Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NHÂN TÔ CON NGƯỜI TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.49 KB, 28 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Lịch sử khoa học nói chung và triết học nói riêng chính là lịch sử nghiên cứu về
con người. Sở dĩ nói như vậy là vì mục đích của khoa học, trong đó có triết học (dù
là thứ triết học nào đi chăng nữa) suy cho cùng đều là vì con người và phục vụ con
người. Khơng những thế, con người cịn là yếu tố khơng thể thiếu trong vấn đề cơ
bản của triết học, là điểm kết nối quan trọng giữa triết học tự nhiên và triết học xã
hội.
Mặc dù triết học và nhiều khoa học khác đều coi con người là đối tượng nghiên
cứu, song cách tiếp cận có những điểm khác nhau. Những ngành khoa học cụ thể
nghiên cứu những khía cạnh riêng lẻ của con người, của xã hội lồi người (ví dụ:
sinh học nghiên cứu cấu trúc cơ thể và các đặc điểm tự nhiên của con người; tâm lý
học nghiên cứu đời sống tâm lý của con người…). Triết học nghiên cứu con người
với tư cách là một chỉnh thể toàn vẹn, có tính hệ thống, từ việc làm rõ khái niệm,
bản chất con người đi đến truy tìm con đường, cách thức giải phóng con người.
Những câu hỏi như “Con người từ đâu sinh ra? Ý nghĩa cuộc sống con người là gì?
Trong mỗi thời đại lịch sử con người quan hệ với tự nhiên và đồng loại như thế
nào? Con người có thể làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình hay khơng? …?”
đã được các học thuyết triết học từ cổ đại đến nay đặt ra và trả lời bằng những cách
khác nhau, nhưng chỉ đến triết học Mác – Lênin mới được giải đáp đầy đủ và sâu
sắc nhất.
Đặc biệt, trước khi xuất hiện chủ nghĩa Mác, quan niệm duy tâm về đời sống xã
hội đã thống trị. Những thiếu sót cơ bản của xã hội học và sử học trước Mác là: thứ
nhất, chỉ chú ý đến những động cơ tư tưởng của hoạt động của con người, chứ
khơng tính đến các ngun nhân vật chất; thứ hai, khơng nhìn thấy vai trị quyết
định của quần chúng nhân dân, mà chỉ chú ý đến vai trị cá nhân. Chính vì vậy, sự
phát hiện của Mác về quan niệm duy vật về lịch sử là một bước ngoặt căn bản
trong sự phát triển của tư tưởng xã hội. Việc sáng lập chủ nghĩa duy vật lịch sử đã
1


khắc phục được các thiếu sót cơ bản đó, và đã chỉ ra những quy luật của sự phát


triển xã hội.
Chủ nghĩa duy vật duy vật lịch sử là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu
đời sống xã hội và lịch sử nhân loại. Bản thân sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch
sử cũng chủ yếu hướng tới việc trang bị vũ khí lý luận để con người giải phóng
mình, tạo dựng một xã hội mà ở đó “sự tự do của mỗi người là sự tự do của tất cả
mọi người”. Chính chủ nghĩa duy vật lịch sử đã được hình thành trên cơ sở nghiên
cứu đời sống sinh hoạt của con người, mà trước tiên là sinh hoạt vật chất.
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước từ trước đến nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chủ nghĩa
Mác-Lê nin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của
Đảng. Chính vì vậy, thấm nhuần tư tưởng tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc
biệt là đặt trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người, trong tiến
trình xây dựng xã hội mới, Đảng ta đã khẳng định: nguồn lực quý báu nhất, có vai
trò quyết định nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức
mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên
trì con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, Đảng ta
nhận thức rõ một trong những yếu tố quyết định việc chúng ta có tranh thủ tận
dụng thành cơng những thuận lợi, cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà q
trình đổi mới xã hội đặt ra hay khơng phụ thuộc đáng kể vào con người.
Để đào sâu vào vấn đề triết học về con người và nhân tố con người trong hành
trình đất nước đổi mới, đề tài tiểu luận của nhóm 1 hướng tới nghiên cứu “quan
điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vấn đề con người”, qua đó phân tích “sự vận
dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc phát huy nhân tố con người trong
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay”.

2


MỤC LỤC


CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH
SỬ VỀ CON NGƯỜI
1.1 Khái quát về chủ nghĩa duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội,
là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại,
nhờ đó hồn thiện và phát triển những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và phép biện chímg duy vật; hồn thiện và phát triển thế giới quan, phương
pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác — Lênin. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một
trong những phát hiện vì đại nhất của chủ nghĩa Mác, bởi "Việc phát hiện ra quan
niệm duy vật lịch sử, hay nói cho đúng hơn, việc áp dụng, việc vận dụng triệt để
chủ nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực những hiện tượng xã hội, đã loại bỏ đuợc
hai khuyết điểm căn bản của những lý luận lịch sử trước kia", đồng thời, "Chủ
nghĩa Mác mở đường cho việc nghiên cứu rộng rãi và tồn diện q trình phát
sinh, phát triển và suy tàn của các hình thái kinh tế xã hội" theo quan điểm duy vật.

1.2. Quan điểm của CNDVLS về con người:
1.2.1. Khái quát về con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, trong đó, phương diện tự
nhiên và phương diện xã hội thống nhất biện chứng với nhau. Điều đó đã được

