Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

sự vận dụng lý luận của lênin về cntb nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.15 KB, 27 trang )

Đề án kinh tế chính trị
Lời nói đầu
Tiềm năng t duy lý luận, chính trị và nghệ thuật lãnh đạo tổ chức thực
tiễn của Lênin trong thời kỳ chính sách kinh tế mới, vẫn luôn là cội nguồn của
sự sáng tạo của những ngời cộng sản đang trực tiếp lãnh đạo công cuộc xã hội
xã hội mới ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
ở nớc ta, nhiều ngời đã nói tới lý luận của Lênin về chủ nghĩa t bản nhà
nớc từ nhiều năm trớc. Nhng hiện nay, thực tiễn cách mạng nớc ta đặt ra nhiều
vấn đề, mức độ khó khăn và cụ thể, nh vấn đề sử dụng cơ cấu nhiều thành
phần kinh tế với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, vận dụng quan hệ
hàng hoá - tiền tệ, quy luật giá trị với vai trò tập trung dân chủ trong việc phát
huy mạnh mẽ sinh chủ động, sáng tạo của cơ sở và địa phơng không có một
chính sách, chủ trơng nào có hiệu quả nếu không nhận thức và giải quyết đúng
đắn các vấn đề cơ bản đó. Nhận thức và vận dụng lý luận đó của Lênin sẽ góp
phần quan trọng vào suy nghĩa giải quyết những vấn đề nói trên.
1
Đề án kinh tế chính trị
I. lí luận của Lênin về Chủ nghĩa t bản nhà nớc trong
thời kỳ quá độ lên CNXH.
1. Tình hình nớc Nga thời kỳ nội chiến.
Khi cách cách mạng tháng Mời vừa thành công thì chính quyền Xô Viết
Nga phải đơng đầu với cuộc nội chiến và cuộc can thiệp vũ trang của cả chủ
nghĩa đế quốc thế giới. Đứng trớc nguy cơ một mất một còn, chính quyền Xô
viết tìm mọi cách để tập trung nội lực nhằm đánh bại những lực lợng thù địch
bên trong và bên ngoài. Chính sách "cộng sản thời chiến" ra đời trong hoàn
cảnh ấy. Đó là chính sách kinh tế của nhà nớc Xô viết nhằm huy động mọi tài
nguyên trong nớc cho nhu cầu của tiền tuyến trong điều kiện nền kinh tế bị
tàn phá sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong thời gian nội chiến và n-
ớc ngoài can thiệp bằng vũ trang, chính quyền Xô viết ngoài việc quốc hữu
hoá nền công nghiệp quy mô lớn, còn nắm trong tay nền công nghiệp hạng
vừa và một phần công nghiệp hạng nhỏ. Việc quản lý toàn bộ công nghiệp đều


tập trung ở các cơ quan Trung ơng, việc cung cấp nguyên liệu, thiết bị, vật liệu
cho xí nghiệp cũng nh việc phân phối sản phẩm đều đợc tiến hành theo phiếu
nhận hàng của cơ quan quản lý Trung ơng, không trả bằng tiền và cũng không
thực hiện hạch toán kinh tế. Để cung cấp lơng thực cho quân đội và công
nhân, nhà nớc thi hành chế độ trng thu lơng thực thừa. Nguồn hàng của nhà n-
ớc những năm đó cực kỳ thiếu thốn, nông thôn hầu nh không nhận đợc hàng
công nghiệp. Nhà nớc phải thi hành độc quyền mua, bán lơng thực, cấm t
nhân buôn bán lơng thực và các thứ vật phẩm cần thiết nhất. ở thành thị vật
phẩm tiêu dùng phân phối theo phiếu với điều kiện u tiên cung cấp cho công
nhân và căn cứ vào tính chất quan trọng và nặng nhọc của công tác. Thi hành
chế độ nghĩa vụ lao động phổ biến đối với tất cả mọi ngời có năng lực lao
động. Chính sách "cộng sản thời chiến" đã đóng vai trò quan trọng trong việc
bảo đảm thắng lợi cho cuộc nội chiến. Thắng lợi của chính sách này vào thời
ấy là do dựa trên cơ sở khối liên minh quân sự và chính trị của giai cáp công
nhân và nông dân trong cuộc đấu tranh chống quân bạch vệ và bọn can thiệp
nớc ngoài.
Nhng sau khi đập tan bọn vũ trang can thiệp và kết thúc nội chiến, tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội nớc Nga rất bi đát. Đất nớc lâm vào cuộc khủng
hoảng toàn diện trầm trọng.
- Về công nghiệp : ớc tính một phần t tài sản quốc gia mất đi, trong đó,
nền công nghiệp bị tổn thất lớn nhất. Tổng sản lợng công nghiệp (triệu rúp)
2
Đề án kinh tế chính trị
năm 1920 so với 1917 giảm đi hơn 4 lần, số ngời làm việc giảm gần 1/2. Do
đó tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong nền kinh tế năm 1920 là 25%. Hầu
nh tất cả các ngành đều sa sút. So sản lợng năm 1920 với 1918 thì khai thác
than đã giảm từ 731triệu pút xuống còn 476 pút, đúc gang giảm từ 31,5triệu
xuống 7,0 triệu, sản xuất thép mac-tanh giảm từ 21,5 xuống 10 triệu, thép dát
giảm từ 21,8 triệu xuống 12,2 triệu, sản xuất đờng từ 20,3 triệu xuống 5,5
triệu pút. Nguyên liệu, vật liệu dự trữ đã dùng hết. So với năm 1913, sản xuất

