Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Kinh doanh làm tăng phúc lợi chung cho loài người thông qua hoạt động dịch vụ, hoạt động sáng tạo và triết lý đạo đức doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 14 trang )

LUẬN VĂN:
Kinh doanh làm tăng phúc lợi chung cho
loài người thông qua hoạt động dịch vụ,
hoạt động sáng tạo và triết lý đạo đức


Văn hoá và kinh doanh trong nền kinh tế
A/Phần mở đầu
Trong xu thế phát triển hiện nay của đất nước ta, vấn đề văn hố và kinh doanh có
một vai trị quan trọng trong nền kinh tế. Văn hóa là một phức hợp bao gồm nhiều vấn
đề mà chỉ với ý nghĩa là một lĩnh vực hoạt động của đơì sống tinh thần thì nó mới có
vị trí tương đối dộc lập, cịn với các ý nghĩa khác thì nó vừa biểu hiện, vừa đan xen
vào các hoạt động khác của xã hội loài người. Nhưng trên thực tế, văn hố mới chỉ
được quan tâm và bó hẹp trong phạm vi nghiên cứu của khoa học xã hội. Mục đích cơ
bản của văn hố là nhằm ni dưỡng và nâng cao phẩm chất tính cách, cá tính của con
người mà ln hướng tới cái thiện, lịng nhân ái và cái đẹp. Văn hoá cũng nhằm làm
cho con người phát triển một cách tự do và tồn diện. Do đó, khơng phải văn hố hoạt
động thơng qua các phương tiện kinh tế trên thị trường. Nó chỉ là phương tiện truyền
tải được vật hố và là hình thức vật hố của văn hố. Vì vậy, do một số người cịn
thiếu hiểu biết vẫn giữ quan niệm cho rằng: Văn hoá như là một lĩnh vực đứng ngoài
kinh tế. Chỉ khi kinh tế phát triển thì mới có điều kiện mở mang các hoạt văn hoá,
nâng cao đời sống tinh thần của con người. Với quan niệm đó, văn hố được coi như là
một hoạt động có tính giải trí, khi kinh tế khó khăn thì ít người quan tâm đến văn hố.
Và rõ ràng trong điều kiện đó người ta khơng nhìn nhận thấy vai trị của văn hố nói
chung cũng như văn hoá đối với kinh tế và kinh doanh nói riêng.
Như vậy, nói tới kinh doanh là nói tới một lĩnh vực rất lớn, kinh doanh là nhằm mục
đích kiếm lời, thu lợi nhuận. Vì vậy, mục đích tối thiểu của kinh doanh không phải hay
không nên chỉ đơn giản là kiếm tiền. Nó cũng khơng đơn thuần là hệ thống sản xuất và
bán các loại hàng hoá. Kinh doanh làm tăng phúc lợi chung cho lồi người thơng qua
hoạt động dịch vụ, hoạt động sáng tạo và triết lý đạo đức.