3


C.Mác khẳng định trong tác phẩm Bản thảo kinh tế triết học năm 1844: “Con
người là một thực thể tự nhiên có tính người, là một sinh vật có tính lồi”.
a. Bản tính tự nhiên của con người
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con
người chính là giới tự nhiên.Vì vậy, bản tính tự nhiên là một trong những phương

diện cơ bản của con người, loài người. Do vậy, việc nghiên cứu, khám phá khoa
học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học
quan trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản
thân mình trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử
nhân loại. Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ những khía cạnh sau
đây:
Thứ nhất,con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của q trình tiến hóa và
phát triển lâu dài của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. Quan điểm trên của
chủ nghĩa duy vật lịch sử được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ
nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đacuyn về sự tiến
hóa của các loài. Học thuyết của Đacuyn đã khẳng định rằng giới sinh vật, kể cả
loài người là sản phẩm của sự tiến hóa. Cách đây khoảng 3,5 tỷ năm, trái đất được
bao phủ bởi đại dương mênh mông, hạt sống đầu tiên được hình thành đó là những
hạt coacervate. Từ hạt sống đầu tiên đó giới sinh vật đã phát triển một cách đa dạng
thành các cơ thể đơn bào, đa bào, thực vật, động vật. Trong thế giới sinh vật phong
phú và đa dạng ấy, có một loại động vật linh trưởng cấp cao là tổ tiên của con
người ngày nay. Thơng qua q trình đấu tranh sinh tồn và chịu sự tác động của
các nhân tố tiến hóa là di truyền, biến dị và chọn lọc tự nhiên, lồi linh trưởng ấy
đã tiến hóa thành người. Sự tiến hóa của lồi người lần lượt trải qua các dạng sau:
người vượn Australopithecus, người khéo léo Homo habilis, người đứng thẳng
Homo erectus, người thông minh Homo sapiens, người hiện đại Homo sapiens.
Vấn đề nguồn gốc của con người ngày càng được làm sáng tỏ bởi những khám phá
của khoa học hiện đại. Năm 1974, nhà nhân chủng học Donald Johanson tìm thấy
4


hóa thạch gần như nguyên vẹn của một phụ nữ tồn tại từ 3,2 triệu năm trước tại
Ethiopia và đặt tên là Lucy. Tháng 10, năm 2009, các nhà khoa học ở California Mỹ cơng bố hình ảnh hồn chỉnh về con người có niên đại cách đây 4,4 triệu năm
mang tên Ardi. Sự xuất hiện của Ardi đã làm thay đổi những hiểu biết truyền thống
về cội nguồn con người, các nhà khoa học cho rằng Ardi đứng thẳng, khơng giống

vượn, có thể là tổ tiên chung của con người và các động vật linh trưởng hiện nay.
Tiếp theo đó, ngày 9 tháng 4 năm 2010, các nhà khoa học Australia công bố kết
quả nghiên cứu hai bộ xương hóa thạch cách đây khoảng 1,75 đến 1,95 triệu năm
tìm được ở Nam Phi, bổ sung một mắt xích cịn thiếu trong q trình tiến hóa từ
người tối cổ lên người hiện đại…
Từ thuyết tiến hoá luận của Darwin đến những khám phá của khoa học hiện đại là
chặng đường dài thể hiện cố gắng của con người trong quá trình tìm hiểu chính bản
thân mình. Mặc dù các thành tựu khoa học có thể mở ra hướng mới cho việc
nghiên cứu nguồn gốc con người, song, chúng không phủ nhận mà tiếp tục xây
dựng căn cứ vững chắc cho nhận định: con người là sản phẩm của tự nhiên, của
q trình tiến hố.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, đồng thời giới tự nhiên cũng
là “thân thể vô cơ của con người”. Con người là bộ phận của giới tự nhiên nên
như mọi động vật khác con người có đầy đủ những đặc điểm mà tự nhiên ban tặng.
Con người phải dựa vào tự nhiên, tìm thức ăn, nước uống từ trong tự nhiên, đấu
tranh để tồn tại, ăn uống và sinh con đẻ cái. C.Mác viết: “Con người khơng bao giờ
thốt ly khỏi những đặc tính vốn có của vật, thành thử bao giờ cũng chỉ có thể nói
đến việc những đặc tính ấy có ít hay nhiều đến sự chênh lệch về mức độ thú tính và
tính người mà thơi”. Bởi mang các đặc điểm tự nhiên - sinh học, nên con người
còn bị hạn chế bởi những đối tượng tự nhiên – thân thể vơ cơ ở bên ngồi. Những
biến đổi của tự nhiên và những quy luật tự nhiên (đồng hóa, dị hóa, di truyền, biến
dị, thích nghi, sinh, lão, bệnh, tử) trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định
sự tồn tại của con người và xã hội loài người. Diễn đạt quan niệm trên, C.Mác viết:
“Thực thể không có tự nhiên ở bên ngồi nó thì khơng phải là thực thể tự nhiên, nó
khơng tham gia vào đời sống tự nhiên”. Bên cạnh đó, với tư cách là thực thể tự
5


nhiên, con người bằng hoạt động của mình cũng ln tác động ngược lại với tự
nhiên, làm thay đổi tự nhiên. Điều này thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa con

người với những tồn tại khác của giới tự nhiên.
b. Bản tính xã hội của con người
Mặc dù mang bản tính tự nhiên, song con người khơng đồng nhất với các tồn tại
khác của tự nhiên mà còn mang bản tính xã hội. C.Mác viết: “Nhưng con người
khơng chỉ là thực thể tự nhiên, nó là thực thể tự nhiên có tính chất người”. Bản tính
xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa
đây là bản tính đặc thù của con người.Bản tính xã hội của con người được phân
tích từ những khía cạnh sau:
Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, lồi người khơng phải chỉ có nguồn
gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà cịn có nguồn gốc xã hội
của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động.Chủ nghĩa duy vật lịch sử
đã phân tích vai trị của lao động và khẳng định lao động là yếu tố quyết định sự
hình thành bản tính xã hội ở con người, nhờ đó mà con người có khả năng vượt
qua những tồn tại tự nhiên khác vươn lên đứng đầu trong giới sinh vật. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức,
bằng tơn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu
bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư
liệu sinh hoạt của mình”. Con người chỉ có thể tồn tại khi được thoả mãn những
nhu cầu tự nhiên - sinh học, tuy nhiên các tư liệu để thoả mãn nhu cầu đó khơng có
sẵn trong giới tự nhiên, bởi thế con người phải lao động, sáng tạo và khơng ngừng
sáng tạo. Chính q trình lao động đã hồn thiện mặt tự nhiên, xây dựng nền tảng
sinh học vững chắc cho bản tính xã hội của con người. Thông qua lao động, con
người đã hình thành tư duy – ý thức, con người bằng hoạt động thực tiễn đã tác
động vào các đối tượng hiện thực, buộc chúng phải bộc lộ các thuộc tính, quy luật
vận động để con người nhận thức. Cũng nhờ lao động, ngôn ngữ xuất hiện để đáp
ứng nhu cầu trao đổi tư tưởng, kinh nghiệm của con người và trở thành phương
tiện hữu hiệu để con người thiết lập, phát triển các mối quan hệ xã hội.
6



Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của lồi người ln ln
bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội là hình thức vận
động cao nhất của thế giới vật chất, hình thái này lấy con người và sự tác động qua
lại giữa người với người làm nền tảng. Con người là bộ phận căn bản nhất của xã
hội nên mỗi sự chuyển biến của xã hội đều ghi những dấu ấn nhất định lên con
người, các quy luật xã hội vẫn luôn tác động ngồi ý chí và nguyện vọng của con
người. Những nhân tố, quy luật xã hội có ảnh hưởng đến con người đó là kinh tế,
chính trị, văn hóa…, là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật về sự phù hợp giữa cơ sở hạ tầng với
kiến trúc thượng tầng, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, các quy luật về giai cấp và đấu tranh giai cấp….
Như vậy, sự tồn tại bản tính tự nhiên của con người không chỉ bác bỏ quan
niệm siêu nhiên về nó mà cịn khẳng định con người là sản phẩm của q trình tiến
hóa tự nhiên, chính tự nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Bản tính xã hội của con người chỉ được hình thành dựa trên một nền tảng tự nhiên
– sinh học vững chắc, song đến lượt mình, bản tính xã hội quay lại tác động hồn
thiện mặt tự nhiên trong con người. Trên thực tế, mặc dù có có những nét chung
với động vật, chẳng hạn như những đặc điểm về cơ cấu và chức năng của cơ thể,
đặc tính di truyền… song, bản tính tự nhiên trong con người khơng cịn ngun
dạng như trong động vật, mà nhờ mặt xã hội, những nét chung ấy đã được cải tạo
và phát triển ở trình độ cao hơn. Những vấn đề đã trình bày ở trên cho thấy tính
thống nhất biện chứng giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của con người.
Bản tính tự nhiên đã được nhân hố để mang giá trị văn minh lồi người, cịn bản
tính xã hội thì khơng thể thốt ly tiền đề tự nhiên - sinh học, hai mặt đó hoà quyện
với nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên – xã hội.

1.2.2. Bản chất của con người
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất,
"bản tính người" của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là
những quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí . Bản chất của con

7


người khơng phải là cái gì có sẵn, mà có q trình hình thành, phát triển và hồn
thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người.
a. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những quan hệ
xã hội.
Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, sự tồn tại bản tính tự nhiên trong con người là một
tất yếu khách quan, song để nhận thức được bản chất con người phải xuất phát từ
chính đời sống con người, từ những quan hệ xã hội. Bởi vậy, trong luận đề thứ sáu
của tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã viết: “Bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Luận đề của C.Mác khẳng định rằng cần phải chấm dứt các cuộc tranh luận chung
chung, trừu tượng về con người, mà phải đặt con người “trong tính hiện thực của
nó”. Bản chất con người khơng phải là cái gì đó cao siêu, bên ngồi con người
“tách khỏi bản thân nó để lên ở trên mây thành một vương quốc độc lập”, mà nằm
ngay trong chính đời sống hiện thực đầy sống động của con người. Vì vậy, nghiên
cứu con người phải gắn với điều kiện lịch sử, với hoàn cảnh sống cũng như quá
trình hoạt động để tồn tại và phát triển của con người.. Đây chính là sự vận dụng
quan điểm lịch sử - cụ thể của chủ nghĩa duy vật biện chứng vào việc phân tích lịch
sử xã hội lồi người. Chỉ trên cơ sở phương pháp luận ấy mới có thể lý giải chính
xác bản chất con người cũng như tìm kiếm con đường giải phóng con người, khắc
phục những bế tắc của chủ nghĩa duy tâm tư biện và chủ nghĩa duy vật siêu hình,
máy móc.
Bản chất con người do những quan hệ xã hội của con người quy định. Con người
“trong tính hiện thực của nó” tồn tại một cách cụ thể bằng hoạt động lao động sản
xuất, chinh phục tự nhiên, đấu tranh giai cấp, cải tạo xã hội… Bằng những hoạt
động đó, con người tạo dựng, thiết lập đồng thời tham gia vào các quan hệ xã hội.
Đây là những mối liên hệ vô cùng đa dạng và phong phú, là sợi dây gắn kết con

người, các cộng đồng người .Ví dụ, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ
8


dân tộc, quan hệ tôn giáo, quan hệ nghề nghiệp, quan hệ kinh tế, quan hệ chính
trị…. Bản thân những quan hệ xã hội không độc lập, riêng rẽ mà đan xen, hoà
quyện, tác động qua lại và trở thành yếu tố quan trọng cấu thành xã hội. Bởi vậy,
“tổng hồ những quan hệ xã hội” khơng có nghĩa là một phép cộng giản đơn, tổng
số các quan hệ xã hội mà là sự khái quát tất cả các quan hệ xã hội trong sự tương
tác, gắn bó, thâm nhập lẫn nhau. Có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu về tổng hoà
những quan hệ xã hội. Nếu xét theo thời gian thì bao gồm những quan hệ con
người đã có, đang có và sẽ có (quá khứ - hiện tại – tương lai). Nhưng nếu xét theo
loại quan hệ thì bao gồm quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần. Và nếu xét theo
tính chất thì bao gồm quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên, ngẫu nhiên, ổn định,
không ổn định.
Là thành viên của xã hội, con người chịu tác động mạnh mẽ của các quan hệ xã
hội, thông qua các quan hệ xã hội mà con người hình thành và bộc lộ bản chất của
mình. Chính sự tác động của các quan hệ xã hội đã kết tinh và định hình ở con
người năng lực hoạt động thực tiễn, tư duy, sự tự ý thức và đánh giá và điều chỉnh
hành vi. Con người ở trong hoàn cảnh, trong những mối quan hệ xã hội nào thì sẽ
định hình bản chất đó. Bởi vậy, nếu tách rời các mối quan hệ xã hội, thì con người
sẽ khơng thể trở thành người theo nghĩa đích thực - “con người viết hoa”. Nhấn
mạnh điều này, C.Mác viết: “Bản chất con người tự nhiên chỉ tồn tại đối với con
người xã hội…chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con người mới là tồn tại có
tính người”.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội khơng có nghĩa là phủ
nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn
tại trong sự thống nhất với mặt xã hội, ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh
vật ở con người cũng đã mang tính xã hội.
Có thể nói, con người khơng thể tách rời xã hội, tách rời các mối quan hệ xã hội