đại công nghiệp giảm xuống tới 12,8%, còn công nghiệp giảm xuống tới
44,1%. Do đó tơng quan đã thay đổi nghiêng về tiểu công nghiệp (từ 24,2%
đến 52,3%).
-Về nông nghiệp: Tình hình trong lĩnh vực này tiếp tục xấu đi. Diện
tích gieo trồng, sản lợng ngũ cốc, sản phẩm chăn nuôi đều giảm. Tổng sản l-
ợng nông nghiệp năm 1921 chỉ bằng 60% năm 1913. Với dân số lúc ấy là 137
triệu (có 20 triệu hộ nông dân cá thể) thì bình quân ngũ cốc đầu ngời năm
1920 là 246 kg, còn trớc chiến tranh là 405 kg.
-Về giao thông vận tải: Bị tàn phá nghiêm trọng, 61% số đầu máy và
28% số toa xe bị phá cùng với 4000 chiếc cầu và các ga, kho tàng. So với trớc
chỉ còn 20% (không tính đến khối lợng vận chuyển của quốc phòng và nhu
cầu của bản thân đờng xe lửa là 12%).
- Về tài chính - tín dụng: Lâm vào tình trạng rối loạn. Năm 1918 bội
chi ngân sách 31 tỷ rúp, năm 1921 con số bội chi lên tới 21937 tỉ rúp. Mức dự
trữ vàng của ngân hàng giảm sút nghiêm trọng. Nếu năm 1914 mức bảo đảm
vùng cho khối lợng tiền tệ trong lu thông là 98,2% thì năm 1917 chỉ còn
6,8%. Khối lợng hàng hoá giảm mạnh đã đa đến sự tăng vọt của giá cả. Mức
giá trung bình toàn quốc năm 1923 tăng hơn 21 lần so với năm 1913. Do đồng
rúp mất giá nhanh, nên các địa phơng đã tự tạo ra vật ngang giá khác nhau,
đồng thời xu hớng hiện vật hoá trong nền kinh tế tăng dần lên.
Do sản xuất và lu thông sa sút, nên đời sống nhân dân lao động càng
thêm khó khăn so với hồi chiến tranh. Tiền lơng thực tế của công nhân công
nghiệp trớc chiến tranh là 22 rúp đã giảm xuống 8,3 rúp năm 1920. Do thiếu
ăn thờng xuyên, thiếu thuốc men chữa bệnh, nên tỷ lệ công nhân mắc bệnh và
tử vong tăng lên. Trong lúc đó, vì thiếu điều kiện sản xuất nên nhiều nhà máy
đóng cửa, số ngời không có việc làm tăng lên, do đó tình trạng biến chất giai
cấp của giai cấp công nhân tiếp tục diễn ra. Tình hình đó đã làm nảy sinh
những bất bình, những vụ bạo loạn trong một số quần chúng công, nông, binh.
3
Đề án kinh tế chính trị

