Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.49 KB, 47 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
Lời nói đầu
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định là Xoá
bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật
khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế.
Tại Điều 15, Hiến pháp nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 đã khẳng định: Nhà nớc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ
nghĩa.
Sự ra đời một cơ chế mới kéo theo sự phát triển của nhiều loại hình
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhà nớc
xoá bỏ bao cấp, các doanh nghiệp phải tự hạch toán lo liệu mọi hoạt động kinh
doanh của mình với sự cạnh tranh khắc nghiệt, với những biến động của nền
kinh tế thị trờng Luật phá sản ra đời là một hệ quả tất yếu của quá trình đổi
mới đó.
Luật phá sản đợc Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực
thi hành từ 01/7/1994. Luật ban hành nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các doanh nghiệp. Thực tiễn áp dụng Luật phá sản những năm qua góp
phần tích cực vào việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau. Tuy vậy trong quá trình vận dụng các quy định của pháp
luật để giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, đã bộc lộ khá nhiều vớng
mắc, gây không ít khó khăn cho những ngời thực thi pháp luật. Một trong
những nguyên nhân đó là Luật phá sản doanh nghiệp của nớc ta cha thật sự
hoàn thiện, các văn bản hớng dẫn cha đầy đủ, đảm bảo để giải quyết vấn đề
nảy sinh trong thực tiễn. Nhằm góp phần hạn chế thiếu sót với mong muốn tìm
hiểu sâu hơn về phá sản và pháp luật phá sản.
Vì vậy, em đã chọn đề tài Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh
nghiệp. Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
Chơng I: Phá sản doanh nghiệp và pháp luật về phá sản doanh nghiệp.
Chơng II: Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp.
Chơng III: Thực trạng thi hành Luật phá sản doanh nghiệp và những


kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật phá sản doangh nghiệp Việt Nam.
Đây là một vấn đề còn mới mẻ, tài liệu tham khảo ít nhng em đã cố
gắng sử dụng và kết hợp các phơng pháp nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên với
trình độ còn hạn chế, kinh nghiệm nghiên cứu cha nhiều nên không tránh khỏi
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
1
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
những thiếu sót và hạn chế nhất định. Kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp của
thầy cô giáo và tất cả bạn bè đã giúp em tìm ra những nhợc điểm của đề tài.
Chơng I Phá sản doanh nghiệp và pháp luật phá
sản doanh nghiệp
I.Phá sản doanh nghiệp:
1. Sự ra đời của khái niệm phá sản và phá sản doanh nghiệp:
Khi có sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh doanh thì sự phát
sinh phá sản là tất yếu, doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển thì phải
đủ sức cạnh tranh với những cơ sở khác. Đòi hỏi này làm xuất hiện nhiều
doanh nghiệp có bản lĩnh vợt lên nắm bắt các cơ hội chiếm lĩnh thị trờng. Song
bên cạnh đó là một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp yếu kém, làm ăn
thua lỗ, nợ chồng chất mất khả năng thanh toán nợ đúng hạn; về thực chất đã
lâm vào tình trạng phá sản.
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
2
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
Nh vậy phá sản là hiện tợng khó tránh khỏi trong nền kinh tế thị trờng
và nó cũng không tồn taị trong cơ chế kế hoạch hoá tập chung, bởi vì trong
điều kiện có bao cấp vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không bao giờ
đợc đặt ra. Trớc đây chúng ta thờng phát động phong trào Thi đua xã hội chủ
nghĩa song đây cũng chỉ là biện pháp khuyến khích đơn thuần không bắt
buộc về hậu quả vật chất.
Trên thế giới phá sản xuất hiện rất sớm lịch sử đã ghi nhận phá sản đợc

khai sinh từ thời cổ đại La Mã, danh từ Bankrupcy hay Baqueroute tức phá sản
bắt nguồn từ chữ Ban Rotta của La Mã, có nghĩa là chiếc ghế bị gãy. Thời đó
các thơng gia của một thành phố thờng hợp lại, ngời nào mất khả năng thanh
toán thờng bị bắt làm nô lệ để bán khấu trừ nợ hay phải bỏ trốn, do đó mất
luôn quyền tham gia Đại hội các Thơng gia và chiếc ghế dành cho ngời đó bị
đem ra khỏi nơi hội họp. Tài sản của con nợ bị các chủ nợ xâu xé, giành
nợ của mỗi ngời. Giải pháp này đợc các chủ nợ đồng tình và cải tiến nâng lên
thành Luật phá sản thời cổ đại La Mã.
Tại Châu Âu, thời Trung cổ, các quốc gia Châu Âu cũng ban hành Luật
phá sản, lúc đầu chỉ áp dụng trong lĩnh vực thơng nghiệp, sau đó đợc mở rộng
ra nhiều lĩnh vực kinh doanh khác. Lúc đầu Luật phá sản có tính cách hình sự
rõ rệt nhằm trừng trị các thơng gia. Luật phá sản của Anh do vua Henry VIII
ký vào năm 1542 đã đa các con nợ vào trại giam. Tại Pháp các thơng gia đã
gian lận trong việc cung cấp hàng hoá cho quân đội gây ra một cuộc khủng
hoảng tài chính làm nhiều thơng gia bị khánh tận, chính Napoleon đã soạn
thảo gấp bộ Luật thơng mại, trong đó những tội danh phá sản đợc dự liệu ngay
trong bộ luật.
Sự gắt gao của Luật phá sản đem lại thiệt hại cho chủ nợ, vì ngời thiếu
nợ trớc viễn cảnh của hình phạt đã cố ý che dấu tình trạng mất khả năng thanh
toán của mình, cuối cùng khi không che dấu đợc thì bỏ trốn.
Do đó pháp luật phá sản sau này sửa đổi nhiều theo chiều hớng khoan
dung hơn. Coi thơng gia phá sản nh một kẻ sa cơ thất thế nên đã có những quy
định bảo vệ hợp pháp của cả con nợ lẫn chủ nợ. Chính vì vậy pháp chế phá sản
hiện nay trên thế giới đều có xu hớng chung là cố gắng có thời gian để hồi vực
lại doanh nghiệp mắc nợ.
Xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mỗi nớc, mỗi quốc gia đều có
Luật phá sản riêng với các nội dung đợc quy định phù hợp với đặc điểm của n-
ớc mình nh: Phá sản Cộng hoà Liên bang Đức (1877), của Anh (1986), của
Thuỵ Điển (1987), của Nam T (1989), của Nga (1992), của Singapore (1995).
ở Việt Nam, dới thời Pháp thuộc, pháp chế thơng mại hoàn toàn du

nhập từ bộ Luật thơng mại của Pháp, năm 1864, triều đình Huế ban hành bộ
Luật thơng mại áp dụng trên lãnh thổ Trung kỳ 1944. Pháp luật phá sản áp
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
3
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
dụng dới chính quyền Sài Gòn cũ mang nặng dấu ấn pháp luật của ngời Pháp
(Luật thơng mại Pháp và Luật thơng mại Trung phần), đến năm 1972 mới có
Luật thơng mại riêng, trong đó quy định về định chế khánh tận và t pháp thanh
toán, tuy nhiên việc áp dụng còn rất hạn chế.
Tại miền Bắc từ 1954 1975, vừa đấu tranh chống ngoại xâm nhằm
thống nhất đất nớc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, tuy giai đoạn đầu còn duy
trì hình thức công ty hợp danh, nhng qua cải tạo xã hội chủ nghĩa còn hai
thành phần kinh tế chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hũ tập thể đợc quản lý
theo cơ chế tập trung và bao cấp của Nhà nớc, nên pháp luật lúc đó không có
chế định phá sản.
Sau khi đất nớc thống nhất nền kinh tế vẫn duy trì cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp nên cũng không có chế định về phá sản. Sau Đại hội
Đảng VI nớc ta chuyển sang nền kinh tế thị trờng với cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần. Thừa nhận phá sản là hậu quả tất yếu của thị trờng và phải đợc
điều chỉnh bằng pháp luật. Ngày 30/12/1993 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá
IX đã thông qua Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam.
2. Khái niệm phá sản doanh nghiệp :
ở nhiều nớc hiện nay, do đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của mỗi nớc
mà mỗi quốc gia có các quan niệm rộng hẹp khác nhau về khái niệm phá sản.
Luật phá sản Australia năm 1966 quy định doanh nghiệp hay cá
nhân bị tuyên bố phá sản là doanh nghiệp không thể thanh toán đợc các
khoản nợ của mình và đang ở trong tình trạng tài chính bi đát khiến
không có khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Luật phá sản Trung Quốc thi hành 1986, tại Điều 3 đã quy định: Xí
nghiệp thua lỗ nghiêm trọng vì quản lý kinh doanh không giỏi, không

