Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.09 KB, 40 trang )












LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động tín dụng của
ngân hàng thương mại














Mở đầu



Từ năm 1990 đến nay ngành ngân hàng đã trải qua quá trình đổi mới tuy chưa dài
nhưng đã đạt được nhiều thành tựu nhất định. Kết quả đổi mới hoạt động ngân hàng
đã góp phần xứng đáng vào kết quả đổi mới chung của nền kinh tế mà nét nổi bật là
đã góp phần đẩy lùi và kiềm chế lạm phát thúc đẩy kinh tế chuyển dịch theo hướng
công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên hoạt động ngân hàng ở nước ta
hiện đang gặp nhiều khó khăn và còn không ít tồn tại cần phải giải quyết nhất là
trong khâu kinh doanh tín dụng của ngân hàng thương mại.
Tín dụng được coi là mặt trận hàng đầu là khâu then chốt kinh doanh của các ngân
hàng thương mại. Nó có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế. Với vai trò là
cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư ,tín dụng huy động những ngồn vốn nhàn rỗi trong
dân cư để cho vay với nền kinh tế ,đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế mang lại
hiệu quả kinh tế xã hội và mang lại chính lợi ích cho ngân hàng.Thực tế cho thấy,
trên thế giới cũng như tại nước ta ngân hàng luôn luôn đi tiên phong trong mọi hoạt
động kinh tế , nhất là trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay Hoạt động tín
dụng chưa an toàn và chất lượng chưa cao không chỉ là mối quan tâm của ngân
hàng mà của toàn xã hội. Bởi vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng là
một yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng và quyết định cả về mặt lý thuyết và
thực tiễn hiện nay.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về một hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của một
ngân hàng thương mại cả về mặt lý luận và thực tiễn em chọn đề tài ‘Một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại




‘. Do tính chất rộng của đề tài đó là quan hệ tín dụng- hoạt động đi vay để cho vay
của ngân hàng, do đó bài luận chỉ tập chung chủ yếu vào hoạt động cho vay của
ngân hàng.






ii. Một số khái luận cơ bản
1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn tạm thời sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc
hoàn trả và sự tin tưởng
Sinh ra từ nền sản xuất hàng hóa ,tín dụng gắn liền với sự luân chuyển vốn của quá
trình tái sản xuất và được thể hiện thông qua sự vận động giá trị vốn tín dụng dưới
hình thức tiền tệ với đặc trưng nổi bật của nó là sự hoàn trả luân được bảo tồn về
mặt giá trị và có phần tăng thêm nhờ phần lợi tức. Đây cũng là nguyên tắc bắt buộc
trong hoạt động tín dụng. Về mặt hình thức ,sự hoàn trả được thực hiện trên cơ sở
thoả thuận bằng hợp đồng tín dụng giữa người cho vay và người đi vay.
2. Chức năng của tín dụng
Tập trung tích tụ phân phối lại vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn
trả. Đây là chức năng chủ yếu của tín dụng phản ánh bản chất của tín dụng. Do quá
trình luân chuyển vốn của các loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ có khác nhau
về nhu cầu về vốn. Hơn nữa ngay trong bản thân một doanh nghiệp quá trình luân
chuyển các loại vốn cũng khác nhau nên trong nền kinh tế hàng hóa luôn luôn
xảy ra hiện tượng tạm thời thừa hoặc thiếu vốn. Thông qua hoạt động tín dụng vốn
tiền tệ được từ nơi tạm thời thừa đến những nơi tạm thời thiếu. Ngoài việc thu hút
vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp ,các ngân hàng còn thu hút các khoản
tiền nhàn rỗi khác trong phạm vi toàn xã hội (tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân
cư,tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội ,tôn giáo ,các tổ chức từ thiện ) để đầu tư
cho nền kinh tế và các nhu cầu của dân cư ,của nhà nước và không ngừng mở rộng
và tăng cường qui mô cho vay của mình .





Chức năng giám đốc các hoạt động kinh tế bằng đồng tiền
Chức năng này xuất phát từ chức năng đầu tiên. Bản thân quan hệ tín dụng cũng
bao gồm nhiều mối quan hệ như: quan hệ vay quan hệ về dư nợ do đó quan hệ tín
dụng bao hàm khả năng kiểm soát các loại hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp
. Để hình thành được quan hệ tín dụng ,người cho vay phải biết và kiểm soát hoạt
động của người đi vay như tình hình vốn ,mặt hàng sản xuất kinh doanh ,khả năng
trả nợ nói riêng và tình hình tài chính nói chung,quan hệ với các chủ nợ khác các
trục trặc trong quan hệ tín dụng như vay không trả được hoặc trả không đúng hạn
phản ánh những trục trặc trong quá trình sản xuất kinh doanh như không tiêu thụ
hàng hóa, không có lãi bị phá sản
3. Vai trò của tín dụng
Tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Là một mối quan hệ kinh tế ,tín dụng có những tác động nhất định đối với các hoạt
động kinh tế. Trước hết tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng.
Thông qua tín dụng : các doanh nghiệp nhận khối lượng vốn bổ sung rất lớn từ đó
tăng qui mô sản xuất,tăng năng suất lao động,đổi mới thiết bị ,áp dụng tiến bộ kỹ
thuật. Tín dụng tập trung các khoản vốn nhỏ,lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn tạo khả
năng đầu tư vào các công trình lớn.hiệu quả cao. Thông qua quá trình tích tụ và tập
trung vốn,tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sau nữa tín dụng là công
cụ bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận. Tín dụng giúp các doanh nghiệp đầu tư vào các
nghành có tỷ suất lợi nhuận cao ,kích thích khả năng cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp ,tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Bên




cạnh đó ,tín dụng là công cụ tăng vòng quay của vốn và tiết kiệm tiền mặt trong lưu
thông.
4. Phân loại tín dụng

