Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp Hà Nội docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.62 KB, 70 trang )

LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài
hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Tp Hà Nội


LỜI MỞ ĐẦU

Hoạt động ngân hàng là một mắt xích không thể thiếu trong sự vận động của nền
kinh tế. Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong đó có Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có những đổi mới sâu sắc, những bước phát triển mạnh
đóng góp tích cực vào kiềm chế lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, trải qua 50 năm xây
dựng và phát triển đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, ln giữ vai trị đầu tàu
trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Trước bối cảnh cạnh tranh mới
trong nền kinh tế, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã thực hiện triệt để các biện
pháp để lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính song song với xử lý tốt nợ tồn
đọng, cơ cấu lại hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng
đã khơng ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ, mở rộng thị
phần để khẳng định vị thế và nâng cao tính cạnh tranh của Ngân hàng trên địa bàn.
Trong hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, hoạt động tín dụng
đóng vai trò then chốt, mang lại lợi nhuận cao nhưng cũng ẩn chứa nhiều rủi ro, đặc biệt
là hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Trong khi đó, khách hàng truyền thống của Ngân
hàng là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, vì thế dư nợ đối với loại hình
doanh nghiệp này ln chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Tuy nhiên thực tế cho thấy,
chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp
tại ngân hàng còn chưa an toàn, ảnh hưởng đáng kể đến kết quả hoạt động của ngân hàng
cũng như của các doanh nghiệp. Vì thế, em đã lựa chọn đề tài : “Nâng cao chất lượng
tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu


tư và Phát triển Tp Hà Nội” để tìm hiểu kĩ hơn về thực trạng này.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần :
Chương I : Tín dụng của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp xây lắp.
Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp
xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.


Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh
nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.


CHƯƠNG 1
TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP

1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân
hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặt biệt là chính sách tiền tệ, do vậy ngân hàng là
một kênh quan trọng trong chính sách của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Khái niệm Ngân hàng thương mại (NHTM) được tiếp cận trên nhiều phương diện.
Căn cứ vào các hoạt động chủ yếu của NHTM, Điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng sửa
đổi bổ sung của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi:
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt
động, các loại hình ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân
hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh tốn”.

Căn cứ vào các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, có thể định nghĩa: “Ngân
hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất
- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh tốn và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Với vai trị trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại thực hiện chuyển vốn từ
người cho vay-người tiết kiệm sang người đi vay-người đầu tư. Vì vậy, các hoạt động cơ
bản của NHTM gồm có huy động vốn, tín dụng, đầu tư và các hoạt động trung gian khác.
* Hoạt động huy động vốn


Huy động vốn là hoạt động cơ bản đầu tiên của một NHTM. Ngân hàng thực hiện
huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên
quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi bắt đầu hoạt
động, ngân hàng thực hiện mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho
khách hàng, bằng cách đó ngân hàng đã huy động được lượng tiền nhàn rỗi của các
doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư.
Khi khả năng huy động tiền gửi bị hạn chế hay lượng tiền gửi không đáp ứng được
nhu cầu chi trả, Ngân hàng thường vay mượn thêm. Ngân hàng thương mại có thể thực
hiện vay của Ngân hàng Nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác và vay trên thị trường
vốn. Nghiệp vụ này được thực hiện chủ yếu nhằm giải quyết nhu cầu dự trữ và chi trả cấp
bách của NHTM.
Ngồi các hình thức huy động trên, NHTM cịn thực hiện việc huy động vốn chủ sở
hữu thông qua phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt
động, đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng
Nhà nước quy định… Hình thức huy động này tuy không thường xuyên song giúp cho
ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn khi cần thiết.
* Hoạt động tín dụng, đầu tư và các hoạt động trung gian khác
Trên cơ sở lượng vốn huy động được, NHTM thực hiện các hoạt động tín dụng, đầu
tư và trung gian khác.

Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chính, chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần
lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Trong nghiệp vụ này, ngân
hàng chuyển giao tạm thời quyền sử dụng vốn cho bên đi vay, sau một khoảng thời gian
nhất định bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho Ngân hàng.
Ngân hàng đầu tư vào chứng khốn vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản.
Các loại chứng khốn mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán đi để gia tăng ngân
quỹ khi cần thiết. Ngân hàng nắm giữ nhiều loại chứng khốn như chứng khốn Chính
phủ, giấy nợ ngắn hạn của các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính…


Ngồi ra, ngân hàng cịn thực hiện các hoạt động khác như tham gia góp vốn với
các tổ chức khác, cung cấp các dịch vụ liên quan đi kèm cho khách hàng để thu phí hoa
hồng…
1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể, trong đó
có sự chuyển giao một lượng giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác theo những điều
kiện mà hai bên thỏa thuận. Quan hệ tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như
tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng…
Tín dụng ngân hàng là hình thức phát triển cao nhất, thể hiện mối quan hệ tín dụng
bằng tiền tệ, giữa một bên là ngân hàng-tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Quan hệ này được thực hiện trên cơ sở
tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.
Theo điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự
có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận
để khách hàng sử dụng một khoản tiền với ngun tắc có hồn trả bằng các nghiệp vụ
cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.”
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì khối lượng tín dụng ngân hàng được thực hiện
càng lớn. Tín dụng ngân hàng hiện nay đóng một vai trị quan trọng trong nền kinh tế thị

trường, đối với lĩnh vực sản xuất lưu thơng hàng hóa cũng như lĩnh vực lưu thơng tiền tệ.
1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng hiện nay rất đa dạng và phong phú với nhiều hình
thức khác nhau. Việc phân loại tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện cân đối
giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn của ngân hàng. Phân loại tín dụng có cơ sở
khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình tín dụng thích hợp và nâng cao hiệu quả
quản trị rủi ro tín dụng. Có thể phân loại hoạt động tín dụng dựa trên các tiêu thức sau
đây :
1.2.2.1. Căn cứ theo thời gian


Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng với ngân hàng vì liên quan mật thiết
đến tính an tồn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.
Dựa vào căn cứ này, tín dụng được chia thành 3 loại như sau:
- Tín dụng ngắn hạn : có thời hạn từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn : có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm
- Tín dụng dài hạn : có thời hạn trên 5 năm
Tín dụng trung, dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn tín dụng ngắn hạn do có độ rủi
ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn.
1.2.2.2. Căn cứ theo hình thức tài trợ tín dụng
Theo hình thức này, tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê…
- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải
trả cả gốc và lãi trong thời gian xác định. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ
tiêu : doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách
hàng của mình. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thơng qua uy tín, ngân hàng khơng phải xuất
tiền ngay khi bảo lãnh do vậy nó được ghi vào tài sản ngoại bảng.
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương
ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng. Nghiệp vụ chiết
khấu dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Độ

an toàn của thương phiếu tương đối cao do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho
ngân hàng. Hơn nữa, thương phiếu có tính thanh khoản cao nên ngân hàng có thể thực
hiện tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước.
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc và
lãi cho ngân hàng.
1.2.2.3. Căn cứ theo tài sản đảm bảo
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia thành 2 loại:


- Tín dụng khơng có tài sản đảm bảo : loại tín dụng này có thể được cấp cho các
khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xun có lãi, tình hình tài
chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa…
- Tín dụng có tài sản bảo đảm : là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế
chấp hoặc cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý
để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc
chắn.
1.2.3. Tín dụng trung, dài hạn của NHTM
1.2.3.1. Khái niệm và các hình thức tín dụng trung, dài hạn của NHTM
Quan niệm về tín dụng trung, dài hạn rất khác nhau ở các nước trên thế giới. Ở Việt
Nam, tín dụng trung, dài hạn là các khoản tín dụng có thời hạn trên 1 năm.
- Tín dụng trung hạn : từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như
phương tiện vận tải, một số cây trồng vật ni, trang thiết bị chóng hao mịn.
- Tín dụng dài hạn : trên 5 năm tài trợ cho các cơng trình xây dựng như nhà, sân
bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu.
Dựa và mục đích cho vay, tín dụng trung, dài hạn được phân chia thành nhiều hình
thức khác nhau:
- Cho vay kỳ hạn : thường dùng để tài trợ cho các mục đích chung của doanh
nghiệp, bao gồm tài trợ mua sắm bất động sản phục vụ sản xuất kinh doanh, các thiết bị
sản xuất, tài trợ vốn cho việc thanh toán các khoản nợ như nợ đến hạn mua máy móc thiết

bị trả chậm nước ngồi đã được ngân hàng bảo lãnh…Việc thanh toán tiền theo định kỳ
có thể bằng nhau hoặc khác nhau, có thời hạn ân hạn.
- Cho vay mua sắm máy móc thiết bị trả góp : là các khoản cho vay tài trợ nhu cầu
mua sắm máy móc thiết bị của doanh nghiệp có thời hạn trên 1 năm, tiền vay là lãi được
thanh toán dần cho Ngân hàng theo định kỳ. Việc thanh toán tiền vay và lãi bằng nhau
theo các định kỳ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường khơng thích dạng này vì khơng
thuận lợi bằng cho vay kỳ hạn (không trả được nợ trước hạn để giảm tiền lãi).
- Tài trợ theo dự án : là một hình thức cho vay trung, dài hạn trong đó ngân hàng
chỉ thu hồi được vốn từ nguồn thu nhập tạo ra từ dự án và phải chịu rủi ro trong trường


hợp dự án không thành công. Tài trợ theo dự án thường được áp dụng trong các dự án
đầu tư hạ tầng như xây dựng đường xá, cấp nước đô thị, năng lượng...
1.2.3.2. Đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn
* Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài và thu hồi vốn chậm
Đối tượng tài trợ của tín dụng trung, dài hạn là các nhu cầu đầu tư vào tài sản cố
định, mua sắm máy móc thiết bị, dự án xây dựng mới…của doanh nghiệp. Đặc điểm của
đối tượng này là có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu. Do đó, khoản cho vay để tài trợ
cho các đối tượng này đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn. Hơn nữa, nguồn trả nợ cho khoản
vay được lấy từ quỹ khấu hao cơ bản và lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả
nợ thường kéo dài đến khi dự án kết thúc, dẫn đến thu hồi vốn chậm.
* Rủi ro cao
Do đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn là có thời gian dài, thu hồi vốn chậm nên
độ rủi ro của các khoản tín dụng này ln cao. Một dự án có thời gian đầu tư dài có thể
chịu nhiều tác động của các yếu tố như thiên tai, chiến tranh, sự thay đổi của mơi trường
kinh tế, chính sách pháp luật, tâm lý người dân…Hơn nữa, các khoản tín dụng trung, dài
hạn thường có số vốn đầu tư lớn nên khi rủi ro xảy ra sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng hơn
cho ngân hàng so với các khoản tín dụng ngắn hạn.
* Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung, dài hạn lớn
Do các khoản tín dụng trung, dài hạn có thời hạn dài, độ rủi ro cao nên lãi suất của

các khoản vay này thường cao hơn lãi suất ngắn hạn. Sự biến đổi lãi suất cho vay trung,
dài hạn có thể dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định, lãi suất
của thị trường quốc tế hoặc sự biến đổi của chỉ số giá cả chung.
Ngồi ra, do các khoản tín dụng trung, dài hạn có tính thanh khoản thấp, khả năng
chuyển đổi thành tiền thấp hoặc chịu chi phí cao nên ngân hàng thường đặt mức lãi suất
cao cho các khoản vay này. Thêm vào đó, các khoản tín dụng trung, dài hạn có số vốn
lớn nên thu nhập mà các khoản tín dụng này đem lại cho ngân hàng là lớn.
1.3. Doanh nghiệp xây lắp
1.3.1. Khái niệm doanh nghiệp xây lắp


