Mục lục
Lời mở đầu
Nội dung chínhI.Lý luận của Lê-nin về chủ nghĩa t bản nhà nớc trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
1.Khái niệm về chủ nghĩa t bản nhà nớc
2.Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa t bản nhà nớc
3.ý nghĩa, các hình thức và kết quả của chủ nghĩa t bản nhà nớc trong nhà nớc vô
sản
4.Bản chất của chủ nghĩa t bản nhà nớc trong điều kiện chuyên chính vô sản
II.Thực hành chế độ chủ nghĩa t bản ở nớc ta
1.Tính cấp thiết
2.Khả năng thực hành chế độ chủ nghĩa nhà nớc t bản ở nớc ta
3.Những hình thức cụ thể của chủ nghĩa t bản nhà nớc ở Việt Nam
Kết luận
Lời mở đầu
Nhìn chung lịch sử xã hội toàn nhân loại đã phát triển qua nhiều giai đoạn kế
tiếp nhau và tơng ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế- xã hội nhất
định. Cho đến nay, lịch sử nhân loại đã trải qua 4 hình thái kinh tế- xã hội: cộng
sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, t bản chủ nghĩa và đang trong
thời kỳ quá độ sang chủ nghĩa xã hội- giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Dựa trên những nền tảng học thuyết của Mac và Ănghen,
Lê-nin đã đa ra những lý luận về chủ nghĩa t bản nhà nớc trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xa hội, nó đợc trình bày rải rác trong rất nhiều các tác phẩm của
ông, trong những điều kiện kinh tế và chính trị khác nhau, khi nhấn mạnh điều
này, khi nhấn mạnh điều khác nhằm thuyết phục những ng ời cùng thời. Theo
Lê-nin chủ nghĩa t bản nhà nớc đó là một sự cứu nguy đối với giai cấp vô sản còn
non trẻ khi giai cấp mới nắm chính quyền. Chủ nghĩa t bản nhà nớc đó là điều
cần thiết và có lợi, chẳng những nó không đáng sợ, mà còn đáng mong đợi .Chỉ
có du nhập chủ nghĩa t bản nhà nớc thì chính quyền giai cấp vô sản mới có thể
tạo dựng đợc cơ sở xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam, sau khi chúng ta giành đợc độc lập (8/1945), chúng ta đã bắt tay
ngay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đó chúng ta đã
vận dụng một cách sáng tạo các lý luận của Lê-nin về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt
là các lý luận về chủ nghĩa t bản nhà nớc kết hợp với t tởng Hồ Chí Minh trong c-
ơng lĩnh chính trị đợc thông qua tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
(6/1991) cũng đã khẳng định rằng: Đảng lấy chủ nghĩa Mac- Lê-nin và t tởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng t tởng và kim chỉ nam cho hành động, đây cũng là
nền tảng t tởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam không chỉ trên 2/3 thế
kỷ qua mà còn cho cả tơng lai phát triển của đất nớc. Nớc ta là một nớc đang
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhng còn lạc hậu, kinh tế kém phát
triển, vì vậy việc lùi về chủ nghĩa t bản nhà nớc đối với chúng ta là một tất yếu
khách quan. Nhờ chủ nghĩa t bản nhà nớc mà chúng ta đã thúc đẩy đợc nền kinh
tế phát triển, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Để đi sâu tìm hiểu vấn đề này em chọn đề tài: Lý luận của Lê-nin về chủ
nghĩa t bản nhà nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi và sự vận dụng lý
luận đó ở Việt Nam.
Em trân trọng cảm ơn thầy Mai Hữu Thực đã giúp em hoàn thành tôt đề tài
này.
2
Nội dung chính
I.Lý luận của Lê-nin về chủ nghĩa t bản nhà nớc trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
1.Khái niệm về chủ nghĩa t bản nhà n ớc.
Lê-nin là ngời đầu tiên đã có công nghiên cứu sâu sắc về vấn đề chủ nghĩa t
bản nhà nớc, xây dựng nên nền tảng lý luận về chủ nghĩa t bản nhà nớc trong
điều kiện chuyên chính vô sản. Cho đến nay, chủ nghĩa t bản nhà nớc đã đợc hiểu
theo rất nhiều cách khác nhau và có nhiều hình thức vận dụng khác nhau trong
thực tiễn. Tóm lại có một số quan niệm chủ yếu về chủ nghĩa t bản nhà nớc nh
sau:
Bản thân chủ nghĩa t bản là sự kết hợp, liên hợp, phối hợp nhà nớc, nền
chuyên chính vô sản với chủ nghĩa t bản, là một khối với chủ nghĩa t bản ở bên
trên. Chủ nghĩa t bản nhà nớc có thể coi là một bớc tiến so với thế lực tự phát
tiểu t hữu, chúng ta không tìm cách chặn đứng hay ngăn cấm sự phát triển của
chủ nghĩa t bản mà tìm cách hớng nó vào con đờng chủ nghĩa t bản nhà nớc. Khi
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta lùi về chủ nghĩa t bản nhà nớc và trong chế
độ ấy có sự tự do trao đổi của nông dân và các tầng lớp nhân dân khác, có sự xâm
nhập của chủ nghĩa t bản nhng dới sự quản lý và điều tiết chặt chẽ của nhà nớc
vô sản.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc mà chúng ta nói tới ở đây, có đôi lúc còn đợc gọi là
một loại hình kinh tế t bản nhà nớc, bởi lẽ nó mới chỉ đề cập tới khía cạnh kinh
tế, mối quan hệ kinh tế giữa t bản và nhà nớc, cha bao gồm các mặt chính trị, văn
hoá, xã hội. Nhng lại có một câu hỏi đặt ra: vì đâu mà có thành phần kinh tế này
và cha ai trả lời đợc cả. Lý luận về chủ nghĩa t bản nhà nớc của Lê-nin ra đời
trong hoàn cảnh đang bổ sung, hoàn thiện quan niệm về chủ nghĩa xã hội, nên
trong quá trình hoạt động để tìm ra bản chất của chủ nghĩa t bản nhà nớc không
tránh khỏi những thiếu sót.