Để giám sát và kiểm tra những khoản nợ hiện có theo các mức độ khác nhau ,xác
định chất lượng và mức độ rủi ro của những khoản nợ người ta tiến hành phân loại
tín dụng ,từ đó có chế độ quản lý thích hợp đối với từng khoản vay.
Phân loại theo thời hạn có ba loại : tín dụng ngắn hạn ,tín dụng trung hạn ,tín dụng
dài hạn.Thông thường tín dụng ngắn hạn có liên quan đến việc bổ xung vốn phục vụ
cho việc mua sắm tài sản lưu động còn tín dụng trung hạn khoảng từ một đến năm
năm mục đích sửa chữa lớn và vừa với tài sản cố định ,cho vay để áp dụng sáng
kiến cải tiến kỹ thuật để cải tạo sản phẩm cho thị trường ,tín dụng dài hạn có thời
hạn lớn hơn năm năm để đầu tư dài hạn phát triển sản xuất theo chiều rộng hoặc cho
vay cải tạo cơ sở hạ tầng ,cho vay dự án
Phân loại theo kỳ hạn nợ người ta chia thành :nợ chưa đến hạn ,nợ đến hạn và nợ
quá hạn. Nợ chưa đến hạn là nợ chưa đến thời hạn thanh toán khoản nợ sẽ được
thu hồi khi đến hạn.nợ đến hạn là khoản nợ đến hạn thanh toán,nó được dùng để
đánh giá chất lượng của một khoản tín dụng đã cung cấp có ảnh hưởng lớn đến khả
năng thanh toán của Ngân HàngThương Mại. Nợ quá hạn là những khoản nợ vì lý
do nào đó mà đến hạn thanh toán mà chưa thanh toán được. Nợ quá hạn càng lớn
,mức độ thiếu thanh khoản càng cao. Vấn đề gải quuyết nợ quá hạn là vấn đề quan
trọng với hoạt động của Ngân HàngThương Mại.
Phân loại theo tính chất đảm bảo của khoản nợ. Theo cách này các khoản nợ được
chia làm hai loại: nợ có đảm bảo và nợ không có đảm bảo. Trong khoản nợ có đảm




bảo có hai hình thức là cho vay thế chấp đó lá người đi vay phải thế chấp tài sản
nhưng tài sản thế chấp vẫn thuộc quyền sử dụng của khách hàng,một hình thức nữa
là cho vay cầm cố tài sản thế chấp thuộc quyền quản lý của ngân hàng.nợ không có
tài sản đảm bảo có hai hình thức là cho vay tín chấp khi các khoản cho vay không
căn cứ vào tài sản thế chấp mà căn cứ vào uy tín của khách hàng lòng tin của ngân
hàng với khách hàng, một hình thức nữa là cho vay bảo lãnh ngân hàng cho vay dựa

vào sự bảo lãnh của một người thứ ba
Phân loại theo mức độ rủi ro của các khoản nợ. Dựa vào cách phân loại này,Ngân
HàngThương Mại có khả năng quản lý chặt chẽ các khoản nợ,phát hiện sớm các
khoản nợ có vấn đề để xử lý kịp thời,đảm bảo khả năng thanh toán khi đến hạn.
5. Nguyên tắc tín dụng
Nguyên tắc tín dụng là kim chỉ nam cho việc điều hành hoạt động tín dụng ,là
chuẩn mực và thước đo để cán bộ thừa hành thực thi nhiệm vụ một cách tốt
nhất.thông thường nguyên tắc tín dụng phải đảm bảo nội dung cơ bản là giải quyết
hợp lý giữa ba lợi ích của nhà nước ,của khách hàng và của ngân hàng, đồng thời
phải hạn chế tới mức tối đa rủi ro tín dụng vì sự tồn tại của ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng được thực hiện đựa trên cơ sở các nguyên tắc sau .
Cho vay những khoản vay có mục đích.
Cho vay có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Đây là nguyên tắc
đảm bảo thực chất của tín dụng. Tính chất tín dụng sẽ bị phá vỡ nếu nguyên tắc này
không được thực hiện đầy đủ. Doanh nghiệp khi vay vốn phải cam kết trả đầy đủ
vốn và lãi sau một thời gian nhất định cam kết này được ghi trong khế ước vay nợ.




Cho vay có tài sản thế chấp tài sản thế chấp có thể là vật tư hàng hoá ,tài sản cố
định của doanh nghiệp ,số dư trên tài khoản tiền gửi hoặc có thể cam kết trả nợ
thay của cơ quan khác thậm chí có thể là uy tín của chủ doanh nghiệp.
Cho vay theo kế hoạch thỏa thuận từ trước(theo hợp đồng đã kí kết ). Quan hệ tín
dụng phản ánh nhu cầu về vốn và lợi nhuận của các doanh nghiệp. Nó liên quan
chặt chẽ tới quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp song lại mang tính thoả
thuận rất lớn. Do đó cần được pháp luật bảo hộ.
6. Chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng theo một cách hiểu nào đó chính là sự đáp ứng yêu cầu của
khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại ,phát triển

của ngân hàng.
Đối với khách hàng chất lượng tín dụng thể hiện ở sự phù hợp với mục đích sử dụng
của khách hàng ,với lãi suất và kì hạn nợ hợp lý ,thủ tục đơn giản ,thuận tiện thu
hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
Đối với sự phát triển kinh tế xã hội ,tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng
hoá ,giả quyết công ăn việc làm ,khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế
,thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất ,giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng
trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Đối với Ngân HàngThương Mại phạm vi ,mức độ ,giới hạn tín dụng phải phù hợp
với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị
trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
a. Các nhân tố khách quan:




Về mặt vĩ mô nền kinh tế ổn định sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố lạm phát ,khủng hoảng làm cho
khả năng tín dụng và khả năng trả nợ vay không biến động lớn. Song với mục tiêu
tăng trưởng kinh tế nhà nước sử dụng mức lạm phát vừa phải để tăng trưởng tín
dụng kích thích đầu tư nhưng có một vấn đề đặt ra là qui mô của hoạt động tín dụng
sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Nếu mở rộng qui mô quá mức giới hạn các
Ngân HàngThương Mại sẽ chịu thiệt hại lớn do lạm phát.
Lãi suất của nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Doanh nghiệp
chỉ tham gia hoạt động tín dụng khi họ kỳ vọng lợi tức thu được từ các khoản đầu tư
bù đắp được lãi suất mà ngân hàng đưa ra. Lợi tức của ngân hàng được bị giới hạn
bởi mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy khi lãi suất cao hơn lợi nhuận của
doanh nghiệp ,các doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ ngân hàng ảnh hưởng
tới quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng ảnh hưởng xấu đến phát

triển kinh tế
Nhóm nhân tố trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng là các tác nhân trực tiếp
tham gia quan hệ tín dụng ,đó là người gửi tiền,ngân hàng và người vay tiền. Tín
dụng nghĩa là sự vay mượn dựa trên cơ sở tín nhiệm ,lòng tin. Vì vậy chất lượng tín
dụng phụ thuộc vào ba yếu tố: khách hàng ,ngân hàng và sự tín nhiệm , trong đó sự
tín nhiệm là cầu nối giữa mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Sự tín nhiệm
càng cao,thu hút khách hàng càng lớn. Khách hàng vừa là chủ thể đại diện cho bên
cung về vốn vừa là người đại diện cho bên cầu về vốn. Với tư cách người cung vốn
tín dụng họ mong muốn nhận được từ ngân hàng một khoản lãi từ tiền gửi. Hay
những dịch vụ thanh toán thuận tiện. Sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân




hàng sẽ làm tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động để đáp ứng nhu cầu
của người đi vay. Đối với người đi vay, họ đến ngân hàng với mong muốn được đáp
ứng một khoản tín dụng để sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh của họ với sự
xác định rõ ràng về số lượng tiền vay, thời hạn và lãi suất có thể chấp nhận được.
Nếu nhu cầu của khách hàng được chấp nhận với thái độ niềm nở và thủ tục đơn
giản sẽ thu hút được nhiều khách hàng tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng được
thuận lợi, chất lượng tín dụng được đảm bảo.
Nhóm nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật,tính đầy đủ và
khoa học của hệ thống pháp luật đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp
luật và trình độ dân trí của dân cư. Thực tiễn qua lịch sử phát triển của kinh tế thị
trường cho ta thấy rằng pháp luật là một phần không thể thiếu của nền kinh tế thị
trường. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập một môi truờng pháp lý cho mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh tiến hành thuận tiện và đạt hiệu quả kinh tế cao, là cơ sở giải
quyết các vấn đề khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy nhân tố pháp lý có vai
trò hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng hoạt
động tín dụng nói riêng.

Ngoài những yếu tố kể trên còn có những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
như đạo đức xã hội có liên quan đến rủi ro trong tín dụng trong trường hợp lợi dụng
lòng tin để lừa đảo, hoặc do dân trí chưa cao ,kém hiểu biết dẫn đến chưa hiểu đúng
bản chất hoạt động ngân hàng có những biểu hiện làm ảnh hưởng tới chất lượng
hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó chu kỳ phát triển kinh tế trong nước, tình hình kinh
tế xã hội của nước ngoài cũng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng. Các




yếu tố tự nhiên như thiên tai, lũ lụt tác động đến các dự án đầu tư của khách hàng
dẫn đến khó khăn trong khả năng trả nợ.
b. Các nhân tố bên trong.
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng đã đề ra,
nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Điều
đó cũng có nghĩa rằng chất lượng tín dụng tùy thuộc vào việc xây dựng chính sách
tín dụng của ngân hàng thương mại có đúng đắn hay không. Bất cứ một ngân hàng
nào muốn có chất lượng tín dụng đều phải có chính sách tín dụng rõ ràng, thích hợp
cho ngân hàng mình.
Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng , nhờ có
thông tin tín dụng người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết đến cho
vay,theo dõi và quản lý tài sản cho vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ các
nguồn có sẵn từ ngân hàng, từ khách hàng ,từ các nguồn thông tin khác(các cơ quan
thông tấn báo chí, toà án). Số lượng, chất lượng của thông tin thu nhận được có liên
quan đến độ chính xác trong việc phân tích ,nhận định thị trường, khách hàng để
đưa ra những quyết định phù hợp. Thông tin càng đầy đủ nhanh nhạy chính xác,toàn
diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng cao.
Tổ chức ngân hàng được xắp xếp một cách có khoa học đảm bảo sự phối hợp chặt
chẽ,nhịp nhàng giữa các phòng ban trong từng ngân hàng trong toàn bộ hệ thống
ngân hàng cũng như giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính pháp lý sẽ

tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng , theo dõi, quản lý sát sao các
khoản vốn huy động cũng như các khoản vốn cho vay.




Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng
như trong hoạt động của ngân hàng. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng
nhân sự ngày càng cao để có thể đối phó kịp thời , có hiệu quả với các tình huống
khác nhau của hoạt động tín dụng. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp
tốt và giỏi chuyên môn sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai
phạm có thể xảy ra khi thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng.
Một nhân tố cũng không kém phần quan trọng đó là sự kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Đây là biện pháp giúp ban lãnh đạo ngân hàng có được những thông tin về tình
trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang được xúc
tiến phù hợp với mục tiêu đề ra. Các hoạt động đó bao gồm việc kiểm tra chính
sách tín dụng và các thủ tục có liên quan đến các khoản vay(thẩm quyền về điều
hành quản lý , giám sát các hoạt động cho vay ). Bên cạnh đó tiến hành kiểm tra
định kỳ, báo cáo các trường hợp ngoại lệ , những vi phạm chính sách, thủ tục , kiểm
soát kế toán và các hoạt động có liên quan đến cho vay.
Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng là một yếu tố không thể xem nhẹ, để
có thể quản lý và theo dõi hiệu quả hoạt động tín dụng song song với việc nâng cao
chất lượng các công tác trên cần phải chú ý tới các phương tiện cần thiết phục vụ
cho quá trình quản lý hoạt động tín dụng. Trang bị đầy đủ trang thiết bị tiên tiến phù
hợp với khả năng tài chính và phạm vi hoạt động của ngân hàng. Cùng với sự phát
triển của công nghệ ngân hàng những trang thiết bị cho hoạt động của nó đòi hỏi
ngày càng hiện đại.
8. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
a. với sự phát triển kinh tế -xã hội





Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá,tín dụng đã có những đóng góp đáng kể trong việc
thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để thúc đẩy tiến trình phát triển của xã
hội. Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng , với
một khối lượng tiền như cũ , có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn tạo điều kiện
tiết kiệm tiền trong lưu thông,củng cố sức mua của đồng tiền ,qua đó ngân hàng
thực hiện tốt hơn chức năng tạo tiền hay tạo ra phương tiện thanh toán trong lưu
thông làm tốt hơn vai trò trung tâm thanh toán
Chất lượng tín dụng làm cho ngân hàng thực hiện tốt hơn chức năng trung gian tín
dụng trong nền kinh tế quốc dân, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư,tín dụng góp
phần điều hoà vốn trong nền kinh tế. Tăng cường tín dụng sẽ giảm thiểu lượng tiền
thừa trong lưu thông. Điều đó không chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn
trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền
mặt ,từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội góp phần điều hoà và ổn định lưu
thông tiền tệ.
Tín dụng là công cụ thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh
tế theo từng nghành ,từng lĩnh vực. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần
tăng hiệu quả sản xuất xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người
lao động.
b.Với sự tồn tại và phát triển của Ngân HàngThương Mại
Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương
mại do đó tạo thêm vốn do việc tăng thêm vòng quay vốn tín dụng và thu hút được
nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm , dịch vụ tạo ra hình ảnh tốt về
biểu tượng và uy tín của ngân hàng và sự trung thành của khách hàng. Chất lượng





tín dụng tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm , dịch vụ do giảm được , giảm chi
phí nghiệp vụ,quản lý.
Chất lượng tín dụng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng , tạo thế mạnh cho
ngân hàng trong quá trình cạnh tranh. Thực tế cho thấy ngân hàng chỉ tồn tại và phát
triển khi hoạt động có hiệu quả, tức là thu được lợi nhuận từ các dịch vụ của mình.
Mà trong các dịch vụ của ngân hàng cung cấp cho khách hàng thì quan trọng nhất là
hoạt động tín dụng ,do đó chất lượng tín dụng có liên quan hệ mật thiết và cực kỳ
quan trọng tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Ngân hàng thương mại là một
doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trên lĩnh vực tài chính và tiền tệ nhưng mục tiêu
của nó cũng không khác các doanh nghiệp khác đó là cũng bỏ vốn ra kinh doanh để
thu được lợi nhuận do dó việc nâng cao chất lượng tín dụng là một tất yếu nhất là
trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt không khoan
nhượng hiện nay.
iii. Thực trạng hoạt động tín dụng
1. Trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986)
Ngày 6 tháng 5 năm 1951 chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số15/SL thành lập
ngân hàng quốc gia Việt Nam. Kể từ ngày đó hệ thống ngân hàng đã từng bước lớn
lên cùng với đất nước qua các giai đoạn của sự phát triển.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam là hệ thống ngân hàng một cấp. Ngân hàng nhà nước
vừa đóng vai trò phát hành tiền, quản lý lưu thông tiền tệ, vùa đóng chức năng của
một ngân hàng chuyên doanh đó là hoạt động nhận tiền gửi của nhân dân và cho
vay đối với nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng được xác lập theo địa giới hành chính,
mỗi tỉnh có một chi nhánh ngân hàng trung ương tỉnh, mỗi huyện có một chi nhánh




ngân hàng trung ương huyện. Hoạt động tín dụng được sử dụng làm công cụ có hiệu
lực thực hiện nhiệm vụ kinh tế ,chính trị của Đảng và nhà nước trong từng thời kỳ
cách mạng. Vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây

dựng, duy trì củng cố và phát triển các tổ chức kinh tế XHCN. Trong quá trình phát
triển ,hoạt động tín dụng không ngừng được cải tiến cho phù hợp với tình hình thực
tế nhằm từng bước nâng cao hiệu quả vốn tín dụng. Tuy vậy do ảnh hưởng của
nhiều nguyên nhân, việc quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung thống nhất
tình hình đất nước có chiến tranh, hạn chế về trình độ cán bộ nên chất lượng tín
dụng có những hạn chế nhất định.
Đầu tư dựa trên cơ sở chỉ đạo của chính phủ, chủ yếu cho vay quốc doanh, không
quan tâm đến các thành phần kinh tế khác; tín dụng mang tính bao cấp cho vay
không quan tâm đến hiệu quả , chỉ thực hiện theo kế hoạch, mệnh lệnh, không quan
tâm đến thị trường cũng như các quy luật kinh tế khách quan nên hiệu quả thấp, chế
độ hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Tỷ Lệ (%) vốn td tham gia cấu thành địng mức vốn lưu động của doanh nghiệp
Đơn vị %
Các qđ


