Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

một số vấn đề pháp lý về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.19 KB, 45 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời Mở đầu
Năm 2005 là năm đánh dấu sự thay đổi lớn trong hệ thống văn bản pháp
luật (VBPL) kinh tế Việt Nam. Cùng với Bộ luật dân sự 2005, Luật Thơng mại
2005, hai văn bản pháp luật bao gồm Luật đầu t 2005 và Luật doanh nghiệp 2005
đã bớc đầu tạo ra một khung pháp lý thống nhất, đồng bộ, thông thoáng, rõ ràng
và minh bạch cho hoạt động đầu t kinh doanh ở nớc ta. Bên cạnh việc cho ra đời
các công cụ pháp lý phù hợp cho toàn thể các doanh nhân, nhà quản lý và những
ngời đang hoạt động trong lĩnh vực đầu t, kinh doanh, thơng mại, hệ thống các
VBPL này thực sự là bớc đi định hớng, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam thực
thi các thoả thuận mà Quốc hội và Chính phủ đã cam kết trong các điều ớc song
phơng, đa phơng, cũng nh khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ
chức thơng mại thế giới (WTO).
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trờng định
hớng XHCN, đã làm phát sinh và phát triển nhiều lĩnh vực kinh doanh mới nh:
đầu t chứng khoán, nhợng quyền thơng mại, kinh doanh đa cấp và các ngành nghề
kinh doanh gắn liền với công nghệ thông tin.
Gần đây, cùng với sự sôi động của thị trờng chứng khoán, một thị trờng
khác cũng đang có sức hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu t, các chủ thể kinh
doanh, các tổ chức, cá nhân đó là thị trờng mua bán doanh nghiệp. Với những đặc
điểm tích cực đợc xác định, mua bán doanh nghiệp là một trong những cách lựa
chọn tốt nhất để giải quyết tình trạng bế tắc của doanh nghiệp trong sản xuất kinh
doanh, gặp khó khăn về tài chính. Đặc biệt là, khi muốn chuyển sang lĩnh vực kinh
doanh mới hay khi muốn khởi đầu một công việc kinh doanh mà cha có đầy đủ cơ
sở vật chất, hệ thống khách hàng cha đợc thiết lập, hoặc cha có một tên thơng mại
nổi tiếng, các nhà đầu t thờng tìm đến với hoạt động mua bán doanh nghiệp.
Tuy vậy, không thể phủ nhận đợc là hoạt động mua bán doanh nghiệp là
một lĩnh vực kinh doanh tơng đối mới. Tại Việt Nam, các vấn đề pháp lý liên quan
đến lĩnh vực này vẫn còn cha đợc tổng kết thành hệ thống lý luận trong khoa học
pháp lý. Mặt khác, trên thực tế, hệ thống pháp luật hiện nay của Việt Nam còn
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
thiếu các quy định để điều chỉnh trực tiếp, đồng bộ cho hoạt động mua bán doanh
nghiệp. Chỉ với một vài điều luật nh điều 145 của Luật doanh nghiệp 2005, quy
định về quyền bán doanh nghiệp của chủ doanh nghiệp t nhân, hoặc một vài điều
trong Nghị Định 80/NĐ-CP ngày 22 tháng 6 năm 2005 chỉ điều chỉnh bộ phận
mua bán công ty nhà nớc thì cha thể gọi là đủ để điều chỉnh quan hệ pháp luật t-
ơng đối rộng lớn và phức tạp này. Bên cạnh đó, một vài bất cập trong những quy
định hiện hành cũng có thể đợc chỉ ra nh: pháp luật yêu cầu sau khi mua lại doanh
nghiệp nhất định chủ sở hữu mới phải tiến hành đăng kí kinh doanh lại, vì vậy,
thực chất của việc mua bán doanh nghiệp chính là hoạt động mua bán tài sản,
chuyển nhợng tài sản doanh nghiệp mà không chuyển nhợng t cách pháp lý. Có
thể nói, những quy định này không phù hợp với quan điểm nhìn nhận hoạt động
mua bán doanh nghiệp là hoạt động có tính thơng mại, theo đó, ngời mua không
những đợc chuyển quyền sở hữu doanh nghiệp mà còn phải đợc khai thác các
thuộc tính thơng mại của nó, có nghĩa là đợc tiếp tục kinh doanh bằng t cách pháp
lý của doanh nghiệp.
Nh vậy, một yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần nhìn nhận mua bán doanh
nghiệp theo một quan điểm nhất quán và cần phải thống nhất điều chỉnh mua bán
doanh nghiệp bằng các quy định pháp luật đồng bộ, không chỉ dừng lại ở doanh
nghiệp t nhân hay công ty nhà nớc mà cho tất cả các loại hình doanh nghiệp là hết
sức cần thiết đối với hoạt động mua bán doanh nghiệp hiện nay. Vì vậy, tác giả đã
lựa chọn đề tài: Một số vấn đề pháp lý về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam
làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình, với mục đích bớc đầu tiếp cận, phân tích
và giải quyết những vấn đề có liên quan trực tiếp đến hoạt động mua bán doanh
nghiệp.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng i
Các vấn đề lý luận chung về mua bán doanh nghiệp
1. Khái quát chung về mua bán doanh nghiệp