thể thanh toán các món nợ đến hạn, bị tuyên bố phá sản
Pháp luật phá sản Pháp trớc 1985 để định nghĩa một doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ. Toà án thờng nhận xét thấy tình trạng tài
chính của doanh nghiệp đó đã lâm vào tình trạng nguy hại không có
cách nào cứu chữa đợc. Vì vậy dù cho tài sản của doanh nghiệp có đủ
để thanh toán tất cả các khoản nợ nhng không có khả năng trả các món
nợ chắc chắn đã đến hạn thì cũng bị coi là lâm vào tình trạng phá sản.
Nói cách khác khi tất cả tiền và tài sản sẵn có của doanh nghiệp không
đủ để trả nợ đến hạn thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ.
Luật phá sản cũ của Singapore năm 1985 quy đinh, đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản dựa trên một số tình trạng đặc biệt nh chuyển tài sản
doanh nghiệp cho ngời khác hởng lời, có tạo ra các khoản chi mà pháp
luật coi là bất hợp lý khi doanh nghiệp bị đề nghị phá sản, cố ý lẩn
tránh hoặc trì hoãn nợ bằng cách bỏ trốn khỏi Singapore hoặc nằm lỳ ở
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
4
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
nớc ngoài, bỏ trốn khỏi nhà hoặc đóng cửa nhà, cửa hiệu, không kinh
doanh để giấu mặt, con nợ bị toà án xét xử bằng cách tịch thu tài sản.
Luật phá sản Vơng quốc Anh quy định một doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán nợ khi có một chủ nợ số tiền trên 50 bảng đã:
Gửi đơn đòi nợ sau 3 tuần doanh nghiệp đã không trả đợc hoặc
không thơng lợng xong với chủ nợ hay không tìm đợc các biện pháp
bảo đảm cho số nợ.
Có án lệnh hoặc doanh nghiệp trả nợ nhng không thi hành đợc.
Khiếu nại số nợ không xong.
Tại Việt Nam khái niệm phá sản là vấn đề đợc bàn cãi rất nhiều
trong quá trình soạn thảo luật doanh nghiệp. Có quan điểm cho rằng chỉ
định nghĩa: Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn quan điểm này có phần

máy móc, phải có quy định về định lợng các khoản nợ không có khả
năng thanh toán; quan điểm khác cho rằng ngoài mất khả năng thanh
toán và còn phải mất khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp;
có quan điểm cho rằng tình trạng phá sản là tình trạng doanh nghiệp gặp
khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh đến mức
tại thời điểm nào đó, tổng số nợ của doanh nghiệp lớn hơn tổng số giá trị
tài sản của nó.
Những quan điểm trên đây có những quan điểm không phù hợp với điều
kiện nớc ta. Nếu lấy tiêu chí tổng số nợ đến hạn lớn hơn tổng số tài sản doanh
nghiệp có mà tuyên bố phá sản thì sẽ tuyên bố phá sản tràn lan vì những doanh
nghiệp rơi vào tình trạng này không nhất thiết là không hồi vực đợc, thông qua
các biện pháp khất nợ, hoãn nợ, cải tiến quản lý sản xuất- kinh doanh, một
doanh nghiệp có thể hồi vực đợc để vừa có thể thanh toán nợ và phát triển bình
thờng.
Nếu lấy tiêu chí doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì khá trìu tợng, vì không thanh
toán đợc các khoản nợ đến hạn có thể chỉ có tính chất nhất thời trong một giai
đoạn ngắn nào đó, quan niệm này chỉ bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, nhng
quyền lợi của doanh nghiệp mắc nợ không đợc bảo đảm.
Ngợc lại nếu lấy tiêu chí bằng cách quy định về định lợng các khoản nợ
không có khả năng thanh toán, trên thực tế sẽ khó áp dụng vì phụ thuộc số l-
ợng nợ nhiều hay ít, phải so với cả quy mô, quá trình hoạt động của doanh
nghiệp. Quy định tiêu chí này sẽ hạn chế quyền đệ đơn của các chủ nợ vì chủ
nợ khó biết đợc tổng số mất khả năng thanh toán của con nợ là bao nhiêu.
ở Anh, về vấn đề này đã phân biệt hai khái niệm khác nhau, đó là
không có khả năng chi trả và phá sản. Doanh nghiệp không có khả năng chi trả
là việc doanh nghiệp không có khả năng thoả mãn yêu cầu thanh toán nợ đến
hạn cho các chủ nợ bằng tài sản hiện có. Việc doanh nghiệp không đủ khả
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
5

Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
năng chi trả hoàn toàn không phải lúc nào cũng có nghĩa là doanh nghiệp
không đủ tài sản chi trả, vì có thể doanh nghiệp không đủ tài sản để chi trả nh-
ng bằng các khoản vay, doanh nghiệp có thể còn khả năng chi trả. Doanh
nghiệp có thể không có khả năng chi trả nhng không bị coi là phá sản. Doanh
nghiệp không có khả năng chi trả không mang tính tạm thời mới là cơ sở cho
việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Trên cơ sở tham khảo Luật phá sản của các nớc vận dụng vào hoàn cảnh
Việt Nam, thích hợp hơn cả là khái niệm phá sản doanh nghiệp căn cứ hai điều
kiện:
Điều kiện thứ nhất: Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn.
Điều kiện thứ hai: Hiện tợng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
không phải là hiện tợng nhất thời mà đã lâm vào tình trạng trầm trọng.
Với ý nghĩa này, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam đã đợc Quốc hội
thông qua ngày 30/12/1993, có hiệu lực thi hành từ 01/07/1994 đa ra khái
niệm: Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó
khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi đã áp dụng
các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn. (Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp).
3. Dấu hiệu đánh giá doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản:
Phá sản là một hậu quả tất yếu của nền kinh tế thị trờng, pháp luật Việt
Nam đã phản ánh hiện tợng phá sản doanh nghiệp trong Điều 17 Luật doanh
nghiệp t nhân và Điều 24 Luật công ty ban hành cùng ngày 21/12/1990 (cha
sửa đổi) đã nêu: Luật công ty (hay Luật doanh nghiệp t nhân) gặp khó khăn
hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh đến mức tại một thời
điểm tổng số trị giá các tài sản còn lại của công ty (hay doanh nghiệp t nhân)
lâm vào tình trạng phá sản.
Nhng sau ngày 30/12/1990, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật phá
sản doanh nghiệp, thì định nghĩa trên đã đợc sửa đổi. Điều 2 Luật phá sản

doanh nghiệp năm 1994 đã quy định rằng: Doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh
doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn .
Nh vậy cốt lõi của vấn đề phá sản là: mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn và khi xem xét trong luật ta thấy các dấu hiệu đã nêu ở Điều 2 Luật phá
sản doanh nghiệp còn có các dấu hiệu sau đây:
1. Ba mơi ngày sau khi nhận đợc giấy đòi nợ đến hạn mà doanh nghiệp
vẫn cha thanh toán (Điều7 Luật phá sản doanh nghiệp).
2. Doanh nghiệp không trả đợc lơng cho ngời lao động 3 tháng liên tiếp
(Điều 8 Luật phá sản doanh nghiệp).
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
6
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
Tuy nhiên việc định nghĩa các số nợ đến hạn còn là điều khó khăn,
chẳng hạn nếu doanh nghiệp mắc nợ vì vi phạm một điều kiện nào đó với chủ
nợ nên khi cha đến hạn thì xếp nợ này là loại đến hạn hay không? Bản án Toà
đã cho phép doanh nghiệp mắc nợ đợc trả nợ làm nhiều phân kỳ, việc không
trả đúng hạn một phần nợ hay phân kỳ thứ nhất có làm cho toàn thể khoản nợ
phải trả trở thành nợ đến hạn hay không?
Đối với trờng hợp nợ lơng của ngời lao động. Luật không nói rõ trờng
hợp doanh nghiệp chỉ có khả năng trả một phần lơng cho ngời lao động trong
ba tháng liên tiếp thì giải quyết ra sao, điều này đợc giải thích tại Khoản 1
Điều 3 Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ, hớng dẫn thi hành
Luật phá sản doanh nghiệp, là doanh nghiệp dù chỉ trả một phần lơng trong ba
tháng liên tiếp vẫn bị coi là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Dù Nghị
định chỉ nói đến khoản nợ lơng, tuy nhiên cần phải hiểu các khoản nợ, ngoài l-
ơng ra thì các khoản mang tính phụ cấp kể cả các lợi ích khác nh bảo hiểm xã
hội, trợ cấp thôi việc, tiền thởng đã đợc quy định trong thoả ớc lao động đều
đợc xem nh là nợ lơng.