Nghành
QĐ 54/ttg ngày
19/12/1959
QĐ 32/cp ngày 11/2/1977
NSNN
cấp
NH cho vay NSNN cấp NH cho vay
XN công nhiệp,GTVT
XN nông nghiệp
XN thương nghiệp
70
70
30
30

30
70
50
50
30
50
50
70




XN dịch vụ 30 70 10 90
Tín dụng được tập trung chủ yếu cho kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể .
Trong tín dụng ngắn hạn, tổng dư nợ không ngừng tăng thêm, dư nợ đến cuối năm
1985 đã tăng 43 lần so với cuối năm 1980. Tốc độ tăng bình quân hàng năm
150,3%.
Sự bất cập trong hệ thống ngân hàng là nguyên nhân gây ra hiện tượng ngân hàng
nhà nước vừa là người phát hành vừa là người cho vay; vừa quản lý vừa kinh doanh.
Hoạt động tín dụng chỉ coi trọng tín dụng ngắn hạn coi nhẹ tín dụng trung hạn và
dài hạn, bao cấp vốn tín dụng thay cấp vốn ngân sách cho các đơn vị kinh tế. Lấy
tiền phát hành làm nguồn vốn, lấy vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn và cho vay xây
dựng cơ bản. Coi nhẹ công cụ lãi suất trong điều hoà cung cầu vốn điều chỉnh tiền
tệ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất cho vay làm
cho các doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để vay vốn ngân hàng với lãi suất thấp, sử
dụng tiền vay không đúng mục đích,không hiệu quả ,có trường hợp dùng tiền vay
để gửi tiết kiệm hay cho vay lại. Do tổ chức chồng chéo, đội ngũ cán bộ đông về số
lượng nhưng trìng độ không đồng đều, quản lý theo kiểu hành chính mệnh lệnh nên
hiệu suất công tác thấp.
Nguyên nhân của tình hình trên là do thời gian dài không thừa nhận thị trườngvà

chịu ảnh hưởng nặng nề của tính bao cấp trong hoạt động tín dụng dẫn đến sự ỷ lại
vào nhà nước ,các đơn vị sử dụng vốn lãng phí thất thoát không thu hồi được nợ,
làm thiệt hại cho nhà nước. Chất lượng tín dụng thời kì này mang tính bề nổi.
2. Giai đoạn 1986 đến 1990




Trong thời kỳ này nhận định được hạn chế của thời kỳ bao cấp , khi cả nước bước
vào thời kỳ đổi mới chất lượng tín dụng cũng được cải thiện đáng kể. Tín dụng thời
kỳ này đã bước đầu chú ý đến hiệu quả và góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh
tế trong các xí nghiệp quốc doanh. Tín dụng tăng nhanh chủ yếu là tín dụng ngắn
hạn cho vay vốn lưu động (chiếm 90 đến 95% tổng số dư nợ cho vay nền kinh tế ).
Tín dụng vốn cố định bị hạn chế. Điều đáng chú ý là việc cải thiện cho vay với
doanh nghiệp quốc doanh. Tín dụng không còn tham gia theo phần định mức vốn
lưu động mà chỉ nhằm bổ xung nhu cầu vốn cần thiết vượt quá vốn tự có của doanh
nghiệp. Điều đó dã phát huy chức năng đòn bẩy của tín dụng chống bao cấp thu
hẹp dần phạm vi cấp phát của ngân sách nhà nước. Bằng việc cho vay trong hạn
mức tín dụng và cho vay ngoài hạn mức tín dụng đã bước đầu gắn liền với hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp tuy nhiên tín dụng vẫn bị động và chưa có ảnh
hưởng tích cực đối với nền kinh tế tín dụng cho ngân sách ngày càng chiếm tỷ trọng
lớn. Tín dụng chưa theo kịp sự phát triển của sản xuất xã hội theo đường lối đổi mới
của Đảng sản xuất thời kỳ này bung ra mạnh , các ngân hàng không đáp ứng được
nhu cầu vốn đã làm cho có sự nảy sinh gần như tự phát của nhiều tổ chức tín dụng
đứng ra huy động với lãi suất hấp dẫn và cho vay tràn lan. Do lãi suất thị truờng
không có sự quản lý và điều tiết các quy chế chưa được ban hành kịp thời đã làm
xuất hiện mộy số tổ chức tín dụng thiếu lành mạnh chạy theo mục đích kiếm lời lừa
đảo. Tính đến 20/11/1990 chỉ còn có 18 đơn vị hoạt động bình thường trên 100 đơn
vị có khó khăn , số còn lại mất khả năng chi trả trầm trọng hoặc vỡ nợ.
Hoạt động tín dụng chưa thực hiện được cơ chế kinh doanh theo chế độ hạch toán

kinh tế thể hiện lãi âm lãi suất cho vay <lãi suất tiền gửi< tốc độ lạm phát (trong




