưởng cơ bản của toàn bộ nghệ thuật thế kỷ XIX
và ông là người đầu tiên phát ngôn cho tư tưởng đó định thức của tư tưởng đó là:
phục sinh con người đã chết, đã bị đè bẹp hết sức bất công dưới ách áp bức của
hoàn cảnh xã hội, của tình trạng trì trệ bao thế kỷ và những định kiến xã hội. Tư
tưởng đó là: Sự biện bộ cho những người bị chà đạp và những kẻ khốn cùng bị xã
hội ruồng bỏ Victor Hugo hầu như người phát ngôn chủ yếu, đầu tiên của tư tưởng
19
phục sinh đó trong văn chương của thế kỷ chúng ta. Ít nhất ông là người đầu tiên
tuyên bố nó với sức mạnh nghệ thuật trong tác phẩm” (Dostoievski toàn tập, nxb
khoa học, 1972-1976, trang 525-526, bản tiếng Nga). Thông qua các hình tượng
tương phản hình thành từ sự thay đổi của đối tượng, Hugo muốn thể hiện sự thay đổi
của cả xã hội về cả vật chất lẫn tinh thần qua thời gian. Các giá trị cũ mất đi, các đối
tượng trong tác phẩm, cả con người lẫn sự vật bị biến đổi theo hướng tiêu cực. Nhà
thờ Đức Bà Paris đã hoàn toàn thay đổi kiến trúc, hoa văn so với ban đầu, giờ đây
nó là một hỗn hợp của các phong cách kiến trúc nhưng không cho thấy sự hài hòa
mà là một sự suy tàn, mục nát. Vị phó giám mục đầy đạo hạnh, uyên bác ngày xưa
giờ trở thành một con quỷ sứ bởi tình yêu và sự ghen tuông trong đam mê thể xác.
Thằng gù Quasimodo xấu xí “từ vật tiến lên thành con người” khi dành hết tình yêu
cho cô gái Ai Cập. Khi đặt ra những mối tương phản xưa và nay, ông có thể nhấn
mạnh được sự tha hóa ấy.
Thủ pháp tương phản đạt đến đỉnh điểm khi ông miêu tả được sự đối lập, mẫu
thuẫn trong bản thân mỗi nhân vật và giữa các nhân vật với nhau.
Nhân vật của tiểu thuyết Hugo thường mang dáng dấp một bán thần hoặc các vị
thần trong một phút đột biến nào đó. Chúng được biểu hiện bằng phương thức anh
hùng ca: Cái thiện có gương mặt xấu xí ở đó và cái dễ ưa bên ngoài lại mang mùi
thối rữa. Tiêu biểu đó là Quasimodo, Frollo và Phoebus. Duy chỉ có Esméralda là
hiện thân của một con người hoàn mỹ về cả hình thể lẫn tâm hồn. Nhưng cô vẫn
không được hạnh phúc bởi sống trong một xã hội đầy rẫy bất công, phân biệt chủng
tộc và kỳ thị hạng người. Bằng cách đặt cái xấu xa và cái đẹp đẽ bên cạnh nhau,
Victor Hugo đã đạt được một mức độ cao hơn trong việc phê phán cái xấu và đề cao
cái đẹp. Giữa muôn vàn cái ác bao phủ lấy con người trần thế, bao giờ cũng có cái
Thiện hiện nằm ẩn sâu phía dưới. Trong một xã hội đầy bóng tối bao giờ cũng có
một khoảng nhỏ ánh sáng soi rọi cho con người.
Victor Hugo cũng xác định rằng một tác phẩm văn học phải là một công trình
của trí tưởng tượng, của các biến đổi và những điều dị thường. Những điều dị
thường trong Nhà thờ Đức Bà Paris hiện ra rõ nét là nhờ sự tương phản. Sự tương
phản dẫn dắt người đọc so sánh các đối tượng từ đó hình tượng nhân vật được tạo ra
đạt yêu cầu về tính điển hình về ngoại hình, tính cách và số phận được khắc họa rõ
nét. Thuộc trường phái lãng mạn nên khi Hugo xây dựng các hình tượng cho nhân
20
vật của mình, ông đã có dụng ý đẩy các đặc điểm của nhân vật lên đến mức cao nhất
có thể: người đẹp thì vô cùng đẹp, tình yêu cao thượng thì vô cùng cao thượng,
người tha hóa, sa đọa thì vô cùng tàn ác… Tất cả điều đó tạo nên mỹ cảm lãng mạn,
khiến người đọc có ấn tượng mạnh về nhân vật và về tác phẩm của ông.
