Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

nguyên nhân chính của vấn đề này là ở đâu và giải quyết như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 74 trang )

Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề lội ngập đô thị không chỉ có ở những đô thị của Việt Nam nói chung
và TPHCM nói riêng mà đây là “vấn nạn” của nhiều đô thị trên thế giới, nhất là đô
thị ở các nước đang phát triển- nơi đang có quá trình đô thị hóa quá nhanh nhưng
thiếu những giải pháp quy hoạch quản lý và công trình hạ tầng thích ứng. Ngập lụt
đô thị đã gây nên những tác động không nhỏ đến sinh hoạt của người dân: ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế, ô nhiễm môi trường sống…
Vấn đề lội ngập tại đô thị Hồ Chí Minh đã là vấn đề bức xúc trong nhiều năm
qua đối với các cấp lãnh đạo và nhân dân thành phố. Mặc dù đã được sự quan tâm và
nói đến nhiều của các cơ quan quản lý, nhà lãnh đạo, báo chí, truyền thông nhưng
vấn đề ngập lụt của thành phố vẫn là bài ca muôn thuở chưa có hồi kết. Mỗi mùa
mưa về, người ta lại nghe nhiều hơn điệp khúc “ Mưa – ngập- kẹt xe” hay “ Đường
ngập, nâng đường – nhà ngập, nâng nhà”, để rồi nhà lại ngập, mãi trong vòng luẩn
quẩn.
Hàng loạt giải pháp cho vấn đề ngập lụt đô thị đã được đưa ra và thực hiện
như: cải tiến hệ thống thoát nước, nâng đường nhưng đều tỏ ra không đạt hiệu quả,
vì những giải pháp đó chỉ là những giải pháp mang tính “chống đỡ, tình thế, bị
động”. Và đã có nhiều công trình nghiên cứu và nhiều giải pháp đã được áp dụng vào
thực tế nhưng do tính chất phức tạp của vấn đề nên tình trạng ngập lụt tại thành phố
Hồ Chí Minh không những không được giải quyết mà còn có chiều hướng ngày càng
gia tăng.
Nguyên nhân chính của vấn đề này là ở đâu và giải quyết như
thế nào?
SVTH: Vũ Thị Loan - 1 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ KHU VỰC NGHIÊN CỨU THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
1.1. VỊ TRÍ, ĐỊA HÌNH
1.1.1. Vị trí


- Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong toạ độ địa lý khoảng 10
0
10' – 10
0
38 vĩ
độ bắc và 106
0
22' – 106
0
54
'
kinh độ đông, điểm cực bắc ở xã Phú Mỹ (huyện Cần
Giờ), điểm cực tây ở xã Thái Mỹ (Củ Chi) và điểm cực đông ở xã Tân An (huyện
Cần Giờ). Chiều dài của thành phố theo hướng tây bắc - đông nam là 150 km, còn
chiều tây - đông là 75km. Trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 59km đường
chim bay. Thành phố có 12km bờ biển cách thủ đô Hà Nội 1730 km (đường bộ) về
phía Nam (nguồn />- Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương,
- Phía Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh,
- Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai,
- Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
- Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.
SVTH: Vũ Thị Loan - 2 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
Hình 1: BẢN ĐỒ RANH GIỚI HÀNH CHÍNH TP.HCM
1.1.2. Điạ hình
- Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Ðông Nam
bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Ðịa hình tổng quát có dạng thấp dần từ Bắc xuống
Nam và từ Ðông sang Tây. Nó có thể chia thành 3 tiểu vùng địa hình
- Vùng cao nằm ở phía Bắc - Ðông Bắc và một phần Tây Bắc (thuộc bắc
huyện Củ Chi, đông bắc quận Thủ Ðức và quận 9), với dạng địa hình lượn sóng, độ

cao trung bình 10-25 m và xen kẽ có những đồi gò độ cao cao nhất tới 32m, như đồi
Long Bình (quận 9).
SVTH: Vũ Thị Loan - 3 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
- Vùng thấp trũng ở phía Nam-Tây Nam và Ðông Nam thành phố (thuộc các
quận 9, 8,7 và các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ). Vùng này có độ cao trung
bình trên dưới 1m và cao nhất 2m, thấp nhất 0,5m.
- Vùng trung bình, phân bố ở khu vực Trung tâm Thành phố, gồm phần lớn nội
thành cũ, một phần các quận 2, Thủ Ðức, toàn bộ quận 12 và huyện Hóc Môn. Vùng
này có độ cao trung bình 5-10m.
- Nhìn chung, địa hình Thành phố Hồ Chí Minh không phức tạp, song cũng khá
đa dạng, có điều kiện để phát triển nhiều mặt.
- Khu vực bờ hữu sông Sài gòn- Nhà bè có thể được chia ra 4 vùng với các điều
kiện địa hình khác nhau:
+ Vùng phía tây hầu hết là khu vưc diện tích đất thấp có cao độ từ +0,7 đến
+1,0m của huyện bình chánh.
+ Khu vực trung tâm cao hơn bao gồm diện tích đất của các huyện Hóc môn,
Gò vấp và khu trung tâm thành phố.
+ Vùng phía bắc ven sông Sài gòn có cao độ đất tự nhiên vào khoảng +0,6 đến
+0,8m .
+ Vùng phía nam ven sông Nhà bè bao gồm cả diện tích của huyện Cần Giuộc
và Cần Đước của huyện Long An hầu hết là vùng đất thấp với độ cao khoảng +0,6
đến +1,2m
- Bờ tả sông Sài Gòn bao gồm 2 tiểu vùng: Đông – Bắc và Đông – Nam. Phía
nam của khu vực này là đất thuộc các quận 2, quận 9 có cao độ từ +0,.6
đến +1,5m đang phát triển rất mạnh.
1.2. ÐỊA CHẤT – ĐẤT ĐAI
Ðất đai Thành phố Hồ Chí Minh được hình thành trên hai trầm tích-trầm tích
Pleieixtoxen và trầm tích Holoxen:
- Trầm tích Pleixtoxen (trầm tích phù sa cổ): chiếm hầu hết phần phía Bắc, Tây