Một điều nữa là: Lê-nin nhấn mạnh rằng chủ nghĩa t bản nhà nớc ở trong một
nớc mà chính quyền thuộc về t bản và chủ nghĩa t bản nhà nớc ở trong một nhà
nớc vô sản là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Lê-nin đánh giá chủ nghĩa t
bản nhà nớc là một khái niệm mới, là một hiện tợng mới mà cho tới thời của
ông không có lấy một quyến sách nào nói đến, ngay cả Mác cũng không viết một
lời nào về vấn đề đó. Chủ nghĩa t bản nhà nớc trong nhà nớc t bản thì nó đợc nhà
nớc thừa nhận và kiểm soát nhằm mu lợi ích cho giai cấp t sản và chống lại giai
cấp vô sản. Trong nhà nớc vô sản thì chủ nghĩa t bản nhà nớc cũng làm nh vậy
nhng để làm lợi cho giai cấp công nhân, nhằm mục đích chống lại giai cấp t sản
còn mạnh và đấu tranh với giai cấp t sản ấy. Khi đó, cố nhiên là chúng ta phải
3
cho giai cấp t sản ngoại quốc, cho t bản ngoại quốc thuê một số cái mà mình có
sẵn để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mình, và do đó khôi phục nền kinh tế
nớc ta.
Nh vậy, cho dù chủ nghĩa t bản nhà nớc có đợc hiểu theo cách nào đi chăng
nữa thì tóm lại, chủ nghĩa t bản nhà nớc là một công cụ để liên hợp nền sản xuất
nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tiểu t bản
và chủ nghĩa t bản. Lùi về chủ nghĩa t bản nhà nớc ở các nớc đang trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu để làm lợi cho giai cấp vô sản. Đồng
thời lợi dụng chủ nghĩa t bản nhà nớc để tạo tiền đề xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa t bản nhà n ớc.
Lê-nin đã khẳng định rằng chủ nghĩa t bản nhà nớc ra đời là một tất yếu lịch
sử, là điều cần thiết và có lợi. Việc ra đời của nó do rất nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan, nhng nói chung do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Khi giai cấp vô sản nắm chính quyền ở một nớc chậm tiến thì cái hy vọng có
thể tổ chức nền sản xuất lớn và phân phối trực tiếp cho nông dân là một điều
không tởng vì điều kiện mọi mặt không cho phép giai cấp vô sản làm nh vậy. ở
một nớc chậm tiến(điển hình là nớc Nga sau cách mạng tháng Mời) co nền kinh
tế vô cùng lạc hậu, có sự xen kẽ giữa các thành phần kinh tế, thế lực tự phát tiểu
t sản thờng chiếm u thế, đại bộ phận những ngời làm nông nghiệp là những ngời
sản xuất hàng hoá nhỏ, nạn đầu cơ len lỏi vào mọi lỗ chân lông của đời sống
kinh tế xã hội, việc cải tạo nền sản xuất nông dân cá thể thành nền sản xuất xã
hội chủ nghĩa ngay tức khắc là điều không thể thực hiện đợc. Giai cấp vô sản
nắm chính quyền trong tay, họ có khả năng đầy đủ nhất về pháp lý để giành lấy
tất cả những gì trong những ngời tiểu t sản, nhng những thế lực tự phát của tiểu t
hữu và chủ nghĩa t bản t nhân đang phá hoại địa vị pháp lý ấy bằng nhiều cách,
ngấm ngầm đầu cơ, phá hoại chính quyền còn non trẻ. Chính điều đó đã buộc
những ngời cộng sản phải tạm thời lùi bớc, phải viện đến chủ nghĩa t bản nhà n-
ớc; lùi bớc ở đây không phải là chịu khuất phục trớc chủ nghĩa t bản mà lùi bớc
về chủ nghĩa t bản nhà nớc để tạo tiền đề tiến thêm nhiều bớc nữa. Sự phát triển
của chủ nghĩa t bản do nhà nớc vô sản kiểm soát và điều tiết có thể đẩy mạnh
ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ việc phát triển nhanh lực tợng sản xuất
trong nông nghiệp mà ổn định xã hội, thoát khỏi khủng hoảng, khắc phục tình
trạng của công nặng nề và nạn đầu cơ nhỏ tràn lan. Chủ nghĩa t bản nhà nớc có
thể coi là một bớc tiến to lớn, nó sẽ đa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng con đ-
ờng chắc chắn nhất. Chủ nghĩa t bản nhà nớc giúp cho giai cấp vô sản có thể tố
chức thông minh và có kinh nghiệm trong những xĩ nghiệp hết sức to lớn, thực sự
đảm nhận đợc việc cung cấp sản phấm cho hàng chục triệu ngời.