Doanh nghiệp xây lắp (hay còn gọi là doanh nghiệp xây dựng) là doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký
kinh doanh về xây dựng (Theo điều 16 Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của
Chính phủ).
Các doanh nghiệp này thực hiện quá trình xây dựng mới, xây dựng lại, cải tạo các
cơng trình nhà máy, đường xá, cầu cống, nhà cửa… nhằm phục vụ sản xuất và đời sống
xã hội.
Trách nhiệm của các doanh nghiệp xây lắp :
- Đăng ký hoạt động xây dựng tại các cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp
luật.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung đã cam kết trong hợp đồng với
chủ đầu tư, bao gồm số lượng, chất lượng, tính chính xác của sản phẩm theo thời gian
thực hiện hợp đồng, thực hiện bảo hành chất lượng sản phẩm xây dựng theo quy định.
- Thực hiện an toàn lao động, các chế độ bảo hiểm cơng trình xây dựng, bảo vệ mơi
trường sinh thái trong q trình xây dựng…Thơng tin rộng rãi về năng lực hoạt động của
doanh nghiệp để chủ đầu tư biết và lựa chọn.
1.3.2. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp xây lắp
Hoạt động của từng doanh nghiệp xây lắp phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh
mà doanh nghiệp đăng ký với pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động cơ bản của doanh nghiệp

xây lắp thường bao gồm như sau:
- Xây dựng
+ Xây dựng các cơng trình công nghiệp, công cộng và dân dụng : các nhà máy (cơ
khí, điện, điện tử viễn thơng, hóa chất, hóa dầu, phân bón, may mặc da giày, thuốc lá…),
văn phịng, bệnh viện, khách sạn, các khu nhà ở, chung cư, trường học, trung tâm văn
hóa, trung tâm thể thao, trung tâm thương mại.
+ Xây dựng các cơng trình kỹ thuật hạ tầng : các cơng trình giao thơng, đê đập, sân
bay, các khu đô thị và công nghiệp, các khu chế xuất, hệ thống cấp thoát nước, xử lý
nước thải, san đắp mặt bằng.


+ Xây dựng các cơng trình điện, hệ thống kiểm tra đo đếm, viễn thông : nhà máy
phát điện, đường dây, trạm biến áp, các hệ thống truyền tải và phân phối, các hệ thống
thiết bị kiểm tra, các công trình và hệ thống thơng tin, viễn thơng…
- Tư vấn thiết kế : tư vấn đầu tư, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quản lý dự án, khảo
sát địa chất, thiết kế kỹ thuật, thiết kế chi tiết, lập dự tốn, giám sát kỹ thuật cơng trình,
kiểm tra chất lượng các cơng trình cơng nghiệp và dân dụng, thiết kế cơng trình điện…
- Lắp đặt
+ Lắp các thiết bị công nghệ, khung nhà công nghiệp, xưởng sản xuất
+ Lắp đặt các thiết bị tự động, thiết bị điện, thiết bị đo, hiệu chỉnh điện…
- Chế tạo
+ Thiết bị xây dựng, thiết bị bê tông, gạch, băng tải…
+ Chế tạo kết cấu thép, khung nhà công nghiệp, dầm chịu lực…
- Hoạt động khác
+ Đào tạo công nhân kỹ thuật
+ Kinh doanh, xuất nhập khẩu các loại hàng hóa, vật tư thiết bị
+ Xuất khẩu lao động…
1.3.3. Đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp
1.3.3.1. Về sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp
Sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp thường mang những đặc điểm riêng, khác với

các sản phẩm hàng hóa trong lĩnh vực khác như mỗi sản phẩm đều có thiết kế riêng, yêu
cầu riêng về công nghệ, quy phạm…Những đặc điểm riêng này chi phối làm cho công tác
quản lý, điều hành hoạt động trong quy trình thực hiện đầu tư dễ gây ra lãng phí, thất
thốt, phát sinh tiêu cực. Vì vậy, việc xây dựng cơ chế, chính sách trong hoạt động xây
lắp và đầu tư không thể đạt kết quả tốt nếu không nghiên cứu đặc điểm riêng biệt của
ngành xây lắp cũng như đặc điểm về sản phẩm của ngành.
- Sản phẩm xây lắp là các cơng trình có quy mơ lớn, kết cấu phức tạp. Sản phẩm
xây lắp mang tính cố định, nơi sản xuất ra sản phẩm đồng thời là nơi sản phẩm được
hoàn thành và đưa vào sử dụng. Các điều kiện sản xuất như vật liệu, lao động, máy móc
thi cơng phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm cơng trình.


Đặc điểm này làm khó khăn cho cơng tác tổ chức sản xuất. Việc bố trí các cơng
trình tạm phục vụ thi công như lán trại cùng phương tiện, máy móc thiết bị làm nảy sinh
nhiều vấn đề phức tạp và tốn kém. Do đó, các doanh nghiệp xây lắp cần lựa chọn loại
hình tổ chức quản lý sản xuất thích hợp, linh hoạt, tăng cường tính cơ động về mặt trang
thiết bị, máy móc phục vụ thi cơng.
- Q trình xây dựng lâu dài, chịu nhiều tác động của điều kiện tự nhiên, khiến cho
máy móc thiết bị, cơng trình dễ bị hư hỏng, ảnh hưởng đến tiến độ thi công. Đặc điểm
này làm cho các đơn vị xây lắp khơng lường trước được hết những khó khăn do tác động
của thời tiết, khí hậu. Rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tới tiến độ thi cơng cơng trình, giá
thành cơng trình, thậm chí cả chất lượng cơng trình.
Hơn nữa, cũng do quá trình xây dựng kéo dài nên địi hỏi các doanh nghiệp xây lắp
phải lập dự tốn (dự tốn thiết kế và thi cơng). Dự tốn là chi phí cần thiết cho việc đầu
tư xây dựng được tính tốn cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật xây dựng, không vượt
tổng mức đầu tư đã duyệt.
- Sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc, thường được sản xuất theo đơn đặt hàng.
Vì thế, chi phí bỏ vào sản xuất cũng khác nhau giữa các cơng trình. Chi phí cho sản phẩm
xây lắp rất đa dạng, phong phú, sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu, máy móc thi công và
nhiều loại thợ các ngành nghề khác nhau.

- Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phẩm có ý
nghĩa quyết định. Vì vậy, mọi sai lầm trong q trình thi cơng thường khó sửa chữa, gây
thiệt hại nghiêm trọng. Do vậy, trong q trình thi cơng cần phải thường xun kiểm tra,
giám sát chất lượng cơng trình.
- Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thỏa thuận với chủ
đầu tư (hay giá đấu thầu). Do vậy, tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể
hiện rõ như sản phẩm thông thường. Sản phẩm thông thường không biết người tiêu dùng
là ai, trong khi sản phẩm xây lắp đã được quy định trước giá cả, người mua, người bán
thông qua hợp đồng giao nhận thầu.
- Doanh nghiệp xây lắp có trách nhiệm bảo hành sản phẩm xây lắp sau khi bàn
giao. Bảo hành công trình là điều kiện bắt buộc, được xác lập trên cơ sở pháp luật và hợp


đồng kinh tế giữa chủ đầu tư và đơn vị nhận thầu. Bảo hành cơng trình nhằm mục đích
bảo vệ lợi ích của chủ đầu tư, đồng thời xác lập trách nhiệm của các đơn vị thi công xây
lắp trong sửa chữa các hư hỏng xảy ra trong thời gian bảo hành.
- Sản phẩm xây lắp liên quan đến nhiều ngành khác nhau trong quá trình xây dựng
và sử dụng. Tài sản cố định của các ngành khác nhau là sản phẩm của ngành xây lắp. Do
vậy, chất lượng sản phẩm xây lắp liên quan đến chất lượng đầu tư của các ngành và hiệu
quả đầu tư trong nền kinh tế.
1.3.3.2. Về hoạt động của doanh nghiệp xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp có hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu là hoạt động tìm kiếm hợp
đồng xây dựng và hoạt động bàn giao cơng trình hồn thành, thanh quyết tốn hợp đồng
xây dựng với chủ đầu tư.
Trong xây dựng, người ta thường phân biệt một bên là chủ đầu tư (bên A) và đơn vị
xây dựng bao thầu (bên B). Hiện nay, các dự án đều thực hiện đấu thầu cơng khai nhằm
chọn các đơn vị xây dựng có đủ tư cách pháp nhân, năng lực hành nghề xây dựng. Do đó,
một trong những vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp xây lắp là
phải giành được thế chạnh tranh để có thể ký được nhiều hợp đồng xây dựng. Nếu hoạt
động này đạt kết quả tốt thì các hoạt động khác của doanh nghiệp như hoạt động sản xuất

thi công xây lắp, hoạt động bàn giao cơng trình, hoạt động tài chính… mới có điều kiện
được thực hiện.
Hoạt động bàn giao cơng trình xây dựng hồn thành và thanh quyết tốn hợp đồng
với chủ đầu tư được xem là hoạt động quan trọng cuối cùng trong hợp đồng xây dựng.
Hoạt động này có quan hệ tích cực cũng như tiêu cực tới hoạt động tìm kiếm hợp đồng
xây dựng của doanh nghiệp. Nếu cơng trình xây dựng đảm bảo chất lượng và thời gian
thi cơng sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp xây lắp trên thị trường. Ngược lại, nếu
doanh nghiệp bàn giao những cơng trình khơng đảm bảo chất lượng và thời gian thì có
thể sẽ khơng được chủ đầu tư chấp nhận, gây khó khăn cho việc thanh quyết tốn và uy
tín của doanh nghiệp xây lắp sẽ bị giảm.
1.3.3.3. Về tình hình tài chính của doanh nghiệp xây lắp


- Vốn tự có của doanh nghiệp xây lắp thấp, chủ yếu là máy móc thiết bị đã qua sử
dụng. Thực tế hiện nay, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp xây lắp chỉ chiếm khoảng 515% trong tổng nguồn vốn, còn lại là vốn vay ngân hàng và vốn chiếm dụng khác. Do đó,
gánh nặng về chi phí lãi vay lớn gây áp lực đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong khi đó, do sản lượng thi cơng tăng lên cùng với yêu cầu cao về chất lượng cơng
trình địi hỏi doanh nghiệp phải trang bị những thiết bị thi cơng hiện đại. Vì vậy, nhu cầu
vốn (cả vốn lưu động và vốn đầu tư trung, dài hạn) ngày càng tăng. Do đó, trong hoạt
động của các đơn vị này, nhu cầu vay vốn ngân hàng để tài trợ là thường xuyên và rất
lớn.
- Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp xây lắp thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Các ngân hàng thường cho vay các
doanh nghiệp xây lắp chủ yếu để tài trợ vốn lưu động, phục vụ thi cơng các cơng trình.
Đối với nhu cầu đầu tư mới, ngân hàng thường chỉ tham gia tài trợ một phần, phần còn
lại các doanh nghiệp xây lắp phải bỏ vốn tự có của mình.
- Tốc độ chu chuyển vốn trong các doanh nghiệp xây lắp thường không cao. Do
quy mô lớn, thời gian sản xuất kéo dài nên vốn dùng để đầu tư vào cơng trình dễ bị ứ
đọng, gây ra tình trạng thất thốt lãng phí. Nếu cơng trình thiếu vốn hoạt động thì q
trình thi công sẽ bị gián đoạn, thời gian xây dựng bị kéo dài hơn. Khi cơng trình hồn

thành, cơng tác nghiệm thu, quyết toán và thanh toán phụ thuộc nhiều vào chủ đầu tư. Do
vậy, các doanh nghiệp xây lắp thường bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài, tốc độ quay
vòng vốn lưu động thấp. Nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho thi công lớn trong khi vốn
chủ sở hữu chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn nên các doanh nghiệp xây lắp phải huy
động vốn bên ngoài, chủ yếu là vốn vay ngân hàng.
1.3.3.4. Về tổ chức quản lý của doanh nghiệp xây lắp
Hoạt động tổ chức quản lý, điều hành có ảnh hưởng lớn đến tiến độ hồn thành,
chất lượng các cơng trình xây dựng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
xây lắp. Hoạt động sản xuất thường diễn ra ở ngoài trời, chịu nhiều ảnh hưởng của điều
kiện tự nhiên nên đòi hỏi công tác tổ chức, quản lý trong xây dựng phải khoa học, hợp lý