Bắc và Ðông Bắc thành phố, gồm phần lớn các huyện Củ Chi, Hóc môn, Bắc Bình
Chánh, quận Thủ Ðức, Bắc-Ðông Bắc quận 9 và đại bộ phận khu vực nội thành cũ.
Ðiểm chung của trầm tích này, thường là địa hình đồi gò hoặc lượn sóng, cao từ 20-
SVTH: Vũ Thị Loan - 4 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
25m và xuống tới 3-4m, mặt nghiêng về hướng Ðông Nam. Dưới tác động tổng hợp
của nhiều yếu tố tự nhiên như sinh vật, khí hậu, thời gian và hoạt động của con
người, qua quá trình xói mòn và rửa trôi , trầm tích phù sa cổ đã phát triển thành
nhóm đất mang những đặc trưng riêng. Nhóm đất xám, với qui mô hơn 45.000 ha,
tức chiếm tỷ lệ 23,4% diện tích đất thành phố. Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực
phía Bắc Thành phố Hồ Chí Minh có được lượng nước ngầm khá phong phú.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, đất xám có ba loại: đất xám cao, có nơi bị bạc màu;
đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và đất xám gley; trong đó, hai loại đầu chiếm phần
lớn diện tích. Ðất xám nói chung có thành phần cơ giới chủ yếu là cát pha đến thịt
nhẹ, khả năng giữ nước kém; mực nước ngầm tùy nơi và tùy mùa biến động sâu từ 1-
2m đến 15m. Ðất chua, độ pH khoảng 4,0- 5,0. Ðất xám tuy nghèo dinh dưỡng,
nhưng đất có tầng dày, nên thích hợp cho sự phát triển của nhiều loại cây trồng nông
lâm nghiệp, có khả năng cho năng suất và hiệu qủa kinh tế cao, nếu áp dụng biện
pháp luân canh, thâm canh tốt. Nền đất xám, phù hợp đối với sử dụng bố trí các công
trình xây dựng cơ bản.
- Trầm tích Holoxen (trầm tích phù sa trẻ): tại thành phố Hồ Chí Minh, trầm tích
này có nhiều nguồn gốc-ven biển, vũng vịnh, sông biển, lòng sông và bãi bồi nên
đã hình thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm đất phù sa có diện tích 15.100 ha
(7,8%), nhóm đất phèn 40.800 ha (21,2%) và đất phèn mặn (45.500 ha (23,6). Ngoài
ra có một diện tích nhỏ khoảng hơn 400 ha (0,2%) là "giồng" cát gần biển và đất
feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò:
+ Nhóm đất phù sa không hoặc bị nhiễm phèn, phân bố ở những nơi địa hình
hơi cao khoảng 1,5-2,0m. Nó tập trung tại vùng giữa của phía Nam huyện Bình
Chánh, Ðông Quận 7, Bắc huyện Nhà Bè và một ít nơi ở Củ Chi, Hóc Môn.
Nhóm đất phù sa hai loại: đất phù sa không được bồi, có tầng loang lổ. Trong đó hai

loại đầu chiếm diện tích lớn hơn; loại sau, là đất phù sa ngọt, đất rất tốt, chỉ có
khoảng 5.200 ha (2,7%). Ðất phù sa nói chung có thành phần cơ giới từ sét trung
bình tới sét nặng. Ðất có phản ứng chua, độ pH khoảng 4,2-4,5 ở tầng đất mặt và
xuống sâu 0,5- 1,2m độ chua giảm nhiều, pH nâng lên tới 5,5-6,0. Hàm lượng mùn
trung bình, các chất dinh dưỡng khá. Là loại đất màu mỡ, thuận lợi cho phát triển
trồng lúa cao sản, chất lượng tốt.
SVTH: Vũ Thị Loan - 5 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
+ Nhóm đất phèn có hai loại: đất phèn nhiều và đất phèn trung bình. Chúng
phân bố tập trung chủ yếu ở hai vùng. Vùng đất phèn Tây Nam Thành phố, kéo dài
từ Tam Tân-Thái Mỹ huyện Củ Chi xuống khu vực Tây Nam huyện Bình Chánh -các
xã Tân Tạo, Phạm Văn Hai, Lê Minh Xuân Vùng này hầu hết thuộc loại đất phèn
nhiều (phèn nặng); đất rất chua, độ pH khoảng 2,3-3,0. Nó cùng điều kiện thành tạo
và tính chất giống như đất phèn vùng Ðồng Tháp Mười. Vùng đất phèn ven sông Sài
Gòn-Rạch Tra và bưng Sáu xã quận 9. ở đây hầu hết diện tích thuộc loại đất phèn
trung bình và ít, phản ứng của đất chua nhẹ ở tầng đất mặt, độ pH khoảng 4,5-5,0;
song giảm mạnh ở tầng đất dưới, đất rất chua, độ pH xuống tới 3,0-3,5. Ðất phèn có
thành phần cơ giới từ sét đến sét nặng, đất chặt và bí. Dưới độ sâu khoảng từ 1m trở
xuống, có nhiều xác hữu cơ nên đất xốp hơn. Ðất khá giàu mùn, chất dinh dưỡng
trung bình; song hàm lượng các ion độc tố cao, nên trên đất phèn không thích hợp
với trồng lúa. Tuy nhiên, tăng cường biện pháp thủy lợi tưới tiêu tự chảy để rửa
phèn, có thể chuyển đất canh tác từ một vụ sang hai vụ lúa .
+ Nhóm đất phèn mặn: Ở thành phố Hồ Chí Minh, nhóm đất phèn mặn là
nhóm có diện tích lớn nhất. Nó phân bố tập trung ở đại bộ phận lãnh thổ huyện Nhà
Bè và hầu như toàn bộ huyện Cần Giờ. Theo độ mặn và thời gian ngập mặn, nhóm
đất mặn được chia làm hai loại: đất phèn mặn theo mùa và đất phèn mặn thường
xuyên (còn gọi là đất mặn dưới rừng ngập mặn). Ðất phèn mặn theo mùa có diện tích
10.500 ha, phân bố ở Nhà Bè và bắc huyện Cần Giờ. Thời gian bị mặn kéo dài từ
tháng 12 đến tháng 6 hoặc tháng 7 năm sau. Ðất thịt, giàu mùn, chứa nhiều xác hữu
cơ dưới môi trường yếm khí, chất dinh dưỡng khá; phản ứng của đất từ chua đến rất

chua, pH ở độ sâu tầng sinh phèn xuống tới 2,4-2,7. Tuy nhiên, về mùa lũ, mặn bị
đẩy ra xa và nước được pha loãng trong thời gian dài 4-5 tháng; đồng thời đất có lớp
phủ phù sa dày tới 20-30 cm, nên vẫn cấy được một vụ lúa với năng suất khoảng 2,0-
2,0 tấn/ha. Ðể đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, vùng này đã và đang chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi và phương thức canh tác-các loài cây ăn quả, cây rừng, nuôi
tôm theo các mô hình nông-lâm ngư kết hợp.
+Ðất mặn dưới rừng ngập mặn: Loại đất này rộng 35.000 ha, chiếm phần lớn
diện tích huyện Cần Giờ. Ðất thịt trung bình, màu xám đen, nhiều mùn nhão lẫn xác
hữu cơ bán phân giải, bị ngập triều thường ngày, nói chung đất còn ở dạng bùn lỏng
SVTH: Vũ Thị Loan - 6 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
chưa cố định, giàu chất dinh dưỡng, độ pH tầng đất trên 5,8-6,5. Ðất ngập mặn, phù
hợp với duy trì và phát triển các loại cây rừng ngập mặn, nhằm giữ bờ lấn biển, bảo
vệ môi trường cảnh quan, phục vụ phát triển du lịch sinh thái và nuôi dưỡng hệ sinh
thái giàu tiềm năng ở vùng ven biển phía nam của thành phố.
Nhược điểm chung của hai loại đất phèn, mặn là nền đất yếu, nhất là đất phèn
mặn thường xuyên; do đó có mặt hạn chế trong xây dựng cơ bản, phát triển cơ sở hạ
tầng kỹ thuật.
1.3. NGUỒN NƯỚC VÀ THUỶ VĂN
1.3.1. Nguồn nước
Nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh
có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch rất phát triển:
- Sông ngòi: Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có sông Sài Gòn đi qua
Thành phố dài 106km. Ngoài ra, còn có sông Đồng Nai. Có mạng lưới sông rạch
chằng chịt gồm 7.880km kênh rạch chính, khoảng 33.500ha diện tích mặt nước, diện
tích vùng đất thấp có cao độ dưới 2m bao gồm cả diện tích mặt nước chiếm 61%
diện tích tự nhiên, nằm ở vùng cửa sông với nhiều công trình điều tiết lớn ở thượng
nguồn như hồ Dầu Tiếng trên sông Sài Gòn, hồ Trị An trên sông Đồng Nai
- Kênh rạch: Ngoài trục các sông chính kể trên ra, thành phố còn có mạng lưới
kênh rạch chằng chịt, như ở hệ thống sông Sài Gòn có các rạch Láng The, Bàu Nông,

rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé,
Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hũ, Kênh Ðôi và ở phần phía Nam Thành phố thuộc địa bàn
các huyện Nhà Bè, Cần Giờ mật độ kênh rạch dày đặc; cùng với hệ thống kênh cấp
3-4 của kênh Ðông-Củ Chi và các kênh đào An Hạ, kênh Xáng, Bình Chánh đã giúp
cho việc tưới tiêu kết quả, giao lưu thuận lợi và đang dần dần từng bước thực hiện
các dự án giải tỏa, nạo vét kênh rạch, chỉnh trang ven bờ, tô điểm vẻ đẹp cảnh quan
sông nước, phát huy lợi thế hiếm có đối với một đô thị lớn.
- Nước ngầm: ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhìn chung khá phong phú tập trung
ở vùng nửa phần phía Bắc-trên trầm tích Pleixtoxen; càng xuống phía Nam (Nam
SVTH: Vũ Thị Loan - 7 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
Bình Chánh, quận 7, Nhà Bè, Cần Giờ)-trên trầm tích Holoxen, nước ngầm thường
bị nhiễm phèn, nhiễm mặn.
1.3.2. Thủy văn
- Về thủy văn, hầu hết các sông rạch TP.HCM đều chịu ảnh hưởng dao động
triều bán nhật của biển Ðông. Mỗi ngày, nước lên xuống hai lần, theo đó thủy triều
thâm nhập sâu vào các kênh rạch trong thành phố, gây nên tác động không nhỏ đối
với sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành.
TP.HCM chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ văn của hệ thống sông Sài Gòn- Đồng Nai.
- Mực nước triều bình quân cao nhất là 1,10m. Tháng có mực nước cao nhất là
tháng 10-11, thấp nhất là các tháng 6-7. Về mùa khô, lưu lượng của nguồn các sông
nhỏ, độ mặn 4% có thể xâm nhập trên sông Sài Gòn đến quá Lái Thiêu, có năm đến
đến tận Thủ Dầu Một và trên sông Ðồng Nai đến Long Ðại. Mùa mưa lưu lượng của
nguồn lớn, nên mặn bị đẩy lùi ra xa hơn và độ mặn bị pha loãng đi nhiều
- Từ khi có các công trình thủy điện Trị An và thủy lợi Dầu Tiếng ở thượng
nguồn, chế độ chảy tự nhiên chuyển sang chế độ chảy điều tiết qua tuốt bin, đập tràn
và cống đóng-xả, nên môi trường vùng hạ du từ Bắc Nhà Bè trở nên chịu ảnh hưởng
của nguồn, nói chung đã được cải thiện theo chiều hướng ngọt hóa. Dòng chảy vào
mùa kiệt tăng lên, đặc biệt trong các tháng từ tháng 2 đến tháng 5 tăng 3-6 lần so với
tự nhiên. Vào mùa mưa, lượng nước được điều tiết giữ lại trên hồ, làm giảm thiểu

khả năng úng lụt đối với những vùng trũng thấp; nhưng ngược lại, nước mặn lại xâm
nhập vào sâu hơn. Tuy nhiên, nhìn chung, đã mở rộng được diện tích cây trồng bằng
việc tăng vụ mùa canh tác. Ngoài ra, việc phát triển các hệ thống kênh mương, đã có
tác dụng nâng cao mực nước ngầm trên tầng mặt lên 2-3m, tăng thêm nguồn cung
cấp nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của thành phố.
1.4. KHÍ HẬU VÀ THỜI TIẾT
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo.
Cũng như các tỉnh ở Nam bộ, đặc điểm chung của khí hậu-thời tiết TPHCM là nhiệt
độ cao đều trong năm và có hai mùa mưa - khô rõ ràng làm tác động chi phối môi
trường cảnh quan sâu sắc. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12
SVTH: Vũ Thị Loan - 8 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 27,55
0
C, không có mùa đông. Theo
tài liệu quan trắc nhiều năm của trạm Tân Sơn Nhất, qua các yếu tố khí tượng chủ
yếu; cho thấy những đặc trưng khí hậu Thành Phố Hồ Chí Minh như sau:
- Lượng mưa cao, bình quân/năm 1.949 mm. Năm cao nhất 2.718 mm (1908) và
năm nhỏ nhất 1.392 mm (1958). Số ngày mưa trung bình/năm là 159 ngày. Khoảng
90% lượng mưa hàng năm tập trung vào các tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11;
trong đó hai tháng 6 và 9 thường có lượng mưa cao nhất. Các tháng 1,2,3 mưa rất ít,
lượng mưa không đáng kể. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố
không đều, có khuynh hướng tăng dần theo trục Tây Nam - Ðông Bắc. Ðại bộ phận
các quận nội thành và các huyện phía Bắc thường có lượng mưa cao hơn các quận
huyện phía Nam và Tây Nam.
- Ðộ ẩm tương đối của không khí bình quân/năm 79,5%; bình quân mùa mưa
80% và trị số cao tuyệt đối tới 100%; bình quân mùa khô 74,5% và mức thấp tuyệt
đối xuống tới 20%.
- Về gió, Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính và chủ
yếu là gió mùa Tây - Tây Nam và Bắc - Ðông Bắc. Gió Tây -Tây Nam từ Ấn Ðộ