B/ phần nội dung
Văn hố có thể hiểu là hệ thống những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo
ra và được con người mang theo thể hiện trong hành vi của con người, trong phương
thức sinh hoạt của con người và là một biểu tượng của trình độ văn minh nhất định.
Như vậy, văn hố vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người được thể
hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra, kể từ các tư liệu sản xuất cho đến tư
liệu tiêu dùng của xã hội. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội thì các
sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, phản ánh các giai đoạn phát triển của văn
hố. Văn hố tinh thần là tồn bộ những giá trị của đời sống tinh thần bao gồm khoa
học và mức độ áp dụng các thành tựu của khoa học vào sản xuất và sinh hoạt, chuẩn
mực đạo đức trong hành vi của các thành viên xã hội,...văn hố cịn bao gồm cả những
phong tục, tập quán, những phương thức giao tiếp và ngôn ngữ. Như vậy, ranh giới
giữa văn hố vật chất và văn hố tinh thần chỉ có tính tương đối.
Nói đến kinh doanh, trước hết là nói đến việc đầu tư cho sản xuất, buôn bán, phân
phối hàng hố và dịch vụ nhằm mục đích kiếm lời. Nếu khơng thu được lợi nhuận thì
từ đó vừa thực hiện tái đầu tư, vừa đảm bảo lợi ích thiết thực cho cả người quản lý và
người lao động thì kinh doanh không thể tồn tại và phát triển. Trong nền kinh tế, văn
hoá và kinh doanh cũng là một phần phát triển cho nền kinh tế. Vì vậy, văn hoá và
kinh doanh được hiểu là mối quan hệ tác động qua lại giữa hai lĩnh vực dường như
tách bạch nhau, có một nội dung hết sức phong phú và phức tạp. Chúng ta cần xem xét
những vấn đề về quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh sau:
I/ Quan hệ giữa văn hoá và kinh tế
Quan hệ giữa văn hoá và kinh tế thuộc hai hệ thống xã hội khác nhau. Những hoạt
động văn hố của lồi người tất yếu nảy sinh khi nền kinh tế xã hội nâng cao năng suất
lao động xã hội và phân công lao động xã hội, mặc dù văn hoá và kinh tế có những
mục đích riêng và sự độc lập của mình. Như vậy, văn hoá phát triển theo xu hướng
tăng trưởng của kinh tế.
1/ Xu thế kết hợp tăng trưởng kinh tế với văn hoá



Xu thế kết hợp tăng trưởng kinh tế với văn hóa này đang và sẽ diễn ra trong bối
cảnh hợp tác và đấu tranh vì sự phát triển. Như vậy, để phát triển kinh tế chúng ta cần
đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, chúng ta đang phải đối mặt trước những thử thách to lớn do những biến đổi
trong nước và thế giới tạo nên. Chính những biến đổi này làm xuất hiện những mâu
thuẫn trên con đường phát triển của đất nước buộc chúng ta phải có phương pháp giải
quyết tốt.
Từ đại hội thứ VI, Đảng ta đã tự phê phán nghiêm túc những sai lầm đã mắc phải và
đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Đường lối đó đã từng bước đi vào cuộc sống thể
hiện sinh động trên tất cả các mặt của đời sống xã hội và thu được những kết quả ban
đầu rất quan trọng. Thực hiện công cuộc đổi mới là một quá trình vừa làm, vừa học,
vừa rút kinh nghiệm, bởi vì chưa bao giờ có sẵn mơ hình để căn cứ vào đó mà chủ
động vạch ra một chính sách mới cụ thể, chi tiết trên từng lĩnh vực.
Tuy nhiên trong quá trình đổi mới của nước ta hiện nay, việc thi hành chính sách
nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường cũng nảy sinh những ú tố tiêu
cực như tình trạng: cạnh trang khơng lành mạnh, tệ làm hàng giả, trốn thuế, buôn lậu,
tham nhũng hối lộ,...đang là những vấn đề nhức nhối cần phải giải quyết. Để thực hiện
được tốt những vấn đề về đổi mới kinh tế, chúng ta cần phải thực hiện những điểm
sau:
-Khơng ngừng đẩy mạnh, nâng cao vai trị hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước xã
hội chủ nghĩa kiên quyết xử lý mọi hoạt động làm ăn phi pháp vi phạm pháp luật xã
hội chủ nghĩa
-Đi liền với việc đẩy mạnh công tác quản lý vĩ mô, kiểm kê, kiểm soát của nhà nước
xã hội chủ nghĩa
-Đẩy mạnh công tác giáo dục tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin đối với cán bộ tri
thức, sinh viên. Trong công tác này, đặc biệt chú trọng tới việc giáo dục rèn luyện
phương pháp tư duy biện chứng nâng cao năng lực, nhận thức và giải quyết mâu thuẫn
thông qua việc kết hợp biện chứng các mặt đối lập.