1.1. Khái niệm mua bán doanh nghiệp
Mua bán doanh nghiệp là một lĩnh vực kinh doanh mới ở Việt Nam. Theo
một số ý kiến đánh giá, khi Việt Nam ra nhập tổ chức thơng mại thế giới( WTO),
cùng với quy chế thơng mại bình thờng vĩnh viễn (PNTR), hầu nh mọi rào cản th-
ơng mại đợc dỡ bỏ, vì vậy, các hoạt động đầu t, mua bán doanh nghiệp và dịch vụ
kèm theo sẽ trở nên sôi động hơn bao giờ hết
(1)
. Tuy nhiên, trên thực tế ở Việt
Nam khoa học pháp lý cha đề cập đến vấn đề này một cách có hệ thống, cũng nh
các quy định pháp luật hiện nay cha thể tạo thành một khung pháp lý thống nhất
và đồng bộ để trực tiếp điều chỉnh toàn bộ hoạt động mua bán doanh nghiệp. Liên
quan trực tiếp đến hoạt động mua bán doanh nghiệp, việc tiếp cận khái niệm mua
bán tài sản dân sự, khái niệm mua bán hàng hoá trong thơng mại và các khái niệm
có liên quan sẽ là cơ sở để tiến tới xây dựng một khái niệm mua bán doanh
nghiệp" trên tinh thần các quy định pháp luật hiện hành.
Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, quan hệ mua bán tài sản đợc nhìn
nhận dới góc độ Luật Dân sự là một quan hệ pháp luật theo đó ngời mua và ngời
bán có quyền và nghĩa vụ nhất định, thông qua việc mua bán làm chấm dứt quyền
sở hữu của ngời bán đối với tài sản, đồng thời làm phát sinh quyền sở hữu của ng-
ời mua. Một cách cụ thể, Mua bán tài sản là thoả thuận giữa các bên theo đó
bên bán có nghĩa vụ chuyển giao tài sản cho bên mua và nhận tiền bán tài sản,
còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán theo thời hạn, số
lợng và phơng thức mà các bên đã thoả thuận
(2)
.
Pháp luật thơng mại cũng có những quy định liên quan đến việc mua bán
tài sản dới dạng các hàng hoá, đồng thời định nghĩa: Mua bán hàng hoá là hoạt
động thơng mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
1
- Mua bán doanh nghiệp đã đến thời kỳ sôi động (Nguồn tạp chí tài

chính)
2
Xem: Trờng Đại học Luật Hà Nội, 2006, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập 2. NXB Công an nhân dân, Hà
Nội - 2006, Trang 119.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán
cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận
(3)
. Có thể
nói, trong lĩnh vực thơng mại, mua bán hàng hoá trở thành hoạt động cơ bản của
thơng nhân, là giao dịch nền tảng cho mọi giao dịch thơng mại khác. Theo Luật
Doanh Nghiệp 2005, thơng nhân là những tổ chức kinh tế đợc thành lập một cách
hợp pháp, cá nhân hoạt động thơng mại độc lập, thờng xuyên và có đăng ký kinh
doanh.
Tuy nhiên, yếu tố khác biệt nhất của quan hệ mua bán doanh nghiệp so với
các quan hệ mua bán tài sản dân sự hay mua bán hàng hoá thơng mại là đối tợng
của nó. ở đây, đối tợng của mua bán doanh nghiệp chính là một doanh nghiệp -
tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đợc đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật, đồng thời, một cá nhân, tổ chức có thể đa
tài sản (dới hình thức góp vốn) vào doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu hay các
chủ sở hữu chung của doanh nghiệp.
Nh vậy, doanh nghiệp là một thực thể pháp lý có thể có hoặc không có t
cách pháp nhân, đợc thành lập theo quy định của pháp luật và là một tài sản của
chủ sở hữu doanh nghiệp. Vì vậy chủ sở hữu có thể bán doanh nghiệp tuỳ theo
mục đích của mình. Trên cơ sở đó Luật doanh nghiệp 2005 quy định: Chủ
doanh nghiệp t nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho ngời khác. Nghị
định 80/2005/NĐ - CP cũng định nghĩa về bán công ty Nhà nớc nh sau: bán công
ty hoặc bộ phận của công ty là việc chuyển đổi sở hữu có thu tiền toàn bộ công
ty, bộ phận công ty sang sở hữu tập thể cá nhân hoặc pháp nhân khác.

Từ các khái niệm trên, nếu tiếp cận theo góc độ mua bán tài sản có thể định
nghĩa về mua bán doanh nghiệp nh sau:
Mua bán doanh nghiệp là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán
có nghĩa vụ chuyển giao toàn bộ doanh nghiệp (gồm có tài sản, các quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp) cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa
vụ nhận toàn bộ doanh nghiệp (tài sản, quyền và nghĩa vụ) và trả tiền cho bên
bán.
3
Xem: Trờng Đại học Luật Hà Nội, 2006, Giáo trình Luật Thơng mại, tập 2. NXB Công an nhân dân, Hà Nội -
2006, trang 6.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong khái niệm này, thoả thuận là cơ sở của quan hệ mua bán giữa các
bên; đối tợng của quan hệ mua bán là doanh nghiệp, bao gồm toàn bộ tài sản, các
quyền nghĩa vụ khác của doanh nghiệp. Xét ở khía cạnh hình thức, quan hệ mua
bán doanh nghiệp cũng giống nh một quan hệ chuyển nhợng tài sản đơn thuần.
Xét dới khía cạnh pháp lý, hiện tại, pháp luật Việt Nam cũng chỉ mới dừng lại ở
quan điểm cho rằng quan hệ mua bán doanh nghiệp cũng tơng tự nh các quan hệ
mua bán tài sản khác. Bởi vì theo quy định của pháp luật về mua bán doanh nghiệp
t nhân và mua bán công ty nhà nớc, sau khi mua lại doanh nghiệp chủ sở hữu
doanh nghiệp mới phải tiến hành đăng ký kinh doanh lại. Vì vậy, nếu chỉ dừng lại
ở mục đích mua khối tài sản doanh nghiệp thì bản chất của mua bán doanh nghiệp
là sự chuyển nhợng tài sản doanh nghiệp mà không chuyển nhợng t cách pháp lý
của doanh nghiệp đợc bán
(4)
. Tuy nhiên, xét về chủ thể tham gia quan hệ - là chủ
doanh nghiệp, đối tợng của quan hệ là doanh nghiệp và mục đích của việc mua
bán là tìm kiếm lợi nhuận hay mua lại doanh nghiệp để tiếp tục kinh doanh thì
quan hệ mua bán doanh nghiệp lại có bản chất thơng mại sâu sắc.
Theo Luật doanh nghiệp 2005, một doanh nghiệp có thể đợc thành lập