Nhìn ở một góc độ khác, sự tương phản trong tác phẩm đã gợi nên một không
khí mà nó đã hé lộ một trong những điều vĩ đại nhất nằm trong sự tiên cảm của
Hugo. Lễ hội carnaval của “những người điên” và nghi thức bầu giáo hoàng cuồng
đãng là sự thăng hoa mơ ước xóa nhòa ranh giới nghiệt ngã giữa giàu – nghèo, cao –
thấp trong một xã hội phân biệt đẳng cấp. Các nhân vật là hiện thân của những thế
lực khác nhau: Phoebus chính là hiện thân của quyền lực quân đội của nhà vua,
Frollo hiện thân của giáo hội, còn Quasimodo hiện thân của nhân dân. Sự hời hợt,
nhẫn tâm đến độc ác của Phoebus cũng chính là của chính quyền phong kiến; sự
lạnh lùng đến độc ác của Frollo cũng tiêu biểu cho giao hội thời bấy giờ. Hai tầng
lớp này ngày càng biến chất làm cho xã hội ngày một tăm tối lụi tàn, sa vào sự suy
đồi đạo đức. sống trong xã hội như thế, thì những người như Quasimodo hay quần
chúng nhân dân nổi lên khẳng định giá trị của bản thân là điều tất yếu. Tuy sự phản
kháng của Quasimodo còn bị hạn chế bởi tư tưởng chủ - tớ trong mối quan hệ với
Frollo, và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân (thể hiện trong tác phẩm là hình ảnh
đám đông kéo đến Nhà thờ) còn mờ nhạt nhưng tác giả phần nào nhận thức được
rằng, sự rách rưới và ô hợp của họ là những sưc mạnh bí ẩn, họ sẽ trở thành lực
lượng quan trọng thúc đẩy sự tiến hóa của lịch sử trong những thời đại tương lai.
Không chỉ riêng trong “Nhà thờ Đức Bà Paris” mà trong các tác phẩm khác của
mình, Victor Hugo đã sử dụng thủ pháp tương phản rất tài tình và đạt hiệu quả nghệ
thuật cao. Một điển hình tiêu biểu nhất là tiểu thuyết đỉnh cao “Những người khốn
khổ” (Les Misérables) được xuất bản năm 1862. Tiểu thuyết này là sự giao tranh
giữa các nguyên lý đối lập: tinh thần – thể xác, thiện – ác, ánh sáng – bóng tối, mong
muốn – hiện thực,… Sự giao tranh đó có khi được hiện thân bằng các cặp nhân vật
(Jean và Javert), có khi tồn tại ngay chính trong bản tính con người (Jean với quá
trình cải hoán lương tâm cá nhân từ một phạm nhân đến vai trò người thừa hành ánh
sáng bác ái; Javert tuy là hiện thân cái ác nhưng cũng có lúc đã lóe sáng – tuy ít ỏi –
niềm xúc động trước sự rộng lượng của Jean Valjean…).