Dương thổi vào trong mùa mưa, khoảng từ tháng 6 đến tháng 10, tốc độ trung bình
3,6m/s và gió thổi mạnh nhất vào tháng 8, tốc độ trung bình 4,5 m/s. Gió Bắc- Ðông
Bắc từ biển Đông thổi vào trong mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 2, tốc độ
trung bình 2,4 m/s. Ngoài ra có gió tín phong, hướng Nam - Ðông Nam, khoảng từ
tháng 3 đến tháng 5 tốc độ trung bình 3,7 m/s. Về cơ bản TPHCM thuộc vùng không
có gió bão. Năm 1997, do biến động bởi hiện tượng El-Nino gây nên cơn bão số 5,
chỉ một phần huyện Cần Giờ bị ảnh hưởng ở mức độ nhẹ.
- Lượng bức xạ dồi dào, trung bình khoảng 140 Kcal/cm
2
/năm; số giờ nắng trung
bình/tháng 160-270 giờ. Nhiệt độ không khí trung bình 27
O
C; nhiệt độ cao tuyệt đối
40
O
C, nhiệt độ thấp tuyệt đối 13,8
O
C. Tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất là tháng
4 (28,8
O
C), tháng có nhiệt độ trungbình thấp nhất là khoảng giữa tháng 12 và tháng 1
(25,7
O
C). Hàng năm có tới trên 330 ngày có nhiệt độ trung bình 25-28
O
C. Điều kiện
nhiệt độ và ánh sáng như vậy, rất thuận lợi cho sự phát triển các chủng loại cây trồng
SVTH: Vũ Thị Loan - 9 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
và vật nuôi đạt năng suất sinh học cao; đồng thời đẩy nhanh quá trình phân hủy chất

hữu cơ chứa trong các chất thải, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường đô thị.
Khí hậu bình quân của Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Trung bình cao °C (°F)
32
(90)
33
(91)
34
(93)
34
(93)
33
(91)
32
(90)
31
(88)
32
(90)
31
(88)
31
(88)
30
(86)
31 (88)
Trung bình thấp °C (°F)
21
(70)

22
(72)
23
(73)
24
(75)
25
(77)
24
(75)
25
(77)
24
(75)
23
(73)
23
(73)
22
(72)
22 (72)
Lượng mưa mm (inch)
14
(0.6)
4
(0.2)
12
(0.5)
42
(1.7)

220
(8.7)
331
(13)
313
(12.3)
267
(10.5)
334
(13.1)
268
(10.6)
115
(4.5)
56
(2.2)
Bảng 1: Khí hậu bình quân ở TP.HCM
Nguồn: Đại sứ quán Việt Nam tại London

26 tháng 2 năm 2008.
1.5. DIỆN TÍCH
- Diện tích toàn Thành phố là 2.095,239 km
2
, trong đó nội thành là 140,3km2 còn
lại là ngoại thành. Độ cao trung bình so với mặt nước biển: nội thành là 5m, ngoại
thành là 16m. (nguồn /> - Gồm 24 quận, huyện (Quận 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12, Gò Vấp, Tân Bình, Phú
Nhuận, Bình Thạnh, Thủ Đức, Tân Phú, Bình Tân, Huyện gồm có: Bình Chánh, Hóc
Môn, Củ Chi, Cần Giờ, Nhà Bè).
- Dự kiến đến năm 2020 TP sẽ mở rộng lên diện tích 650 km2, chiếm 31% tổng
diện tích tự nhiên, với tổng dân số 10 triệu người.

1.6. DÂN SỐ
Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 Thành phố Hồ Chí Minh có dân số
7.123.340 người ( Báo cáo 13 tháng 8, 2009. “Công bố kết quả sơ bộ tổng điều tra
dân số và nhà ở năm 2009”. Trang điện tử chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam. Chính phủ Việt Nam. Truy cập 15 tháng 8, 2009) , gồm 1.812.086
hộ dân, bình quân 3,93 người/hộ. Phân theo giới tính: Nam có 3.425.925 người
chiếm 48,1%, nữ có 3.697.415 người chiếm 51,9% . Dân số thành phố tăng nhanh,
trong 10 năm từ 1999-2009 dân số thành phố tăng thêm 2,086.185 người, bính quân
SVTH: Vũ Thị Loan - 10 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
tăng gần 209.000 người/năm, tốc độ tăng 3,53%/năm, chiếm 22% số dân tăng thêm
của cả nước trong vòng 10 năm.
1.7. QUY HOẠCH VÀ KẾT CẤU ĐÔ THỊ
Theo thiết kế đô thị ban đầu của người Pháp vào năm 1860, thành phố Sài Gòn
sẽ là nơi sinh sống cho 500.000 dân. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tăng
qui mô của thành phố lên đến 3 triệu dân. Tuy nhiên hiện nay thành phố này có
dân số kể cả số lượng khách vãng lai là 10 triệu người, kết cấu đô thị đã quá tải
(“Giải pháp giao thông TP.HCM: Chỉ là đối phó”. VietnamNet -27 tháng 11
năm 2007). Sài Gòn từng là thành phố của cây xanh với không gian kiến trúc
theo quy hoạch của Pháp trước đây đã thay đổi với việc thu hẹp không gian
xanh để xây dựng nhà cửa, không gian kiến trúc thành phố này trở nên chật
chội với nhiều công trình xây dựng hỗn độn thiếu tính thống nhất (“Không
gian đô thị thành phố Hồ Chí Minh (Phần 2)”. Đài truyền hình Việt Nam
-25 tháng 5 năm 2005). Công tác quy hoạch có nhiều bất cập và yếu kém. Đến
thời điểm đầu năm 2008 mới chỉ có 23% khối lượng công tác quy hoạch 1/2000
được thực hiện. Quy hoạch cho hệ thống công trình ngầm vẫn chưa được thực
hiện xong (“TP. Hồ Chí Minh – Ngán ngẩm với quy hoạch”- Báo Lao Động
8 tháng 1 năm 2008) Công tác xây quy họach và xây dựng đô thị mới vẫn
mang nặng tư duy thời kỳ bao cấp. Trong 10 năm gần đây, khu vực đô thị mới

để lại dấu ấn lớn trong quá trình phát triển thành phố này là khu đô thị mới Phú
Mỹ Hưng do nước ngoài đầu tư xây dựng, không phải là những quận, huyện
được chính quyền địa phương thành lập (“Quy hoạch TP.HCM chưa xứng
tầm”. Thư viện pháp luật -2 tháng 5 năm 2008).
1.8. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành
phố chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng
sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài. (Số liệu
2005 trên trang của Thành phố). Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có
4.344.000 lao động, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn
SVTH: Vũ Thị Loan - 11 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
đang tham gia làm việc (Nguồn lao động trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh). Năm 2008, thu nhập bình quân đầu người ở thành phố đạt 2.534 USD/năm,
cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 1024 USD/năm.
- Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ,
thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính Cơ
cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm
44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch
vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm
47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%( Chỉ tiêu tổng hợp giai
đoạn 2001 - 2006, trên trang của Thành phố).
- Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp Thành phố Hồ
Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư
nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ USD và 19,5 nghìn tỉ VND (Trang của
Ban quản lý các khu chế xuất và công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh). Thành phố
cũng đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2.530 dự án
FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 2007 (Hàn Ni, "TPHCM dẫn đầu thu hút
vốn FDI vì biết cách bứt phá". Sài Gòn giải phóng, 3 tháng 11, 2007). Riêng trong