thông qua hình thức góp vốn, đó cũng là cách thức để một cá nhân, tổ chức trở
thành chủ sở hữu của doanh nghiệp (khoản 4 điều 3 LDN 2005). Do đó doanh
nghiệp là một thực thể đặc biệt do pháp luật tạo ra, thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật doanh nghiệp đồng thời là một tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp, đơng
nhiên chủ sở hữu doanh nghiệp có toàn quyền định đoạt đối với tài sản đó, có thể
kinh doanh độc lập bằng toàn bộ tài sản, hay chia sẻ rủi ro và một phần trách
nhiệm cùng ngời khác bằng cách kêu gọi ngời góp vốn để trở thành chủ sở hữu
chung, cũng hoàn toàn có thể bán tài sản đó bằng cách chuyển nhợng toàn bộ
quyền sở hữu của mình cho ngời khác để kiếm lời, để giải quyết tình trạng khó
khăn của doanh nghiệp. Khi đó việc bán doanh nghiệp chính là sự thay đổi chủ sở
hữu của doanh nghiệp. Hơn nữa, trong quan hệ mua bán doanh nghiệp cùng với sự
tham gia của thơng nhân (chủ doanh nghiệp), nếu nh có thêm mục đích mua, bán
doanh nghiệp để kiểm lời thì mua bán doanh nghiệp lại mang bản chất của hoạt
4
Xem: Trờng Đại học Luật Hà Nội, 2006, Giáo trình Luật Thơng mại, tập 1. NXB Công an nhân dân, Hà Nội -
2006, trang 96.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động thơng mại. Bởi vì, theo khoản 1 điều 3 Luật thơng mại năm 2005 thì hoạt
động thơng mại là nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đầu t, xúc tiến thơng mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác
(5)
.
Bằng vào những lý luận và quy định thực tiễn của pháp luật trên đây, có thể
rút ra một định nghĩa khái quát về hoạt động mua bán doanh nghiệp nh sau: Mua
bán doanh nghiệp là hoạt động thơng mại nhằm chuyển đổi sở hữu toàn bộ
doanh nghiệp từ chủ sở hữu doanh nghiệp này sang chủ sở hữu doanh nghiệp
khác trên cơ sở thoả thuận giữa các bên thông qua một hợp đồng mua bán
doanh nghiệp.
Theo Luật doanh nghiệp 2005 và Luật Thơng mại 2005, sau khi việc mua

bán doanh nghiệp hoàn thành, chủ sở hữu mới có quyền khai thác các đặc tính th-
ơng mại của doanh nghiệp, trong đó có các tài sản thơng mại nh : tên thơng hiệu,
sáng chế, hệ thống khách hàng của doanh nghiệp, nói cách khác là có quyền kinh
doanh trên nền tảng của doanh nghiệp mua đợc. Tuy nhiên, điều cần phải quan
tâm nhất là chủ doanh nghiệp mới bắt buộc hay không bắt buộc phải đăng kí kinh
doanh lại nh đối với mua bán doanh nghiệp t nhân hay công ty nhà nớc. Nếu
không phải đăng ký kinh doanh lại từ đầu, chủ doanh nghiệp mới này chỉ cần tiến
hành thủ tục thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh. Nhiều quan điểm cho rằng,
chỉ cần thay đổi nội dung đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp để có thể vận
hành một vòng quay kinh doanh mới của doanh nghiệp, bởi lẽ đây có thể coi là
việc làm tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp có thể nhanh chóng đi vào sản
xuất kinh doanh. Mặc dù vậy, riêng đối với trờng hợp doanh nghiệp t nhân, có thể
nói, quy định đăng ký kinh doanh lại chính là công cụ bảo vệ quyền lợi cho chủ
doanh nghiệp t nhân mới, bởi vì theo quy định của Luật doanh nghiệp, chủ doanh
nghiệp t nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với nghĩa vụ của doanh nghiệp do
đó nếu không đăng ký kinh doanh lại, dẫn tới tình trạng có những khoản nợ không
đợc kê khai khi mua bán sẽ trở thành nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp mới.
1.2. Phân biệt mua bán doanh nghiệp và mua bán tài sản doanh nghiệp
5
Xem: Trờng Đại học Luật Hà Nội, 2006, Giáo trình Thơng mại, tập 1. NXB Công an nhân dân, Hà Nội - 2006,
trang 3.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trên thực tế, chủ doanh nghiệp có thể bán các tài sản thuộc quyền sở hữu
cho cá nhân hay tổ chức khác thông qua một quan hệ mua bán tài sản dân sự hoặc
mua bán sản nghiệp thơng mại, đó là quá trình khai thác các tài sản thơng mại
bằng các hình thức nh chuyển nhợng quyền sở hữu hay chia sẻ quyền sử dụng tài
sản nhằm tìm kiếm các khoản lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Dựa trên bản chất của việc bán tài sản doanh nghiệp, có thể đi đến một định
nghĩa cụ thể nh sau: Bán tài sản doanh nghiệp là sự chuyển nhợng một phần