thời kỳ 1987-1990 lãi suất tiền gửi bình quân là 72% cho vay bình quân là 51,6%,
mức độ lạm phát bình quân là 183,8%), nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên do
đây là giai đoạn chuyển tiếp từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường
nên cơ chế quản lý mới chưa hoàn chỉnh chưa đủ mạnh để bứt khỏi cơ chế cũ. Mọi
hoạt động tín dụng còn mang nặng ảnh hưởng của cơ chế bao cấp, tuy vậy chất
lượng tín dụng bắt đầu tiếp cậnvới thị trường , đáp ứng nhu cầu vốn theo tín hiệu thị
trường góp phần chống bao cấp qua tín dụng tăng tính sáng tạo chủ động trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Tuy vậy tín dụng còn bị động chưa có hiệu quả kinh tế
chưa thực sự là đòn bẩy kinh tế. Nhìn chung đây là bước thay đổi lớnđánh dấu bước
chuyển biến căn bản làm tiền đề cho hoạt động tín dụng chuyển hẳn sang kinh
doanh theo cơ chế thị trường.
3. Giai đoạn 1990 đến nay
a. Tích cực
Đặc điểm nổi bật nhất đánh dấu cho thời kỳ này là Nghị định 53/HĐBT về việc
thành lập hệ thống ngân hàng hai cấp thể hiện qua hai pháp lệnh:pháp lệnh về Ngân
hàng nhà nước và pháp lệnh về Ngân hàng ,hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính
có hiệu lực từ tháng 10/1990 đã tạo nhân tố mới cho nền kinh tế nhưng đã đem lại
những hình thức và nội dung mới trong lĩnh vực hoạt động chu chuyển vốn. Với sự
thay đổi này của hoạt động tín dụng đã góp phần khắc phục tình trạng rối loạn và
lạm phát trầm trọng kéo dài,khắc phục một bước tình trạng doanh nghiệp quốc
doanh ỷ vào vốn bao cấp của ngân sách nhà nước,với phương châm đi vay để cho
vay các ngân hàng thương mại đã tích cực huy động vốn với nhiều hình thức
phong phú thích hợp như : Phát hành kỳ phiếu ,trái phiếu ,đa dạng hoá các loại tiền





gửi tiết kiệm nên đã tăng trưởng được nguồn vốn để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn
cho nền kinh tế ,nguồn vốn huy động vào cuối năm 1995 tăng gần 7 lần so với năm
1990. Tỷ trọng huy động vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh so với tổng
khối lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng trong toàn quốc tuy giảm nhưng vẫn
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số nguồn vốn huy động. Điều đó chứng tỏ các
ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn chiếm ưu thế trong cạnh tranh và đảm bảo
lòng tin với người gửi tiền.
Cơ cấu cho vay thay đổi theo hướng của nền kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế
quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo trên lĩnh vực hoạt động tiền tệ tín dụng và là
công cụ trực tiếp để thực hiện các chủ trương đường nối phát triển kinh tế của Đảng
và Nhà nước. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế tăng nhanh, tính đến cuối năm 1995
tổng dư nợ đối với nền kinh tế tăng gần bảy lần so với năm 1990. Tỷ trọng cho vay
nền kinh tế quốc doanh tăng dần từ 10% năm 1991 lên 42% năm 1995 trong khi vẫn
đảm bảo có chọn lọc đápứng vốn để duy trì những doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh có hiệu quả. Thông qua chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo xu hướng tăng dần tỷ
trọng cho vay trung ,dài hạn tù 15% năm 1991 đến 31% năm 1995 trong đó chủ yếu
là cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại quốc doanh (chiếm trên
90%tổng dư nợ trong toàn hệ thống ngân hàng )đã chứng tỏ vai trò chủ đạo của các
ngân hàng thương mại quốc doanh đối với nền kinh tế.
Hoạt động tín dụng ngân hàng được đổi mới, đã chuyển hướng thực sự theo cơ chế
thị trường , phương thức hoạt động kinh doanh đa năng , tác phong lề nối đổi mới ,
lấy chất lượng làm mục tiêu chính cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Các
điều kiện vay vốn và phương thức đầu tư vôns luôn được cải tiến. Hiệu quả sử dụng




vốn cao , hầu hết các món vay vùa qua đều được sử dụng đúng mục đích, doanh

nghiệp làm ăn có lãi trả được lãi cho ngân hàng. Dư nợ tín dụng tăng trưởng liên tục
có hiệu quả. Cơ chế lãi suất linh hoạt trong khuôn khổ mức lãi suất do ngân hàng
nhà nước qui định , chính sách khách hàng bám sát tín hiệu thị trườngđẫ thu hút
được nhiều khách hàng , tạo động lực mạnh thúc đẩy kinh doanh ngày càng phát
triển
Tín dụng góp phần thực hiện các chính sách xã hội tập trung vốn đầu tư vào các
trương trình dự án lớn như : mở rộng cho vay hộ nông dân và hộ cá thể. Cho vay
sinh viên các trường đại học cao đẳng, cho vay với hộ nghèo trên toàn bộ các tỉnh
trên ba miền của đất nước. Ngoài ra còn thực hiện nhiều hình thức tín dụng tài trợ
khác từ các nguồn vốn tài trợ uỷ thác
như các chương trình tín dụng Việt Đức cho vay người nghèo từ Đức trở về
Việc thực hiện đa dạng hoá các loại hình tín dụng (tài trợ nhập khẩu và xuất khẩu
trực tiếp cho vay phát triển kinh tế biển tín dụng hỗ trợ sản xuất kinh doanh )để
đáp ứng nhu cầu vốn của thị trường trên cơ sở phân tán rủi ro trong hoạt động tín
dụng. Lãi suất chuyể dần từ lãi suất âm sang lãi suất dương tiến dần đến lãi suất thị
trường. Sự tiến bộ trong chính sách tín dụng chứng tỏ khả năng thích nghi của các
ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Các ngân hàng đã cố gắng nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn tăng vòng quay tiền tệ , giảm nợ quá hạn lãi ngày càng
cao góp phần tăng trưởng kinh tế hạn chế lạm phát.
Tuy nhiên trong bước đầ chuyển sang kinh tế thị trườngbên cạnh những thành tựu
đã đạt hoạt động tín dụng còn có những hạn chế nhất định đòi hỏi các ngân hàng
thương mại cần phải tiếp tục xem xét để cải tiến không ngừng chất lượng tín dụng