Cũng theo Nghị định 189/CP, điều quan trọng cần phải xem xét là việc
không trả đủ lơng cho ngời lao động chỉ đợc xem là dấu hiệu doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản khi việc không trả đủ lơng là hậu quả của việc
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ trong hai năm liên tiếp (Điều 3 Nghị đinh
189/CP).
3. Nh vậy một dấu hiệu thứ 3 nữa cho thấy là doanh nghiệp phải rơi vào
tình trạng thua lỗ trong hai năm liên tiếp. Dấu hiệu này là cốt lõi, là
nguyên nhân, còn hai dấu hiệu kia là hậu quả bổ sung cho dấu hiệu
thứ 3.
Ba dấu hiệu này là một thể thống nhất, không thể chia cắt trong việc
đánh giá doanh nghiệp có lâm vào tình trạng phá sản hay không? Thực tế, có
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hàng năm liền nhng vẫn đủ tài chính để thanh
toán nợ đến hạn và ngợc lại dù thiếu nợ nhng doanh nghiệp vẫn làm ăn phát
triển, tài chính vẫn đầy đủ: Việc không trả đúng hạn có thể do việc cố ý trả
chậm để dùng tiền vào việc kinh doanh hoặc tiền từ các tổ chức tín dụng hay
con nợ của doanh nghiệp chậm chuyển vào tài khoản của doanh nghiệp.
Điều 9 Luật phá sản doanh nghiệp nêu biện pháp hoãn nợ là một trong
các biện pháp tài chính cần thiết, Nghị định 189/CP tại Khoản 2 Điều 2 đã nêu
cụ thể 5 biện pháp tài chính cần thiết mà doanh nghiệp mắc nợ phải áp dụng:
1.Có phơng án tổ chức lại sản xuất kinh doanh, quản lý chặt chẽ các
khoản chi phí tìm kiếm thị trờng tiêu thụ sản phẩm.
2. Có biện pháp sử lý hàng hoá, sản phẩm, vật t tồn đọng.
3.Thu hồi các khoản nợ và tài sản bị chiếm dụng.
4. Thơng lợng với các chủ nợ để hoãn nợ, mua nợ, bảo lãnh nợ, giảm
xoá nợ.
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
7
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
5. Tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay để trang trải các khoản
nợ đến hạn và đầu t đổi mới công nghệ.

Các biện pháp tài chính này phải thực hiện trong khoảng thời gian 2
năm, theo niên độ kế toán tính theo năm dơng lịch từ ngày 01/01 đến hết ngày
31/12 mà trong thời gian đó doanh nghiệp đang hoạt động thua lỗ, vì đòi hỏi
doanh nghiệp áp dụng biện pháp tài chính sau hai năm thua lỗ sẽ hạn chế
quyền đệ đơn tuyên bố phá sản tại Toà án của các chủ nợ, mà còn tạo điều kiện
cho các con nợ trì hoãn bất hợp lý việc trả nợ bằng cách loại ra lý do cha áp
dụng các biện pháp tài chính cần thiết. Hơn nữa nếu cho phép doanh nghiệp
sau hai năm thua lỗ mới áp dụng các biện pháp tài chính thì việc đó sẽ tuỳ
thuộc phơng án hoà giải do hội nghị chủ nợ thông qua.
Vấn đề còn lại ở đây là phải có các biện pháp bắt buộc mà tất cả các
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản phải thực hiện thì toà án mới xem xét
giải quyết hay không theo Điều 3 Khoản 3 (Nghị định 189/CP) đòi hỏi một
doanh nghiệp khi kinh doanh hợp pháp thông thờng khi lâm vào tình trạng phá
sản tìm mọi biện pháp tài chính hợp pháp để cứu vãn doanh nghiệp nhằm
thanh toán đợc nợ. Do đó việc doanh nghiệp áp dụng các biện pháp tài chính
sẽ thể hiện ý chí không muốn chiếm đoạt tài sản và do việc này sẽ đợc luật
pháp cho phép hởng sự khoan hồng bằng các thủ tục phá sản luật định - việc
doanh nghiệp mắc nợ không bắt buộc các biện pháp cứu vãn, thể hiện sự vô
trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các khoản nợ và trong ý nghĩ nào đó
doanh nghiệp đã cố tình chiếm đoạt tài sản ngời khác, điều này sẽ đợc xem là
phá sản gian trá và có thể sẽ bị điều chỉnh bằng pháp luật về hình sự để buộc
con nợ có trách nhiệm cao nhất trong việc khắc phục hậu quả do mình gây ra.
4.Phân biệt phá sản với giải thể:
Phá sản là một thủ tục t pháp đặc biệt, đặc trng quan trọng này giúp ta
phân biệt dễ dàng phá sản và giải thể góp phần giải quyết triệt để hơn những
hậu quả xấu do doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đem lại.
Xét về hiện tợng thì phá sản và giải thể nói chung đều dẫn đến chấm dứt
sự tồn tại của doanh nghiệp và phân chia tài sản còn lại của các chủ nợ, giải
quyết quyền lợi cho ngời làm công. Nhng xét về bản chất chúng có sự khác
nhau cơ bản đó là:

- Nguyên nhân của phá sản là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn do thua lỗ trong kinh doanh, còn lý do giải thể thì rộng hơn nhiều. Ví
dụ nh cơ sở sản xuất kinh doanh có thể chấm dứt hoạt động khi mục tiêu đề ra
không đạt đợc thậm chí có thể bị thu hồi giấy phép hoạt động vì lý do vi phạm
pháp luật nghiêm trọng.
- Thủ tục tiến hành giải thể là thủ tục mang tính chất hành chính gắn
liền với hình thức tổ chức doanh nghiệp, do doanh nghiệp tự tiến hành. Các
quy định về giải thể đợc ghi nhận trong các văn bản pháp luật về thành lập, tổ
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
8
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
chức và hoạt động các loại hình doanh nghiệp. Còn thủ tục phá sản là thủ tục t
pháp, do toà án tiến hành theo quy định riêng của pháp luật phá sản.
Việc giải thể cơ sở sản xuất kinh doanh có thể tiến hành do ý chí tự
nguyện của chủ doanh nghiệp sau khi đã đợc cơ quan có thẩm quyền cấp giấy
phép thành lập chấp nhận ( đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh) hoặc
do cơ quan quản lý nhà nớc đã ra quyết định thành lập doanh nghiệp cho phép
(đối với doanh nghiệp Nhà nớc).
Trái lại việc tuyên bố phá sản chỉ thuộc thẩm quyền của toà án.
- Về nguyên tắc, cả phá sản và giải thể phải giải quyết triệt để chấm dứt
mọi quan hệ pháp lý mà doanh nghiệp đã thiết lập và cam kết thực hiện, xong
cách thức thực hiện lại khác nhau:
Giải thể doanh nghiệp phải bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và
thanh lý hết hợp đồng mà doanh nghiệp đã ký kết (Điều 23 Luật công ty và
Điều 16 Luật doanh nghiệp t nhân), còn phá sản không bắt buộc phải nh vậy,
doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ trên cơ sở trị giá tài sản
thực có tức là doanh nghiệp mắc nợ đợc Nhà nớc cho phép phân chia rủi ro
với những ngời mình mang nợ trên cơ sở tài sản còn lại của doanh nghiệp (tài
sản phá sản).
-Về hậu quả pháp lý giải thể bao giờ cũng dẫn đến việc chấm dứt hoạt

động và xoá tên cơ sở kinh doanh, trong khi đó phá sản bao giờ cũng dẫn đến
kết cục nh vậy. Chẳng hạn khi có ngời mua lại toàn bộ doanh nghiệp bị phá
sản, họ vẫn có thể giữ nguyên tên hoặc thậm chí cá nhân, mác thơng phẩm để
tiếp tục duy trì sản xuất kinh doanh. Trờng hợp này chỉ có chủ doanh nghiệp bị
phá sản mà thôi.
Thái độ của Nhà nớc đối với chủ sở hữu hoặc ngời điều hành doanh
nghiệp cũng hoàn toàn khác nhau:
Pháp luật nhiều nớc quy định cấm chủ sở hữu hay ngời quản lý, điều
hành sản xuất kinh doanh bị phá sản không đợc hành nghề trong một thời gian
nhất định.
Điều 50 Luật phá sản quy định: Giám đốc, Chủ tịch và các thành viên
trong Hội đồng quản trị doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản không đợc đảm đ-
ơng chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nào trong thời hạn từ 1- 3 năm kể từ
ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản .
Tuy nhiên luật cũng quy định một số trờng hợp đặc biệt không bị hạn
chế quyền điều hành sản xuất kinh doanh đó là:
- Doanh nghiệp bị phá sản vì lý do bất khả kháng do Chính phủ quy
định.
- Giám đốc, Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng quản trị không
trực tiếp chịu trách nhiệm về lý do doanh nghiệp bị phá sản.
- Giám đốc hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị đã tự nguyện đệ đơn xin
phá sản doanh nghiệp đúng pháp luật và trả đủ nợ cho các chủ nợ.
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
9
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
Tất cả những quy định này nhằm khuyến khích ý thức trách nhiệm cao
của các chủ doanh nghiệp và những ngời quản lý doanh nghiệp đối với những
món nợ trong kinh doanh. Ngợc lại trờng hợp doanh nghiệp bị giải thể thì vấn
đề hạn chế quyền kinh doanh không đặt ra.
II.Pháp luật về phá sản doanh nghiệp:

1. Khái niệm pháp luật về phá sản doanh nghiệp:
Phá sản là hiện tợng khách quan phản ánh hậu quả của cuộc cạnh tranh
sinh tồn trong nền kinh tế thị trờng. Pháp luật về phá sản là yếu tố thuộc thợng
tầng kiến trúc phản ánh hiện tợng khách quan đó và tác động lại đối với nền
kinh tế thị trờng. Nếu phản ánh đúng, phù hợp với pháp luật phá sản thì sẽ phát
huy tác dụng sắp xếp lại doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngợc lại,
nếu phản ánh sai lệch pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Vì vậy
pháp luật phá sản phải không ngừng hoàn thiện cho phù hợp với sự thay đổi
của hiện tợng phá sản và phản ánh đúng hiện tợng, bản chất của phá sản nhằm
đa ra pháp luật phá sản vào thực tế cuộc sống.
Pháp luật phá sản là tổng thể các quy phạm pháp luật đợc Nhà nớc ban
hành có liên quan đến việc giải quyết một vụ yêu cầu tuyên bố phá sản. Trong
pháp luật kinh tế pháp luật về phá sản doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng
trong hệ thống pháp luật về phá sản doanh nghiệp thì Luật phá sản giữ vai trò
chủ đạo.
ở nhiều nớc vấn đề xử lý phá sản thuộc đối tợng điều chỉnh của nhiều
loại văn bản khác nhau. Ví dụ ở Anh bên cạnh Luật phá sản 1986 còn có luật
đình chỉ hoạt động giám đốc công ty, Luật mất khả năng thanh toán. ở Thuỵ
Điển thứ tự u tiên thanh toán đợc quy định tại một đạo luật riêng.
ở Việt Nam phá sản là một vấn đề còn rất mới mẻ, do vậy hệ thống
pháp luật phá sản còn nhiều hạn chế. Sau khi Luật phá sản doanh nghiệp đợc
Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993 và đợc công bố vào ngày 30/12/1993, có
hiệu lực thi hành từ 01/07/1994. Các văn bản dới luật hiện có rất ít bao gồm:
Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 hớng dẫn thi hành Luật phá sản doanh
nghiệp và Nghị định số 92/CP ngày 19/12/1995 của Chính phủ hớng dẫn
quyền lợi giải quyết của ngời lao động ở doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Để
hớng dẫn cách thức hoạt động của các chủ thể trong quá trình tham gia giải
quyết phá sản còn có Quyết định 426/QĐ ngày 01/07/1994 của Toà án nhân
dân tối cao về Quy chế hoạt động của tập thể thẩm phán; Quyết định số
528/QĐ của Bộ trởng Bộ T pháp về Quy chế làm việc của Tổ quản lý, Tổ thanh

toán tài sản. Nghị định 117/CP (07/09/1994) về án phí toà sán. Thậm chí quá
trình làm việc của chúng ta còn sử dụng các văn bản hớng dẫn nội bộ của Toà
án tối cao cho các Toà án địa phơng nh Công văn 457/KHXX về việc áp dụng
một số quy định của Luật phá sản doanh nghiệp.
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
10
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
Ngoài ra còn một số văn bản pháp luật đợc ban hành trớc đây về vấn đề
phá sản đã đợc đề cập nhng còn rất mờ nhạt. Ví dụ nh: Luật doanh nghiệp t
nhân, Luật công ty ban hành ngày 21/12/1990. Hiện tại các quy định này
không phù hợp nữa nên sau khi Luật phá sản đợc ban hành thì một số điều của
Luật doanh nghiệp t nhân và Luật công ty đã đợc sửa đổi.
Nh vậy theo thông lệ chung quốc tế pháp luật về phá sản của Việt Nam
là một hệ thống những quy phạm pháp luật chứa đựng những nội dung chủ yếu
nh : Khái niệm phá sản, lý do điều kiện phá sản, các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết phá sản, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giải quyết yêu
cầu phá sản, trình tự giải quyết phá sản và những quy phạm hớng dẫn xử lý các
vấn đề có liên quan đến phá sản.
2. Mục đích của pháp luật về phá sản:
Pháp luật về phá sản trớc hết và chủ yếu nhằm đáp ứng những mục tiêu
cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Bảo vệ quyền về tài sản của các chủ nợ.
Về mặt lịch sử pháp luật, ban đầu Luật phá sản chủ yếu chỉ bảo về lợi
ích của chủ nợ thơng gia bị vỡ nợ ngoài bị phát mãi tài sản còn phải bị bắt
bán làm nô lệ để trừ nợ hay bị giam cầm dù là phá sản đơn thuần hay gian trá.
Quan điểm pháp luật hiện đại nh hệ thống Pháp Mỹ Nhật có phần
khoan dung hơn, xem doanh nghiệp phá sản vì sa cơ thất thế, vì gặp vận
không may nên lâm vào tình trạng phá sản.
Luật phá sản Việt Nam trên tinh thần bảo vệ lợi ích chính đáng của cả
chủ nợ và con nợ, đã có những điều khoản cụ thể nhằm bảo vệ lợi ích không

những của chủ nợ mà cả lợi ích của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Nh chúng ta đã biết kinh doanh là một quá trình mạo hiểm mà nguy cơ
phá sản có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Khi cái chết của một doanh nghiệp
không phải bàn cãi gì nữa thì cái đáng quan tâm là phải bảo vệ sự sống còn
của các doanh nghiệp có quan hệ với nó. Cho nên mặc dù Luật phá sản ở các
nớc là rất khác nhau nhng tất cả các Luật phá sản đều tìm cách giải quyết các
vấn đề giống nhau. Vấn đề cơ bản nhất là nên giành thuận lợi thế nào cho chủ
nợ. Sự phá sản của một doanh nghiệp có thể gây ra sự phá sản tiềm năng của
doanh nghiệp khác. Do vậy, việc bảo vệ các doanh nghiệp chủ nợ là cần thiết.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình luật cho phép các chủ nợ
có thể gửi đơn yêu cầu đến cơ quan nhà nớc có thẩm quyền tuyên bố phá sản
doanh nghiệp mà mình cho rằng đã lâm vào tình trạng phá sản. Luật phá sản
đã quy định trình tự gửi đơn và tạo điều kiện cho các chủ nợ bảo vệ lợi ích
chính đáng của mình. Tuy nhiên, một doanh nghiệp phá sản sẽ có nhiều chủ
nợ cùng đòi, cho nên việc thanh toán giải quyết phá sản rất phức tạp. Để đảm
bảo quyền bình đẳng giữa các chủ nợ Luật phá sản quy định hội nghị chủ nợ
có quyền giải quyết vấn đề về tài sản, ở đó mọi vấn đề tài sản đợc đặt ra bàn
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
11
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
bạc, quyết định theo đa số, thoả thuận hoặc quyết định cuối cùng của hội đồng
chủ nợ có giá trị pháp lý.
Để tránh hiện tợng bừa bãi gây thiệt hại danh dự, lợi ích của doanh
nghiệp, Luật phá sản cũng quy định chủ nợ khi nộp đơn phải có đầy đủ bằng
chứng về số nợ của doanh nghiệp-Toà xem xét rất kỹ lỡng và toàn diện mọi
chứng cứ mới quyết định mở hay không mở thủ tục giải quyết phá sản và phải
nêu rõ lý do.
Đối với con nợ, việc tuyên bố phá sản còn là hình thức giải phóng cho
họ khỏi những ràng buộc về mặt pháp lý cũng nh đạo lý, tạo điều kiện và cơ
hội để đa cho họ trở lại môi trờng kinh doanh. Luật cho phép doanh nghiệp có

thể đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, từ thời điểm đó không một
chủ nợ nào có quyền xé lẻ để kiện riêng doanh nghiệp. Tài sản của doanh
nghiệp đợc pháp luật bảo vệ tránh sự xâm hại.
Quan trọng hơn cả là luật phá sản đảm bảo cho các chủ nợ đều đợc chi
trả theo tỷ lệ nhất định phần tài sản của họ đảm bảo công bằng, dung hoà lợi
ích cá nhân với lợi ích xã hội.
Thứ hai : Cơ cấu lại nền kinh tế.
Luật phá sản có vai trò nh một công cụ góp phần cơ cấu lại nền kinh tế
trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, thông qua hình thức hoà
giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh thoát khỏi
nguy cơ phá sản. Qua đó cơ chế phá sản đã góp phần hình thành và duy trì mối
liên kết bền vững trong nội bộ nền kinh tế giữa các doanh nghiệp làm ăn thực
sự có hiệu quả, đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, nhng
đồng thời cũng loại trừ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, không để
cho căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm này tiếp tục lây lan, ảnh hởng tới hoạt
động kinh tế chung.
Thứ ba: Bảo vệ lợi ích ngời lao động.
Luật phá sản Việt Nam, xuất phát từ bản chất một Nhà nớc xã hội chủ
nghĩa, từ hoàn cảnh, điều kiện của đất nớc, đã có những điều khoản u tiên bảo
vệ quyền lợi của ngời lao động, một trong những mục tiêu quan trọng xuyên
suốt từ Đại hội Đảng VI tới nay là : Sắp xếp công ăn việc làm ổn định cho ngời
lao động. Luật phá sản đã coi ngời làm công ăn lơng là một chủ nợ đặc biệt
trong thứ tự thanh toán.
Trớc hết, Luật quy định Công đoàn hoặc đại diện ngời lao động nơi cha
có công đoàn, có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản doanh
nghiệp, nếu doanh nghiệp đó nợ lơng ngời lao động trong 3 tháng liên tiếp
(Điều 8) và đợc miễn nộp án phí. Trong trờng hợp này, khi tham gia hội nghị
chủ nợ, Công đoàn hay đại diện ngời lao động có quyền biểu quyết nh các chủ
nợ khác; Công đoàn hay đại diện ngời lao động dù không có đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp vẫn đợc tham gia hội nghị chủ nợ để cùng thảo

Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
12
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
luận bàn bạc những vấn đề liên quan đến lợi ích chung của các chủ nợ, nhng
không có quyền biểu quyết (Điều 25).
Trong việc quản lý và thanh toán tài sản, ngời lao động cũng đợc quyền
cử đại diện tham gia Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản (Điều 42).
Đặc biệt khi phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp thì khoản
nợ của doanh nghiệp đối với ngời lao động đợc trả trớc tiên sau khi đã thanh
toán các lệ phí và chi phí cho việc tuyên bố phá sản (Điều 39) các khoản nợ
của ngời lao động bao gồm Điều 5 Nghị định 92/CP ngày 19/12/1995 của
Chính phủ về giải quyết quyền lợi của ngời lao động ở doanh nghiệp bị tuyên
bố phá sản.
- Tiền lơng và các khoản phụ cấp lơng
- Tiền bảo hiểm xã hội: nếu doanh nghiệp cha đóng hoặc cha đóng đủ
cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định của điều lệ bảo hiểm xã hội.
- Trợ cấp thôi việc.
- Các quyền lợi khác bằng tiền mà ngời lao động và doanh nghiệp đã
thoả thuận khi ký thoả ớc lao động tập thể và hợp đồng lao động.
Ngoài ra, tài sản doanh nghiệp bị phá sản còn phải thanh toán các khoản
bồi thờng hoặc trợ cấp cho ngời lao động khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp mà suy giảm khả năng lao động 81% trở lên, chi phí điều trị ngời lao
động thuộc diện tạm hoãn thực hiện hợp đồng vì đang làm nghĩa vụ quân sự
hoặc nghĩa vụ công dân khác cũng đợc trợ cấp thôi việc; ngời lao động đã và
đang bị tạm giam cũng đợc trả 50% tiền lơng còn lại và trợ cấp thôi việc (Điều
5,6,7,8 Nghị định 92CP).
Việc thanh toán các khoản nợ ngời lao động dựa trên nguyên tắc đợc
thanh toán trực tiếp một lần cho đúng ngời lao động.
Nh vậy, lợi ích ngời lao động luôn đợc Nhà nớc quan tâm và bảo vệ một
cách thoả đáng, thể hiện bản chất Nhà nớc của nhân dân lao động.

Thứ t: Bảo đảm trật tự kỷ cơng xã hội.
Phá sản một doanh nghiệp bao giờ cũng kéo theo những hậu quả nhất
định cho xã hội. Luật phá sản là công cụ pháp lý nhằm ngăn chặn tình hình vô
tổ chức trong đòi nợ và trong thanh toán nợ, tạo một khung pháp lý an toàn,
bình đẳng cho các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ. Việc vi phạm của chủ nợ,
doanh nghiệp mắc nợ hay cá nhân tham gia thủ tục giải quyết tuyên bố phá
sản đều bị xử lý hành chính, dân sự, hình sự tuỳ mức độ vi phạm nặng, nhẹ.
Nh vậy Luật phá sản giải quyết mâu thuẫn, các ức chế tồn tại, đảm bảo
cho một xã hội có trật tự, kỷ cơng cần thiết.
3. Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản:
Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thực chất là quá trình Toà án xem
xét và ra quyết định chấm dứt t cách pháp lý của doanh nghiệp mắc nợ trên th-
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
13
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
ơng trờng và đứng ra phân chia tài sản của doanh nghiệp mắc nợ cho các chủ
nợ và những ngời có quyền lợi liên quan khác.
Giải quyết phá sản là một thủ tục thanh toán đặc biệt bởi lẽ từ trớc đến
nay theo thông lệ quốc tế tất cả các vụ kiện đòi phân chia tài sản một cách bất
đắc dĩ đều do Toà án đứng ra giải quyết. Tòa án là cơ quan t pháp nhân danh
Nhà nớc, so với các tổ chức tài phán khác quyết định của Toà án có hiệu lực thi
hành và phải đợc bảo đảm bằng cỡng chế Nhà nớc.
Mặt khác không nh những vụ kiện đòi trong dân sự, kinh tế, phá sản là
một vấn đề kinh tế xã hội rất phức tạp. Nó bao gồm những hậu quả bất lợi nh:
nạn thất nghiệp của công nhân, mâu thuẫn giữa chủ nợ với con nợ, cha kể đến
những biến động không có lợi theo kiểu lan truyền trong nền kinh tế có thể
dẫn đến phá sản hàng loạt và thậm chí có thể gây ra khủng hoảng Tất cả
những vấn đề này nếu không đợc giải quyết một cách triệt để và hợp lý sẽ đem
lại hậu quả khôn lờng cho xã hội. Do đó tuyên bố phá sản phải là trách nhiệm
của Nhà nớc và do Toà án đứng ra thực hiện. Trớc đây ở nớc ta tuyên bố phá

sản và giải quyết tranh chấp kinh tế do trọng tài kinh tế Nhà nớc đứng ra thực
hiện. Đến nay trớc yêu cầu của tình hình mới trọng tài kinh tế đã giải thể.
Chấm dứt sự tồn tại có tính lịch sử của mình. Công việc này kể từ ngày
01/07/1994 đợc Toà án kinh tế của các Toà án nhân dân cấp tỉnh (thành lập)
đảm nhận.
Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là thủ tục đặc biệt còn thể hiện ở
chỗ nếu nh tố tụng kinh tế và tố tụng dân sự chỉ nhằm mục đích xét xử thì quá
trình giải quyết yêu cầu phá sản còn phải thực hiện cả hai chức năng đó là
giám sát và xét xử đối với doanh nghiệp mắc nợ. Và đặc biệt trong quá trình
giải quyết phá sản, Toà án còn có những tác động mang màu sắc quản lý đến
doanh nghiệp mắc nợ. Các lý do trên cho thấy thủ tục đòi nợ (thanh toán)
trong quá trình giải quyết phá sản cũng hoàn toàn khác so với các thủ tục đòi
nợ trong tranh chấp dân sự, kinh tế ở chỗ:
+ Việc thanh toán các khoản nợ đợc tiến hành trên cơ sở số tài sản còn
lại của doanh nghiệp theo tỷ lệ phần trăm nhất định tơng ứng với mỗi khoản
nợ.
+ Việc đòi nợ không diễn ra trực tiếp giữa các bên chủ nợ và con nợ mà
bao giờ cũng phải thông qua một cơ quan đại diện là Toà án kinh tế hoặc cơ
quan thi hành án.
+ Việc thanh toán chỉ đợc tiến hành sau khi đã có quyết định của Toà
án, khác với việc đòi nợ trong dân sự. Trong dân sự việc thanh toán giữa chủ
nợ và con nợ đợc tiến hành bất cứ lúc nào theo thoả thuận của hai bên, thậm
chí cả khi vụ việc đã có quyết định đa ra xét xử.
Đặc biệt hơn cả quyết định tuyên bố phá sản không phải là bản án đợc
xác định trên cơ sở lỗi, song trong Luật phá sản chủ doanh nghiệp đợc coi là
không có lỗi, vả lại bản thân các chủ nợ khi bỏ vốn vào kinh doanh cũng đã
chấp nhận rủi ro, tức là chấp nhận có thể thiệt hại về tài sản xảy ra. ở đây hoạt
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
14
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp

động của Toà án không nhằm vào mục đích xác định trách nhiệm pháp lý hay
chế tài của các bên mà chỉ là thủ tục thực hiện những nghĩa vụ đã đợc các bên
thừa nhận. Khác với tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế, sau khi ra quyết định
tuyến bố phá sản, Toà án vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với bộ phận thi hành ra
quyết định tuyên bố phá sản là tổ thanh toán tài sản để hỗ trợ cho chủ thể này
hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, theo tinh thần đó, giai đoạn phân chia tài sản, đ-
ợc thực hiện bởi tổ thanh toán tài sản, có bản chất pháp lý không giống hoạt
động thi hành án đối với các bản án kinh tế, dân sự, hình sự.
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
15
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
Chơng II.
Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
I.Đối tợng và phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp:
1.Đối t ợng điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp:
Đối tợng của Luật phá sản doanh nghiệp là những doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản.
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn
hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi đã áp dụng các
biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Việc áp dụng Luật phá sản cho đối tợng nào là phụ thuộc vào điều kiện
cụ thể của từng nớc. ở úc Luật phá sản chỉ áp dụng cho các đối tợng là thể
nhân, ở Nga Luật phá sản áp dụng cho các nhà kinh doanh ( doanh nghiệp và
các nhà kinh doanh).
ở Việt Nam chỉ có doanh nghiệp mới chịu sự chi phối của Luật phá
sản, là những doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Theo khái niệm của nhiều nớc trên thế giới thì đối tợng của Luật phá
sản là những doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn. Với khái niệm này thì mọi doanh nghiệp bất kể về nguyên
nhân nào đã dẫn đến mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn đều thuộc

diện điều chỉnh Luật phá sản.
Luật phá sản nớc ta quy định rõ lý do doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc
thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh để nói lên thực trạng của doanh
nghiệp. Nhng theo chúng tôi, quy định này chỉ làm hẹp đi khái niệm về đối t-
ợng điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp mà thôi.
Luật phá sản doanh nghiệp nớc ta quy định mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn nhng không định lợng là bao nhiêu, tuy nhiên đó mới chỉ là dấu hiệu
để chủ nợ đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp nó không phải là căn
cứ duy nhất để toà án kết luận tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà còn phải dựa
vào một loạt các thủ tục theo trình tự đệ đơn, thụ lý đơn đến hội nghị chủ nợ
mới đi đến quyết định tuyên bố hay không tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
2. Phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp:
Theo quy định tại Điều 1 của Luật phá sản doanh nghiệp đợc áp dụng
đối với các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu đợc thành lập và hoạt
động theo pháp luật Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản. Nh vậy theo
pháp luật hiện hành các doanh nghiệp tồn tại ở Việt Nam gồm:
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
16
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
- Doanh nghiệp t nhân.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Công ty cổ phần
- Doanh nghiệp Nhà nớc.
- Doanh nghiệp liên doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài.
- Hợp tác xã.
- Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã hội.
Theo các nhà làm luật sở dĩ pháp luật phá sản Việt Nam quy định những
cơ sở sản xuất kinh doanh nào đợc gọi là doanh nghiệp mới có thể bị tuyên bố
phá sản là do họ cho rằng vì đây là chủ thể kinh doanh chủ yếu trên thơng tr-