hay toàn bộ tài sản, quyền tài sản của doanh nghiệp cho tổ chức, cá nhân khác
thông qua sự thoả thuận giữa doanh nghiệp và tổ chức hay cá nhân đó.
Trong quan hệ này, doanh nghiệp sẽ thông qua các đại diện của mình để
thực hiện giao dịch với bên mua, mọi thẩm quyền và các vấn đề có liên quan sẽ do
cơ quan có thẩm quyền cao nhất của doanh nghiệp quyết định và thực hiện theo
điều lệ của doanh nghiệp và các quy định của pháp luật.
Tuy về mặt hình thức có những điểm tơng đồng, hai hoạt động mua, bán
doanh nghiệp và mua, bán tài sản doanh nghiệp là hai vấn đề có bản chất khác
nhau Sự khác nhau thể hiện cụ thể ở chỗ, mua bán doanh nghiệp dẫn tới sự chuyển
đổi chủ sở hữu của doanh nghiệp, còn bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của
doanh nghiệp không làm thay đổi địa vị của chủ sở hữu doanh nghiệp.
Theo quy định của pháp luật sản nghiệp là toàn bộ tài sản thuộc quyền
sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của thơng nhân, phục vụ cho hoạt động
thơng mại nh trụ sở, cửa hàng, kho tàng, trang thiết bị, hàng hoá, tên thơng
mại, biển hiệu, nhãn hiệu, mạng lới tiêu thụ hàng hoá và cung ứng dịch vụ
(LTM 97). Trong khối sản nghiệp thơng mại, quan trọng nhất là mạng lới tiêu thụ
hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Có thể khẳng định rằng, việc bán các tài sản thơng
mại không ảnh hởng gì tới các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi
bán tài sản của doanh nghiệp, doanh nghiệp vẫn hoạt động hoặc chuyển sang một
mảng kinh doanh mới. Bên cạnh đó, việc bán doanh nghiệp là quá trình làm chấm
dứt sự tồn tại t cách pháp lý của doanh nghiệp cũ, cụ thể là t cách này sẽ chấm dứt
ngay khi doanh nghiệp đợc chuyển giao cho ngời mua. Ngời mua muốn khai sinh
t cách pháp lý cho doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của mình phải thực hiện các
thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật nh đăng ký kinh doanh lại; thay đổi
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nội dung đăng kí kinh doanh. Tuy nhiên, giữa mua bán doanh nghiệp và mua bán
sản nghiệp có một điểm giống nhau đó là đều phải tiến hành quá trình xác định tài
sản và định giá tài sản doanh nghiệp: bán doanh nghiệp là việc xác định toàn bộ
tài sản doanh nghiệp để định giá giá trị doanh nghiệp, trong khi đó bán sản nghiệp

là quá trình xác định sản nghiệp và định giá tài sản đem bán.
2. Những đặc trng cơ bản của hoạt động mua bán doanh nghiệp
2.1. Chủ thể của quan hệ mua bán doanh nghiệp
2.1.1. Bên bán
Bên bán doanh nghiệp là cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ra quyết định
thành lập hay tổng công ty đối với công ty nhà nớc; chủ sở hữu đối với các doanh
nghiệp khác.
Về t cách chủ thể, bên bán phải thoả mãn các điều kiện luật định, đó là phải
có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Bên cạnh đó, bên này đồng thời
phải là chủ sở hữu của doanh nghiệp. Ngoài ra, bên bán phải thoả mãn các điều
kiện về thành lập và quản lý doanh nghiệp. Hơn nữa, là ngời thờng xuyên có hoạt
động thơng mại, bên bán có t cách của thơng nhân.
Điều 145 LDN2005 quy định quyền bán doanh nghiệp của chủ doanh
nghiệp t nhân. Nghị định 80/2005/ NĐ- CP quy định các trờng hợp bán công ty,
bộ phận công ty nhà nớc, ngoài ra không có quy định nào khác. Nh vậy, chủ sở
hữu của bất kì một doanh nghiệp nào đều có quyền bán doanh nghiệp của mình
theo quy định của luật doanh nghiệp và luật thơng mại hiện hành.
Trong quan hệ mua bán doanh nghiệp, bên bán có nghĩa vụ chuyển giao
toàn bộ doanh nghiệp (tài sản, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp) cho bên mua,
đổi lại sẽ nhận đợc số tiền theo giá thoả thuận giữa hai bên. Trừ những nghĩa vụ
(khoản nợ) không khai báo, không thoả thuận đợc để chuyển giao cho bên mua,
bên bán vẫn phải chịu trách nhiệm. Pháp luật cũng quy định vấn đề này nh sau
khi bán doanh nghiệp của mình thì chủ doanh nghiệp t nhân vẫn phải chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp cha đợc thực
hiện trừ trờng hợp ngời mua, ngời bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thoả thuận
khác. (khoản 2 điều 145 LDN 2005)
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1.2. Bên mua
Bên mua doanh nghiệp là những cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện luật định

để thực hiện giao dịch mua bán doanh nghiệp. Theo đó, phải căn cứ vào mục đích
sử dụng doanh nghiệp của ngời mua sau khi mua lại doanh nghiệp để xem xét tới
điều kiện của bên mua. Trờng hợp mua công ty Nhà nớc để tiếp tục kinh doanh,
bắt buộc bên mua phải thuộc các đối tợng đợc quyền mua bán doanh nghiệp đã đ-
ợc quy định cụ thể trong luật.
Khoản 2 điều 4 Nghị định 80/2005/ NĐ - CP quy định các đối tợng có
quyền mua công ty, bộ phận của công ty nhà nớc bao gồm:
+) Tập thể hoặc cá nhân ngời lao động trong công ty;
+) Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp có
vốn đầu t nớc ngoài tại Việt Nam;
+) Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự, trừ những ngời không đ-
ợc thành lập và quản lý doanh nghiệp quy định tại các khoản 2,3,4,5,6 và 7 Điều 9
của luật doanh nghiệp 1999;
+) Tổ chức kinh tế tài chính đợc thành lập theo pháp luật nớc ngoài, hoạt
động kinh doanh tại nớc ngoài hay tại Việt Nam, ngời nớc ngoài (nhà đầu t nớc
ngoài); các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tại Việt Nam và các nhà đầu t n-
ớc ngoài đợc mua công ty nhà nớc thuộc danh mục, các ngành nghề, lĩnh vực mà
nhà đầu t nớc ngoài đợc đầu t 100% vốn nớc ngoài hoặc góp vốn liên doanh. Việc
bán công ty cho các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài và các nhà đầu t nớc
ngoài thực hiện theo quy chế do Thủ tớng chính phủ quy định.
Trong trờng hợp đối tợng của việc mua bán không phải là công ty Nhà nớc
thì pháp luật đòi hỏi ngời mua phải thoả mãn những điều kiện nói trên
(6)
.
Nh vậy, bên mua doanh nghiệp gần nh không bị hạn chế trong quan hệ mua
lại doanh nghiệp của ngời khác nếu nh mua lại doanh nghiệp với t cách là mua lại
khối tài sản, bên mua lại doanh nghiệp chỉ cần có đủ năng lực hành vi dân sự, có
khả năng tài chính thì có thể mua lại doanh nghiệp, trừ trờng hợp nếu mua lại
doanh nghiệp nhằm tiếp tục kinh doanh thì mới phải xét tới các điều kiện luật định
về thành lập và quản lý doanh nghiệp của ngời mua