năm 2007, thành phố thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD ("TPHCM sau 1 năm
gia nhập WTO - Vượt lên chính mình ", Trung tâm thông tin thương mại).
SVTH: Vũ Thị Loan - 12 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH LỘI NGẬP Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
2.1. NGUYÊN NHÂN GÂY LỘI NGẬP Ở TP.HCM
2.1.1. NGUYÊN NHÂN DO TÁC ĐỘNG CỦA TỰ NHIÊN
(NGUYÊN NHÂN KHÁCH QUAN)
2.1.1.1. Do nhiệt độ trái đất tăng và biến đổi khí hậu
- Theo TS. Nguyễn Hữu Ninh, trung tâm Nghiên Cứu, Giáo Dục và Phát Triển
Môi Trường thuộc Liên Hiệp các Hội Khoa Học và Kỹ Thuật Việt Nam. Hiện nay,
nhiệt độ trung bình đã tăng lên tới 0,3 - 0,4 độ C trong mấy chục năm vừa qua và
hiện đang có xu hướng tăng tiếp. Các mô hình nghiên cứu trong thế kỷ 21, nhiệt độ
trung bình của Trái đất có thể tăng từ 1,1 - 6 độ C khả năng xảy ra từ 1,8 - 4 độ C
trong đó tùy theo sự phát thải hiệu ứng nhà kính cắt giảm đến mức độ nào để làm
giảm bớt các khí CO2 và các khí khác gây hiệu ứng nhà kính. Theo báo cáo mới nhất
của Liên hiệp quốc, nguyên nhân của hiện tượng biến đổi khí hậu 90% do con người
gây ra, 10% là do tự nhiên .Nếu như ngay từ lúc này, nhân loại dừng phát thải khí
nhà kính thì nhiệt độ bề mặt Trái Đất vẫn tiếp tục nóng lên, nước biển vẫn tiếp tục
dâng lên trong vòng 50 năm nữa. Nhiệt độ trái đất nóng lên làm cho băng của các
dãy Himalaya và Nam Cực, Bắc Cực và các vùng khác tan chảy. Những núi băng
này tan chảy sẽ làm cho mực nước biển tăng lên.
- Mực nước biển dâng lên từ 28 - 43 cm. Nhưng có thể mực nước biển này còn
cao hơn nữa tùy theo sự phát thải của hiệu ứng nhà kính và tác động của con người
gây ra. Khi mực nước biển dâng thêm 1m, 14 triệu dân ở đồng bằng sông Cửu Long
sẽ bị ảnh hưởng, 40.000 km
2

vùng đồng bằng bị ngập lụt và 1.700 km
2
vùng ven biển
bị chìm. Thành phố Hồ Chí Minh (Cần Giờ Nhà Bè, Quận 2, Quận 8, Quận 7, Thủ
Thiêm, một phần Bình Thạnh, Bình Chánh…) và phần lớn vùng ven biển đồng bằng
sông Cửu Long sẽ bị ngập lụt nghiêm trọng và nếu mực nước biển dâng cao hơn dự
báo 26cm vào năm 2050 sẽ tác động rất lớn tới rừng ngập mặn Cần Giờ và một số
SVTH: Vũ Thị Loan - 13 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
khu vực ở TP.HCM bị nhấn chìm vĩnh viễn -theo ông Jeremy Carew Reid, Giám đốc
Trung tân quốc tế về Quản lý môi trường (ICEM).
- Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là một trong 3 nước đang
phát triển (Philipin, Băngladet) chịu ảnh hưởng lớn nhất từ biến đổi khí hậu. Nếu
mực nước biển dâng cao từ 1m ảnh hưởng đến 10,8% dân số, 5% diện tích đất đai và
10% GDP. Nếu mực nước biển dâng lên 5 m thì ảnh hưởng đến 35% dân số, 16%
diện tích đất đai và 36% GDP. Dự báo sẽ có tới 22 triệu người Việt nam bị ảnh
hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu.
Hình số 1: Biến đổi khí hậu
2.1.1.2. Do mưa
Theo Trung tâm điều hành chống ngập TP.HCM, mực nước biển đo được ở
Vũng Tàu đã tăng khoảng 0,8cm/năm, còn mực nước các sông, kênh của TPHCM đo
được ở Phú An tăng đến 1,5cm/năm. Những cơn mưa lớn ngày một dày đặc hơn với
vũ lượng trung bình năm sau cao hơn năm trước khoảng 0,8mm. Nếu trước đây cứ 5
SVTH: Vũ Thị Loan - 14 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
năm mới có những cơn mưa có vũ lượng trên 100mm thì nay chỉ 3 năm đã thấy xuất
hiện. Còn những cơn mưa có vũ lượng khoảng 100mm thì năm nào cũng xuất hiện.
Đặc biệt, vào đầu mùa mưa năm nay trên địa bàn TPHCM đã xuất hiện cơn mưa

hiếm thấy với lượng mưa 117mm.

Hình 2: Chỉ sau mấy cơn mưa nhỏ, nhiều con đường của TP HCM đã chìm trong nước.
Nguồn: Báo Đất Việt
Bảng 2 : Số lần xuất hiện của trận mưa có cường độ > 100mm trong 180 phút ở TP.HCM
Thời kỳ 1952 - 1961 1962-1971 1972-1981 1982-1991 1992-2002
Xuất hiện 0 1 2 2 4
(Nguồn: Vấn đề ngập úng và thoát nước ở TP.HCM của Hồ Phi Long trường Đại học Bách
khoa TP.HCM)
Theo bảng trên cho thấy có xu hướng tăng dần của những trận mưa có cường độ
lớn nhất hàng năm với tốc độ bình quân khoảng 0.8mm/năm, cùng với tần suất xuất
hiện tăng dần của những trận mưa lớn có cường độ từ 100mm trở lên.
- Hiện nay, toàn thành phố còn khoảng 100 điểm ngập chủ yếu do mưa trong
đó khu vực nội thành có đến 60 điểm. Năm 2008, có khoảng 66 trận mưa gây ngập,
tăng 46% so với năm 2007. Chỉ trong năm 2009 đã có đến hơn 50 trận mưa gây
ngập cho thành phố (trên tổng số 150 trận mưa cả năm). Không chỉ vậy, triều cường
ngày càng tăng cao khiến tình trạng ngập càng thêm phức tạp, gần nửa số điểm ngập
hầu như chưa có phương án xử lý. Chúng ta đều rõ TP HCM nhìn chung cao độ đất
SVTH: Vũ Thị Loan - 15 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
thấp cho nên nguyên nhân chính gây ngập do mưa lớn, trong khi hệ thống tiêu thoát
hiện hữu không đủ khả năng thoát nước. Nhiều nhất trên các tuyến đường Nguyễn
Hữu Cảnh, Điện Biên Phủ, D2, D3, Xô Viết Nghệ Tĩnh (Quận Bình Thạnh), Cao
Thắng (Quận 3), Trần Xuân Soạn (Quận 7)….
- Khi mưa với cường độ khoảng trên 40 mm, thời gian ngắn thường sinh ra
ngập úng. Nếu mưa với cường độ lớn hơn, thời gian mưa tập trung dài hơn thì mức
độ ngập úng càng nguy hiểm hơn. Ngập úng do mưa cũng có liên quan đến hệ thống
tiêu thoát nước, đặc biệt là hệ thống kênh cống tiêu ở khu nội thành.
Hình 3: Nước ngập quá nửa chiếc xe gắn máy - Ảnh: Diệp Đức Minh