Trong quá trình phát triển kinh tế chúng ta tuyệt nhiên không nêu ra vấn đề:
nền kinh tế sẽ có quan hệ nh thế nào với thị trờng, với mậu dịch. Khi đặt công
4
tác xây dựng kinh tế lên hàng đầu, chúng ta chỉ đứng trên một góc độ mà nhìn,
chúng ta định chuyển thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không qua cái thời kỳ mở
đầu để làm cho nền kinh tế cũ thích ứng với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, một
biểu tợng về chủ nghĩa xã hội nh là một xã hội trong đó không có sản xuất hàng
hoá, chỉ có việc phân phối theo lao động đựơc thực hiện theo các giấy chứng chỉ
lao động không cần có thơng nghiệp và tiền tệ. Chúng ta cứ nghĩ rằng cả hai chế
độ: chế độ sản xuất, phân phối quốc doanh và chế độ sản xuất, phân phối t doanh
sẽ đấu tranh với nhau trong điều kiện khiến chúng ta có thể thiết lập đợc chế độ
sản xuất và phân phối quốc doanh bằng cách lấn dần chế độ đối địch. Nhng
chúng ta đã mắc phải sai lầm, chúng ta đã khôngnghiên cứu những hình thức cụ
thể và các giai đoạn của sự quá độ ấy trong lúc này. Tiền là giấy chứng nhận của
cải xã hội, và tầng lớp tiểu t hữu đông hàng chục triệu ngời đang nắm chắc lấy
giấy chứng nhận đó. Họ chỉ muốn dùng những khoản tiền ấy cho riên họ thôi,
chống lại dân nghèo, chống lại bất cứ sự kiểm soát chung nào của nhà nớc, phá
hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của giai cấp vô sản. Do dó, trong một
số vấn đề kinh tế, cần phải rút lui về những vị trí của chủ nghĩa t bản nhà nớc;
không thể xung phong tấn công mà phải thực hiện một nhiệm vụ rất gian khổ, rất
khó khăn là bao vây lâu dài với nhiều lần rút lui. Đó là điều kiện cần thiết để giải
quyết các vấn đề kinh tế, là bảo đảm chuyển nền kinh tế sang cơ sở của chủ
nghĩa xã hội. Nó chính là một sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã
hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó với
nấc thang đợc gọi là chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc nào ở giữa cả. Khi
thực hiện bớc lùi nh vậy thì tình hình của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ
dễ dàng hơn, các nhiệm vụ xã hội chủ nghĩa sẽ chóng đợc giải quyết hơn. Trong
điều kiện cụ thể bây giờ, chúng ta phải điều hoà mậu dịch với lu thông tiền tệ,
trong lĩnh vực này những ngời cộng sản phải tỏ rõ đợc tài năng của mình. Có giải
quyết đợc nhiệm vụ ấy, giai cấp vô sản mới có thể tiến tới giải quyết những nhu
cầu kinh tế bức thiết, và chỉ có thế mới có thể đảm bảo khả năng khôi phục đợc
nền công nghiệp lớn bằng con đòng dài hơn nhng chắc chắn hơn, con đờng mà
ngỳ nay duy nhất có thể đối với ta.
Nhng làm thế nào để thực hiện chủ nghĩa xã hội ở một nớc mà tiểu nông
nghiệp chiếm đại bộ phận dân c?. Theo Lê-nin phải có hai điều kiện:
Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kịp thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở một nớc hay một số nớc tiên tiến. Về điều kiện này, theo Lê-nin tuy đã làm
nhiều hơn trớc để đợc điều kiện âý, xong cho đến lúc này vẫn còn cha đủ điều
kiện đó trở thành sự thật đợc.
Điều kiện thứ hai là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện
chuyên chính của mình hoặc đang nắm chính quyền nhà nớc với đại đa số nông
dân, phải thoả thuận với nông dân vì lợi ích của cả hai giai cấp. Theo Lê-nin ngời
tiểu nông chừng nào còn là tiểu nông thì họ không a tất cả những gì mà ngời
5
công nhân muốn. Nhng vẫn phải thoả thuận đợc với nông dân thì mới duy trì đợc
chính quyền của giai cấp công nhân, mới xây dựng đợc chủ nghĩa xã hội. Khi
nông dân không hài lòng với hình thức quan hệ hiện có, không muốn có hình
thức quan hệ ấy nữa thì sự thoả thuận giữa hai giai cấp trở nên không chắc chắn.
Đó cũng là lý do phải lùi về chủ nghĩa t bản nhà nớc, tức là phải thiết lập các
quan hệ mới thông qua các hoạt động kinh tế và thoả mãn đợc những nhu cầu của
nông dân. Để thoả mãn đợc những nhu cầu của nông dân thì phải có sự tự do trao
đổi nhất định, đồng thời phải kiếm ra hàng hoá và lơng thực, nếu không làm đợc
điều này thì lấy gì mà trao đổi, mà buôn bán. Muốn chấm đứt tình trạng thiếu
hàng hoá thì phải khôi phục đợc công nghiệp nhng điều kiện thực tế lại khiến ta
không thế phát triển đợc công nghiệp. Lối thoát duy nhất để thoát sự bế tắc này
là phải phát triển nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân, phải giúp nông dân
bằng bất cứ giá nào tăng nhanh nông sản phẩm. Điều chủ yếu là phải đem lại cho
ngời tiểu nông một sự thúc đấy trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ bằng
một tổ chức kinh tế thích ứng với nền kinh tế của trung nông. Thực tế thời :Lê-
nin cho thấy rằng chính sách tự do buôn bán là sự thoả thuận một cách thực tế,
khoé léo, khôn ngoan và mềm dẻo hay lùi một bớc về chủ nghĩa t bản nhà nớc là
một biện pháp phù hợp với thực tế.
Nhng từ những chính sách tự do trao đổi trong nông dân mà xuất hiện hai vấn
đề dẫn đến chủ nghĩa t bản nhà nớc:
Trớc hết, trong điều kiện nhà nớc vô sản thf tự do trao đổi là tự do buôn bán,
mà tự do buôn bán theo quan niệm của Lê-nin thời đó tức là lùi lại chủ nghĩa t
bản. Thứ trao đổi hàng hoá ấy có thể không dẫn đến chỗ phân hoá những ngời
sản xuất hàng hoá ra thành kẻ sở hữu t bản và ngời sở hữu sức lao động, nghĩa là
khôi phục lại chế độ chủ nghĩa t bản. Cho nên sự phát triển trao đổi t nhân, tức là
phát triển chủ nghĩa t bản, một sự phát triển không thể tránh khỏi khi có hàng
triệu ngời sản xuất nhỏ. Lê-nin chỉ rõ, tự do buôn bán là khôi phục chủ nghĩa t
bản trên một mức độ lớn, là tự do của chủ nghĩa t bản. Nhng sự dung nạp chủ
nghĩa t bản lại cần cho đông đảo quàn chúng nông dân và cho t bản t nhân là ng-
ời buôn bán để thoả mãn dợcnhu cầu của nông dân. ở đây đã diễn ra một điều mà
chính Lê-nin cũng phải nói hình nh là ngợc đời: chủ nghĩa t bản t nhân lại đóng
vai trò trợ thủ cho chủ nghĩa xã hội, có thể sử dụng chủ ngiã t bản t nhân để
xúc tiến chủ nghĩa xã hội. Nhng muốn không thay đổi bản chất của mình, nhà
nớc vô sản chỉ có thể thừa nhận cho chủ nghĩa t bản đợc phát triển trong một
chừng mực nào đó và chỉ với điều kiện là thơng nghiệp t nhân và t bản t nhân
phải phục tùng sự điều tiết của nhà nớc, phải tìm cách hớng chúng vào con đờng
chủ nghĩa t bản nhà nớc bằng một tổ chức của nhà nớc và những biện pháp có
tính chất từ bên trên.