mà cùng với xã hội khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển ý thức. Vì thế,
có thể khẳng định rằng, khơng có con người trừu tượng, thốt ly mọi điều kiện,
hồn cảnh lịch sử xã hội mà con người ln cụ thể, xác định, sống trong một điều
9


kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. C.Mác đã viết: “Con người
không phải là một sinh vật trừu tượng đâu đó ẩn nấp ngồi thế giới. Con người
chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội”.
b. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con người.
Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu
sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử –
xã hội.
C. Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là
sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục… cái học thuyết ấy quên rằng
chính những con người làm thay đổi hồn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần
phải được giáo dục”.
Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn
gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay
của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà
chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề
biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con
vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra
lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động
vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của
lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con
người thì trái lại, thơng qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm
thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trong

q trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là
sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân
con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con
người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở
10


nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh
thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu
do con người đặt ra. Khơng có hoạt động của con người thì cũng khơng tồn tại quy
luật xã hội, và do đó, khơng có sự tồn tại của tồn bộ lịch sử xã hội lồi người.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát
triển nhất định của xã hội.
Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn
luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không
phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại
của con người. Mặc dù là “tổng hịa các quan hệ xã hội”, con người có vai trị tích
cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thơng qua đó, bản chất
con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động
và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự
vận động và biến đổi của bản chất con người.
Tóm lại, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh đó chính là tồn bộ
mơi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thơng qua đó, con người tiếp nhận hồn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: Hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng
của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch

sử xã hội loài người.
1.2.3 Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người có thể rút ra một
số ý nghĩa phương pháp luận quan trọng sau đây:

11


Một là,để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì khơng thể đơn
thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết
định là phải từ phương diện bản tính xã hội, từ những quan hệ xã hội tạo nên bản
chất con người. Chỉ khi đặt con người vào chính điều kiện, hồn cảnh lịch sử cụ
thể, vào những quan hệ xã hội đang tác động, chi phối con người mới có thể đưa ra
những nhận định đúng đắn về con người. Chẳng hạn như sự hạn chế năng lực sáng
tạo của những con người tiểu nông không thể trả lời từ bản tính tự nhiên của họ mà
phải từ sự hạn chế trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế - chính trị - văn hố
của xã hội tiểu nơng.
(Ví dụ: Người nơng dân Việt Nam từ nhiều đời đã gắn bó với nền sản xuất nơng
nghiệp nhỏ, manh mún, tự cung, tự cấp, bó hẹp trong phạm vi làng xã, cộng đồng
tự giám sát lẫn nhau thơng qua dư luận xã hội… chính điều đó đã làm nảy sinh một
số hạn chế như tư tưởng cục bộ dòng họ, xem thường pháp luật “phép vua thua lệ
làng”, khả năng hạch toán kinh tế kém cỏi, thiếu chuẩn xác về thời gian, tâm lý cầu
an, cầu may, coi trọng kinh nghiệm, coi thường lý luận…).
Hai là,động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực
sáng tạo nên lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi
con người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự
tiến bộ và phát triển của xã hội. Đối với Việt Nam hiện nay, để phát huy nguồn lực
con người, cần phải xây dựng ở con người những phẩm chất sau:
1. Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn

kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
2. Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
3. Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa tôn
trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái.
12


4. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất
cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
5. Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình độ thẩm
mỹ và thể lực.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử
của nó phải hướng vào giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. Giải phóng con
người chính là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa Mác – Lênin, ngay từ năm 1835,
trong Những suy tư của một chàng trai trong việc lựa chọn nghề nghiệp, C.Mác đã
viết: “… kim chỉ nam chủ yếu phải định hướng cho chúng ta trong việc lựa chọn
nghề nghiệp là phúc lợi của loài người, là sự hoàn thiện của chính chúng ta…; kinh
nghiệm ca ngợi những ai đem lại hạnh phúc cho một số lượng người nhiều nhất là
người hạnh phúc nhất”. Tư tưởng chủ đạo của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do
C.Mác và Ph.Ăngghen chấp bút đó là: “vĩnh viễn giải phóng tồn thể xã hội khỏi
ách bóc lột, ách áp bức” . Thực sự, giải phóng con người là khát vọng của nhân
loại và cũng là vấn đề được nhiều học thuyết đưa ra, song vì chưa lý giải đúng đắn
bản chất con người nên không tìm ra được con đường hợp lý và đúng đắn
(Ví dụ: Các tôn giáo coi cuộc đời con người chỉ là tạm bợ, “sống gửi, thác về” nên
chủ trương giải thốt bằng con đường tu hành, giải phóng về mặt tinh thần, tìm
hạnh phúc ở kiếp sau chứ khơng phải trong đời sống hiện thực).
Theo chủ nghĩa Mác, bản chất con người được hình thành trong các mối quan hệ
xã hội và thay đổi khi các mối quan hệ xã hội thay đổi. Vì vậy, để phát triển bản

chất con người theo hướng tích cực, cần phải giải phóng họ khỏi những quan hệ xã
hội tiêu cực đang đè nặng, đồng thời, tạo ra những quan hệ xã hội tích cực
(Ví dụ: Để giáo dục một đứa trẻ trở thành người có ích cho xã hội thì phải quan
tâm xây dựng những mối quan hệ xã hội tích cực như: Gia đình đầm ấm, hạnh
phúc, quan hệ bạn bè, nhà trường, thầy cô trong sáng, xã hội văn minh. Trong công
tác cải tạo người lầm lỗi, những quan hệ xã hội tích cực mà chúng ta cần tạo ra đó
là một môi trường lành mạnh để họ học tập, cải tạo, khi họ trở về với xã hội thì
13