Nguồn: Báo Thanh niên
2.1.1.3. Do ảnh hưởng của thủy triều
Mực nước thủy triều của Thành phố từ năm 1999 liên tục tăng nhanh từ mức
1,22m đến 1,55m (theo Thạc sĩ Hoàng Phi Long – Giảng viên bộ môn Tài nguyên
nước và Môi trường, trường Đại học Bách Khoa TP.HCM, nguồn TuanVietNam.net
–ngày 8 tháng 7 năm 2009). Đối với các khu vực có cao trình mặt đất thấp hơn mực
nước triều thì nguyên nhân chính gây ra ngập lụt là thủy triều. TP.HCM nhìn chung
SVTH: Vũ Thị Loan - 16 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
cao độ đất thấp cho nên nguyên nhân chính gây ngập do mưa lớn, trong khi hệ thống
tiêu thóat hiện hữu không đủ khả năng thoát nước. Trong thời gian triều cường, hoặc
xả lũ từ thượng lưu về, mực nước sông lên cao lại cản trở việc tiêu thoát nước, gây
ngập cho khu vực có cao độ đất thấp. Thậm chí ngay cả trong mùa khô, không có
mưa mà một số khu vự ở TP.HCM vẫn ngập nước do triều cường.
Hình 4: Trong lúc trời nắng gắt thì nhiều tuyến đường TP.HCM ngập sâu trong nước bởi
đợt triều cường dâng cao bất thường. Ảnh: An Bang
Theo vietnamnet.vn-
26/05/2010
SVTH: Vũ Thị Loan - 17 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng

Hình 5: Người dân vất vả lội qua đoạn đường ngập. Ảnh: An Bang
Theo vietnamnet.vn-
26/05/2010
Do ảnh hưởng của triều biển Đông trong những lúc triều lên hoặc triều cường,
mực nước trong sông kênh lên cao gây khó khăn cho việc tiêu thoát đối với những
vùng đất thấp, gây ngập. Mực nước triều lớn nhất ở khu vực TP.HCM dao động
trong khoảng 1,5 m trong những đợt triều cường. Diện tích đất có cao độ nhỏ hơn

mực nước này, nếu không có hệ thống tiêu thoát thì thường xuyên bị ngập. Ngập úng
có thể lớn hơn khi có triều cường truyền vào trong sông kênh, kết hợp lũ từ các công
trình thượng lưu xả về, đồng thời với mưa lớn xảy ra.
2.1.1.4. Vị trí tạo thành của một “đô thị ngập triều”
Thành phố Hồ Chí Minh là vùng đất thấp, nguyên là vùng đầm lầy ngập mặn, có
nhiều cửa sông rạch chảy ra biển Đông. Mặt đất của thành phố từ xưa có độ dốc tự
nhiên từ phía Bắc thấp dần xuống phía Nam, từ độ cao trung bình phía Bắc là huyện
Củ Chi có độ cao cách mặt biển khoảng 5 – 9m, rồi thấp dần xuống phía Nam là các
huyện Nhà Bè, Cần Giờ dần gần với mặt biển. Độ dốc tự nhiên ấy còn có thể nhìn
thấy là tất cả sông rạch như sông Sài Gòn, sông Bình Điền đều chảy xuôi từ phía Bắc
SVTH: Vũ Thị Loan - 18 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
xuống phía Nam thành phố. Đồng thời, dọc sông Sài Gòn do nước mặt chảy tràn tự
nhiên từ phần phía Đông các huyện Củ Chi, Hóc Môn, Q.12, Q.Bình Thạnh, Q.1 và
từ phần phía Tây Q.2, Thủ Đức vào sông Sài Gòn. Hiện tượng tự nhiên này đã bào
mòn mặt đất dần về phía triền sông Sài Gòn; còn phía Nam thành phố, nước mặt tự
nhiên bào mòn mặt đất dốc dần và đổ vào các sông Đồng Nai, sông Nhà Bè, sông
Soài Rạp; và cũng như vậy, nước mặt tự nhiên từ các địa phương cặp sông Bình
Điền, sông Chợ Đệm, và sông Vàm Cỏ Đông bào mòn mặt đất dần về phía các sông
này. Khu vực Nam thành phố hình thành một mạng lưới sông rạch chằng chịt, tiêu
thoát nước tự nhiên rất tốt và cần phải bảo tồn độ dốc tự nhiên này.
- Xuất phát từ nguyên lý cân bằng nước cho một khu vực đô thị trong một thời
gian nhất định, khi tổng lượng nước đến (trong đô thị là nước mưa và nước thải)
vượt quá lượng nước tiêu thoát qua hệ thống cống hay trực tiếp chảy vào sông, kênh
rạch sẽ gây ra ngập lụt đô thị.
- Vị trí thành tạo của đô thị Hồ Chí Minh là “đô thị bán ngập triều”. Hướng
thoát lũ chính của thành phố là Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc xuống Nam, Đông Nam và
Tây Nam. Vì vậy, chúng ta càng mở rộng đô thị hiện đại ở vùng Nam Sài Gòn, Bình
Chánh, Đông thành phố ( Quận 7, Nhà Bè), tức là chúng ta càng ngăn đường thoát

nước của thành phố.
- TP HCM nằm ở hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai - Sài Gòn nên được gọi là "đô
thị ngập triều", do chịu ảnh hưởng của triều cường. Vùng đất thấp chiếm 61% diện
tích với gần 7.900 km hệ thống kênh rạch chằng chịt là hệ thống thoát nước. Hướng
thoát lũ chính của thành phố là từ Bắc - Tây Bắc - Đông Bắc xuống Nam - Đông
Nam - Tây Nam.
SVTH: Vũ Thị Loan - 19 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
Hình 6: Tình trạng ngập lụt TP.HCM năm 2000 Ngập do mưa lớn, triều cường, bão,
và nước biển dâng.

Nguồn: Quy hoạch thuỷ lợi chống ngập khu vực TP.HCM
2.1.1.5. Ngập do lũ
- Từ hệ thống sông trong lưu vực: sông Sài Gòn, Đồng Nai, Vàm Cỏ. Những
diễn biến của dòng chảy các sông cho thấy lũ lụt đã xảy ra liên tục tại TP.HCM từ
1978, 1984, 1991, 1999, 2000. Triều cao bất thường, nước dâng do gió bão cũng xảy
ra liên tục từ 1997, 1999, 2000, 2002, 2003, 2004, 2006, 2007. Năm 2007 là năm có
mực nước triều cường cao nhất trong 50 năm trở lại đây. Những trận lũ năm 1996,
2000, những đợt triều cường năm 2006 và nhất là 2007 đã gây nên những khó khăn
và thiệt hại đáng kể cho người dân thành phố. Chỉ riêng năm 2000, khi các hồ ở
thượng nguồn xả tràn đã làm ngập trên 22.300 căn nhà, di dời hơn 2.200 hộ dân và
phải cứu trợ trên 1.460 hộ. Chỉ tính riêng cơn lũ lụt kinh hoàng xảy ra năm 2000 đã
phá hủy hơn 40.200km bờ bao, 31km kênh mương, 254km đường nông thôn.
- Cùng lúc đó các hồ Dầu Tiếng, Trị An cũng xả lũ chống xâm ngập mặn, khiến
dòng nước ngọt và mặn gặp nhau đẩy nước sông tràn vào nội thành do cao trình của
SVTH: Vũ Thị Loan - 20 - MSSV:
08B1080041
TP.HCM
TP.HCM