(7)
.
6
Xem điều 3 nghị định 80/2005/NĐ-CP.
7
Xem khoản 4 điều 145 Luật Doanh nghiệp năm 2005 và khoản 2 điều 4 NĐ 80/2005/NĐ-CP.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.2. Đối tợng của quan hệ mua bán doanh nghiệp
Cũng giống nh mua bán tài sản dân sự hay mua bán hàng hoá thơng mại,
đối tợng của mua bán doanh nghiệp phải thoả mãn điều kiện của pháp luật để có
thể đợc phép giao dịch. Đối tợng của mua bán doanh nghiệp là một doanh nghiệp
trong đó có toàn bộ tài sản bao gồm: tài sản hữu hình và tài sản vô hình mà doanh
nghiệp đó đang sở hữu. Tài sản hữu hình gồm có: đất đai, nhà xởng, cơ sở hạ tầng,
trang thiết bị vật t, máy móc, dây truyền sản xuấtCác tài sản vô hình gồm có: uy
tín của doanh nghiệp, tên doanh nghiệp, vị trí địa lý của doanh nghiệp, bí quyết
kinh doanh, hệ thống khách hàng, đội ngũ lao động có tay nghề trong doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, các quyền và nghĩa vụ phát sinh trong các hợp đồng mà
doanh nghiệp đang sở hữu cũng là một bộ phận tài sản có thể định giá để bán hoặc
chuyển giao cho chủ sở hữu mới kế thừa.
Doanh nghiệp là một tài sản thuộc về chủ sở hữu, do đó việc mua bán doanh
nghiệp, về bản chất chính là một hoạt động mua bán tài sản. Nh vậy, xét ở một góc
độ nhất định, có thể cho rằng chỉ cần điều chỉnh hoạt động này bằng các chế định
của pháp luật dân sự giống nh đối với việc mua bán mọi loại tài sản khác, bởi vì
doanh nghiệp là một tài sản đáp ứng đợc các điều kiện giao dịch dân sự. Bên cạnh
đó, các tài sản, quyền tài sản của doanh nghiệp cũng hoàn toàn có thể chuyển nh-
ợng thông qua các hợp đồng dân sự nh: hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ, hợp
đồng chuyển nhợng quyền sử dụng đất, các hợp đồng mua bán quyền sở hữu, nh-
ợng quyền sử dụng các đối tợng của quyền sở hữu trí tuệ nh: tên thơng mại, sáng
chế Tuy nhiên, doanh nghiệp lại là một chủ thể kinh doanh hoạt động theo Luật

doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp có t cách của thơng nhân, chịu sự điều chỉnh của
pháp luật thơng mại. Vì vậy mà các quy định pháp luật dân sự dờng nh là không
thể coi là đủ để điều chỉnh quan hệ mua bán doanh nghiệp. Mặc dù để điều chỉnh
về đối tợng của quan hệ và các điều kiện giao dịch chung thì có thể lấy pháp luật
dân sự làm nền tảng, tuy nhiên nội dung của mua bán doanh nghiệp phải do luật
doanh nghiệp, luật thơng mại điều chỉnh.
Tóm lại, doanh nghiệp vừa là đối tợng của quan hệ mua bán doanh nghiệp,
vừa là yếu tố quyết định đến bản chất thơng mại của hoạt động mua bán doanh
nghiệp. Mua bán doanh nghiệp là quá trình chuyển đổi chủ sở hữu doanh nghiệp.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vì vậy điều chỉnh hoạt động mua bán doanh nghiệp bằng các quy định của pháp
luật kinh doanh, thơng mại là hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật
hiện nay.
2.3. Tài sản doanh nghiệp và vấn đề định giá giá trị doanh nghiệp
2.3.1. Tài sản doanh nghiệp
Nếu nh doanh nghiệp là một thực thể do pháp luật tạo nên theo ý chí chủ
quan của các nhà làm luật nhằm thực hiện mục đích sản xuất kinh doanh thì nền
tảng đầu tiên để một doanh nghiệp đợc hình thành phải là yếu tố tài sản. Theo
Luật doanh nghiệp 2005, cách thức chủ yếu để thành lập nên một doanh nghiệp và
trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp chính là việc góp vốn, theo đó, góp vốn là
việc đa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung
của công ty. Có thể coi tài sản là yếu tố cơ bản của doanh nghiệp, bởi vì doanh
nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đ -
ợc đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các
hoạt động kinh doanh. Qua đó để thấy rằng, dù bất kì tại thời điểm nào, từ giai
đoạn thành lập doanh nghiệp, duy trì hoạt động của doanh nghiệp, quyết định t
cách pháp nhân của doanh nghiệp đến giải thể, phá sản hay chấm dứt sự tồn tại
của doanh nghiệp, tài sản cũng luôn luôn đóng vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy,
trong mua bán doanh nghiệp, nhất định phải xác định đợc tài sản của doanh