Lần đầu tiên trong lịch sử nớc Nga Xô viết xảy ra trờng hợp đại đa số quần
chúng nông dân có tâm trạng chống lại chính quyền Xô viết theo bản năng.
nếu không tìm đợc lối thoát ra khỏi tình hình thì chính quyền Xô viết có nguy
cơ bị tan vỡ.
Nguyên nhân là do đâu ? Thờng thì ngời ta hay gán cho sự tàn phá của
chiến tranh và chính sách cộng sản thời chiến. Tất nhiên phải kể đến nguyên
nhân tàn phá của chiến tranh. Nhng thái độ đối với chính sách cộng sản thời
chiến nh vậy là không đúng. Khách quan mà xem xét thì chính sách cộng sản
thời chiến thực sự đã có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chính quyền Xô
viết. Là nớc XHCN đầu tiên, sống trong vòng vây của CNTB, chiến tranh và
nội chiến kéo dài, mọi mặt đời sống kinh tế trong nớc rất khó khăn, bi đát, lúc
đó chính quyền Xô viết không có khả năng nào khác hơn là phải lập tức thi
hành đến mức tối đa chế độ độc quyền, trng thu tất cả lơng thực thừa, thậm chí
không bồi thờng. Nhng sai lầm ở đây là kéo dài cái đợc coi là u điểm ra quá
giới hạn cần thiết của nó và vì thế nó trở thành một khuyết điểm. Nguyên
nhân của sự kéo dài đó do quan niệm ấu trĩ về thời kỳ quá độ lên CNXH, về
CHXH - do cha có kinh nghiệm thực tế của một nớc đầu tiêu đã mở cuộc đột
phá vĩ đại vào tơng lai. Công lao lớn của Lênin chính là đã nhận ra sự ấu trĩ ấy
và đã phát triển ngay lý luận của Mác khi cách mạng xã hội chủ nghĩa mới
giành đợc thắng lợi chỉ trong một thời gian rất ngắn. Lênin đã nhận xét sai
lầm ấy là "chủ nghĩa cộng sản ở nớc ta quá vội vàng, thẳng tuột, không đợc
chuẩn bị". Lênin đã phân tích cụ thể rằng, khi đặt công tác xây dựng kinh tế
lên hàng đầu những ngời cộng sản Nga đã chỉ đứng trên một góc độ mà nhìn,
nghĩa là dịch chuyển thẳng lên CHXH không qua cái thời kỳ mở đầu mà
Lênin gọi là "để làm cho nền kinh tế cũ thích ứng với nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa". Với quan niệm đó những ngời cộng sản tởng rằng, sau khi thiết lập
chế độ sản xuất quốc doanh và chế độ kinh tế mới, khác với chế độ trớc. Và
cho rằng hai chế độ sản xuất, phân phối t doanh sẽ đấu tranh với nhau trong
những điều kiện khiến chính quyền Xô viết có thể thiết lập đợc chế độ sản
xuất và phân phối quốc doanh bằng cách lấn dần từng bớc chế độ đối địch.

Điều đặc biệt cần lu ý là trong phát triển kinh tế "chúng ta tuyệt nhiên
không nêu ra vấn đề: nền kinh tế sẽ có quan hệ nh thế nào với thị trờng với
mậu dịch". Nhng đến mùa xuân năm 1921 mới thấy rõ sự thất bại trong ý định
ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối
theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Cũng từ mùa xuân đó, tình hình chính trị đã
cho thấy, trong một số vấn đề kinh tế, cần phải rút lui về những vị trí của chủ
4
Đề án kinh tế chính trị
nghĩa t bản nhà nớc, cần phải chuyển từ "xung phong" sang "bao vây". Sự
chuyển đổi ấy đợc đánh dấu bằng chính sách "kinh tế mới". Trong sự chuyển
đổi này đã xuất hiện ít nhiều tâm trang chán nản và làm nhụt chí đấu tranh.
Nhng Lênin đã khẳng định, sẽ không bao giờ học đợc cách giải quyết những
nhiệm vụ của mình bằng những phơng pháp mới, nếu nh kinh nghiệm ngày
hôm qua đãkhông mở mắt cho chúng ta thấy những sai lầm của những phơng
pháp cũ.
Sau cuộc thí nghiệm trực tiếp xã hội chủ nghĩa xã hội trong những điều
kiện khó khăn cha từng thấy trong điều kiện nội chiến trong điều kiện giai cấp
t sản buộc nớc Nga Xô viết phải tiến hành cuộc đấu tranh ác liệt, thì đến mùa
xuân năm 1921, những ngời cộng sản Nga đã nhận thấy rõ là cha nên xây
dựng trực tiếp chủ nghĩa xã hội, mà trong nhiều lĩnh vực kinh tế cần phải lùi
về chủ nghĩa t bản nhà nớc, từ bỏ biện pháp tấn công chính diện và bắt đầu
một cuộc bao vây lâu dài, không thích thú, khó khăn và gian khổ. Sai lầm của
quan niệm và phơng pháp cũ đã dẫn đến chính sách kinh tế lâm vào tình trạng
ở phía thợng tầng của nó, bị tách rời khỏi cơ sở và không dẫn đến việc phát
triển lực lợng sản xuất, điều mà cơng lĩnh Đảng lúc đó coi là nhiệm vụ cơ bản
và bức thiết nhất. Trong báo cáo tại đại hội IV quốc tế cộng sản, Lênin đã nói
những nguyên nhân của sự khờ dại ấy là: nớc Nga lạc hậu, trình độ học thức
còn thấp kém, không đợc ai ở bên ngoài giúp đỡ.
2. T tởng của Lênin về chủ nghĩa t bản nhà nớc trong hệ thống
chính sách kinh tế mới - NEP.