LONG AN
LONG AN
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
nội thành thấp hơn triều cường, và tốc độ nâng đường và nhà chậm hơn tốc độ san
lấp công trình.
- TPHCM nằm trên vùng cửa các con sông lớn: Lòng Tàu, Soài Rạp là các cửa
thoát nước của cả hệ thống sông Đồng Nai, nên một mặt chịu áp lực của nước nguồn
từ trên đổ xuống trong mùa mưa lũ, mặt khác là áp lực của biển từ dưới lên quanh
năm: triều cao, xâm nhập mặn, gió bão và hiện tại là nước biển dâng do khí hậu trái
đất ấm dần lên. Phần lớn phía Nam TP là vùng đất thấp – khu vực chịu áp lực thống
trị của biển với chiều dài tiếp xúc với biển khoảng 75 – 80 km.
- Ngoài lũ trực tiếp từ thượng lưu các sông Đồng Nai, Sài Gòn ảnh hưởng trực
tiếp đến TP.HCM, lũ từ lưu vực sông Mê Kông thông qua hệ thống kênh rạch nối
liền các sông Vàm Cỏ với vùng TP.HCM làm cho mực nước sông, kênh tăng cao,
thậm chí tràn vào đồng ruộng gây ra ngập úng. Tuy nhiên, hiện nay, đối với
TP.HCM, ảnh hưởng ngập úng do lũ từ sông Mê Kông đã cơ bản được giải
quyết nhờ có hệ thống cống kiểm soát lũ ở khu vực này.
Hình 7: Tổng hợp các nguyên nhân khách quan gây ngập ở TP. HCM
SVTH: Vũ Thị Loan - 21 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
2.1. 2. NGUYÊN NHÂN DO TÁC ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI
(NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN)
2.1.2.1. Do quá trình đô thị hoá
Như ở trên 1.7 (phần quy hoạch và kết cấu đô thị)thành phố Hồ Chí Minh là nơi
sinh sống cho 500.000 dân. Tuy nhiên hiện nay thành phố này có dân số kể cả số
lượng khách vãng lai là gần 10 triệu người, kết cấu đô thị đã quá tải. Khu dân cư,
khu đô thị, khu công nghiệp mọc lên một cách ồ ạt. Tốc độ đô thị hóa chưa đồng bộ
với việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng thoát nước.
Theo quy hoạch tổng thể từ nay đến năm 2010 và định hướng đến 2020 (Chỉ thị

32/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết 20/NQ-TƯ của Bộ Chính
trị) TP phải tiến hành dịch chuyển các hoạt động kinh tế từ nội thành ra ngoại thành.
Quá trình đô thị hoá hiện đang diễn ra khắp nơi, phần lớn theo quy hoạch tổng thể đã
được phê duyệt, song do quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng, trong điều kiện tự
nhiên phức tạp, nhất là trước những diễn biến bất lợi: nước biển dâng do khí hậu ấm
dần lên trên toàn cầu, TP phải xem xét rà soát lại quy hoạch đã có, để đưa ra các biện
pháp xử lý, ứng phó với những diễn biến bất lợi do ngập nước gây nên.
Quá trình đô thị hoá thành phố đã làm giảm sự điều tiết tự nhiên của bề mặt lưu
vực. Đối với nội thành, phần lớn đất đai được bê tông hoá, nhựa hoá xây dựng nhà,
công xưởng, đường sá. Do vậy, khi mưa xuống, hầu như toàn bộ mưa đều tập trung
thành dòng chảy (đường trở thành sông cũng chính vì vậy), không thể thấm xuống
đất để giảm bớt lượng dòng chảy tập trung. Hơn nữa, hệ thống kênh rạch, ao hồ bị
san lấp vô tội vạ như rạch Ông Kích, rạch Bà Lài, rạch Cụt, Bình Tiên, Bà Lài, Đầm
Sen, ao Sen, v.v…Nhiều kênh rạch khác đang ở trong tình trạng báo động đỏ như
rạch Lăng, rạch Bình Lợi, rạch Văn Thánh,…
2.1.2.2. Những nguyên nhân về kỹ thuật công trình
- Do dân số của thành phố Hồ Chí Minh tăng nhanh vì vậy đã dẫn đến sự quá tải
của hệ thống thoát nước hiện có. Hệ thống cống thoát nước cấp 2 và 3 được xây
dựng cách đây 50 năm đã quá cũ kỹ, lưu lượng nhỏ và quá tải, qua nhiều năm đã
SVTH: Vũ Thị Loan - 22 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
không còn phù hợp và hư hỏng nhiều. Nhưng quy hoạch các khu đô thị mới hầu như
thiếu vốn đầu tư cho xây dựng hệ thống thoát nước.
- Do điều kiện mặt đất bị bêtông hóa cao, nước không thấm được xuống tầng đất
sâu và tầng nước ngầm, vừa gây ngập tầng đất mặt lại vừa làm mất lượng nước bổ
sung hằng năm cho nước ngầm, làm mực nước ngầm mỗi ngày một tụt sâu hơn.
Thông thường khi mưa một phần nước sẽ thấm xuống đất hoặc chảy vào các chỗ
trũng, hồ điều tiết, còn lại theo hệ thống thoát nước ra sông. Tuy nhiên TP HCM do
mặt bằng trải bêtông ngày càng lớn nên khả năng thoát thấm xuống đất gần như

không còn.
- Do hình thành nhiều con đê bao khép kín, chống ngập đất nông nghiệp thì lại
dồn nước về ngập đô thị.
Bảng 3: Thống kê tình trạng hư hỏng của HTTN khu vực Gò Vấp- Tân Bình
D(mm) 400 500 600 650 700 750 800 850 900 >1000
Số lượng
hư hỏng 8 6 18 0 9 0 5 9 1 1
Tỉ lệ 14% 11% 32% 0% 16% 0% 9% 16% 2% 2%
(Nguồn: Vấn đề ngập úng và thoát nước ở TP.HCM của Hồ Phi Long trường Đại học Bách
khoa TP.HCM)
Bảng 4: Thống kê mức hư hỏng của HTTN khu vực Gò Vấp- Tân Bình
Mức độ hư hỏng 0 0-10% 10-25% 25-50% 50-75% 75-100% 100%
Tỉ lệ 39% 20% 11% 20% 5% 2% 2%
(Nguồn: Vấn đề ngập úng và thoát nước ở TP.HCM của Hồ Phi Long trường Đại học Bách
khoa TP.HCM)
Theo số lượng trong bảng 3 và bảng 4 cho thấy có trên 60% trùng hợp hư hỏng
của hệ thống cấp thoát nước trong địa bàn quan sát trên 568 mẫu khảo sát. Những
trường hợp hư hỏng chủ yếu xảy ra đối với các cống loại nhỏ có đường kính từ
600mm trở xuống. Vị trí xảy ra hư hỏng của cống trùng hợp với tình trạng ngập úng
là 176/212 trùng hợp với tỉ lệ 69%.
SVTH: Vũ Thị Loan - 23 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
Bảng 5: Thống kê so sánh quan hệ ngập úng- tình trang hư hại của HTTN khu
vực Gò Vấp- Tân Bình
Tình trạng Ngập Không ngập
Hư hỏng 146/ 25,7% 155/ 27,2%
Không hư hỏng 65/11.4% 201/ 35,4%
(Nguồn: Vấn đề ngập úng và thoát nước ở TP.HCM của Hồ Phi Long trường Đại học Bách
khoa TP.HCM)