nghiệp, cũng nh định giá tài sản để xác định giá trị của doanh nghiệp đó.
Trong các văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành có thể tìm thấy các định
nghĩa về tài sản của doanh nghiệp nh sau:
Sản nghiệp thơng mại là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền
sử dụng hợp pháp của thơng nhân, phục vụ cho hoạt động thơng mại nh trụ sở,
cửa hàng, kho tàng, thiết bị, hàng hoá, tên thơng mại, biển hiệu, nhãn hiệu hàng
hoá, mạng lới khách hàng và cung ứng dịch vụ (LTM 1997).
Tài sản của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp hoặc quyền quản lý của doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp
nhà nớc (LPS 1993)
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tài sản góp vốn vào công ty có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng, giá
trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật,
các tài sản khác (khoản 4 điều4 LDN 2005).
Tài sản hiện có của công ty bao gồm: tài sản cố định và đầu t dài hạn,
tài sản lu động và đầu t ngắn hạn, tài sản đi thuê, cho thuê, giữ hộ, thanh lý,
chiếm dụng .Tài sản hiện có của công ty đ ợc phân loại thành :
- Tài sản có thể tiếp tục sử dụng.
- Tài sản không thể tiếp tục sử dụng.
- Tài sản đợc hình thành từ quỹ khen thởng, quỹ phúc lợi.
(Điều 19 nghị định 80/2005/ NĐ - CP)
Điều 49 luật phá sản 2004 có liệt kê các tài sản của doanh nghiệp gồm có:
+) Tài sản và quyền tài sản.
+) Các khoản nghĩa vụ, các tài sản bảo đảm.
+) Quyền sử dụng đất.
Trên thực tế, căn cứ vào đặc tính của tài sản có thể chia tài sản của doanh
nghiệp thành hai bộ phận: tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Nh vậy, bên cạnh tài
sản hữu hình, một bộ phận tài sản mới chiếm vị trí quan trọng đó là các tài sản vô
hình. Loại tài sản này đợc thể hiện cụ thể bao gồm các đối tợng của quyền sở hữu

trí tuệ nh: các phát minh, sáng chế, tên thơng mại, nhãn hiệu hàng hoá. Do vậy có
thể khẳng định, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp gồm có tài sản hữu hình, tài sản
vô hình, trong đó có tách biệt một bộ phận riêng là các quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ các hợp đồng của doanh nghiệp, việc phân chia này tạo các điều kiện thuận
lợi cho quá trình định giá tài sản cũng nh xử lý các nghĩa vụ đợc doanh nghiệp kế
thừa.
Bên cạnh đó, dựa vào đặc tính của tài sản, các bộ phận của tài sản doanh
nghiệp có thể đợc định nghĩa nh sau:
Tài sản hữu hình là các tài sản có hình thái vật chất nhất định nh: đất
đai, nhà xởng, trang thiết bị vật t, dây chuyền sản xuất
Tài sản vô hình là tài sản thể hiện ra bằng những lợi ích kinh tế, chúng
không có cấu tạo vật chất mà tạo ra những quyền và u thế đối với ngời sở hữu và
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thờng sinh ra thu nhập cho ngời sở hữu (Theo Uỷ ban tiêu chuẩn thẩm định giá
quốc tế).
Tài sản vô hình có đặc điểm giống nh tài sản thông thờng: Gắn liền với chủ
thể nhất định và mang lại lợi ích cho chủ thể đó. Nói cách khác chủ sở hữu là ngời
có toàn quyền định đoạt, khai thác đối với các tài sản vô hình mà mình sở hữu.
Tuy nhiên, do không có hình thái vật chất xác định, nên việc đa ra đợc phơng pháp
và cách thức để tính toán chính xác giá trị của chúng là rất khó khăn.
Một số quốc gia, ví dụ nh Mỹ, có đa ra cách thức phân loại tài sản vô hình
trong Luật thuế thu nhập nh sau:
Tài sản vô hình gồm 6 loại:
+) Các sáng chế, phát minh, công thức tính, quy trình, mô hình, kĩ năng.
+) Bản quyền của tác phẩm văn học, âm nhạc, nghệ thuật.
+) Thơng hiệu, tên thơng mại, nhãn hiệu hàng hoá.
+) Thơng quyền, giấy phép, hợp đồng.
+) Phơng pháp, chơng trình, hệ thống, thủ tục nghiên cứu, dự báo, dự toán,
danh sách khách hàng và các số liệu kĩ thuật khác.

+) Các tài sản tơng tự có khả năng tạo ra giá trị không phải nhớ vào các
thuộc tính vật chất mà nhờ vào nội dung trí tuệ hoặc các quyền tài sản
vô hình khác của nó.
Trong khi đó, Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 chia tài sản vô hình thành
các nhóm cơ bản sau:
+) Đối tợng của quyền tác giả.
+) Đối tợng của quyền sở hữu công nghiệp.
+) Đối tợng của quyền đối với giống cây trồng và vật liệu nhân giống cây
trồng.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thơng mại, các tài sản vô hình có giá
trị thơng mại lớn là các đối tợng thuộc quyền sở hữu công nghiệp (tên thơng mại,
sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá)
Trong quan hệ mua bán doanh nghiệp, các tài sản vô hình có giá trị và đợc
các bên quan tâm là:
+) Tên doanh nghiệp.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+) Vị trí địa lý của doanh nghiệp.
+) Uy tín của doanh nghiệp trên thơng trờng.
+) Hệ thống khách hàng của doanh nghiệp.
+) Đội ngũ ngời lao động có tay nghề trong doanh nghiệp.
Mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp là làm cách nào để gia tăng giá trị
của doanh nghiệp, đặc biệt là các đối tợng của tài sản vô hình nh giá trị của tên th-
ơng mại, nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, bí mật kinh doanh (Luật sở hữu trí tuệ
Việt Nam 2005). Điều này khẳng định lại một lần nữa giá trị tài sản vô hình trong
doanh nghiệp là một đại lợng có thật và trong nhiều trờng hợp có giá trị rất lớn,
thậm chí lớn hơn nhiều giá trị của tất cả tài sản hữu hình trong doanh nghiệp.
Nhiều trờng hợp, địa vị của một doanh nghiệp trên thơng trờng đợc thể hiện thông
qua giá trị của một tên thơng mại hay giá trị của một nhãn hiệu nỗi tiếng gắn liền
với doanh nghiệp đó: ví dụ Coca - cola (68,945 tỷ USD), Microsoft (65,.68 tỷ