21
Hay trong một tác phẩm khác ra đời vào những thời điểm cuối cùng của trào lưu
lãng mạn, tiểu thuyết “Chín mươi ba”. Thông qua từng nhân vật, tiểu thuyết này
thể hiện rõ ràng và đầy đủ những luận điểm của Hugo về cái thiện và cái ác như một
tồn tại của mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập trong thế giới con người. Tuy nhiên, ở
đây không chỉ có cái thiện, cái ác mà còn có cái đẹp cao thượng từ bên trên cuộc
sống…
Như vậy, chúng ta thấy rằng, Hugo là một bậc thầy trong việc sử dụng thủ
pháp tương phản cho tiểu thuyết của mình. Tương phản nhưng không biệt lập, các
đối tượng được ông đem ra miêu tả đều theo một trình tự nhất định nào đó, trình tự
thời gian, hoặc trình tự phát triển tâm lý nhân vật, hoặc trình tự xã hội. Chính vì vậy
đã tạo được cho không chỉ “Nhà thờ Đức Bà Paris” nói riêng mà các tác phẩm khác
có thủ pháp này của ông một ấn tượng sâu sắc cho người đọc về những giá trị tư
tưởng mà ông muốn gửi gắm.
Không chỉ riêng Victor Hugo mới sử dụng thủ pháp nghệ thuật tưởng phản
trong tiểu thuyết, mà các nhà văn khác thuộc dòng văn học lãng mạn cũng hay sử
dụng thủ pháp này. Chẳng hạn như nữ tác giả George Sand - một ngọai lệ của văn
học Pháp thế kỷ XIX – sống mãnh liệt, hết sức phóng túng nhưng đầy sáng tạo.
Trong đó, tiêu biểu cho việc sử dụng thủ pháp tương phản của bà là cuốn tiểu thuyết
“Cô Bé Fadette”. Cô bé Fadette bị mang tiếng xấu trong cả tổng. Người đời cho cô
gái xấu xí ấy là phù thủy. Mồ côi, Cô sống với bà ngoại – một lão già cay nghiệt bị
người đời xa lánh. Nhưng Landry – một chàng trai “giỏi giang tuấn tú” trong vùng
lại yêu say đắm cô bé Fadette “man dại”. Rồi sau đó tình yêu cũng lại bùng cháy
trong Sylvinet, người vốn ghét cay ghét đắng cô bé trước đây. Qua câu chuyên tình
yêu của họ, tác giả muốn gửi gắm một thông điệp rằng dù là tình yêu được đáp lại
hay là tình yêu tuyệt vọng thì đó đều là những tình yêu vĩnh cửu. Cô bé Fadette -
tình yêu sẽ luôn được tụng ca vì tình yêu không có lỗi.
Bên cạnh đó còn có văn học Anh với hiện tượng nổi loạn của cá nhân lãng mạn
trước hiện thực xã hội. Và hình tượng Conard trong truyện thơ “Tên cướp biển”
hiện ra với những sự tương phản giữa ngoại hình và tính cách, giữa quan hệ xã hội
và đời sống tâm hồn tạo nên một “con người khác thường” là một tiêu biểu.
Một điển hình khác khá nổi bật trong dòng văn học lãng mạn Việt Nam cũng sử
dụng điêu luyện thủ pháp tương phản này, đó là nhà văn Nguyễn Tuân với tập
22
truyện ngắn nổi tiếng “Vang bóng một thời”, trong đó có truyện ngắn “Chữ người
tử tù”. Nguyễn Tuân đã dựng lại cả một dấu xưa vàng son, quá vãng nay trở về
sáng lại trên mỗi trang văn với vẻ đẹp mê hồn, có khi rùng rợn mang đầy nuối tiếc,
bâng khuâng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một bức tranh gồm nhiều mảng
màu khác nhau, phân rõ tối sáng, đậm nhạt mà trong đó cái Thiện và cái Ác, ánh
sáng và bóng tối luôn tương phản với nhau. Quản ngục và thư lại sống lẫn trong
cuộc sống đó, Huấn Cao vượt lên khỏi cuộc sống đó nhưng xét đến cùng họ đều là
nhân vật của văn học lãng mạn.
Tóm lại, thủ pháp tương phản là một biện pháp nghệ thuật rất có hiệu quả trong
việc xây dựng nên các hình tượng nhân vật đối lập, hoàn cảnh xã hội đối lập cùng
với lối viết tương phản trong ngôn từ. Qua đó, tác giả nêu lên các nghịch lý của cuộc
sống, những mẫu thuẫn thường dẫn đến đấu tranh trong xã hội để giúp người đọc có
thể đối chiếu, so sánh và hiểu rõ hơn về tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm.