2/ Dân tộc ta phát triển theo xu thế kết hợp tăng trưởng kinh tế với văn hoá như thế
nào.
Nền kinh tế của việt hơm nay cũng có một bước đáng kể so với thời kỳ trước đây,
khi còn thực thi nền kinh tế chỉ huy theo lối hành chính quan liêu, bao cấp. Do Việt
Nam có đổi mới, phát huy những giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh tồn
cầu hố. Việt Nam cũng như tất cả các nước khác trên thế giới, khơng thể đứng ngồi
xu thế hội nhập tồn cầu, vì sự phát triển của đất nước. Hơn nữa, do Việt Nam phải
trải qua quá nhiều những cuộc đấu tranh ngoại xâm, nền kinh tế vẫn cịn lạc hậu và
kém phát triển. Chính vì vậy, tồn cầu hố là một cơ hội để Việt Nam có thể rút ngắn
khoảng cách về tri thức, thu hẹp được khoảng cách giàu nghèo.
Tất cả những giá trị truyền thống được hun đúc nên từ chính lịch sử đau thương mà
hào hùng của dân tộc ta. Đó chính là những di sản truyền thống q báu mà chúng ta
khơng thể đánh mất, bởi “mất nước nhiều khi còn dành lại được nhưng nếu đã mất đi
bản sắc văn hoá dân tộc sẽ mất hết và mãi mãi “. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao chúng
ta vừa có thể hội nhập để phát triển kinh tế, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại để
làm phong phú thêm nền văn hố của dân tộc mình, lại vừa không làm mất đi bản sắc
dân tộc và những giá trị truyền thống mà ơng cha ta để lại. Chính vì vậy, văn hố đã là
một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước trong q trình
đổi mới.
Qua đó, ta thấy giưã văn hố và kinh tế có sự gắn bó tác động biện chứng với nhau.
Kinh tế phải bảo đảm được nhu cầu sống tối thiểu của con người, sau đó mới đảm bảo
điều kiện cho văn hố phát triển nếu khơng có nền tảng văn hố, đồng thời văn hố
khơng chỉ phản ánh kinh tế mà còn là nhân tố tác động đến phát triển kinh tế.
Văn hố cịn mang tính đặc thù của từng quốc gia, từng khu vực, được coi là những
di sản quí báu tích luỹ được qua nhiều thế hệ , mang đậm bản sắc của quốc gia dân tộc
đó. Nhưng đồng với q trình phát triển, kế thừa và giữ gìn bản sắc riêng, nó cịn tiếp
thu những tinh hoa văn hoá của quốc gia, dân tộc khác, làm cho văn hoá vừa đậm đà
bản sắc dân tộc, làm cho vai trị của văn hố trong hoạt động kinh tế càng được nâng



cao và thiết thực, khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, đem lại sự phát triển
với tốc độ cao và hài hoà cả về kinh tế và văn hố.
II/ Vai trị của nhân tố văn hố trong kinh doanh
1/ Vai trị của các yếu tố văn hố trng sản xuất - kinh doanh
Văn hoá trong kinh doanh cũng được xem như là một yếu tố môi trường và được
chú ý nhiều trong phạm vi một tổ chức, một doanh nghiệp. Văn hoá trong tổ chức
(cũng như trong doanh nghiệp) được định nghĩa là các giá trị, ý nghĩa, niềm tin, hiểu
biết và tiêu chuẩn chung về văn hố của mọi thành viên trong tổ chức đó. Như vậy,
trong thực tế chúng ta cần làm gì và làm như thế nào để có thể kết hợp hài hồ giữa
văn hoá và kinh tế, đặc biệt là đưa yếu tố văn hố vào trong hoạt động kinh doanh, đó
là một vấn đề khơng đơn giản. Vì vậy, chúng ta cần phải xem xét một số vấn đề về vai
trò của nhân tố văn hố trong kinh doanh
a/ Vai trị của những hoạt đơng văn hố tinh thần.
Xem xét quan hệ giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, ta thấy chúng là hai
mặt của đời sống con người, hay là hai mặt của một vấn đề. Theo quan điểm biện
chứng, tất yếu hai mặt đó có quan hệ mật thiết với nhau, qui định và tác động lẫn nhau,
khơng thể thiếu cái nào. do đó, vai trị của các hoạt động văn hoá tinh thần là nhằm
phục vụ một nhu cầu không thể thiếu của con người, nó đảm bảo chất lượng của yếu tố
con người- yếu tố cơ bản trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó nâng cao năng
suất, chất lượng và hiệu quả của con người trong sản xuất kinh doanh.
b)Vai trò của các yếu tố văn hoá với tư cách là những tri thức và kiến thức.
Qui luật của sự phát triển là một phạm trù triết học chỉ những mối liên hệ biến đổi
có xu hướng tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ hoàn thiện đến hồn
thiện hơn. Đó là qui luật chung cho tất cả các quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong q trình đó ln ln diễn ra sự kế thừa và sự phát triển, cái sau bao giờ cũng
phát triển trên cơ sở chọn lọc những yếu tố tiến bộ ở cái có trước và phát triển lên mức
cao hơn. Song sự phát triển là khuynh hướng chung, tất yếu của sự vận động của sự
vật. Nhưng theo quy luật phủ định giúp ta hiểu biết 1 cách đúng đắn về xu hướng của