b. Những tồn tại
Nhìn chung nợ quá hạn đã giảm nhiều so với trước đây nhưng vẫn còn cao so với
thông lệ quốc tế. Tỷ lệ nợ quá hạn từ 16% năm 1990 giảm xuống 12,5% năm 1992 ;
9,6% năm 1993 ;4,6% năm 1994; 3,5% năm 1995; 1,87% năm 1996 ;1,72% năm

1997 tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn cao, trong số nợ quá hạn chủ yếu là nợ có khả
năng thu hồi do các ngân hàng còn nắm giữ tài sản thế chấp, có thể thanh lý để giảm
tỷ lệ nợ quá hạn .
Việc chấp hành các điều luật và thể lệ tín dụng ngắn hạn và trung hạn chưa nghiêm
túc còn vi phạm nguyên tắc đối tuợng cho vay. Một biểu hiện của hiện tượng này là
cho vay trong trường hợp vốn tự có của doanh nghiệp quá nhỏ, chênh lệch giữa vốn
tự có của doanh nghiệp và vốn vay tới hàng chục thậm chí hàng trăm lần nhất là
các khoản vay cho xây dựng cơ bản nhiều trường hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ ,
có nợ quá hạn vẫn được vay. Cho vay thiếu vật tư đảm bảo , việc thế chấp tài sản
còn nhiều sơ hở. Hồ sơ thế chấp vay vốn còn nhiều trường hợp chỉ mang tính hình
thức, chưa đảm bảo cơ sở pháp lý. Việc lưu trữ tài sản thế chấp tại ngân hàng còn
gặp nhiều khó khăn do bị hạn chế bởi thiếu kho đảm bảo. Cho vay sai chức năng
không đúng đối tượng ví dụ như công ty Đất Việt tại thành phố Hồ Chí Minh không
có chức năng kinh doanh nghành may mặc nhưng ngân hàng ngoại thương Hồ Chí
Minh vẫn cho vay 2 triêụ USD để mua lại toàn bộ phân xưởng may mặc của công ty
Minh Phụngdẫn tới không trả được nợ theo hợp đồng.
Hoạt động tín dụng còn chưa phản ánh đúng thực chất của các khoản nợ do việc xác
định thời hạn cho vay, gia hạn nợ,chuyển nợ quá hạn , cho vay mới trả nợ cũ nhiều
nơi còn tuỳ tiện. Một hiện tượng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đó là nhiều




ngân hàng thương mại cho vay khi không có đầy đủ thông tin về khách hàng, cán bộ
tín dụng chưa nắm chắc tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp có trường hợp nhiều ngân hàng thương mại cùng cho vay một doanh nghiệp
dẫn đến nợ khó đòi hoặc bị lừa đảo. Việc một số ngân hàng thương mại tập trung
cho vay một số khách hàng quá lớn trên 10% vốn tự có của ngân hàng dẫn đến rủi
ro lớn về khả năng trả nợ như những vụ đã đi vào dư luận của cả nước như
TAMEXCO,dệt Nam Định

Một hạn chế lớn đó là việc sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn huy động được. Do lãi
suất cho vay hạ nên nhiều khách hàng trả nợ trước hạn để vay lại với lãi suất hạ
hơn. Trong khi các doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất thì ngân hàng lại không cho
vay ra được số vốn đã huy động. Sở dĩ có tình trạng trên là do ngân hàng chưa thay
đổi kịp với sự thay đổi của cơ chế ,ngân hàng không tìm được khách hàng đủ tiêu
chuẩn để cho vay hoặc mức cho vay của một số ngân hàng đã xấp xỉ hạn mức tín
dụng nên không được sử dụng thêm nguồn vốn đã huy động. Tuy nhiên mức cho
vay bình quân của các ngân hàng mới đạt 60-65% số vốn huy động. Đặc biệt vốn
cho vay hộ nghèo với lãi suất thấp không giải ngân được trong khi các đối tượng
này đang rất cần vốn để sản xuất. Tình hình trên cho thấy tín dụng chưa nhạy bén
với cơ chế thị trường , chưa dự tính được sự thay đổi của môi trường kinh doanh ,
cũng như chưa có định hướng lâu dài với nhưng phương án dự phòng rủi ro trong
khi cơ chế lại chưa ổn định dẫn tới tín dụng chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của
khách hàng.
4. Một số nguyên nhân