Nh đã nói theo Lênin, chính sách cộng sản thời chiến chỉ là một biện
pháp tạm thời, nó không phải và không thể là một chính sách phù hợp với
nhiệm vụ kinh tế của giai cấp vô sản. Vì vậy, vào mùa xuân năm 1921, Lênin
đã đề ra chính sách kinh tế mới (NEP). Thực chất của NEP là tăng cờng cơ sở
kinh tế của liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân và nông dân, liên minh
này là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản, là cơ sở của chính quyền
Xô viết, là điều kiện quan trọng nhất để xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội.
NEP kiến lập mối quan hệ đúng đắn giữa công nghiệp xã hội chủ nghĩa với
kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân thông qua việc sử dụng rộng rãi
quan hệ hàng hoá - tiền tệ dới sự kiểm soát của nhà nớc để phát triển lực lợng
sản xuất ; đồng thời NEP cho phép phát triển và hớng kinh tế t bản vào con đ-
ờng chủ nghĩa t bản nhà nớc khi những đỉnh cao của nền kinh tế vẫn năm
trong tay nhà nớc để phát triển công nghiệp lớn.
5
Đề án kinh tế chính trị
Chủ nghĩa t bản nhà nớc là một trong những yếu tố chủ yếu cấu thành
NEP. Có thể nêu lên những t tởng chủ yếu của Lênin về chủ nghĩa t bản nhà n-
ớc trong hệ thống NEP nh sau:
1. Khi chuyển sang NEP, Lênin đã thẳng thắn thừa nhận rằng "toàn bộ
quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về cơ bản". Trớc đây,
Đảng và nhà nớc Xô viết đã tính là có thể dựa vào nhiệt tình cách mạng mà
trực tiếp thực hiện những nhiệm vụ kinh tế nh những nhiệm vụ về quân sự; có
thể dùng những biện pháp trực tiếp của nhà nớc vô sản để tổ chức sản xuất và
phân phối sản phẩm theo kiẻm cộng sản chủ nghĩa ở mỗi nớc tiểu nông. Nhng
chỉ một thời gian ngắn sau khi đi vào thực hiện, Lênin đã thấy rằng không thể
xây dựng trực tiếp chủ nghĩa xã hội ở một nớc tiểu nông nh nớc Nga lúc đó.
Ngời nói: "Trong một nớc tiểu nông, trớc hết cácđồng chí phải bắc những
chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa t bản nhà nớc, tiến lên chủ
nghĩa xã hội". Đây là một bớc lùi chiến lợc đúng hơn là trở lại con đờng phát
triển hợp quy luật của kinh tế.