sự phát triển. Quá trình phát triển của các sự vật và hiện tượng không diễn ra một cách
thẳng tắp, ngược lại, q trình đó diễn ra quanh co phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực
đời sống xã hội. Như Lênin viết:”cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn không va
vấp, không đôi khi nhảy lùi những bước rất lớn là không biện chứng, không khoa học,
không đúng về mặt lý luận”. Hoạt động của con người nói chung, hoạt động sản xuất
kinh doanh nói riêng cũng tuân theo quy luật phát triển và đặc tính của sự phát triển.
Như vậy, quá trình sản xuất kinh doanh thực chất là q trình con người sử dụng
tồn bộ tri thức và kiến thức đã tích luỹ được để tạo ra các giá trị vật chất mới. Các tri
thức này có thể biểu hiện ở dưới hình thái vật chất và hình thái ý thức, gắn liền với tư
liệu sản xuất và người lao động. Vì vậy, quan hệ giữa tri thức và kinh doanh phải bắt
buộc các giá trị văn hoá dưới dạng tri thức, kiến thức phải được đưa vào sản xuất kinh
doanh thì mới đảm bảo cho quá sản xuất kinh doanh phát triển được.
2) Tầm quan trọng của việc đưa các yếu tố văn hoá vào sản xuất kinh doanh.
a) Đưa các yếu tố văn hoá vào sản xuất kinh doanh là tạo ra sự phát triển hài hoà,
lành mạnh của mỗi quốc gia.
Mọi nền sản xuất, nhằm thoả mãn ngày càng cao các lợi ích vật chất và tinh thần
của con người. Đó vừa là mục tiêu, vừa là động cơ thúc đẩy hành động của con người.
Không ai tiến hành sản xuất kinh doanh mà lại khơng mong muốn thu lợi nhuận, đó
vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để sản xuất kinh doanh tồn tại và phát triển. Để hoạt
động sản xuất kinh doanh, con người ngoài việc sử dụng các tri thức, kỹ năng còn phải
sử dụng các yếu tố xã hội, tự nhiên và môi trường khác. Nhưng nếu khơng có yếu tố
văn hố thì cùng với việc tạo ra lợi nhuận, có thể xảy ra những hậu quả xã hội to lớn.
Nếu trong quá trình kinh doanh chỉ vì lợi nhuận đơn thuần thì về mặt kinh tế, quốc
gia đó sẽ phát triển lệch lạc những ngành và lĩnh vực ít lợi nhuận sẽ khơng phát triển
được và do vậy không thể đáp ứng được mọi nhu cầu của con người. Về mặt xã hội,
con người sẽ mất nhân cách, đạo đức xã hội xuống cấp, tội ác xã hội gia tăng.
b/ Đưa các yếu tố xã hội vào sản xuất kinh doanh sẽ chống được tình trạng vô trách
nhiệm kiểu “ sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi ”.