Một trong số nguyên nhân chủ quan là do một số ngân hàng và cán bộ ngân hàng
buông lỏng quản lý , thiếu tinh thần trách nhiệm đã không kiểm tra chặt chẽ trước
trong và sau khi vay nên các đơn vị đã sử dụng sai mục đích nhưng cán bộ tín dụng
không phát hiện và ngăn chặn kịp thời dẫn đến đơn vị không trả được nợ đúng hạn.
Trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng tuy đã được quan tâm đào tạo song vẫn còn
nhiều bất cập chưa đáp ứng nhu cầu của cơ chế thị trường, chưa đủ khả năng, trình
độ ,kinh nghiệm đánh giá đúng tính hiệu quả và mức độ rủi ro của dự án, vốn cho
vay nên đã không ngăn ngừa có hiệu quả rủi ro ngay từ khi xét duyệt cho vay. Một
số ít cán bộ còn cố ý làm sai không chấp hành nghiêm chỉnh thể lệ làm phát sinh
những hiện tượng tiêu cực dãn đến bị lừa đảo, cho vay không thu hồi được nợ. Việc
kiểm tra kiểm soát các khoản tiền vay của khách hàng chủ yếu giao cho cán bộ tín

dụng trực tiếp kiểm tra thu hồi nợ , chưa có sự phối hợp giữa các bộ phận. Mặt khác
trong điều kiện địa bàn hoạt động rộng gây khó khăn trong việc theo dõi khách
hàng.
Các phương tiện máy móc phục vụ nghiệp vụ và thông tin ở nhiều chi nhánh ngân
hàng còn yếu kém , chất lượng thông tin cung cấp còn chưa cao đây cũng là một
trong các nguyên nhân làm cho phân tích , nhận định khách hàng kém chính xác,
các quyết định tín dụng kém hiệu lực.
Vai trò chủ động kiểm tra , kiểm soát chưa thường xuyên , sâu sát ,nghiêm túc là
một yếu tố trựe tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Hệ thống thông tin phòng
ngừa rủi ro chưa thực sự phát huy hiệu quả. Việc phối hợp giữa các ngân hàng
thương mại trong việc cung cấp thông tin về khách hàng và việc kiểm tra cũng còn
nhiều hạn chế.




Tuy đã bắt đầu bắt nhịp với kinh tế thị trường nhưng các chính sách và cơ chế quản
lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh , đổi mới và hoàn thiện.Mặt
khác quá trình thích ứng của các doanh nghiệp với cơ chế thị trường còn chậm ,việc
điều chỉnh và chuyển hướng phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp với
kinh tế thị trường và chính sách kinh tế vĩ mô. Điều đó dẫn đến sự khó khăn trong
việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng chưa
đầy đủ , chưa đồng bộ. Một số văn bản pháp lý có liên quan đến vấn đề thế chấp vay
vốn ngân hàng còn chưa đầy đủ và thiếu văn bản hướng dẫn nên quá trình thực hiện
còn gặp nhiều khó khăn.hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu
cầu giải quyết các tranh chấp, thanh lý tài sản thế chấp, bảo lãnh Chưa có các tiêu
chuẩn quản lý tín dụng được quy định bằng văn bản có tính thống nhất đối với các
ngân hàng thương mại, các nguyên tắc tín dụng chưa được chỉnh sửa cho phù hợp
với thực tế đã gây không ít khó khăn trong quản lý hoạt động tín dụng.
vi. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng

1. Đánh giá đúng thực tế khách hàng
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường song song với việc mở rộng phạm vi và qui
mô tín dụng đối tuợng khách hàng cũng ngày càng phong phú, theo đó cũng làm
tăng khả năng rủi ro đe doạ sự tồn tại của ngân hàng vì vậy việc đánh giá khách
hàng có sự quan trọng đặc biệt. Chất lượng đánh giá khách hàng thể hiện ở khả
năng phân tích nhận định tình hình khách hàng trước trong và sau khi cho vay điều
này có quan hệ trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Tiến hành đánh giá nhu cầu vay
vốn của khách hàng xác định khách hàng là ai mục dích của khoản vay , khả năng
thu hồi vốn. Người vay phải có tư cách tốt(là công dân tốt hay doanh nghiệp có uy




tín trên thị trường)có đủ tư cách pháp nhân và năng lực pháp lý ,người vay có tình
hình sản suất kinh doanh tốt có khả năng phát triển. Người vay phải có khả năng trả
món nợ đúng thời hạn. Tình hình vốn của doanh nghiệp cũng là một yếu tố giúp
ngân hàng phân tích được rủi ro, người vay phải có tình hình tài chính vững chắc và
không ngừng được phát triển. Điều đó được thể hiện ở tài sản của doanh nghiệp
không ngừng tăng lên một cách hợp pháp. Thế chấp thể hiện mức độ an toàn của
vốn tín dụng do đó nó cần được quan tâm đúng mức khi đánh giá khách hàng. Khả
năng trả nợ của khách hàng liên quan trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp ,chỉ tiêu đó thể hiện ở tỷ lệ lãi so với tổng số vốn:
Lãi ròng sau thuế
Tỷ lệ lãi =
Vốn tự có
Tỷ lệ này phản ánh mức sinh lời trên một đồng vốn tự có là cơ sở đánh giá khả năng
tồn tại của khách hàng. Ngoài những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ngân hàng pải quan
tâm đến tình hình nợ của doanh nghiệp có bao nhiêu ngân hàng đã cung cấp tín
dụng cho doanh nghiệp ,có nợ quá hạn không, khả năng thu hồi các khoản nợ này.
2. Thiết lập và duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng

Khách hàng liên quan trực tiếp tới chất lượng tín dụng , họ vừa là người cho vay
,vừa là người đi vay ,thiết lập mối quan hệ lâu dài với khách hàng giúp ngân hàng
có điều kiện nắm vững các thông tin liên quan tới khách hàng để có đối sách thích
hợp để đứng vững trong cạnh tranh.
Ngày nay vai trò của ngân hàng trong việc trực tiếp và chủ động tìm hiểu khách
hàng đã trở nên phổ biến cùng với hiệu quả của nó đem lại với chất lượng hoạt động

×