để đảm bảo phối hợp tốt hoạt động của các đội, nhóm lao động, đảm bảo cung ứng, dự
trữ, bảo quản vật liệu…tránh rủi ro và đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
1.4. Vai trị của tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp
Trong nền kinh tế, xuất phát từ sự khác biệt về đặc điểm tuần hoàn luân chuyển vốn
cũng như về chu kỳ kinh doanh, chu kỳ thu nhập của các doanh nghiệp mà một số doanh
nghiệp thiếu hụt về vốn trong khi một số chủ thể khác lại tạm thời thặng dư vốn. Tín
dụng trung, dài hạn đã khắc phục tình trạng này bằng cách tập trung vốn tiền tệ nhàn rỗi
của các chủ thể trong nền kinh tế để cung cấp cho các chủ thể cần vốn đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh. Nhờ đó đã làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tăng nhanh
tốc độ quay vịng của vốn, góp phần điều hịa vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh được liên tục. Như vậy, nếu khơng có nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn thì doanh
nghiệp khó có thể thực hiện được mục đích kinh tế của mình trong những điều kiện cụ
thể, hay nói cách khác là nhờ nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn bổ sung kịp thời, các
doanh nghiệp mới có cơ hội để khai thác và nắm bắt được thời cơ trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình. Tín dụng trung, dài hạn cũng phát huy vai trị quan trọng đối
với doanh nghiệp xây lắp :
- Tín dụng trung, dài hạn đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp xây lắp,
giúp các doanh nghiệp này duy trì và mở rộng quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao

khả năng cạnh tranh đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong
nền kinh tế thị trường.
Thông qua tài trợ cho việc sửa chữa, thay thế, đổi mới máy móc thiết bị, các dự án
xây dựng phát triển, tín dụng trung, dài hạn đã góp phần quan trọng tăng cường cơ sở vật
chất kỹ thuật cho nền kinh tế, tạo điều kiện cần cho sự phát triển của đất nước.
- Tín dụng trung, dài hạn thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất của
doanh nghiệp xây lắp đối với nền kinh tế.
Ngân hàng và các doanh nghiệp xây lắp có quan hệ lâu dài nên ngân hàng có thể
nắm được tình hình tổ chức cũng như chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với
vai trị của mình, tín dụng ngân hàng góp phần điều hịa vốn giữa các doanh nghiệp xây
lắp, thúc đẩy toàn bộ ngành xây dựng phát triển, tăng cường chữ tín với khách hàng.


Tuy nhiên, tín dụng ngân hàng đặc biệt là tín dụng trung, dài hạn thường được tập
trung tài trợ cho các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Điều này bắt buộc
các doanh nghiệp xây lắp phải chủ động đứng vững và có sức cạnh tranh lớn trên thị
trường.
Hơn nữa, khi cho vay, ngân hàng thường tìm hiểu tình hình tài chính của doanh
nghiệp, đánh giá mặt mạnh, mặt yếu, rủi ro của doanh nghiệp. Do vậy, để có thể vay vốn
ngân hàng, các doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng tài chính tốt. Tín dụng ngân hàng
trở thành cơng cụ kích thích q trình sản xuất, quản lý kinh tế, kiểm tra, giám sát các
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
- Tín dụng trung, dài hạn góp phần tác động đến tăng cường chế độ hạch toán kinh
tế của doanh nghiệp xây lắp.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là dựa trên cơ sở cho vay có hồn trả cả
gốc và lãi. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tính tốn để có một tỷ lệ lãi trên vốn vay
lớn hơn lãi suất cho vay của ngân hàng, kích thích việc sử dụng vốn có hiệu quả. Khi sử
dụng vốn vay ngân hàng, các doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay đúng
hạn, thực hiện đúng theo hợp đồng tín dụng.Vì thế đòi hỏi các doanh nghiệp phải sáng
tạo trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay vốn,

nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
Tóm lại, tín dụng trung, dài hạn có vai trị rất quan trọng, được coi như một mắt
xích khơng thể thiếu đối với hoạt động của các doanh nghiệp và của tồn bộ nền kinh tế.
Tín dụng trung, dài hạn mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, giúp doanh nghiệp làm ăn
có lãi. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam hiện nay, khi cơ cấu kinh tế nhiều mặt chưa
hợp lý, thất nghiệp ở mức độ cao, thì đầu tư tín dụng trung, dài hạn góp phần sắp xếp lại
sản xuất, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Hoạt động tín dụng trung, dài hạn
giúp cho việc khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, nguồn tài nguyên, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, góp phần giải quyết tốt các vấn đề của xã hội.
1.5. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của NHTM
1.5.1. Khái niệm chất lượng tín dụng trung, dài hạn


Tín dụng trung, dài hạn của NHTM có vai trị quan trọng trong việc đáp ứng nhu
cầu vốn cho nền kinh tế. Tín dụng trung, dài hạn quyết định sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng thương mại. Tín dụng trung, dài hạn hiệu quả làm tăng thêm vốn từ việc tăng
vòng quay vốn, thu hút nhiều khách hàng, tăng khả năng sinh lời của các dịch vụ ngân
hàng. Tuy nhiên, nghiệp vụ tín dụng đặc biệt là tín dụng trung, dài hạn tiềm ẩn nhiểu rủi
ro đối với hoạt động ngân hàng. Vì vậy, để đảm bảo mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt
động, kiểm soát rủi ro, ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín dụng nói chung cũng như
chất lượng tín dụng trung, dài hạn nói riêng.
Để hiểu một cách đầy đủ về chất lượng tín dụng trung, dài hạn, trước tiên chúng ta
cần đưa ra định nghĩa về chất lượng.
Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một hàng hóa hoặc dịch vụ đáp ứng được
yêu cầu của người mua. Vật liệu, kiểu dáng, kỹ thuật chế biến là những đặc điểm quan
trọng của chất lượng sản phẩm ảnh hưởng đến việc người tiêu dùng mua sản phẩm đó.
Chất lượng tín dụng là khái niệm phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Chất lượng tín dụng là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng góp phần vào sự phát
triển xã hội, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Tùy thuộc vào từng đối tượng tham gia vào quan hệ tín dụng mà chất lượng tín