Vấn đề thứ hai là trong điều kiện một nớc mà chủ nghĩa t bản tiểu t sản
chiếm u thế, hàng hoá chỉ có thể có đợc từ nông dân, từ nền nông nghiệp. Và nh
6
vậy chỉ có nông sản hàng hoá này trao đổi với nông sản hàng hoá khác, điều đó
sẽ không kích thích nông dân, nông nghiệp phát triển. Phải có những hàng hoá
mà nông dân cần, mà muốn có những hàng hoá đó phải dựa vào sự phát triển của
thủ công nghiệp và công nghiệp. Lê-nin nói rõ: điều đó chúng ta không thể tự
mình làm đợc nếu không có sự giúp đỡ của t bản nớc ngoài. Ngời nào không
chìm đắm trong ảo tởng mà nhìn vào thực tế thì phải hiểu rõ điều đó. Theo Lê-
nin cần phải du nhập chủ nghĩa t bản từ bên ngoài bằng những hợp đồng buôn
bán với các nớc t bản lớn, bằng chính sách tô nhợng. Tóm lại là bằng các hinh
thức khác nhau của chủ nghĩa t bản nhà nớc.
3.ý nghĩa, các hình thức và kết quả của chủ nghĩa t bản nhà n ớc trong nhà n -
ớc vô sản.
3.1.ý nghĩa của chủ nghĩa t bản nhà nớc trong nhà nớc vô sản.
Từ sự phân tích rên ta thấy rằng chủ nghĩa t bản nhà nớc là có lợi và cần
thiết, là điều đáng mong đợi, là sự cứu nguy đối với chúng ta. Lý luận của
Lê-nin về chủ nghĩa t bản nhà nớc có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các nớc đang
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi, trong nhà nớc vô sản.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc
phục tình trạng phân tán và đấu tranh tự phát tiểu t bản và t bản chủ nghĩa, tính tự
phát tiểu t sản, chống đầu cơ-đợc coi là kẻ thù chính của chủ nghĩa xã hội ở các
nớc tiểu nông tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa t bản nhà nớc là xu hớng và là
kết quả phát triển tự phát của nền sản xuất nhỏ. Xét về trinhd độ phát triển thì
chủ nghĩa t bản nhà nớc về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế tiểu nông.
Nếu phát triển đợc chủ nghĩa t bản nhà nớc thì sẽ tăng cờng đợc nền đại sản xuất
đối lập với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản xuất lạc
hậu, nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm sản
phẩm mà nó thu đợc của đại công nghiệp, củng cố đợc những quan hệ kinh tế do
nhà nớc điều chỉnh, đối lập với các quan hệ kinh tế tiểu t sản vô chính phủ. Theo
Lê-nin, chính là giai cấp tiểu t sản cộng với chủ nghã t bản t nhân cùng nhau đấu
tranh chống lại cả chủ nghĩa t bản nhà nớc và chủ nghĩa xã hội. Nó chống lại bất
kỳ sự can thiệp, kiểm kê, kiểm soát nào của nhà nớc, dù là chủ nghĩa t bản nhà n-
ớc hay chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc là một bớc tiến lớn, nhờ nó mà chiến thắng đợc tình
trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, hiện tợng lỏng lẻo, những tập quán,
những thói quen, địa vị giai cấp ấy là căi quan trọng hơn hết. Bởi vì việc để tình
trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu t hữu tiếp tục tồn tại là một mối nguy hại
lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ đa đất nớc đến chỗ diệt vong. Nếu khôi phục đợc
tình trạng này thì tất cả những con bài đều nằm trong tay công nhân và sẽ bảo
đảm cho chủ nghĩa xã hội đợc củng cố. Cũng vì thế mà chủ nghĩa xã hội sẽ đa
đất nớc lên chủ nghĩa xã hộibằng con đờng chắc chắn nhất.
7
Chủ nghĩa t bản nhà nớc còn là công cụ để khắc phục đợc kẻ thù chính
trong nội bộ đất nớc, kẻ thùcủa các biện pháp kinh tế. Đó chính là bọn đầu cơ,
bọn gian thơng, bọn phá hoại độc quyền của nhà nớc. Lê-nin nói rằng không
thể giải quyết vấn đề này bằng biẹn pháp xử bắn hoặc những lời tuyên bố sấm
sét, bởi vì cơ sở kinh tế của bọn đầu cơ là tầng lớp những kẻ tiểu t hữu và chủ
nghĩa t bản t nhân, có đại diện của mình trong mỗi ngời tiểu t sản.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc còn đợc xem là cong cụ đấu tranh chống chủ nghía
quan liêu và những lệch lạc quan liêu công nghiệp. Lê-nin phân tích nguồn gốc
kinh tế của chủ nghĩa quan liêu chính là tình trạng riêng rẽ, tình trạng phân tán
của những ngời sản xuất nhỏ, cảnh khốn cùng của họ, tình trạng dốt nát của họ,
tình trạng không có đờng sá, nạn mù chữ, tình trạng không có sự trao đổi gia
nông nghiệp và công nghiệp, tình trạng thiếu sự liên hệ và tác động qua lại giữa
nông nghiệp và cong nghiệp.