Kinh doanh trước hết là nhằm thu lợi nhuận, trong điều kiện cạnh tranh bao giờ
cũng tồn tại mâu thuẫn theo các mối quan hệ cạnh tranh đó. Cạnh tranh bản thân nó là
liều thuốc điều tiết kinh tế, nhưng nếu cạnh tranh trong một xã hội thiếu văn hoá thì sẽ
xảy ra hiện tượng cạnh tranh bất chấp tất cả, chỉ chạy theo lợi nhuận theo người sản
xuất kinh doanh khơng có văn hố sẵn sàng làm ra những sản phẩm giả hoặc kém chất
lượng. Chỉ khi nào bản thân người kinh doanh có văn hố , tiến hành hoạt động kinh
doanh trong mơi trường có văn hố thì nhà kinh doanh mới hiểu được hậu quả của việc
của việc chạy theo lợi nhuận.

III/ Văn hoá và “cái tâm” của nhà doanh nghiệp.
Trong thế giới ngày nay, văn hoá đang có vai trị quan trọng chưa từng thấy trong
lịch sử. Sự tiến bộ hay lạc hậu của mỗi cá nhân, sự hưng vong của mỗi quốc gia, sự
thành công hay thất bại của một chiến lược phát triển, đều tuỳ thuộc rất nhiều vào sự
nhận thức và phát triển văn hoá như thế nào. Như vậy, việc đưa các yếu tố văn hố vào
hoạt động có thành cơng hay khơng phụ thuộc vào nhiều điều kiện. Trong đó điều kiện
quyết định là con người bao gồm tất cả mọi người trong dây chuyền sản xuất, phân
phối và tiêu thụ các hàng hoá và dịch vụ làm ra, nhưng trước hết và chủ yếu là người
đứng đầu, người quản lý doanh nghiệp.
Do đó, thực tiễn đổi mới kinh tế sau 10 năm ở Việt Nam đã xác nhận rằng bên cạnh
những thành tựu quan trọng đã giành được về kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang gặp phải một
số khó khăn và tồn tại do những thất bại vốn có của kinh tế thị trường sơ khai gây ra
và do những yếu kém của chúng ta trong quá trình thực hiện. Như vậy, dẫn đến một số
sai lệch trong đạo đức kinh doanh của một số doanh nghiệp, một số nhà kinh doanh,...
Vì vậy, trong kinh doanh các nhà doanh nghiệp trước hết phải là người có tài năng. Tài
năng trong việc nắm bắt các thành tựu khoa học và công nghệ và vận dụng sáng tạo
vào qui trình sản xuất làm cho hàm lượng trí tuệ trong mỗi đơn vị sản phẩm ngày càng
tăng lên. Tài năng trong việc tìm hiểu, đánh giá thực trạng của thị trường, dự báo được



chiều hướng thay đổi của cung cầu. Tài năng trong quản lý tài chính để mỗi đồng vốn
bỏ ra đều mang lại hiệu quả mà không để xảy ra lãng phí, thất thốt. Nhưng tài năng
phải đi đơi với đạo đức, vì đạo đức là nền tảng nhân cách làm cho tài năng của nhà
doanh nghiệp được tăng lên.
Nói đến dạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách
nhiệm, hạnh phúc, công bằng,... và về những ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá
nhân với xã hội, phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các qui tắc điều chỉnh hành vi của
con người thơng qua dư luận xã hội. Vì vậy, trong nội dung của các phạm trù đạo đức
luôn ln phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Như Ph.Ăngghen viết: " Chung quy
lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đèu là sản phẩm của tình hình kinh tế
của xã hội lúc bấy giờ. Và cũng như xã hội cho tới nay đã phát triển trong sự đối lập
giai cấp, đạo dức luôn luôn là đạo đức của giai cấp. Cho nên hoặc giả nó bênh vực sự
thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá
mạnh thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị và tiêu biẻu cho lợi ích tương
lai của những người bị áp bức."
Như vậy, thực tiễn thành công của các nà kinh doanh thế giới và ở Việt Nam đã cho
phép chúng ta có thể khẳng định rằng, kinh doanh theo đúng chuẩn mực của đạo đức
kinh doanh chính là yếu tố quyết định sự hành công bền vững trong kinh doanh. Đối
với khách hành ở Việt Nam và quốc tế, chữ "tín" là chuẩn mực cao nhất của đạo đức
kinh doanh, mọi nhà kinh doanh Việt Nam và nước ngoài tại Việt Nam phải xây dựng
chữ " tín" đối với khách hàng trong nước và nước ngoài. Khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì tiêu chuẩn cơ bản nhất về đạo đức
kinh doanh ở Việt Nam là đạo đức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, xây dựng đạo đức xã
hội chủ nghĩa. Bác Hồ đã dạy: Cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư là đạo đức kinh
doanh của người Việt Nam.
IV/ Văn hố và triết lý kinh doanh
Trong q trình kinh doanh, việc có đưa được nhân tố văn hố vào kinh doanh hay
không là tuỳ thuộc vào quan niệm của mọi ngươì ( bao gồm từng cá nhân và cả cộng