phải tiếp nhận họ một cách chân tình, khơng phân biệt đối xử, tạo công ăn việc làm
cho họ… điều đó sẽ làm bản chất của họ trở nên tốt đẹp hơn).
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định trong những xã hội tồn tại quan hệ áp bức,
bóc lột lao động của con người bị tha hoá, người lao động đánh mất mình trong
hoạt động người, nhưng lại tìm lại mình trong hoạt động vật. Tức là con người chỉ
là chính mình khi thực hiện những hoạt động mang tính chất bản năng, tự nhiên
nhưng khi lao động - thực hiện hoạt động mang tính người thì tự bản thân con
người tách ra khỏi sản phẩm mình làm ra và nơ dịch cho nó. C. Mác viết: “Tính tha
hố của lao động biểu hiện ở chỗ là một khi không còn sự cưỡng bức lao động về
thể xác hoặc về mặt khác thì người ta trốn tránh lao động như trốn tránh bệnh dịch
hạch vậy”. Bởi vậy, sự nghiệp giải phóng con người sẽ bắt đầu bằng việc xố bỏ
các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức, bóc lột đang trói buộc làm tha hố con người
và xây dựng những quan hệ xã hội mang tính nhân đạo, nhân văn. Cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa chính là hành động thực tiễn của con người để thực hiện mục tiêu
đó, chính cuộc cách mạng này đã xác lập và phát triển một xã hội tự do – xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa – mà sự tự do sáng tạo của người này trở thành
điều kiện cho sự tự do, sáng tạo của người khác, “mỗi người vì mọi người, mọi
người vì mỗi người”. Vì lý do đó, chiến lược phát triển và giải phóng con người
của Việt Nam hiện nay đã thể hiện nhất quán việc kiên định con đường xã hội chủ
nghĩa, phát triển kinh tế, giải phóng con người khỏi sự thao túng của những quan

hệ xã hội cũ đã lỗi thời, đẩy mạnh giáo dục và đào tạo, xây dựng nền văn hố tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tóm lại, với quan niệm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử đã khẳng định: con người là một thực thể thống nhất giữa phương
diện tự nhiên và phương diện xã hội; bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội. Nếu như các trường phái triết học phi mácxít xem xét con người một
cách trừu tượng, tìm bản chất con người từ những lực lượng siêu nhiên hoặc đề cao
bản chất tự nhiên vơ tình hạ thấp con người xuống hàng động vật thì triết học Mác
đã xem xét con người một cách hiện thực trong các quan hệ xã hội, nhấn mạnh sự
phân biệt giữa con người với thế giới loài vật nhưng khơng bỏ qn bản tính tự
14


nhiên – sinh học của con người. Luận đề “trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội” đã tạo ra một bước ngoặt trong lịch sử
triết học khi nghiên cứu về con người, mở đường cho sự nghiệp giải phóng con
người. Có thể nói, trong triết học Mác – Lênin, con người được đặt vào đúng vị trí
mà nó phải có, đó là con người tự nhiên - xã hội, song, con người bằng hoạt động
thực tiễn của mình đã tác động vào tự nhiên - xã hội, làm chủ nó và sáng tạo ra lịch
sử của chính con người.

CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐCSVN VỀ VIỆC PHÁT HUY
NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM
2.1. Tầm quan trọng của yếu tố con người trong công cuộc đổi mới ở
Việt Nam.
Vào thời điểm khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với cả thế giới rằng con người có những quyền cơ
bản là quyền được sống và mưu cầu hạnh phúc. Khi đất nước còn đang phải đối
mặt với vơ vàn khó khăn, Bác cũng đã khẳng định rằng ham muốn tột bậc của

Người là “làm sao cho dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”. Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện
truyền thống nhân văn, nhân đạo và chú trọng yếu tố con người của dân tộc Việt
Nam.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nhân tố con người, nhưng theo một nghĩa
chung nhất: “Nhân tố con người là tổng thể các yếu tố có liên quan đến con người,
là sự thống nhất biện chứng giữa các mặt chủ quan và khách quan để tạo nên năng
lực, phẩm chất và trí tuệ của con người được hình thành và phát huy tác dụng vào
trong thực tiễn sản xuất vật chất hay quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
cộng đồng, quốc gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định”.

15


Khi nói đến nhân tố con người là nói tới mặt hoạt động của con người, đó là mặt cơ
bản nhất, quyết định mọi thuộc tính, mọi biểu hiện đặc trưng của con người. Sự tác
động của nhân tố con người có ý nghĩa quyết định đến tồn bộ tiến trình phát triển
lịch sử. Quá trình hình thành tiến bộ xã hội khơng phải là một q trình tự động,
mà phải thông qua hoạt động của mọi người trong xã hội. Vì vậy, phát triển tồn
diện con người là mục tiêu cao nhất, quan trọng nhất của mỗi quốc gia, là động lực
để phát triển xã hội.
Con người vừa là chủ nhân sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, hồn thiện
ngay chính bản thân mình, đồng thời con người cịn là chủ thể sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn tài sản vô giá ấy. Trong lực lượng sản xuất, chỉ có con người có tri thức
mới có thể làm thay đổi được cơng cụ sản xuất, tác động vào đối tượng sản xuất
làm cho sản xuất ngày càng phát triển với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
Chính con người mới là chủ nhân, là yếu tố quan trọng nhất làm thay đổi quan hệ
sản xuất và các quan hệ xã hội khác, nhằm mục đích ngày càng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của con người và toàn xã hội. Trong quá trình tồn tại và phát
triển, con người khơng ngừng tác động vào tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên, qua đó