ờng. Vì vậy cần tập trung quan tâm đến đối tợng này.
- Luật phá sản doanh nghiệp nớc ta áp dụng cho cả doanh nghiệp Nhà
nớc. Nói chung Luật phá sản ở các nớc không áp dụng cho doanh nghiệp Nhà
nớc, vì các doanh nghiệp Nhà nớc thực chất không có t cách pháp nhân. Nhà
nớc là chủ sở hữu của doanh nghiệp, nên Nhà nớc mới có trách nhiệm thanh
toán mọi khoản nợ của doanh nghiệp. Nếu Luật phá sản của Nhà nớc lại áp
dụng cho doanh nghiệp Nhà nớc chẳng khác gì vừa đá bóng, vừa thổi còi. Vì
Nhà nớc vừa là chủ nợ, vừa là con nợ. Nhng vì Nhà nớc ta cha có kinh nghiệm
trong việc xử lý các vụ phá sản, nên Nhà nớc áp dụng Luật phá sản để xử lý
các doanh nghiệp Nhà nớc là vừa làm để vừa rút kinh nghiệm.
- Những doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch
vụ công cộng quan trọng không lấy kinh doanh làm mục tiêu chính thì Chính
phủ quy định riêng cụ thể về việc thực hiện Nghị định 189/CP ngày
23/12/1994.
Vấn đề này có ý kiến cho rằng: Luật phá sản doanh nghiệp phải áp dụng
cho tất cả các doanh nghiệp không ngoại lệ, nếu để một số những doanh
nghiệp này nằm ngoài vòng pháp luật, hơn nữa điều này sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại
là sẽ không bao giờ bị phá sản nên không cố gắng. Vậy khi những doanh
nghiệp này rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính, mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn sẽ xử lý ra sao ?.
Doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm báo cáo ngay để có biện pháp
khắc phục. Nếu thấy việc hỗ trợ vợt quá khả năng cho phép, Nhà nớc không
hỗ trợ thì doanh nghiệp có quyền đệ đơn tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
II. Những vấn đề liên quan đến yêu cầu tuyên bố phá sản:
1.Thủ tục nộp đơn và thụ lý đơn:
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
17
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
Đa số Luật phá sản của các nớc đều quy định cơ quan Nhà nớc có thẩm
quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là Toà án. Tuy nhiên do sự khác

biệt trong tổ chức hệ thống chính trị nên việc phân công, giải quyết có khác
nhau, chẳng hạn hầu hết ở các nớc Châu Âu, Lục địa, khối Civillaw đều giao
thẩm quyền giải quyết cho toà Thơng mại. Một số nớc nh Mỹ, Nam T (trớc
đây), Thuỵ Điển lại giao cho toà phá sản chuyên trách, ở Nga thẩm quyền giao
cho toà trọng tài, riêng ở Trung Quốc phá sản tính chất thuộc phạm vi dân sự
nên thuộc toà án thờng giải quyết.
ở nớc ta Điều 4 Luật phá sản doanh nghiệp và Điều 30 Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân thì Toà kinh tế toà án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng (gọi tắt là toà án nhân dân cấp tỉnh)
và toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
Thủ tục nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết tuyên bố phá sản đợc quy
định tại Điều 7 và Điều 8 Luật phá sản doanh nghiệp.
Điều 7 chỉ quy định: các chủ nợ không có bảo đảm và có bảo đảm một
phần có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết tuyên bố phá sản, mà không
đòi hỏi số lợng cụ thể tối thiểu phải là bao nhiêu, hoặc phải đợc sự chấp thuận
trớc của bất kỳ tổ chức nào. Khi nộp đơn chỉ cần nộp kèm theo đơn chứng từ,
tài liệu để chứng minh số nợ, chứng minh doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn, các tài liệu này đợc cụ thể hoá tại Điều 10 Nghị định 189/CP
ngày 23/12/1994 của Chính phủ, khi nộp đơn các chủ nợ phải nộp tiền tạm ứng
lệ phí theo quy định của Nghị định 117/CP ngày 07/09/1994 của Chính phủ.
Riêng chủ nợ là đại diện công đoàn hoặc đại diện ngời lao động không ngừng
phải nộp tiền tạm ứng lệ phí.
Đối với doanh nghiệp khi nộp đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá
sản doanh nghiệp cũng phải nộp kèm theo đơn, danh sách các chủ nợ, báo cáo
tình hình kinh doanh 6 tháng trớc khi mất khả năng thanh toán nợ đến hạn,
báo cáo quyết toán và thuyết trình chi tiết tình hình tài chính doanh nghiệp đã
áp dụng, bản tờng trình trách nhiệm và bản sao các tài liệu kế toánvà phải
nộp tiền tạm ứng lệ phí nh đã nêu trên.
Khác với thủ tục nộp đơn trong giai đoạn trớc khi toà án quyết định mở

thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và tất cả các chủ nợ
đều phải gửi giấy đòi nợ, nếu quá hạn quy định mà không gửi giấy đòi nợ chủ
nợ sẽ mất quyền tham gia Hội nghị chủ nợ.
Tại mục III công văn số 457/KHXX ngày 21/07/1994 của Toà án nhân
dân tối cao quy định toà án chỉ thụ lý đơn sau khi nhận đợc đơn yêu cầu giải
quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp và các giấy tờ, chứng từ tài liệu
kèm theo đơn đã nộp tiền tạm ứng lệ phí. Toà sẽ thụ lý bằng cách vào sổ và cấp
cho ngời nộp đơn giấy báo nhận đơn và các giấy tờ kèm theo.
Đối với trờng hợp ngời nộp đơn là chủ nợ thì trong vòng 7 ngày từ ngày
thụ lý đơn, toà sẽ thông báo cho doanh nghiệp mắc nợ biết có bản sao đơn và
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
18
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
các tài liệu liên quan kèm theo. Trong hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận đợc thông
báo của toà án, doanh nghiệp phải gửi cho toà án báo cáo về khả năng thanh
toán nợ. Còn trong trờng hợp ngời nộp đơn là chủ doanh nghiệp hay ngời đại
diện hợp pháp của doanh nghiệp thì toà án chỉ thụ lý đơn mà không cần gửi
bản sao đơn và các tài liệu khác cho bất cứ ngời nào.
2. Những đối t ợng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp:
Việc xác định những đối tợng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu xác định đúng
đối tợng thì việc giải quyết phá sản sẽ nhanh chóng, kịp thời bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho các bên. Ngợc lại nếu xác định tuỳ tiện, không dựa trên
cơ sở khoa học nào thì hậu quả sẽ làm cho việc giải quyết khó khăn ảnh hởng
xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh.
Thủ tục phá sản thực chất là giải quyết mối quan hệ tài sản giữa chủ tài
sản và con nợ, nên chủ nợ và con nợ đợc u tiên quyền này, nhng vị trí của con
nợ và chủ nợ khi tham gia thủ tục giải quyết yêu cầu tuyền bố phá sản doanh
nghiệp là khác nhau, đối với chủ nợ thì việc yêu cầu tuyên bố phá sản là

quyền, đối với con nợ đây là nghĩa vụ.
- Thủ tục phá sản đặt ra trớc hết là nhằm bảo vệ quyền về tài sản của
chủ nợ, do vậy chủ nợ là ngời đợc pháp luật quy định có quyền nộp đơn để xin
tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Tại Khoản 1 Điều 7 Luật phá sản doanh nghiệp quy đinh: Sau thời hạn
30 ngày, kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không đợc doanh nghiệp thanh
toán nợ, chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền
nộp đơn đến Toà án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp để yêu cầu giải
quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp .
+ Chủ nợ không có bảo đảm là những chủ nợ mà có quyền đòi nợ không
đợc đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
Trong ý nghĩa này thì đại diện công đoàn hoặc đại diện ngời lao động
nơi cha có tổ chức công đoàn cũng đợc xem là chủ nợ không có bảo đảm và có
quyền đệ đơn yêu cầu Toà án giải quyết, nếu doanh nghiệp mắc nợ không trả
đợc lơng cho ngời lao động trong 3 tháng liên tiếp và có Nghị quyết của công
đoàn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp (Điều 9 Luật phá sản doanh
nghiệp).
+ Chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ có quyền đòi nợ đợc đẩm bảo
bằng tài sản của doanh nghiệp mắc nợ nhng giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn
khoản nợ.
Việc quy định cho chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền này là hợp lý
vì suy cho cùng họ vẫn là chủ nợ không có bảo đảm, do đó họ có quyền yêu
cầu con nợ trả nốt phần còn thiếu.
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
19
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
Đối với chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản đợc bảo đảm bằng tài
sản của doanh nghiệp mắc nợ. Đến hạn trả nợ mà doanh nghiệp mắc nợ đó
không thanh toán đợc thì chủ nợ có quyền bán tài sản đảm bảo đó (nh tài sản
cầm cố, thế chấp). Do vậy, chủ nợ có bảo đảm không có quyền nộp đơn để xin