Thông qua chủ nghĩa t bản và chủ nghĩa t bản nhà nớc mà giai cấp công nhân
có thể học tập đợc cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ chức đợc một nền sản
xuất lớn. Giai cấp vô sản ở những nớc đã tiến hành cách mạng để giành chính
quyền cho rằng họ là giai cấp tiên tiến hơn về chế độ chính trị của nớc mình so
với bất cứ giai cấp vô sản ở các nớc phát triển nào khác, nhng lại lạc hậu hơn các
nớc lạc hậu nhất ở Tây Âu về mặt tổ chức một chủ nghĩa t bản có quy củ về trình
độ văn hóa, về mức độ cho sự chuẩn bị cho việc thực hiện chủ nghĩa xã hội trong
lĩnh vực sản xuất vật chất. Lê-nin phê phán luận điểm cho rằng do không có sự t-
ơng ứng nên cha cớp chính quyền, Lê-nin coi đó là luận điểm của hạng ngời
trong vỏ ốc không biết rằng sẽ không bao giờ có, không thể có sự tơng xứng ấy
trong sự phát triển của tự nhiên cũng nh của xã hôi, mà chỉ có trải qua hàng loạt
lần làm thử thì mới có thể xây dựng lên chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh Chủ nghĩa
t bản nhà nớc sẽ giúp chính quyền của giai cấp vô sản khắc phục đợc dần các tình
trạng lạc hậu trên. Cũng qua đây mà học tập đợc cách quản lý của những ngời tổ
chức thông minh và có kinh nghiệm trong những xí nghiệp hết sức lớn.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc thông qua sự du nhập của t bản từ bên ngoài là
hình thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại, qua đó mà hy vọng có đợc trình độ
trang bị cao của chủ nghĩa t bản. Nếu không lợi dụng kinh tế đó thì không xây
dựng tốt đợc cơ sở cho nền đại sản xuất của giai cấp vô sản. Nhng đồng thời nó
cũng đạt giai cấp vô sản vào một nguy cơ, đó là sự lệ thuộc về kinh tế, nguy cơ
của chủ nghĩa thực dân mới. Có thể chúngta sẽ bị buộc phải du nhập những luồng
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến không mạnh, chấp nhận việc đầu t một cách thụ
động.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc còn mang lại cái lợi là thông qua sự phát triển của
nó mà phục hồi đợc giai cấp công nhân. Chủ nghĩa t bản làm cho sản xuất công
nghiệp tăng lên và giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn nhanh lên. Nếu chủ nghĩa
t bản nhà nớc đợc khôi phục lại thì cũng có nghĩa là sẽ phục hồi lại giai cấp vô
8
sản và tạo ra một giai cấp vô sản công nghiệp, vì đấu tranh, vì bị phá sản nên đã
bị mất tính giai cấp, nghĩa là đã bị đẩy ra ngòai con đờng tồn tại giai cấp của
mình và không còn tồn tại với t cách là giai cấp vô sản nữa, đôi khi về hình thức
nó đợc coi là giai cấp vô sản nhng nó không có gốc về kinh tế.
3.2.Các hình thức chủ nghĩa t bản nhà nớc trong nhà nớc vô sản thời Lê-
nin.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc tòn tại dới rất nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
Lê-nin không trói buộc chủ nghĩa t bản nhà nớc trong một số hình thức đã có
nhất định. T tởng của Lê-nin là: ở chỗ nào có những thành phần tự do buôn bán
và những thành phần t bản chủ nghĩa nói chung, thì ở đó có chủ nghĩa t bản nhà
nớc dới hình thức này hay hình thức khác, ở trình đọ này hay trình độ nọ. ở thời
Lê-nin có những hình thức cụ thể sau:
a.Tô nh ợng.
Lê-nin quan niệm tô nhợng là một giao kèo, một liên kết,liên minh giữa
chính quyền nhà nớc vô sản với chủ nghĩa t bản nhà nớc, chống lại thế lực tự phát
tiểu t hữu. Ngời nhận tô nhợng là nhà t bản, tô nhợng là do chính quyền vô sản kí
hợp đồng với nhà t bản. Theo hợp đồng ấy thì nhà t bản đợc sử dụng một vài thứ:
nguyên liệu, xí nghiệp, hầm mỏ Còn chính quyền nhà n ớc xã hội chủ nghĩa
giao cho nhà t bản t liệu sản xuất của mình.Nhà t bản tiến hành kinh doanh với t
cách là một bên kí kết, là ngời thuê t liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa và thu đợc lợi
nhuận của t bản mà mình bỏ ra, rồi nộp cho nhà nớc xã hội chủ nghĩa một phần
gọi là tô nhợng, đó là hình thức kinh tế mà cả hai bên cùng có lợi.
Hình thức tô nhợng là sự du nhập chủ nghĩa t bản nhà nớc từ bên ngoài
vào, có giúp cho chính quyền nhà nớc vô sản tăng cờng đợc nền đại sản xuất, làm
tăng thêm số sản phẩm mà nó thu đợc của đại công nghiệp, nó củng cố đợc các
quan hệ kinh tế do nhà nớc điều chỉnh đối lập với những quan hệ tiểu t sản vô
chính phủ. áp dụng một cách có chừng mực và thận trọng, chính sách tô nhợng
nhất định sẽ giúp chúng ta cải thiện đợc nhanh chóng tình trạng sản xuất, đời
sống của công nhân và nông dân. Tô nhợng là một hình thức đấu tranh, là sự tiếp
tục của đấu tranh giai cấp dới một hình thức khác.