đồng) về các giá trị mà hoạt động kinh doanh cần đạt tới. Quan niệm đó được khái
quát thành triết lý kinh doanh. Triết lý kinh doanh là những giá trị cốt lõi làm nên linh
hồn của văn hoá doanh nghiệp và được hình thành trên cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận của các thành viên. Như vậy, triết lý kinh doanh được biểu hiện ra thành các
nguyên tắc, phương châm trong hoạt động kinh doanh của nhà doanh nghiệp. Theo
nguyên lý của sự phát triển thì các nhà doanh nghiệp phải có khả năng sáng tạo và đổi
mới thường xuyên là động lực hàng đầu để phát triển doanh nghiệp. Các nhà doanh
nghiệp phải vượt qua mọi khó khăn, gian nan, thử thách thì mới có những kinh nghiệm
để áp dụng những cái mới, sáng tạo trong kinh doanh. Trong doanh nghiệp, mỗi thành
viên phải là một đấu thủ giỏi kỹ thuật cá nhân nhưng biết chơi tập thể. Theo nguyên lý
về sự phổ biến một người trong doanh nghiệp không thể chơi trội được mà phải được
thể hiện trong một cộng đồng, mới phát huy được những khả năng của mình. Về chất
lượng sự sống cịn của doanh nghiệp nói lên những yếu tố bên trong quyết định, chất
lượng có thể bằng hàng hố, năng lực của mỗi cá nhân, ý chí của mỗi cá nhân trong
doanh nghiệp. Như vậy, theo nguyên nhân và kết quả, trong quá trình kinh doanh
muốn phát triển được thì đất nước ổn định nên doanh nghiệp mới thành đạt và cá nhân
thành đạt, lúc đó nền kinh tế ổn định đất nước ta đang phát triển đi lên xã hội chủ
nghĩa và phát triển nền kinh tế. Vì vậy, người nào thất bại, người đó sẽ thành cơng.
Muốn thành cơng được chúng ta phải bằng thực tiễn, theo quan niệm duy vật chân lý,
phải được khách hàng chấp nhận những sản phẩm do mình làm ra và phải ln ln
giữ chữ tín đối với khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, khi
bán hàng và sau bán hàng
Nói đến văn hố của một doanh nghiệp là một bộ phận trong nền văn hoá chung của
doanh nghiệp, được hình thành trực tiếp từ tồn tại xã hội riêng của doanh nghiệp đó.
Có một hệ thống giá trị tinh thần hướng sự suy nghĩ và hành động của mọi thành viên
theo mục tiêu chung của doanh nghiệp. Có một phong cách làm việc và tiêu biểu cho
cộng đồng người trong doanh nghiệp. thể hiện tầm nhìn và năng lực cạnh tranh riêng
của doanh nghiệp trên thị trường. Như vậy, tầm quan trọng của văn hoá doanh nghiệp
và triết lý kinh doanh đối với sự thành đạt của doanh nghiệp là:



- Khuyến khích được nhân viên phát huy tối đa năng lực của mình cho mục tiêu của
doanh nghiệp
- Thu hút, giữ chân được các tài năng. Tiền lương cao chỉ là yếu tố, điều còn quan
trọng hơn là nhân viên cảm thấy tự hào và thích thú khi được làm việc trong tập thể
doanh nghiệp đó
- Tổng hợp các yếu tố trên sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo đảm sự phát triển
bền vững của doanh nghiệp trên thị trường.
Vì vậy, nhà doanh nghiệp muốn kinh doanh có văn hố cần phải có yếu tố mơi
trường văn hố. Mơi trường văn hố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và các yếu tố tác
động quyết định đến sử dụng đội ngũ lao động và các yếu tố khác. Trong kinh doanh
hiện đại, mơi trường văn hố được đặc biệt và đề cao ở rất nhiều các doanh nghiệp trên
thế giới. Văn hoá doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn cho các doanh nghiệp.
Nó ảnh hưởng trực tiếp to lớn đến việc hình thành mục tiêu, chiến lược và chính
sách.Trong kinh doanh, văn hố được biểu hiện là một tập hợp phức tạp các giá trị,
niềm tin, và kiểu hành vi, sự thừa nhận và biểu hiện xác định cách thức mà doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình, hình thành hạt nhân hoạt động
của doanh nghiệp.


c/ kết luận
Tóm lại, văn hóa và kinh doanh có mối quan hệ mật thiết khơng tách rời nhau.
Chúng có một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Vì vậy, trong quá trình kinh
doanh chúng ta phải tin tưởng vào khả năng của chính bản thân chúng ta thì kinh
doanh mới phát triển được.Trong nền kinh tế, kinh doanh đang trên đà phát triển thay
đổi. Một sự thay đổi do các lực lượng xã hội và sinh thái gây ra mà không thể bị coi
nhẹ hay gạt ra rià được nữa.Và một sự thay đổi sâu sắc diễn ra ào ạt trong những thập
kỷ tới làm kinh doanh sẽ khơng cịn nhận ra được nữa khi so với các thể chế thương
mại ngày này. Hiện nay, chúng ta có năng lực, khả năng để tạo ra một nền kinh tế khác

hẳn, một nền kinh tế có thể phục hồi các hệ sinh thái và bảo vệ môi trường cùng với
việc đề cao sáng tạo, phồn vinh, lao động có ý nghĩa và an ninh thực sự. Chừng nào
chúng ta tiếp tục bỏ qua sự đột phá cách mạng và tiềm năng của nền kinh tế hiện nay
thì thế giới thương mại tiếp tục rơi vào cảnh lộn xộn và tái cơ cấu triền miên. Đó
khơng phải vì thế giới tự nhiên sâu kín trên tồn cầu đang huỷ hoại và tàn lụi với tốc
độ chậm chạp mà kinh doanh đang tác động đến sự thay đổi nền kinh tế. Vì vậy, các
nhà doanh nghiệp cần phải phát huy mạnh mẽ trong kinh doanh để phát triển nền kinh
tế cũng như phát triển đất nước.


mục lục

A/ Phần mở đầu
B/ phần nội dung
I/ Quan hệ giữa văn hoá và kinh tế
1/ Xu thế kết hợp tăng trưởng kinh tế với văn hoá
2/ Dân tộc ta phát triển theo xu thế kết hợp tăng trưởng kinh tế với văn hoá như
thế nào


II/ Vai trị của nhân tố văn hố trong kinh doanh
1/ Vai trị của văn hố trong q khứ
2/Tầm quan trọng của đưa các yếu tố văn hoá vào sản xuất kinh doanh
III/ Văn hoá và " cái tâm " của nhà doanh nghiệp
IV/ Văn hoá và triết lý kinh doanh
C/ Kết luận

tài liệu tham khảo
1/ Văn hoá kinh doanh (Kỷ yếu hội thảo)
2/ Môi trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh (NXB GD, HN, 1997)

3/ Triết học Mác - Lê nin ( NXBGD - 1997 ) tập I, II
4/ Tạp chí kinh tế và phát triển (T6 - 2000 )



×