dụng được đánh giá dựa trên các giác độ khác nhau :
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội : tín dụng phục vụ sản xuất lưu thơng hàng
hóa, góp phần giải quyết cơng ăn việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh
tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Đối với khách hàng : tín dụng phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng
với lãi suất và kỳ hạn nợ hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện.
- Đối với ngân hàng :
Chất lượng tín dụng trước hết được đánh giá qua tính an tồn của khoản tín dụng
hay khả năng trả nợ của khách hàng. Vốn cho vay ra phải được hoàn trả đầy đủ và đúng
hạn.
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ
nên ngồi việc đảm bảo an tồn vốn vay thì việc gia tăng lợi nhuận là mục tiêu mà ngân


hàng ln hướng tới. Một khoản cho vay có chất lượng là khoản cho vay được hoàn trả
đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
Ngồi ra, chất lượng tín dụng đối với ngân hàng thương mại còn được đánh giá qua
khả năng mở rộng thị phần, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh dịch vụ, tối ưu hóa lợi nhuận
ngân hàng.
Như vậy, có thể thấy chất lượng tín dụng là mục tiêu tổng hợp, phản ánh mức độ
thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện
sức mạnh của một ngân hàng trong q trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn phản ánh kết quả hoạt động tín dụng trung, dài
hạn của ngân hàng thương mại. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn được thể hiện qua các
chỉ tiêu như chỉ tiêu khả năng sinh lãi, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu…
1.5.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn
1.5.2.1. Các chỉ tiêu định tính
- Các khoản tín dụng trung, dài hạn được thực hiện theo đúng quy trình tín dụng.
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín
dụng. Việc có thực hiện đúng các quy trình tín dụng hay khơng ảnh hưởng trực tiếp đến

tính an tồn và khả năng sinh lời của khoản vay.
- Thời gian xét duyệt một khoản tín dụng trung, dài hạn. Tín dụng trung, dài hạn
thường được sử dụng để tài trợ cho các dự án đầu tư, mua sắm trang thiết bị. Do độ rủi ro
cao nên thời gian xét duyệt tín dụng trung, dài hạn thường dài hơn so với một khoản tín
dụng ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu thời gian xét duyệt quá dài sẽ gây ảnh hưởng đến nhu cầu
vốn, khả năng sản xuất kinh doanh của khách hàng. Đối với doanh nghiệp xây lắp, thời
gian xét duyệt tín dụng ảnh hưởng đến tiến độ hồn thành cơng trình, khả năng thực hiện
hợp đồng của doanh nghiệp xây lắp.
- Mức độ hài lòng của khách hàng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Tuy nhiên, những chỉ tiêu định tính này rất khó để có thể lượng hóa, với những
khách hàng khác nhau thì sự thỏa mãn và đánh giá sẽ khác nhau. Vì thế, ngân hàng
thường sử dụng các chỉ tiêu định lượng để đánh giá vì nó dễ tính tốn. Ngân hàng phân


tích tổng hợp các chỉ tiêu, từ đó đưa ra kết luận về chất lượng tín dụng trung, dài hạn của
ngân hàng.
1.5.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
* Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn
Dư nợ tín dụng trung, dài hạn
Tỷ trọng dư nợ tín dụng = —————————————
trung, dài hạn

Tổng dư nợ tín dụng

Dư nợ tín dụng trung, dài hạn và tổng dư nợ tín dụng là các chỉ tiêu mang tính thời
điểm. Nó phản ánh lượng vốn ngân hàng đã giải ngân cho các khoản tín dụng mà khách
hàng đang còn nợ ngân hàng tại thời điểm cuối kỳ.
Tổng dư nợ tín dụng phản ánh quy mơ tín dụng, sự tăng trưởng tín dụng của ngân
hàng. Thơng qua chỉ số này cũng đánh giá được khả năng huy động vốn của ngân hàng.
Ngân hàng có tổng dư nợ tín dụng cao chứng tỏ khả năng huy động vốn của ngân hàng

tốt.
Dư nợ tín dụng trung, dài hạn phản ánh lượng vốn trung, dài hạn khách hàng đang
nợ ngân hàng vào thời điểm cuối kỳ. Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn cho biết dư
nợ trung, dài hạn chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ.
Qua chỉ tiêu này có thể thấy được chính sách tín dụng của ngân hàng là mở rộng
hay thu hẹp quy mơ tín dụng trung, dài hạn. Thơng thường, do tín dụng trung, dài hạn có
độ rủi ro cao nên tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn thường thấp hơn so với tỷ trọng dư nợ tín
dụng ngắn hạn.
Để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp, các
ngân hàng thường tính tốn và xem xét chỉ tiêu về tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn
đối với doanh nghiệp xây lắp :

Tỷ trọng dư nợ tín dụng
trung, dài hạn đối với
doanh nghiệp xây lắp

Dư nợ tín dụng TDH đv DNXL
=

——————————————
Dư nợ tín dụng TDH


Chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp phản ánh quy
mô và sự tăng trưởng hoạt động tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp của
ngân hàng. Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp cao và tăng
trưởng cho thấy ngân hàng đã và đang mở rộng thị phần trong ngành xây lắp. Ngược lại,
dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp qua các năm giảm chứng tỏ
chính sách thu hẹp tín dụng đối với doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng.
Chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với DNXL cần xem xét kết hợp với chỉ

tiêu tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với DNXL để đánh giá đầy đủ hơn về tình
hình tăng trưởng tín dụng đối với các doanh nghiệp thuộc ngành nghề này. Chỉ tiêu dư nợ
tín dụng mới chỉ phản ánh sự tăng trưởng tuyệt đối nhưng nếu dư nợ trung, dài hạn đối
với DNXL tăng với tốc độ thấp hơn dư nợ tín dụng trung, dài hạn thì tỷ trọng này lại
giảm. Điều này phụ thuộc chủ yếu vào chính sách tín dụng của ngân hàng trong từng thời
kỳ.
Tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn mới chỉ đánh giá được một phần chất lượng tín dụng
trung, dài hạn của ngân hàng. Để đánh giá cụ thể hơn, ta cần xem xét đến tính an tồn,
lành mạnh và khả năng sinh lời của các khoản tín dụng trung, dài hạn.
* Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN : “nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần
hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn”. Một khoản vay không trả đầy đủ, đúng hạn
như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng thì trở thành nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín
dụng của ngân hàng, phản ánh những rủi ro trong hoạt động tín dụng mà ngân hàng phải
đối mặt. Tỷ lệ này được xác định qua công thức sau :
Dư nợ quá hạn trung, dài hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = ————————————————
trung và dài hạn

Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn


Chỉ tiêu nợ quá hạn cho biết trong tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng
có bao nhiêu % là nợ quá hạn.
Các khoản nợ quá hạn phát sinh có thế do những nguyên nhân chủ quan như trình
độ quản lý của khách hàng yếu kém, cơng nghệ sản xuất lạc hậu hay do những nguyên
nhân khách quan như sự thay đổi trong chính sách của nhà nước, rủi ro trong kinh doanh
như thiên tai, chiến tranh…Khả năng thu hồi các khoản nợ quá hạn cũng khác nhau, có
khoản nợ do khách hàng gặp khó khăn tạm thời, chậm thanh tốn nhưng cũng có khách

hàng đình trệ sản suất, thua lỗ nặng nề, khơng có khả năng trả nợ.
Nếu ngân hàng có nhiều khoản nợ trung, dài hạn quá hạn, tỷ lệ nợ quá hạn trung,
dài hạn cao, ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, tình trạng kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự tồn
tại của ngân hàng. Tỷ lệ nợ q hạn cao, tính an tồn của khoản vay thấp, ngân hàng
đứng trước nguy cơ mất vốn, có thể dẫn đến mất khả năng thanh tốn. Tỷ lệ nợ quá hạn
trung, dài hạn thấp cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng cao. Tuy nhiên, việc
chuyển nợ quá hạn cần tuân thủ đúng nguyên tắc, tránh việc gia hạn nợ tràn lan để giảm
tỷ lệ nợ quá hạn.
Thực tế cho thấy hoạt động tín dụng của ngân hàng khơng thể khơng có nợ q hạn.
Ngân hàng phải chấp nhận nợ quá hạn, cố gắng kiểm soát tỷ lệ này ở mức độ hợp lý.
Tỷ lệ nợ quá hạn được xem là cao hay thấp cần so sánh với tỷ lệ chung của ngành
và tỷ lệ chấp nhận của chính ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn ≤ 3% : mức độ an toàn của ngân hàng tương đối cao.
Tỷ lệ nợ quá hạn 3%-5% : được coi là bình thường.
Tỷ lệ nợ quá hạn ≥ 5% : hoạt động tín dụng của ngân hàng ẩn chứa nhiều rủi ro.
Đối với doanh nghiệp xây lắp, ngân hàng thường sử dụng thêm tỷ lệ nợ quá hạn đối
với doanh nghiệp xây lắp để đánh giá :
Dư nợ quá hạn TDH của DNXL
Tỷ lệ nợ quá hạn TDH = ————————————————
đối với DNXL

Tổng dư nợ TDH của DNXL


Qua chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xem xét đánh giá khả năng trả nợ của các
DNXL, trên cơ sở đó có những chính sách tín dụng thích hợp đối với ngành nghề này.
* Chỉ tiêu lợi nhuận
Chất lượng tín dụng của ngân hàng ngồi u cầu an tồn cịn cần tạo ra lợi nhuận.
Nếu một khoản tín dụng chỉ thu được gốc mà khơng thu được lãi thì sẽ không tạo ra thu
nhập cho ngân hàng, không bù đắp được những chi phí mà ngân hàng bỏ ra để huy động

vốn và các chi phí khác. Do vậy, việc phân tích chỉ tiêu lợi nhuận có ý nghĩa quan trọng
đối với đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng nói chung cũng như đánh giá chất
lượng tín dụng trung, dài hạn nói riêng.

Lợi nhuận từ tín dụng trung, dài hạn
Chỉ tiêu lợi nhuận = ————————————————
Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn
Chỉ tiêu lợi nhuận phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung, dài hạn. Khi bỏ ra
một đồng vốn cho vay, ngân hàng sẽ thu về bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Xét trên giác độ ngân hàng, nếu chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ lợi nhuận thu được
từ tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng càng lớn. Khi khoản tín dụng được đầu tư hiệu
quả, doanh nghiệp có lợi nhuận sau khi trả nợ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Ngân hàng
cũng thu được lợi nhuận từ khoản vay. Từ đó, chỉ tiêu lợi nhuận của ngân hàng tăng, có
thể kết luận chất lượng tín dụng của ngân hàng đã được nâng cao.
Tuy nhiên, nếu trong trường hợp doanh nghiệp sử dụng vốn vay không hiệu quả,
phải dùng nguồn vốn khác để trả nợ ngân hàng thì khơng thể kết luận chất lượng tín dụng
của ngân hàng đã được nâng cao. Do vậy, khi đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn
qua chỉ tiêu lợi nhuận, cần xem xét dưới hai giác độ ngân hàng-chủ thể cho vay và doanh
nghiệp-chủ thế đi vay.
Đối với doanh nghiệp xây lắp, ngân hàng sử dụng chỉ tiêu sau :
Lợi nhuận từ tín dụng TDH đv DNXL
Tỷ trọng thu nhập từ tín dụng = ————————————————
TDH đối với DNXL