Thời Lê-nin hình thức tô nhợng đợc coi là phổ biến hơn cả. So với những
hình thức khác của chủnghĩa t bản nhà nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa thì
chủ nghĩa t bản nhà nớc dới hình thức tô nhợng có lẽ là hình thức đơn giản nhất,
rành mạch nhất, sáng tỏ nhất, có hình thù rõ rệt nhất. Chúng ta biết đích xác
những cái lợi và những cái hại cho chúng ta, những quyền hạn và nghĩa vụ của
chúng ta. Chúng ta trả một cống nạp cho chủ nghĩa t bản thế giới về một số
mặt nào đó, nhng chúng ta lại có ngay đợc một biện pháp nhất định để củng cố
chính quyền của mình, để cải thiện những điều kiện làm ăn. Về tô nhợng, thì tất
cả khó khăn của nhiệm vụ là phải suy nghĩ, phải cân nhắc hết mọi điều khi ký
9
hợp đồng tô nhợng và sau đó phải biết theo dõi việc chấp hành nó. Nh vậy, có thể
coi tô nhợng là một hình thức làm ăn với t bản nớc ngoài nói chung.
Để thực hành tô nhợng trong nhà nớc vô sản thì cần phải có một số điều kiện
sau:
Cần phải từ bỏ chủ nghĩa ái quốc địa phơng của một số ngời cho rằng
tự mình có thể làn lấy, không chấp nhận trở lại chịu ách nô dịch của t bản.
Lê-nin nêu rõ cần phải sẵn sàng chịu đựng một loạt hy sinh thiếu thốn và bất
lợi miễn sao có đợc một sự chuyển biến quan trọng và cải thiện tình trạng
kinh tế trong các ngành công nghiệp chủ yếu. Cũng phải dự kiến rằng trong
thời gian đầu không thể tránh khỏi sai lầm, nhng dù sao cũng phải cố đạt đợc
điều đó.
Ngời nhận tô nhợng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong
xí nghiệp tô nhợng sao cho đạt tới mức sống trung bình của nớc ngoài. Điều
trọng yếu nhất khi thực hành chế độ tô nhợng là nâng cao số lợng sản phẩm
nên. Nhng điều đặc biệt quan trọng, thậm trí càng quan trọng hơn là cải thiện
ngay tức khắc đời sống của công nhân. Cải thiện đời sống của công nhân
trong các xí nghiệp tô nhợng và ngoài tô nhợng đợc xem là cơ sở của chính
sách tô nhợng.
Ngoài ra, ngời nhận tô nhợng phải bán thêm cho chính quyền nhà nớc
vô sản (nếu có yêu cầu) từ 50% đến 100% số lợng sản phẩm tiêu dùng cho
các công nhân ở các xí nghiệp tô nhợng, làm nh vậy để cải thiện đời sống của
các công nhân khác.
Vấn đề trả lơng cho các công nhân ở các xí nghiệp tô nhợng, trả bằng
ngoại tệ , bằng phiếu đặc biệt hay bằng tiền thì sẽ đợc quy định theo sự thỏa
thuận riêng trong từng hợp đồng. Vấn đề đối với nhà nớc là phải biết thích
ứng với mọi điều kiện sao cho có thể đấu tranh đợc với họ để cải thiện một
mức nào đó đời sống của công nhân.
Điều kiện về thuê mớn, về sinh hoạt vật chất, về trả lơng cho các công
nhân lành nghề và nhân viên ngời nớc ngoài đợc quy định theo sự thoả thuận
tự do giữa ngời nhận tô nhợng và những loại công nhân viên nói trên. Cố
nhiên, việc thuê mớn công nhân và nhân viên nớc ngoài, tổng số cũng nh
từng loại phải theo tỷ lệ phần trăm so với công nhân, tỷ lệ này sẽ thoả thuận
trong hợp đồng.
Còn đối với những công nhân là chuyên gia có trình độ cao, nếu các xí
nghiệp tô nhợng muốn mời thì phải đợc sự đồng ý của các cơ quan chính
quyền trung ơng. Theo tinh thần này thì tức là không thể để các chuyên gia u
tú nhất làm việc ở các xí nghiệp tô nhợng. Tuy không cấm hoàn toàn nhng
việc thi hành hợp đồng phải đợc giám sát từ trên xuống và từ dới lên.
10
Phải tôn trọng pháp luâth nh các đạo luật về điều kiện lao động, về kỳ
hạn phát lơng Nếu ng ời nhận tô nhợng yêu cầu phải ký hợp đồng với các
công đoàn thì đó chính là nhằm xoá bỏ mối lo ngại của t bản đối với công
đoàn trong nhà nớc vô sản. Đồng thời cũng phải nghiêm chỉnh tuân theo
những quy tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật trong nớc và nớc
ngoài. Điều này phải đợc quy định tỷ mỷ trong từng hợp đồng, bởi vì đặc tr-
ng cơ bản của nền kinh tế t bản chủ nghĩa là ở chỗ nó không có khả năng
chăm lo đến việc sử dụng đất đai và sức lao động một cách khoa học và đúng
đắn.
b.Các hợp tác xã:
Các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa t bản nhà nớc nhng ít
đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn. Nó cũng tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho sự kiểm kê, kiểm soát, theo dõi cho những quan hệ đã ghi
trong hợp đồng giữa nhà nớc và nhà nớc t bản. Hơn thế, nó còn tạo điều kiện
thuận lợi cho việc liên hiệp và tổ chức hàng triệu ngời, sau đó là toàn thể dân
chúng. Đó là một điều lợi rất lớn cho bớc quá độ tơng lai từ chủ nghĩa t bản nhà
nớc lên chủ nghĩa xã hội.
Chế độ hợp tác xã ra đời dựa trên cơ sở tiểu công nghiệp, trên nền sản xuất
thủ công mà một bộ phận thậm chí còn gia trởng. Hợp tác xã bao gồm hàng
ngàn, hàng chí hàng triệu tiểu nghiệp chủ, trong đó việc kiểm soát các thành viên
hợp tác xã là rất khó khăn. Khi chính sách hợp tác xã thành công sẽ giúp cho nền
kinh tế nhỏ phát triển và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ lên nền
đại sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết hợp.