Thủ pháp tương phản cùng với một số biện pháp nghệ thuật khác trong tiểu thuyết
“Nhà thờ Đức Bà Paris” rất thành công trên cương vị đó.
III. Một số thủ pháp nghệ thuật khác trong tiểu thuyết “Nhà thờ Đức Bà Paris” –
Victor Hugo.
Bên cạnh nghệ thuật tương phản, các nghệ thuật khác trong tác phẩm cũng góp
phần không kém tạo nên thành công của tác phẩm và làm nổi bật và khắc sâu thêm
nghệ thuật tương phản, để ta thấy rõ tầm quan trọng của nó đối với thành công trong
tác phẩm.
Các nghệ thuật:
- Xây dựng nhân vật: tạo ra 1 dàn những nhân vật nổi bật với những tính cách
riêng biệt mà điển hình. Nghệ thuật này góp phần rất lớn trong nghệ thuật tương
phản, vì phần lớn sự tương phản được thể hiện qua mỗi nhân vật và giữa các nhân
vật với nhau.
- Tạo tình huống truyện: khiến câu chuyện cuốn hút đầy bất ngờ và không thể
đoán trước được truyện sẽ diễn biến gì tiếp theo. Nó cũng góp phần làm nổi rõ sự
tương phản trong câu chuyện từ đầu đến cuối tác phẩm.
- Sử dụng ngôn từ: ngôn ngữ trong tác phẩm tráng lệ và huy hoàng, có nhiều
chất thơ, tính nhạc và vần điệu. Đặc biệt là lớp từ ngữ đối lập nhau càng tô đậm bức
tranh tương phản đầy màu sắc trong tác phẩm.
- Sử dụng các biện pháp tu từ: ngoa dụ, ẩn dụ, so sánh…
- Sử dụng điển tích, điển cố từ lịch sử và văn hóa nước Pháp và Châu Âu.
Dưới ngòi bút thiên tài của mình Victor Hugo đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ
thuật đặc sắc nhưng vô cùng hài hòa và tinh tế, ông đã dựng lên bức tranh đồ sộ,
hoành tráng về cuộc sống, con người thời trung cổ bằng một hệ thống ngôn từ tài
23
hoa, nhiều tầng bậc. trong “Nhà thờ Đức Bà Paris”, Hugo đã làm một phép cộng
gộp tài tình những đỉnh cao nghệ thuật nhân loại, đó là Homero trong Scott, kịch
tính thiên tài Shakespeare, những đoạn trào lộng, hóm hỉnh của Voltaire và Rabelais.
Những nét đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn đỉnh cao này đã làm cho “Nhà
thờ Đức Bà Paris”có một nội dung tư tưởng hết sức phong phú với những chiều
kích vươn đến vô tận.
TỔNG KẾT
Với tư cách là chủ soái của chủ nghĩa lãng mạn cây sồi già xanh ngắt, Hugo đã
có những sáng tạo tuyệt vời vượt qua sự truy bức của giới hạn thời gian, vượt qua
những hạn chế của tư tưởng thời đại và cả những đặc điểm về mặt hình thức của
phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa mang tính lịch sử cụ thể đương thời.
Tác phẩm Hugo có sức vang động mãi mãi tới tâm can người đọc, đánh thức
lương tri nhân loại bằng những hồi chuông cảnh tỉnh mạnh mẽ, vào tận những ngõ
ngách sâu kín nhất của lòng người. Nhà Thờ Đức Bà Paris có những chiều sâu tư
tưởng hết sức độc đáo. Ít nhiều, người đọc đã cảm nhận được một tiếng lòng đau đớn
của văn hào khi ông dựng nên bi kịch muôn thuở của kiếp người, bi kịch định mệnh.
Tiểu thuyết “nhà thờ Đức Bà Paris” được xây dựng thành công với thủ pháp nghệ
thuật tương phản sẽ mãi mãi hiện hữu trong lòng độc giả nhiều thế hệ vượt lên trên sự
già nua của thời gian.
24