Tổng lợi nhuận từ tín dụng TDH


Việc phân tích chỉ tiêu này giúp ta đánh giá được khả năng sinh lời từ hoạt động tín
dụng trung, dài hạn đối với DNXL trong tổng thu nhập từ hoạt động tín dụng trung, dài
hạn của ngân h, qua đó thấy được tầm quan trọng của nó để có biện pháp nâng cao chất

lượng của hoạt động này.
Ngoài các chỉ tiêu trên, chất lượng tín dụng trung, dài hạn của NHTM còn được thể
hiện qua một số chỉ tiêu như tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ dư nợ có tài sản
bảo đảm…Khi xem xét, đánh giá chất lượng tín dụng của NHTM không thể căn cứ vào
một chỉ tiêu cụ thể mà phải sử dụng tổng hợp hệ thống các chỉ tiêu.
1.5.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn của NHTM
1.5.3.1. Các nhân tố từ phía ngân hàng
* Chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng của một ngân hàng là hệ thống các văn bản về định hướng,
biện pháp liên quan đến việc mở rộng hay hạn chế cho vay để đạt được mục tiêu đã được
hoạch định, hạn chế rủi ro và bảo đảm an tồn trong hoạt động tín dụng.
Một chính sách tín dụng đúng đắn và linh hoạt phù hợp với từng thời kỳ sẽ có tác
dụng nâng cao chất lượng tín dụng, thu hút thêm khách hàng, phân tán rủi ro, đảm bảo
khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Chính sách này tác động đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn qua các mặt sau :
- Quy mô và giới hạn tín dụng : các ngân hàng có quy định riêng về quy mơ và giới
hạn tín dụng đối với từng ngành nghề, lĩnh vực và đối với thời hạn tín dụng cụ thể. Chính
sách này nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng, tránh những khoản vay có mức độ rủi ro
cao, nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
- Chính sách khách hàng : ngân hàng tiến hành phân loại thành nhiều nhóm khách
hàng như khách hàng truyền thống, khách hàng quan trọng và khách hàng khác. Trên cơ
sở đó, những khách hàng truyền thống và khách hàng quan trọng sẽ được hưởng chính
sách ưu đãi của ngân hàng. Qua đó, ngân hàng có thể thu hút thêm nhiều khách hàng,
tăng lợi nhuận, giảm chi phí, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất
lượng tín dụng trung, dài hạn nói riêng cho ngân hàng.


Ngồi ra, các chính sách về lãi suất, phí suất tín dụng, thời hạn tín dụng hay chính
sách về bảo đảm tiền vay cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn của
ngân hàng. Những chính sách hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế rủi ro trong hoạt

động tín dụng đặc biệt là tín dụng trung, dài hạn, mở rộng khách hàng, tăng trưởng dư nợ
tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng.
* Chất lượng thông tin
Thông tin rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực
ngân hàng. Ngân hàng trước khi cấp tín dụng phải tiến hành thu thập và xử lý các thông
tin liên quan như năng lực sử dụng vốn vay, khả năng tạo ra lợi nhuận, nguồn ngân quỹ
và các điều kiện kinh tế khác liên quan đến người vay. Số lượng và chất lượng các thông
tin thu thập được liên quan trực tiếp đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận
định thị trường, khách hàng… để đưa ra các quyết định đúng đắn.
Các khoản tín dụng trung, dài hạn chủ yếu để tài trợ cho các dự án đầu tư, mua sắm
máy móc thiết bị. Các khoản vay này thường có giá trị lớn, thời hạn dài nên việc thu thập
thông tin là rất quan trọng. Ngân hàng cần thu thập các thông tin liên quan đến ngành
nghề, lĩnh vực, thị trường để đánh giá khả năng thực hiện của dự án.
Cho vay đối với DNXL thường gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập thơng tin về
năng lực tài chính, năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp dẫn đến việc đánh giá
sai về khách hàng hoặc bị khách hàng lừa đảo, lợi dụng. Nếu thông tin về khách hàng bị
sai lệch, ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tín dụng cao, có khả năng bị mất vốn, chất
lượng tín dụng thấp.
* Trình độ cán bộ tín dụng
Yếu tố con người ln đóng một vai trị hết sức quan trọng trong hoạt động ngân
hàng, quyết định sự thành bại của hoạt động ngân hàng. Trong nghiệp vụ tín dụng, cán bộ
tín dụng là người trực tiếp liên quan đến các khâu của quy trình tín dụng như tiếp nhận hồ
sơ, thẩm định đến khi tất toán khoản vay, thanh lý hợp đồng. Vì vậy, trình độ năng lực,
phẩm chất của cán bộ tín dụng là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo chất
lượng tín dụng ngân hàng.


Cán bộ tín dụng có kiến thức vững vàng về nghiệp vụ, am hiểu về ngành nghề, lĩnh
vực kinh doanh của khách hàng có khả năng đưa ra những nhận định sát với tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh và năng lực tài chính của khách hàng cũng như hiệu quả

và tính khả thi của dự án. Ngược lại, sự hạn chế về trình độ của cán bộ tín dụng sẽ gây ra
hàng loạt những sai lầm và có thể gây thiệt hại lớn cho ngân hàng, ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng.
Khi cho vay đối với DNXL, cán bộ tín dụng khơng những phải nắm vững về nghiệp
vụ mà còn phải am hiểu về những đặc điểm riêng biệt của ngành xây dựng, có thể thẩm
định phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư xây dựng, biết chọn lọc những thơng
tin liên quan đến cơng trình xây dựng. Có như vậy, quyết định cho vay hay từ chối cho
vay mới hợp lý và đúng đắn.
Bên cạnh đó, phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng cũng là nhân tố quan trọng tác
động đến chất lượng tín dụng. Nếu đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng khơng tốt sẽ
dễ nảy sinh những tiêu cực, vụ lợi cá nhân, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản vay
và khả năng thu hồi nợ của ngân hàng.
Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ cũng như phẩm chất
đạo đức của cán bộ tín dụng ln là u cầu đặt ra đối với ngân hàng.
* Trang thiết bị, công nghệ ngân hàng
Trang thiết bị, cơng nghệ ngày càng đóng vai trị quan trọng trong hoạt động ngân
hàng. Nó giúp giảm khối lượng cơng việc của cán bộ tín dụng, giảm thời gian xét duyệt,
thẩm định dự án, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Đồng thời, trang thiết bị hiện
đại cũng giúp cho ngân hàng quản lý khách hàng chặt chẽ hơn, kịp thời phát hiện ra sai
sót, giảm chi phí ngân hàng.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, vấn đề công nghệ là điều kiện tiên
quyết để ngân hàng nâng cao sức mạnh của mình. Hơn nữa, đối với hoạt động tín dụng
thì việc chuẩn hóa các thao tác, quy trình, tránh rủi ro do yếu tố chủ quan nhằm hạn chế
rủi ro tác nghiệp ngày càng cần thiết.
1.5.3.2. Các nhân tố từ phía khách hàng
* Năng lực tài chính của khách hàng


×