Theo quan điểm của Lê-nin thì có hai loại hợp tác xã. Đó là:
Thứ nhất là chế độ hợp tác xã hoàn toàn đồng nhất với chủ nghã xã hội, đó là
một tổ chức đợc quần chúng nhân dân chân chính thực sự tham gia một cách tự
giác, một tổ chức có thể kết hợp lợi ích t nhân, lợi ích thơn g nghiệp t nhân với
việc nhà nớc kiểm soát và kiểm tra lợi ích đó, làm cho lợi ích t nhân phục tùng
lợi ích chung. Đó còn là một kiểu xí nghiệp thứ 3, tức xí nghiệp hợp tác xã,
những xí nghiệp này là sự kết hợp những xí nghiệp t bản t nhân và những xí
nghiệp kiểu chủ nghĩa xã hội chính cống. Chế độ hợp tác xã kiểu này có ý nghĩa
đặc biệt trớc hết là về phơng diện nguyên tắc( nhà nớc nắm quyền sở hữu t liệu
sản xuất, sau nữa là về phơng diện bớc quá độ sang một chế độ mới bằng con đ-
ờng đơn giản nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nhân dân. Nếu chúng ta
tổ chức đợc toàn thể nhân dân vào hợp tác xã thì chúng ta đứng vững đợc hai
chân trên mảnh đất xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai là hình thức chủ nghĩa t bản nhà nớc, với cách diễn đạt của Lê-nin
nó là các hình thức hợp doanh(cong ty hợp doanh). Theo khái niệm thờng dùng
11
hiện nay thì đó là những tổ chức t bản tập thể. Nó là bớc chuyển từ tiểu sản xuất
sang một thời kỳ lịch sử.
c.Hình thức đại lý uỷ thác.
Theo hình thức này thì nhà nớc lôi cuốn nhà t bản với t cách một nhà buôn,
trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của nhà nứơc và mua sản
phẩm của ngời sản xuất nhỏ.
d.Cho t bản trong n ớc thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất.
Hình thức này giống nh hình thức tô nhợng, nhng đối tợng tô nhợng không
phải là t bản nớc ngoài mà là t bản trong nớc. Hình thức này đợc coi là hình thức
riêng biệt để phân biệt nó với hình thức tơng tự nhng đối tợng thuê chỉ là t bản
trong nớc.
e.Cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ.
Qua thực tiễn Lê-nin đã đa ra hình thức nữa của chủ nghĩa t bản nhà nớc.
Chính ở những hầm mỏ nhỏ cho nông dân thuê, sản xuất tại đặc biệt phát triển
hơn là những xí nghiệp lớn nhất trớc kia là của t bản. Những quan hệ của chủ
nghĩa t bản nhà nớc đợc phát triển, những nông dân nay hoạt động theo kiểu nộp
tô cho nhà nớc. Đây cũng là một đối tợng cho thuê-theo cách nói của Lê-nin là
những tiểu t bản.
g.Công ty hợp doanh.
Khi nói về lĩnh vực thơng nghiệp thì không thể khong nhắc tới các công ty
hợp doanh. Đó là những công ty thành lập theo thể thức tiền vốn một phần là của
t bản t nhân, ngoài ra của t bản nớc ngoài và một phần là của chính quyền giai
cấp vô sản. Việc công ty hợp doan ra đời là một bớc tiến lớn của chính quyền
giai cấp vô sản. Chính quyền giai cấp vô sản thành lập ra các công ty này và lúc
nào cũng có khả năng thủ tiêu nó.
Trên đây là một số hình thức chủ nghĩa t bản nhà nớc có thể rút ra từ thực
tiễn thực hành chế độ chủ nghĩa t bản nhà nớc của Lê-nin.
3.3.Kết quả của việc thực hành chế độ chủ nghĩa t bản nhà nớc ở thời Lê-
nin.
Sự thực hành chế độ chủ nghĩa t bản nhà nớc ở thời Lê-nin đã mang lại những
hiệu quả rất lớn:
Trớc hết và chủ yếu là tình hình giai cấp nông dân: nền kinh tế nông dân đợc
phục hồi từ cchỗ đói kém, nông dân chẳng những đã thoát khỏi đợc nạn đói mà
còn nộp thuế lơng thực hàng trăm triệu pút, họ đã hại lòng với tình hình của họ.
Đặc biệt là sau những năm chính sách thời chiến, ở nông thôn đã có những
thay đổi to lớn. Nhân dân đã trung nông hoá nhều hơn, số trung nông đã chiêm
12
đến 65% trong tổng số nhân dân (thay cho con số 20% trớc cách mạng) và họ trở
thành bộ mặt trung tâm ở nông thôn.
Về công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển chung, và do đó điều kiện sinh
hoạt của các công nhân trong lĩnh vực này đã đợc cải thện rõ nét, đặc biệt là công
nhân ở Pê-tơ-rô-gơ-rat và ở Mạc-t-khoa. Đó là điều không thể chối cãi đợc.
Còn về công nghiệp nặng tuy vẫn còn nhiều khó khăn nhng cũng có sự thay
đổi nhất định. Công nghiệp nặng vẫn còn khó khăn là do không có khoản vay lớn
hàng mấy trăm triệu đô la. Chính sách tô nhợng cho đến lúc ấy (1922) vẫn cha có
một tô nhợng sinh lợi nào trong công nghiệp nặng. Các nớc đế quốc vẫn đang
muốn bóp chết nhà nớc xã hội chủ nghĩa non trẻ nên không hy vọng gì là có thể
vay ở các nớc giàu có. Công nghiệp nặng cần đợc nhà nớc trợ cấp, nếu không tìm
ra dwocj những khoản trợ cấp đó thì nhà nớc của giai cấp vô sản sẽ bị đập tan.