USD), IBM (52,752 tỷ USD. ở Việt Nam, có một số nhãn hiệu hàng hoá có giá
trị nh: P/S (5,3 triệu USD), Bia Sài Gòn (9,5 Triệu USD), Dạ Lan (hơn 1 triệu
USD)
(8)
Tóm lại, cho đến thời điểm hiện tại, cha có một khái niệm nào thể hiện đợc
đầy đủ bản chất của tài sản doanh nghiệp, cũng nh việc phân chia toàn bộ tài sản
của doanh nghiệp thành những bộ phận có cùng thuộc tính tạo điều kiện thuận lợi
cho việc định giá tài sản và xác định giá trị của doanh nghiệp. Tuy nhiên, dựa vào
các quy định trên, có thể có một định nghĩa khái quát về tài sản doanh nghiệp nh
sau : Tài sản doanh nghiệp gồm có tài sản hữu hình và tài sản vô hình sau đó
liệt kê và định giá giá trị cho từng bộ phận để xác định giá trị doanh nghiệp.
Bên cạnh tài sản doanh nghiệp, giá trị doanh nghiệp cũng là một khái
niệm trừu tợng. Trong các văn bản pháp luật điều chỉnh về mua bán doanh nghiệp
có một số quy định nh sau:
- Giá trị công ty, bộ phận công ty theo sổ sách kế toán là tổng giá trị tài
sản thể hiện trong bảng cân đối kế toán của công ty theo chế độ kế toán hiện
hành (khoản 12 điều3 NĐ80/ NĐ-CP).
8
- Tài sản vô hình.
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong đó, bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tại một thời điểm
nhất định. Đó là một bảng tóm tắt ngắn gọn về những gì mà doanh nghiệp có hoặc
sở hữu (tài sản) và những gì mà doanh nghiệp nợ (các khoản nợ) tại một thời điểm
nhất định. Bảng cân đối kế toán đợc lập theo mẫu do bộ tài chính quy định, trong
một bảng cân đối kế toán phải chi rõ tài sản cố định của doanh nghiệp, tài sản
ngắn hạn, nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu.
+) Tài sản cố định bao gồm:
. Tài sản hữu hình- nhà xởng, đất đai máy móc, thiết bị và các tài sản vật
chất khác.

. Tài sản vô hình- uy tín, các đối tợng thuộc quyền sở hữu trí tuệ nh phát
minh, sáng chế, tên thơng mại, tên miền webside, các khoản đầu t dài hạn.
+) Tài sản vãng lai là những tài sản ngắn hạn mà giá trị của chúng có thể
dao động từ ngày này qua ngày khác nh:
. Cổ phiếu.
. Bán thành phẩm.
. Tiền nợ của khách hàng.
. Các khoản đầu t ngắn hạn.
. Các khoản trả trớc (VD nh tiền thuê)
+) Các khoản nợ vãng lai là các khoản nợ phải trả trong vòng một năm của
doanh nghiệp bao gồm:
. Tiền nợ các nhà cung cấp.
. Các khoản vay dài hạn, rút quá ở ngân hàng, hoặc các khoản mục tài chính
khác.
. Thuế phải trả trong một năm.
+) Các khoản nợ dài hạn nh: Các khoản nợ kỳ hạn sau 1 năm, các khoản
vay hoặc tài chính đến hạn phải trả sau một năm.
+) Vốn chủ sở hữu và dự trữ: Vốn cổ phần và lợi nhuận để bù lại.
Tuy nhiên, khi mua bán doanh nghiệp điều mà bên mua quan tâm và làm cơ
sở để hình thành nên giá cả thoả thuận của bên mua và bên bán lại là giá trị thực
tế của công ty hay doanh nghiệp đó:
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Giá trị thực tế của công ty là tổng giá trị tài sản thực có của công ty theo
giá thị trờng tại thời điểm xác định giá trị công ty. (khoản 13 điều3 NĐ/80/-CP).
Trên thực tế giữa giá trị doanh nghiệp theo sổ sách kế toán và giá trị theo thị
trờng của doanh nghiệp (hoặc công ty) thờng chênh lệch nhau rất lớn, một trong
các nguyên nhân là do các số liệu kế toán thờng không có tính chính xác và tính
minh bạch cao, hơn nữa rất khó định giá chính xác bộ phận tài sản vô hình. Tuy
vậy giá trị thực tế lại là điều mà bên mua quan tâm nhất, cũng nh về nguyên tắc

khi bán doanh nghiệp giá trị thực của công ty, bộ phận công ty thực hiện bán đợc
tính theo giá thực tế trên thị trờng (khoản 2 điều 5 nghị định 80/ NĐ-CP).
Ngoài ra, còn có các loại giá trị sau:
- Giá tối thiểu là mức giá thấp nhất do ngời bán xác định trên cơ sở giá trị
phần góp vốn nhà nớc và giá trị thực tế tài sản tại doanh nghiệp và đặt giá khi
quyết định bán công ty. (khoản 10 điều3 NĐ80 /NĐ- CP).
- Giá bán công ty, bộ phận công ty là giá của ngời bán và ngời mua thoả
thuận theo phơng thức trực tiếp hoặc đợc xác định qua phơng thức đấu thầu
hoặc đấu giá. (khoản 11 điều3 NĐ80/ NĐ-CP).
Từ các định nghĩa trên, có thể rút ra những kết luận :
- Giá trị của doanh nghiệp đợc tính theo giá thị trờng của tài sản( thời
giá) tại thời điểm bán.
- Giá trị của doanh nghiệp là tổng giá trị của các tài sản hữu hình và tài
sản vô hình (Xét về mặt tài sản).
- Giá bán doanh nghiệp là giá cả hình thành trên cơ sở thoả thuận thống
nhất giữa hai bên.
Việc xác định giá trị của doanh nghiệp cũng là một vấn đề quan trọng cần
phải đợc đề cập tới. Thông t 126/2004/TT - BTC có đa ra hai phơng pháp để xác
định giá trị doanh nghiệp nh sau:
Phơng pháp xác định giá trị của doanh nghiệp theo tài sản: là phơng pháp
xác định giá trị của một doanh nghiệp dựa trên cơ sở giá trị thực tế toàn bộ tài sản
hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp tại thời điểm đó.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phơng pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) : là phơng pháp xác định giá trị
của doanh nghiệp dựa trên khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tơng lai,
không phụ thuộc vào giá trị tài sản của doanh nghiệp
(9)
.
Bên cạnh đó, các bên trong quan hệ cũng có thể dùng phơng pháp thoả