làm biến đổi chính bản thân con người. Chỉ có con người mới có khả năng tạo ra
văn hóa và văn minh, cải tạo xã hội và thông qua các hoạt động xã hội, con người
lại cải tạo chính bản thân mình. Vì vậy, con người vừa là một bộ phận của tự nhiên,
vừa là một bộ phận của xã hội.
Các văn kiện của Ðảng đã chỉ ra chiến lược xây dựng và phát triển con người Việt
Nam: Phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa, gắn nhân tố con người với xây dựng
văn hóa làm nền tảng tinh thần để từ đó phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, đồng thời tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân
cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh. Ðấy là những định hướng có tầm chiến lược, nhưng trước mắt cần khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tinh thần Ðại
16


hội XIII của Ðảng. Ðó chính là động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất
nước.
Xã hội càng phát triển thì vai trị của con người có trí tuệ càng quan trọng. Tri thức
của con người sẽ là nguồn lực, động lực chủ yếu tạo nên sự tăng trưởng trong kinh
tế tri thức của các quốc gia. Khi nền kinh tế tri thức phát triển thì nguồn lực trí tuệ
trong xã hội sẽ đóng vai trị quyết định đến sự phát triển của đất nước, chứ không
phải là vốn, tài nguyên, lao động cơ bắp. Nhận thức được tầm quan trọng của tri
thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quan điểm của Đảng ta
là: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của
con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cơng cuộc cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển trí tuệ con người Việt Nam thể hiện trong các
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.


2.2.Nhận thức của ĐCSVN về quan điểm của CNDVLS nhằm phát
huy nhân tố con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Trong thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá nhất của
mỗi quốc gia chính là con người. Vì vậy, mục đích phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo mơi trường
thuận lợi để con người có cuộc sống hạnh phúc, có sức khoẻ và có cơ hội phát huy
mọi năng lực sáng tạo. Nhận thức được điều đó, trong quá trình lãnh đạo cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định vai trò đặc biệt của nhân tố con người với tính cách là động lực của sự
phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Đảng ta
khơng ngừng đưa ra những chủ trương chính sách để phát huy nhân tố con người
trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Đảng và Nhà nước ta đã có chiến lược đào tạo, phát triển nguồn lực con người Việt
Nam. Từ khi đổi mới (1986) đến nay, các Đại hội Đảng đều đặc biệt quan tâm tới
17


giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển con người
Việt Nam. Ngày 19-4-2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
579/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 2020. Trong đó nêu rõ: mỗi bộ, ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch
phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của
mình. Chiến lược được triển khai thực hiện bằng các biện pháp, hành động cụ thể,
tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả một số cơ chế, chính sách ưu đãi trong
cơng tác đào tạo và thu hút nhân tài (chế độ tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, điều
kiện và các phương tiện làm việc)... nhằm tránh tình trạng chảy máu chất xám. Đặc
biệt là xây dựng và phát triểnđội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý giỏi;đội ngũ chuyên
gia quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộkhoa học - công
nghệđầu đàn. Đại hội XII của Đảng xác định,phát triển, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực là một trong ba khâu đột phá quyết định sự phát triển bền vững đất nước.

Mới đây nhất, trong văn kiện đại hội thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng nhấn mạnh: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ,
nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của tồn xã hội hài hịa với lợi ích chính
đáng của con người… Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự
vì con người, chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con
người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội,
chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội”. Có thể
khẳng định, trong mọi đường lối, chiến lược phát triển của Đảng ta đều xuất phát
từ vấn đề con người, lấy con người làm trung tâm để hướng tới xây dựng một xã
hội mới với sự phát triển toàn diện của con người và tiến bộ xã hội.
Trải qua các thời kỳ khác nhau, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nhiều quan
điểm và giải pháp phát huy nhân tố con người, nhằm khơi dậy tiềm năng, sức sáng
tạo, lịng tự tơn tự hào dân tộc, nhân cách cao đẹp của con người Việt Nam để xây
dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết các kỳ đại hội của Đảng đều khẳng định:
Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao
nhất của chế độ ta.
18


Kế thừa, bổ sung và phát triển những quan điểm các kỳ đại hội trước, Đại hội Đảng
lần thứ XIII bổ sung mối quan hệ giữa lấy con người làm trung tâm - bảo đảm
quyền con người - phát triển con người tồn diện gắn bó khăng khít với mối quan
hệ giữa thực hành dân chủ, pháp quyền nhằm giữ gìn pháp chế, kỷ cương xã hội và
khối đại đồn kết toàn dân tộc.
Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước,
phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung
tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi

ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu
phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa". Có thể nói, xuyên suốt toàn bộ quan
điểm chỉ đạo, nhiệm vụ trọng tâm và chiến lược phát triển, Đảng đều đặt con
người, quần chúng nhân dân ở trung tâm của sự phát triển.
Cùng với đó, Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Khơi dậy tinh thần và ý chí,
quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường
tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự
hào, ý chí tự cường, lịng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát
vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát
huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đa
nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục
tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện, gắn kết
chặt chẽ, hài hịa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Phát triển tồn diện,
đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, mơi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa
dạng, văn minh, lành mạnh; vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa
tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần,
19


nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế”.
Với những quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng, trải qua những thời kỳ khác
nhau, mỗi người dân Việt Nam đã phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường để cùng nhau xây dựng đất nước. Đặc biệt, với tinh thần “không để ai bị bỏ
lại phía sau” trong đại dịch tồn cầu hiện nay, Đảng, Chính phủ Việt Nam đã khẳng
định tính ưu việt của chế độ, luôn coi sinh mạng, sức khỏe và cuộc sống của nhân
dân lên trên hết.

Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của con người trong chiến lược phát triển
đất nước thể hiện rõ nét trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại… Đây chính là bước hoàn thiện lý luận đổi mới
của Đảng ta về mục tiêu lấy con người – quần chúng nhân dân là mục tiêu, nguồn
lực, là chủ thể và trung tâm của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng.