Chính sách chủ nghĩa t bản nhà nớc theo đánh giá cho đến năm 1924, nhìn
chung đã đem lại cho nớc Nga Xô Viết những tác dụng tích cực nhất định, góp
phần làm sống động nền kinh tế nớc Nga đã bị suy sụp sau chiến tranh. Nhờ tô
nhợng, nhiều ngành công nghiệp quan trọng (đặc biệt là khai thác dầu) đã phát
triển với nhiều kinh nghiệm tiên tiến với kỹ thuật và thiết bị hiện đại của nền sản
xuất lớn t bản chủ nghĩa đã đợc đa vào quá trình sản xuất, mang lại hiệu quả
cao.Tô nhợng cùng các công ty hợp doanh đã góp phần phát triển sản xuất hàng
hoá, tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho đất nớc, mở rộng quan hệ liên doanh, liên kết
kinh tế trong các lĩnh vực đầu t sản xuất, chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát
triển ngoại thơng với các nớc t bản phơng Tây. Thông qua các hoạt động của các
công ty hợp doanh, những ngời cộng sản còn có thể thực sự học cách buôn bán,
điều mà bấy giờ Lê-nin thờng nói là nhiệm vụ rất quan trọng. Hoạt động của các
xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn hợp đã góp phần giúp cho giai cấp vô sản
duy trì sự hoạt động sản xuất bình thờng ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm
cho xã hội, việc làm cho ngời lao động. Hình thức đại lý thơng nghiệp và các hợp
tác xã t bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng và tiêu dùng đã góp
phần quan trọng trong việc hỗ trợ thơng nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá
trình trao đổi và lu thông hàng hoá tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hóa
nhỏ, qua đó cải biến những ngời tiểu nông, nối liền quan hệ trao đổi công- nông
nghiệp,thành thị-nông thôn.
Kết quả lớn nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới, và chủ nghĩa t bản
nhà nớc đã thực sự là một phần đặc trng của chính sách kinh tế mới ở Liên Xô.
4.Bản chất của chủ nghĩa t bản nhà n ớc trong điều kiện chuyên chính vô sản.
Cho đến nay, chủ nghĩa t bản nhà nớc thờng đợc hiểu chỉ là một hình thức
kinh tế, một thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận
thức này không sai nhng không đầy đủ. Chừng nào giai cấp t sản còn có dù chỉ
một tia hy vọng để giải quyết vấn đề căn bản (tức là vấn đề chính quyền), bằng
13
mọi phơng tiện có hiệu lực mạnh nhất, tức là chiến tranh, thì giai cấp t sản không
thể nào và cũng không cần phải chịu nhận những sự nhợng bộ cục bộ mà chính
quyền giai cấp t sản giành cho họ nhằm chuyển sang chế độ mới một cách hết
sức tuần tự. Cũng có một nhận thức nữa về chủ nghĩa t bản nhà nớc là chủ nghĩa
t bản nhà nớc với tính cách là phơng pháp sử dụng giai cấp t sản ở trong nớc, ph-
ơng pháp cải tạo hoà bình giai cấp t sản. Cách hiểu này là phổ biến đối với các n-
ớc dân chủ nhân dân trớc đây. Nhng dới ánh sáng của t duy mới, của nhận thức
mới về chủ nghĩa t bản nhà nớc, quan niệm đó đã là một sai lầm và là một
nguyên nhân dẫn đến sự sút kém của nền kinh tế quốc dân, vì vậy có thể dẫn đến
xoá bỏ nhanh chóng chủ nghĩa t bản nhà nớc, khiến cho bớc quá độ lên chủ
nghĩa xã hội rơi vào tình trạng bế tắc.
Nh vậy không phải ý định duy trì quan hệ kinh tế với t bản t nhân cũng nh
với t bản nớc ngoài, ý định tìm cách thích ứng với những quan hệ xã hội tồn tại
khi ấy đã có thể trở thành hiện thực nay, mặc dù đó là một khả năng khách quan.
Chỉ sau khi sức mạnh của chính quyền công nông đã đè bẹp sự phản kháng,
chống đối của giai cấp t sản bên trong đợc giai cấp t sản quốc tế ủng hộ, việc
nắm tất cả các đòn bẩy chỉ huy, nắm ruộng đất, ruộng đất thuộc về nhà nớc,
chỉ khi ấy sự tồn tại của thành phần kinh tế t bản t nhân và kinh tế t bản nhà nớc
mới thành hiện thực.
Quá trình thực hành chủ nghĩa t bản nhà nớc là quá trình xã hội hoá sản xuất
trong thực tế. Chủ nghĩa t bản nhà nớc là cái gì có tính chất tập trung, đợc tính
toán, đợc kiểm soát và đợc xã hội hoá, là con đờng đạt tới sự kiểm kê, kiểm soát
của toàn dân. Chính sách chủ nghĩa t bản nhà nớc có t tởng lợi dụng chủ nghĩa
t bản, đó là lợi dụng về vốn, kinh nghiệm quản lý, mối liên hệ kinh tế với bên
ngoài, đặc biệt là lợi dụng về quan hệ xã hội t bản chủ nghĩa. Lê-nin viết: chủ
nghĩa t bản nhà nớc không phải là vấn đề tiền, mà là vấn đề xã hội.
Rất đáng chú ý những t tởng sau đây của Lê-nin: chúng ta phải lợi dụng chủ
nghĩa t bản (nhất là bằng cách hớng nó vào con đờng chủ nghĩa t bản nhà nớc) là
mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phơng tiện,
con đờng, phơng pháp, phơng thức để tăng lực lợng sản xuất nên. Việc chuyển
sang chủ nghĩa cộng sản cần thiết phải có một loạt các bớc quá độ nh chủ nghĩa
t bản nhà nớc và chủ nghĩa xã hội. Trong một nớc tiểu nông, trớc hết phải bắc
những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa t bản nhà nớc, tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc: mô hình kinh tế, cơng lĩnh quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Mục tiêu đặt ra cho thời kỳ quá độ là công cuộc xây dựng kinh tế, là việc đặt
nền móng kinh tế cho toà nhà mới, toà nhà xã hội chủ nghĩa để thay thế cho toà
nhà phong kiến đã bị phá huỷ hay toà nhà t bản chủ nghĩa đã bị phá huỷ một nửa.
Nói cách khác, đó là nhiệm vụ xã hội hoá sản xuất trong thực tê, là sự kiểm kê,
kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm, thiếu nó chủ
14