Toà án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Luật phá sản các nớc đều quy định con nợ có nghĩa vụ nộp đơn yêu
cầu tuyên bố phá sản chính doanh nghiệp của mình. Luật quy định nh vậy là
bởi vì hơn ai hết chính bản thân con nợ hiểu rõ thực trạng tình hình tài chính
của doanh nghiệp mình. Thực tế cho thấy, dù doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế nào thì ngời quản lý bao giờ cũng bằng mọi cách cứu vãn doanh nghiệp
mình cho đến khi vô phơng cứu chữa thì mới nộp đơn xin phá sản.
Khoản 1 Điều 9 Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam quy định: Trong
trờng hợp đã thực hiện các biện pháp khắc phục khó khăn về tài chính để thanh
toán các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà doanh nghiệp vẫn không thoát
khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ các khoản nợ đến hạn thì chủ
doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải nộp đơn đến Toà
án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp để yêu cầu giải quyết việc tuyên bố
phá sản doanh nghiệp.
Quy định nh vậy có ý nghĩa rất lớn, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất: là tạo điều kiện cho doanh nghiệp sớm kết thúc sự tồn tại của
mình khi không còn khả năng tồn tại.
Thứ hai: Tăng cờng trách nhiệm của họ đối với xã hội bởi sự duy trì một
doanh nghiệp đã chết là điều không tốt không chỉ cho doanh nghiệp mà còn
cho cả xã hội.
- Ngoài hai chủ thể chính chủ nợ và con nợ. Luật phá sản Việt Nam còn
cho phép ngời lao động với t cách là một chủ nợ đặc biệt có quyền yêu cầu Toà
án phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên để tránh tình trạng tuỳ tiện trong việc thực
hiện quyền này, Luật phá sản doanh nghiệp nớc ta đã quy định những điều
kiện cụ thể Trong trờng hợp doanh nghiệp không trả đợc lơng cho ngời lao
động 3 tháng liên tiếp, thì đại diện công đoàn hoặc đại diện ngời lao động nơi
cha có tổ chức công đoàn có quyền nộp đơn đến Toà án nơi doanh nghiệp đặt
trụ sở chính yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp ( Điều
8 Luật phá sản doanh nghiệp).
Điều 9 Nghị định 189/CP của Chính phủ còn quy định một điều kiện

nữa để công đoàn đợc nộp đơn lên Toà án yêu cầu tuyên bố phá sản đó là phải
có nghị quyết của công đoàn hoặc tập thể ngời lao động yêu cầu giải quyết
tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Tóm lại: Luật phá sản doanh nghiệp nớc ta chỉ quy định 3 chủ thể là chủ
nợ, con nợ, ngời lao động có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu Toà án tuyên
bố phá sản doanh nghiệp vì chỉ những chủ thể mới có quyền và lợi ích trực tiếp
tới doanh nghiệp bị phá sản.
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
20
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
3. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản:
Theo Luật phá sản của các nớc, cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu
cầu tuyên phá sản doanh nghiệp là Toà án. Tuy nhiên do có sự khác biệt về
nhiều mặt nên việc phân công giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản ở các nớc là
khác nhau. ở hầu hết các nớc Châu Âu, Lục địa là Toà thơng mại, trong khi đó
ở một số nớc nh Mỹ, Thuỵ Điển, Nam T lại thành lập toà phá sản riêng và
chỉ thực hiện một công việc duy nhất là giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. ở
Cộng hoà Liên bang Nga thẩm quyền phá sản thuộc về Toà án trọng tài, ở
Trung Quốc thẩm quyền này thuộc Toà án thờng vì tính chất vụ kiện phá sản
đợc xác định thuộc phạm vi vụ kiện dân sự.
ở nớc ta, theo quy định tại Điều 4 Luật phá sản doanh nghiệp và Điều
30 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ơng là cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tuỳ theo tính chất cụ thể từng vụ việc, Toà
kinh tế, Toà án nhân dân cấp tỉnh chỉ định 1 hoặc 3 thẩm phán giải quyết. Quy
chế làm việc của tập thể thẩm phán do Chánh án toà án nhân dân tối cao giải
quyết khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định tuyên bố phá sản doanh
nghiệp.
Nh vậy, thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở
nớc ta là Toà án kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh.

Điều 13, 15 Luật phá sản doanh nghiệp đã quy định, trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, Chánh toà kinh tế tỉnh phải xem xét đơn cùng các
giấy tờ, tài liệu liên quan, nếu xét thấy không đủ căn cứ thì ra quyết định
không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Nếu xét thấy có đủ căn
cứ thì ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Trong các quyết định này phải nêu rõ lý do mở hay không mở thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và gửi cho các bên đợc biết.
Trớc khi ra quyết định, ngoài việc xem xét đơn và các giấy tờ, tài liệu
kèm theo, nếu xét thấy cần thiết Toà án có thể triệu tập các chủ nợ, chủ doanh
nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp đến Toà án để trình bày
những vấn đề cần thiết hoặc yêu cầu họ cung cấp bổ sung các giấy tờ, tài liệu
cần thiết khác.
Sau khi nhận đợc quyết định của Toà án kinh tế cấp tỉnh, các bên có
quyền khiếu nại với Chánh án toà án nhân dân cấp tỉnh về quyết định đó và
trong hạn 7 ngày Chánh án toà án nhân dân cấp tỉnh ra một trong các quyết
định sau:
1. Giữ nguyên quyết định của Chánh toà kinh tế.
2. Huỷ quyết định của Chánh toà kinh tế và yêu cầu xem xét lại.
Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày Chánh án ra quyết định huỷ. Chánh
toà kinh tế phải ra quyết định mới gửi cho Chánh án và các bên đơng sự. Trong
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận quyết định mới, nếu các bên còn khiếu nại thì
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
21
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
trong hạn 7 ngày Chánh án xem xét quyết định và quyết định lần này có hiệu
lực thi hành.
Một điểm quan trọng là việc áp dụng các thời hạn vừa đợc nêu trên sẽ bị
hạn chế khi Toà án xem xét đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản đối với
doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng nh
đã nói ở Điều 1 Luật phá sản doanh nghiệp.

Mặc dù Điều 1 Luật phá sản doanh nghiệp chỉ dành cho Chính phủ quy
định cụ thể thi hành Luật phá sản doanh nghiệp cho các loại hình doanh
nghiệp này, tại Điều 4, 5 mục 3 Nghị định 189/CP của Chính phủ ngoài phần
quy định cụ thể phần các doanh nghiệp này khi bị lâm vào tình trạng phá sản,
cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp và Thủ tớng Chính phủ thực
hiện. Tuy nhiên tại Điều 6 lại quy định cho Toà án các việc phải thực hiện
mang tính chất tố tụng là điều không phù hợp với cách thức phân công của bộ
máy Nhà nớc Việt Nam.
Ngoài ra Điều 6 Nghị định 189/CP của Chính phủ có lẫn lộn về trình tự
khi Toà án áp dụng Luật phá sản doanh nghiệp. Tại Khoản 1 Điều 6 Nghị định
nêu trên quy định Toà án chỉ ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp đối với loại hình doanh nghiệp này sau khi có văn
bản của Thủ tớng hay của Thủ trởng cơ quan Nhà nớc đã ra quyết định thành
lập doanh nghiệp về việc không áp dụng các biện pháp cần thiết phục hồi khả
năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp đó. Tại Khoản 2 Điều 6 lại quy
định sau khi thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, Nghị định 189 /CP và các
văn bản pháp quy khác.
Với quy định tại Điều 4, 5 Nghị định 189/CP, khi nhận đợc đơn yêu cầu
giải quyết tuyên bố phá sản với loại hình doanh nghiệp này, đúng lý Toà án
phải tạm đình chỉ thụ lý đơn hoặc trả lại đơn cho ngời nộp đơn vì cần phải chờ
ý kiến trả lời của Thủ tớng Chính phủ, thủ tục này là cần thiết và nếu không
toà án sẽ vi phạm vào thời hạn đã quy định tại Điều 12, 13 Luật phá sản doanh
nghiệp. Do đó, sau khi có ý kiến của các cơ quan này Toà án mới chính thức
thụ lý đơn và có thời hạn xem xét toàn bộ giấy tờ, tài liệu liên quan để ra quyết
định mở hay không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Một vấn đề đặt ra là quyết định của Chánh án toà án nhân dân cấp tỉnh
sau khi giải quyết các khiếu nại các bên về quyết định mở hay không mở thủ
tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, đã có hiệu lực thi hành
theo quy định tại Khoản 2 Điều 13 Luật phá sản doanh nghiệp, có đợc xem xét
theo trình tự giám đốc thẩm hay tái thẩm không? Luật phá sản doanh nghiệp