2.3.Sự vận dụng quan điểm CNDVLS về con người trong thực tiễn
thông qua những chiến lược, chính sách của Đảng.
Trong quan điểm lãnh đạo của mình Đảng Cộng Sản Việt Nam ln chú
trọng vai trò của việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển. Theo
báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa XII tại Đại hội XII đã
xác định "phát triển con người toàn diện" là một trong những định hướng phát triển
đất nước bởi con người là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng
nhất của đất nước. Để hiện thực hóa những mục tiêu, đường lối đã đề ra về vấn đề
phát huy nhân tố con người trong công cuộc đổi mới, Đảng đã đề ra một số đề án,
chủ trương và hành động cụ thể với từng địa phương như sau:
Đảng quan tâm chăm lo lo công tác giáo dục bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em thiếu
niên nhi đồng. Đảng đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối
hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học, cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được
cải thiện rõ nét và từng bước hiện đại hóa. Đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa, điều
20


kiện đi học còn gặp nhiều hạn chế, Nhà nước đã cho xây dựng trường học, nơi ăn
nghỉ cho các em học sinh và phân bổ một lượng giáo viên về giảng dạy tại các khu
vực này. Vì thế, cơ hội tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là với đồng bào dân
tộc thiểu số và các đối tượng chính sách cơ bản bình đẳng trong giáo dục và đào
tạo. (Đặc biệt các tỉnh miền núi phía Bắc các huyện miền núi ở các miền Trung các
tỉnh Tây Nguyên đồng bào trong thực ở Đồng bằng sông Cửu Long,…)

Đảng Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống
và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là
thành niên. Các chương trình được tổ chức nhằm giáo dục lòng yêu nước, lòng tự
hào dân tộc ngày càng xuất hiện nhiều tại các địa phương, như hoạt động “Đền ơn
đáp nghĩa” “Uống nước nhớ nguồn” được các cấp bộ Đoàn quan tâm và thực hiện
thường xuyên trong đó nhiều cơng trình, phần việc mang ý nghĩa thiết thực như đi
thăm, tặng q gia đình chính sách; dọn vệ sinh tại các nghĩa trang,… Các cuộc thi
tìm hiểu về lịch sử truyền thống dân tộc thu hút đông đảo các thành viên tham gia.
Đảng nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị của phát triển văn hóa, xây dựng
con người trong đổi mới và phát triển bền vững. Tuyên truyền, giáo dục Đảng viên
và nhân dân nhận thức, vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp trong xây dựng văn
hóa, phát triển con người; thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác tư
tưởng, định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhằm thực hiện tốt
công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, thời
gian qua các cấp ủy đảng trên địa bàn tồn tỉnh ln tìm tịi, đổi mới nội dung,
phương thức, phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo. Sự đổi mới, sáng tạo thể hiện ở chỗ,
các cấp ủy không chỉ lãnh đạo cơng tác chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng
viên mà còn mở rộng tới cán bộ, hội viên, đồn viên và các tầng lớp Nhân dân.
Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng ln bám sát u cầu, nhiệm vụ chính trị của
tỉnh, của địa phương.Theo dõi và nắm bắt kịp thời tình hình tư tưởng của cán bộ,
đảng viên, Nhân dân trong cơ quan, đơn vị và dư luận xã hội. Tổ chức tốt công tác
giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đảng và quần chúng Nhân dân, tạo sự đồng
thuận xã hội về con đường phát triển của đất nước mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân
21


đã lựa chọn. Đặc biệt, là trong những vấn đề, những sự kiện “nóng” như: Biển
Đơng, tình trạng tranh chấp, khiếu nại về đất đai, ô nhiễm môi trường …. để cán
bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu rõ, yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước, từ đó, góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng

viên, vững vàng trước mọi khó khăn, trước những cám dỗ về vật chất, chống lại
các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Đảng đã cải cách bộ máy quản lý Nhà nước về văn hóa theo hướng tinh gọn,
hiệu quả, đảm bảo vai trị kiến tạo phát triển văn hóa, xây dựng con người. Có thể
khái quát kết quả thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19NQ/TW là đã giúp “6 giảm” và “6 tăng”. Cụ thể, “6 giảm” là: giảm đầu mối; giảm
cấp trung gian; giảm số lượng lãnh đạo; giảm biên chế; giảm thủ tục hành chính;
giảm chi cho bộ máy hệ thống chính trị. “6 tăng” bao gồm: tăng về tính khoa học
tổ chức; tăng về chất lượng cán bộ; tăng về hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị; tăng chi cho đầu tư phát triển và tăng sự đồng thuận xã hội. Trong
q trình tổ chức sắp xếp bộ máy, đã có nhiều bộ, ngành và địa phương đã triển
khai thực hiện một cách sáng tạo, năng động và hiệu quả, như Bộ Công an đã triển
khai sắp xếp tổ chức bộ máy ngành Công an tập trung, thống nhất, chuyên sâu, tinh
gọn đầu mối, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; điều chỉnh, bố trí lực lượng theo hướng
tăng cường cho cơ sở, không tổ chức cấp trung gian, nâng cao chất lượng của các
cục trực thuộc bộ. Hoặc cách triển khai sắp xếp của Bộ Tài chính cho thấy tư tưởng
của cơng chức tồn ngành rất ổn định, thể hiện qua kết quả công việc cụ thể, triển
khai các kế hoạch, nhiệm vụ chuyên môn hàng năm đều đồng bộ và đạt kết quả tốt;
ở khối địa phương Yên Bái là tỉnh có những cách làm hay, có tính điển hình và tỉnh
Quảng Ninh cũng là một trong những địa phương tiên phong, gây mẫu, điển hình
trong việc thực hiện sắp xếp, lại tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị cấp tỉnh,
huyện và xã để đem lại những hiệu quả nhất định, đưa Quảng Ninh trở thành một
trong những cực tăng trưởng kinh tế tồn diện của phía Bắc nước ta
Đảng phát triển nguồn nhân lực ngành Văn hóa, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và
các lĩnh vực then chốt. Thực hiện Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của
22


Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ
2011-2020 và Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, các
bộ, ngành và địa phương đã xây dựng, ban hành, tổ chức triển khai thực hiện chiến
lược, quy hoạch phát triển nhân lực; thực hiện nhiều giải pháp, chính sách nhằm
thu hút, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng. Nguồn nhân lực của đất nước
được tăng cường cả về quy mô và chất lượng. Lực lượng lao động cả nước tăng từ
50,4 triệu người năm 2010 lên 56,2 triệu người năm 2020. Tỷ lệ lao động qua đào
tạo từ 40% năm 2010 tăng lên khoảng 65% năm 2020(2). Nhân lực chất lượng cao
cũng tăng đáng kể, trong đó có một số ngành đạt trình độ khu vực và quốc tế như y
tế, cơ khí, cơng nghệ, xây dựng.
Đảng khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học,phát triển nhân tài,
quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh và hỗ trợ xuất bản.Quyết định
1373/QĐ-TTg là sự nối tiếp của việc thực hỉện Quyết định 89/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về “xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 -2020”. Đây là sự thể
hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về xây dựng xã hội học tập trong thời
kỳ công nghệ số; Qua 25 năm xây dựng và trưởng thành, Hội Khuyến học Việt
Nam đã phát triển mạnh mẽ, tổ chức Hội đã phủ kín tận các xã, phường, thị trấn
với trên 20,7 triệu hội viên. Nhiều khu dân cư, tổ dân phố, bản, làng, đến các dòng
họ, cơ quan, doanh nghiệp đã có các chi hội, ban khuyến học để tổ chức các hoạt
động khuyến học, khuyến tài. Điều này khẳng định sự quan tâm của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, sự đồng tình, hưởng ứng của
nhân dân cả nước đối với phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học
tập; nước ta, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (Nghị quyết số 33NQ/TW ngày 09/6/2014) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã chỉ rõ: “Phát triển cơng nghiệp
văn hóa đi đơi với xây dựng, hồn thiện thị trường văn hóa”. Năm 2016, Chính phủ
đã ban hành Chiến lược phát triển các ngành cơng nghiệp văn hóa đến năm 2020,

23



tầm nhìn đến năm 2030, trong đó cơng nghiệp điện ảnh được xác định là một trong
những ngành quan trọng.
Nhà nước đã xây dựng một số cơng trình văn hóa trọng điểm các địa phương
các cơ quan, công sở, trường học, khu cơng nghiệp, doanh nghiệp, khu dân cư như
có thiết chếvăn hóa phù hợp ( thư viện, nhà văn hóa, cơng trình thể thao…) tạo
điềukiện cho người dân tham gia hoạt động và hưởng thụ văn hóa, để khơng ai bị
bị bỏ lại phía sau về văn hóa.Theo nghị quyết của chính phủ, một số điều sau đây
là định hướng phát triển: Phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở đồng bộ, từng
bước khắc phục tình trạng chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa và vui chơi giải
trí của nhân dân. Phấn đấu đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030, hoàn thiện
và nâng cấp các trung tâm văn hóa, trung tâm văn hóa – thể thao đạt chuẩn quy
định; các khu dân cư, khu đơ thị mới, khu cơng nghiệp, khu chế xuất có trung tâm
văn hóa - thể thao, điểm vui chơi giải trí cho trẻ em; đẩy mạnh ứng dụng cơng nghệ
thơng tin trong hoạt động của các thư viện. Phấn đấu tỷ lệ thư viện huyện đạt
chuẩn là 70% vào năm 2025 và 85% vào năm 2030; hoàn thành nâng cấp thư viện
tỉnh, thành phố hiện có. Chú trọng xây dựng văn hóa đọc gắn với hệ thống giáo dục
phổ thơng và sự phát triển của các phương tiện truyền thông mới; phát triển hệ
thống trường trọng điểm đào tạo về văn hóa, nghệ thuật của Vùng; chú trọng tuyển
chọn, đào tạo và phát triển nhân lực cho các loại hình nghệ thuật truyền thống có
nguy cơ bị mai một, có tính đặc thù.

CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN SAU NGHIÊN CỨU
3.1.Đánh giá sự vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của Đảng về phát huy
nhân tố con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Công cuộc đổi mới ở nước ta không chỉ đạt được những thành tựu to lớn qua 35
năm thực hiện mà còn tiếp tục được đẩy mạnh với những nguồn lực phong phú và
hết sức to lớn, trong đó có những nguồn lực khơng bao giờ cạn trong đó khơng thể
khơng kể đến đó chính là nhân tố con người.

24



Với định hướng: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội
sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự
nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo mơi trường và điều kiện xã hội thuận lợi
nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con
người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của
đất nước”, Đảng đã cho thấy được sự quan tâm đúng mực, tầm nhìn rộng và sáng
suốt về yếu tố con người trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Những vận dụng của Đảng đã khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy cơng dân làm
giàu chính đáng, xóa đói giảm nghèo, phát triển thành cơng cuộc vận động xây
dựng “Nông thôn mới”, không để ai bị bỏ lại phía sau. Qua đó cịn giúp nhân dân
có niềm tin hơn vào Đảng và nhà nước, gắn kết mọi người đồng thời phát triển bản
sắc dân tộc đậm đà, phong phú tiến tới xu thế toàn cầu hóa, hịa nhập nhưng khơng
hịa tan.
Những vận dụng của Đảng ta về phát huy nhân tố con người trong suốt chặng
đường phát triển đất nước đã phát huy hiệu quả và đạt được nhiều thành tựu to lớn:
trình độ dân trí ngày càng cao, đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao giúp
xây dựng bộ máy chính quyền vững mạnh cũng như phát triển kinh tế. Kinh tế
cũng ngày càng khởi sắc và trên đà phát triển ổn định. Đời sống của người dân
được cải biến rõ nét, con người được tạo điều kiện phát triển toàn diện, nhân dân
ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Điều này một lần nữa khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và thể hiện sự
quan tâm, coi con người là vốn quý nhất; chăm lo cho hạnh phúc của con người là
tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, là mục tiêu
phấn đấu cao nhất của chế độ ta.

3.2Liên hệ tới sinh viên Việt Nam


25


×