Qua số liệu của bảng 5 cho thấy những nhận xét sau:
- 27,2% vị trí quan sát có phát hiện tình trạng hư hỏng của hệ thống cống
nhưng lại không xảy ra ngập. Đó là những vị trí bị hư hỏng nhẹ, chưa gây ra ảnh
hưởng đáng kể đến khả năng thoát nước cống
- 11,4% vị trí qquan sát thể hiện tình trạng ngập không liên quan đến tình
trạng hư hỏng cống. Ngoài ra có 47/568 trường hợp (8.3%) vị trí quan sát xảy ra
ngập nặng mỗi khi có mưa hay bị ngập nhiều lần trong năm, trong đó có 22 trường
hợp (3.9%) xảy ra ở những cống có tình trạng hư hỏng nhẹ hoặc không hư hỏng.
Điều này nói lên sự quá tải thường xuyên của cống thoát nước do những sai xót kỹ
thuật về thiết kế thi công.
2.1.2.3. Do kênh rạch bị ô nhiễm và san lấp quá nhiều
Kênh rạch chính của khu bao gồm kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè (dài hơn 9km,
chảy qua địa bàn các quận: Tân Bình, Phú Nhuận, ba, một và Bình Thạnh). Tân Hóa
– Lò Gốm (dài 7,6 km đi qua các quận: Tân Bình, quận 11, quận 6 , quận 8). Tàu Hủ
– kênh Đôi - kênh Tẻ dài 19,5 km chảy dọc đường Bình Trị Đông, Ba Đình (quận
8). Bến Nghé (bao hàm diện tích 140 km
2
)
.
Vùng trũng là những hồ điều hoà tự
nhiên ở Nam Sài Gòn, các kênh rạch nội, ngoại thành bị san lấp không thương tiếc.
Theo kết quả kiểm tra thực địa của Sở GTCC thành phố Hồ Chí Minh có gần 700
tuyến sông, kênh, rạch với tổng chiều dài hơn 1.000 km, trong đó, nhiều tuyến là
đường thoát nước quan trọng. Nhưng trong khoảng 14 năm, từ 1990-2004, đã có
khoảng 47 kênh rạch lớn nhỏ, với tổng diện tích khoảng 16,42 ha đã “biến mất” hoàn
toàn do bị san lấp. Nguyên nhân chủ yếu là do giá đất tăng cao và vì mục đích siêu
SVTH: Vũ Thị Loan - 24 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
lợi nhuận dẫn đến việc san lấp, cơi nới lấn chiếm không chỉ diễn ra đơn thuần là để ở

hoặc buôn bán nhỏ ven sông, kênh rạch mà còn thực hiện với qui mô lớn. Cụ thể về
san lấp rạch Ông Kích với diện tích 45.000m
2
(Phường Tân Phong, Quận 7) do Công
ty PMH làm chủ đầu tư; trên kênh Tham Lương với diện tích 1.500m
2
do ông Trần
Văn Phước làm chủ đầu tư. Tháng 7-2004, Công ty cổ phần Đức Thành làm văn bản
xin được lấp toàn bộ rạch để thực hiện dự án xây dựng khu dân cư Hưng Long trên
địa bàn xã Hưng Long, huyện Bình Chánh (thuộc khu nam TP). Diện tích khu đất
của dự án là 40,82ha, trong đó đất kênh rạch chiếm 12.300m
2
….
Tình trạng lấn chiếm sông, kênh rạch trên địa bàn TP ngày càng phức tạp. TP
hiện có đến 182 vị trí bị lấn chiếm. Việc lấn chiếm sông, kênh rạch không chỉ có khả
năng làm xáo trộn dòng chảy, gây sạt lở bờ sông mà còn làm diện tích thoát nước tự
nhiên của TP đã ít nay càng ít hơn, khiến tình trạng ngập nước thêm phần nghiêm
trọng. Giáo sư Lê Huy Bá: “Chỉ tính từ năm 1990 đến năm 2004, TP có 47 trên tổng
số 100 tuyến kênh rạch lớn nhỏ với tổng diện tích khoảng 16,5 ha đã bị san lấp hoàn
toàn”. Vi phạm về lấn chiếm kênh rạch tăng đột biến từ đầu năm 2004 đến nay (52
vụ, tăng 4% so với cả năm 2003.
Tình trạng biến sông, kênh, rạch thành thùng rác: Theo Chi cục bảo vệ môi
trường TP.Hồ Chí Minh, chất lượng nước sông - kênh - rạch nội thành vẫn chưa
được cải thiện, ngược lại có xu hướng nhiễm bẩn ngày càng tăng, năm sau cao hơn
năm trước. Nguyên nhân ngoài các chất thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt của các
cơ sở sản xuất, các hộ dân chưa qua xử lý đổ thẳng ra sông rạch, còn có một nguyên
nhân quan trọng khác là lượng rác thải do người dân thiếu ý thức thải trực tiếp xuống
sông rạch ngày càng gia tăng. Cụ thể vào năm 2000 mỗi ngày các công nhân vệ sinh
vớt được khoảng 11 tấn rác trên các con sông, kênh, rạch nội thành, nhưng hiện nay
phải vớt trên 40 tấn rác/ngày tại các sông, kênh, rạch chính, còn rất nhiều kênh rạch

nhỏ đã bị các núi rác lấp mất hoặc làm cho các dòng chảy bị teo lại, ngưng đọng như
nhiều con kênh ở khu vực các quận Tân Bình, quận 11, quận 6. Điển hình là nhiều
đoạn của kênh Tân Hóa-Lò Gốm đã bị tắc nghẽn vì rác lấp đầy hoặc nhiều đoạn của
kênh Ba Bò cũng bị tắc do rác Từ lâu, dọc theo các hệ thống kênh rạch của thành
phố đã hình thành nhiều khu dân cư sống ven và trên kênh rạch tập trung ở các quận
1,4, 7, 8 với hàng trăm ngàn người. Bên cạnh đó, nhiều chợ nổi trên sông được hình
SVTH: Vũ Thị Loan - 25 - MSSV:
08B1080041

×