không chỉ dự liệu trờng hợp giải quyết kháng nghị đối với quyết định tuyên bố
phá sản của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Quyết định giải quyết này
là quyết định cuối cùng. Sau khi tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực thì
trình tự phá sản doanh nghiệp chuyển sang một giai đoạn khác; giai đoạn thi
hành án.
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
22
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
Tóm lại: Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản chỉ có một cơ quan
duy nhất có thẩm quyền đó là Toà kinh tế. Việc quy định chỉ có Toà kinh tế
mới đủ thẩm quyền giải quyết là hợp lý vì các toà cấp dới (huyện, quận) trên
thực tế cha có khả năng cũng nh điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ này.
III.Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
Đây là giai đoạn trung tâm của cả quá trình giải quyết tuyên bố phá sản
doanh nghiệp, việc doanh nghiệp mắc nợ còn tồn tại hay không, tài sản của
doanh nghiệp gồm có những gì, việc phân chia ra sao, thậm chí có thể đình
chỉ quyết định mở thủ tục phá sản, đều đợc xem xét cẩn thận trong giai đoạn
này.
Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp quy định trong thời hạn 30 ngày kể
từ ngày thụ lý đơn hoặc sau 7 ngày kể từ ngày Chánh án Toà án ra quyết định
có hiệu lực pháp luật giải quyết khiếu nại quyết định của Chánh toà kinh tế
cấp tỉnh, Chánh án kinh tế cấp tỉnh nếu xét đủ căn cứ, ra quyết định mở thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Điều 15 này cho phép Chánh toà kinh tế, mặc dù đã có quyết định có
hiệu lực pháp luật của Chánh toà nhân dân tỉnh, vẫn có thể xem xét lại các căn
cứ mà pháp luật đề ra có phù hợp với hồ sơ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp hay không? Điều này nói lên tính thận trọng của Nhà nớc trớc sinh
mệnh của một doanh nghiệp, dù rằng doanh nghiệp đang trong tình trạng bi
đát về tài chính. Một quyết định thiếu căn cứ có thể dẫn đến hàng loạt các hậu
quả không tốt cho các chủ nợ. Doanh nghiệp mắc nợ ngời lao động, danh dự

của ngời đứng đầu doanh nghiệp mà còn gây ra những bất ổn về mặt kinh tế
xã hội. Tuy nhiên điều luật có thiếu sót là không đa ra biện pháp giải quyết
trong tình huống này vì nh đã nói ở trên. Quyết định của Toà án nhân dân tỉnh
trong trờng hợp này có hiệu lực thi hành mà không có thủ tục nào khác để xem
xét lại.
Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp phải đợc đăng báo địa phơng nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính và báo
hàng ngày của trung ơng trong 3 số liên tiếp.
Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp cần phải đợc công khai bằng thủ tục niêm yết tại trụ sở Toà án thông
báo cho tất cả các chủ nợ để tất cả các chủ nợ biết và gửi giấy đòi nợ đúng
hạn. Trong Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp yêu cầu bao gồm một
số nội dung sau:
1. Lý do mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
2. ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ của doanh nghiệp.
3. Họ, tên thẩm phán phụ trách việc yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp hoặc tuỳ tính chất vụ việc và họ tên 3 thẩm phán.
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
23
Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
4. Họ, tên các nhân viên Tổ quản lý tài sản đợc chỉ định.
1.ấ n định thời điểm ngừng thanh toán nợ:
Nhằm mục đích bảo vệ tài sản của doanh nghiệp để sau này thanh toán
nợ và bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ qua việc tôn trọng những nguyên tắc u
tiên, nguyên tắc bình đẳng trong thanh toán tài sản doanh nghiệp mắc nợ; Luật
đã quy định trong quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp phải ấn định thời điểm ngừng trả nợ. Tuy luật không nói rõ thời
điểm ngừng thanh toán nợ là thời điểm nào, nhng Khoản 2 Điều 18 có liệt kê
một số hành vi của doanh nghiệp bị nghiêm cấm thực hiện, do đó phải hiểu
thời điểm ngừng thanh toán nợ đợc tính kể từ ngày doanh nghiệp nhận đợc

quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp,
điểm này đã đợc công văn 457/KHXX ngày 21/07/1994 của Toà án nhân dân
tối cao xác định. Điều lu ý là dù ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ nhng
doanh nghiệp vẫn cha bị tớc quyền quản lý doanh nghiệp, doanh nghiệp vẫn
hoạt động bình thờng nhng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của thẩm phán và
tổ quản lý tài sản.
2. Chỉ định thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
Khoản 2 Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp quy định một thẩm phán
hoặc tập thể 3 thẩm phán giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Khi vụ việc có
số chủ nợ nhiều, có nhiều khoản nợ khác nhau với số tiền rất lớn, doanh
nghiệp có nhiều chi nhánh ở nhiều nơi, có các yếu tố phức tạp khác thì Chánh
toà kinh tế cấp tỉnh chỉ định tập thể 3 thẩm phán phụ trách.
Quyết định số 426/QĐ ngày 01/7/1994 của Toà án nhân dân tối cao cho
ban hành quyết định quy chế làm việc của tập thể thẩm phán phụ trách việc
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, đã quy định thẩm phán đợc giao nhiệm
vụ phụ trách tập thể thẩm phán phải tổ chức họp tập thể thẩm phán để phân
công cho từng thẩm phán nh sau:
- Thẩm phán đợc giao nhiệm vụ phụ trách tập thể thẩm phán phụ trách
chung toàn bộ hoạt động của tập thể thẩm phán, tổ chức chủ trì Hội nghị chủ
nợ.
- Một thẩm phán đợc giao nhiệm vụ thu thập tài liệu, chứng cứ để lập hồ
sơ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Một thẩm phán đợc giao nhiệm vụ giám sát và kiểm tra hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp, giám sát việc thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp và trả lơng cho ngời lao động trong doanh
nghiệp trong thời gian giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
24

Khoá luận tốt nghiệp Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp
Tập thể thẩm phán thảo luận và giải quyết theo đa số với các vấn đề sau:
a. Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
b. Ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
c. Cho phép doanh nghiệp cầm cố, thế chấp chuyển nhợng, bán tài sản
của doanh nghiệp hoặc thanh toán nợ có bảo đảm từ tài sản của doanh
nghiệp.
d. Xem xét khiếu nại của chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ về danh sách
chủ nợ.
e. Ra quyết định bảo toàn tài sản thế chấp hoặc cầm cố tổ chức việc xác
định giá của tài sản đó.
f. Ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Tập thể thẩm phán phải có mặt tại Hội nghị chủ nợ và phơng án phân
chia giá trị tài sản của doanh nghiệp phải đợc thảo luận và biểu quyết theo đa
số.
Thẩm phán đợc giao nhiệm vụ phụ trách tập thể thẩm phán trớc Chánh
toà kinh tế cấp tỉnh về toàn bộ hoạt động của tập thể thẩm phán.
Trờng hợp giai đoạn đầu Chánh toà kinh tế chỉ định tập thể 3 thẩm phán,
nhng quá trình tiến hành giải quyết việc phá sản doanh nghiệp thấy không cần
thiết thì Chánh toà kinh tế có thể tự mình hoặc theo đề nghị của tập thể thẩm
phán rút bớt thẩm phán và giao nhiệm vụ cho một thẩm phán phụ trách, giải
quyết tiếp. Quyết định bổ xung này phải gửi cho Chánh toà án nhân dân tỉnh
và các bên đơng sự.
Điều 16 Luật phá sản doanh nghiệp đã quy định quyền hạn của thẩm
phán nh sau:
- Thu thập tài liệu, chứng cứ để lập hồ sơ giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp.
- Giám sát việc kiểm tra hoạt động của các nhân viên Tổ quản lý tài sản.
- Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trờng hợp

cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo đảm toàn tài sản doanh nghiệp
mắc nợ.
- Ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp.
- Tổ chức và chủ trì Hội nghị chủ nợ.
- Tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, nếu phát hiện có
dấu hiệu phạm tội, thẩm phán sẽ gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để khởi
tố hình sự.
Trong khi tiến hành nhiệm vụ của mình, tập thể thẩm phán hay thẩm
phán phụ trách có thể ra những quyết định liên quan đến quyền hạn của mình
đã đợc quy định trong luật. Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam tại Điều 40
chỉ quy định việc khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định tuyên bố phá sản sẽ
Vũ Thị Thu Hơng: Luật 1-K98
25

×