thuận để xác định giá trị của doanh nghiệp. Cụ thể là, khi việc mua bán doanh
nghiệp diễn ra, các bên sẽ thoả thuận với nhau để lựa chọn và thành lập nên một
hội đồng định giá tài sản. Hội đồng này sẽ có trách nhiệm đa ra cách thức định giá
phù hợp theo quy định của pháp luật hay ý chí của cả hai bên. Đối với trờng hợp
mua bán công ty nhà nớc sẽ do cơ quan nhà nớc có thẩm quyền thành lập hay tổng
công ty chỉ định các thành viên và quyết định thẩm quyền của hội đồng định giá.
Trách nhiệm của hội đồng định giá là phải căn cứ vào thực trạng của tài sản, giá cả
thị trờng của tài sản và trình độ chuyên môn để xác định và đánh giá chính xác giá
trị của doanh nghiệp.
2.3.2. Định giá tài sản của doanh nghiệp.
2.3.2.1. Định giá tài sản hữu hình
Các tài sản hữu hình của doanh nghiệp nh: nhà xởng, đất đai, cơ sở vật
chất, trang thiết bị, dây truyền sản xuất là bộ phận chủ yếu để duy trì hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bộ phận tài sản này đợc định giá theo ph-
ơng pháp giá trị thực tế dựa trên giá trị thờng tại thời điểm định giá, theo đó:
+) Đối với các tài sản là hiện vật nh các tài sản còn giá trị sử dụng, tài sản
ứ đọng, tài sản chờ thanh lý sẽ căn cứ vào thời giá và chất lợng của tài sản để xác
định.
+) Chất lợng của tài sản thờng đợc xác định bằng giá trị còn lại tính theo tỷ
lệ phần trăm so với nguyên giá tài sản mới mua hoặc mới bắt đầu xây dựng.
+) Giá thị trờng dùng để tính giá trị thực tế là giá đang mua bán trên thị tr-
ờng cộng với chi phí vận chuyển, lắp đặt (nếu có) đối với những tài sản là máy
móc thiết bị, phơng tiện vận tải có lu thông trên thị trờng. Nếu đó là những tài sản
đặc thù thì căn cứ theo giá mua của tài sản cùng loại, có cùng công suất, có tính
9
Xem phần III: Phơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp, Thông t 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
năng tơng đơng. Trờng hợp không có tính năng tơng đơng thì căn cứ vào sổ sách
kế toán

(10)
.
Bên cạnh các tài sản trên, quyền sử dụng đất cũng là một tài sản có giá trị
trong khối tài sản của Doanh nghiệp. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
nay: đất đai là tài sản thuộc sở hữu nhà nớc, doanh nghiệp đợc trao quyền sử dụng
đất thông qua các hình thức nh giao đất hoặc thuê đất. Đối với một doanh nghiệp
giá trị quyền sử dụng đất nhiều khi chiếm phần lớn giá trị tài sản của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, việc xác định giá trị của quyền sử dụng đất là một quá trình
phức tạp, tuỳ thuộc vào từng trờng hợp, từng loại hình doanh nghiệp mà quá trình
này diễn ra không giống nhau. Đối với từng loại danh nghiệp khác nhau, giá trị
quyền sử dụng đất đợc hình thành khác nhau, ví dụ nh doanh nghiệp nhà nớc thì
thờng đợc giao đất, doanh nghiệp t nhân lại thờng chọn hình thức thuê đất. Trong
quan hệ mua bán công ty nhà nớc, nếu ngời mua lựa chọn hình thức thuê đất thì
không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị công, bộ phận công ty ngợc lại nếu
ngời mua lựa chọn hình thức giao đất thì giá trị quyền sử dụng đất là tài sản của
công ty cần phải tính vào giá trị của công ty khi bán (điều 23 - nguyên tắc xác
định giá bán công ty, bộ phận công ty trong mua bán công ty nhà nớc - NĐ
80/2005/NĐ-CP). Giá chuyển nhợng quyền sử dụng đất đợc căn cứ theo khung giá
do cơ quan có thẩm quyền (Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng
hoặc Chính phủ) quyết định theo luật đất đai 2003.
2.3.2.2. Định giá giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tài sản, nhng khác với các tài sản thông thờng khác,
doanh nghiệp là một thực thể sống động và có sự tham gia của con ngời. Vì vậy
khi xem xét, đánh giá một doanh nghiệp không thể không đi vào đánh giá yếu tố
vô hình trong đó, đặc biệt là bộ phận tài sản vô hình.
Tài sản vô hình là một khái niệm rất mới dù nhìn dới góc độ kinh tế hay
pháp lý ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, ở nhiều nớc trên thế giới bộ phận tài sản
này chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Chính vì vậy, các quốc gia này
đã tập trung mọi nỗ lực để đầu t cho việc phát triển các tài sản vô hình. Theo số
liệu thống kê: Hà Lan đã giành 35% tổng vốn đầu t để đầu t cho bộ phận tài sản

10
Xem điểm 5, mục A, phần III. Thông t 126/2004/TT-BTC.
18

×