2. Lênin cho rằng đối với giai cấp vô sản thực hiện quyền chuyên chính
của mình ở một nớc tiểu nông, thì chính sách đúng đắn phải là lấy sản phẩm
công nghiệp để trao đổi với sản phẩm nông nghiệp của nông dân. Vì vậy, cần
phải thay thế chế độ trng thu lơng thực thừa áp dụng trớc đây bằng chế độ
thuế lơng thực. Chỉ có chính sách nh vậy mới phù hợp với nhiệm vụ của giai
cấp vô sản, mới có thể củng cố đợc cơ sở của chủ nghĩa xã hội ở Nga lúc ấp.
Với chế độ thuế lơng thực thay cho chế độ trng thu lơng thực thừa, phần lơng
thực còn lại sau khi nộp thuế sẽ thuộc về ngời nông dân và ngời nông dân có
thể tự do trao đổi nó trên thị trờng. Mà tự do trao đổi, "tự do buôn bán có
nghĩa là sự phát triển của chủ nghĩa t bản". Nhng "đối với chúng ta chủ nghĩa
t bản ấy không đáng sợ". Làm nh thế chúng ta sẽ cải thiện đợc nền kinh tế
nông dân mà chúng ta rất cần cải thiện.
3. Sự phát triển của chủ nghĩa t bản nhà nớc trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội không có mục đích t nhân, mà là phơng tiện, con đờng, để
tăng lực lợng sản xuất, là biện pháp biến các xí nghiệp t bản chủ nghĩa thành
xí nghiệp xã hội chủ nghĩa Lênin nói: "thờng chúng ta vẫn còn lặp lại cái lý
luận cho rằng chủ nghĩa t bản là là xấu, chủ nghĩa xã hội là tốt. Nhng cái lý
luận ấy là sai, vì nó không đếm xỉa tới toàn thể các kết cấy kinh tế xã hội có,
mà chỉ nhìn thấy có hai kết cấu trong số đó thôi."
6
Đề án kinh tế chính trị
Chủ nghĩa t bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội nhng lại tốt với nền tiểu
sản xuất, chủ nghĩa t bản nhà nớc về kinh tế cao hơn rất nhiều sơ với nền kinh
tế hiện nay của nớc ta. Vì cha có điều kiện để chuyển trực tiếp tiều tiểu sản
xuất lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta "phải lợi dụng chủ nghĩa t bản (nhất là
bằng cách hớng nó vào con đờng chủ nghĩa t bản nhà nớc) là mắt xích trung
gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phơng tiện, con đờng, ph-
ơng pháp, phơng thức để tăng lực lợng sản xuất lên". Và điều kiện đó "sẽ đa
chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng con đờng chắc chắn nhát".
4. Khi chuyển sang NEP, nhà nớc Xô viết đã sử dụng những biện pháp,

phơng pháp hoạt động của chủ nghĩa t bản nhà nớc và đã thực hiện việc "điều
tiết trao đổi hàng hoá". Nhng việc trao đổi sản phẩm công nghiệp lấy sản
phẩm nông nghiệp hồi ấy ít nhiều vẫn theo phơng thức cũ, nên đã bị thất bại.
Thất bại ở chỗ: trao đổi sản phẩm đã biến thành mua bán sản phẩm. Nh vậy,
theo Lênin "rút lui" là cha đủ. Cần chuyển từ chủ nghĩa t bản nhà nớc sang
thiết lập chế độ nhà nớc điều tiết việc mua bán và lu thông tiền tệ. Ngời viết
"chúng ta ở vào tình thế còn phải rút lui thêm một chút nữa, không những lui
về chủ nghĩa t bản nhà nớc mà còn lui về chế độ nhà nớc điều tiết thơng
nghiệp và lu thông tiền tệ" và khẳng định đó "là con đờng duy nhất có thể đi
theo đợc đối với chúng ta".
5. Lênin đã nêu lên những hình thức của chủ nghĩa t bản nhà nớc. Ngời
đặc biệt chú ý tới tô nhợng, vì tô nhợng tăng cờng nền sản xuất hiện đại mà
không có nó thì về phơng diện kinh tế, bớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
không thể thực hiện đợc. Tô nhợng còn củng cố những quan hệ kinh tế do nhà
nớc điều chỉnh, đối lập với những quan hệ t sản vô chính phủ.
Hợp tác xã trong điều kiện cụ thể ở nớc Nga lúc đó, theo Lênin, cũng là
một hình thức của chủ nghĩa t bản nhà nớc, nhng có hình thù ít rõ rệt hơn.
Việc chuyển từ chế độ hợp tác xã của những ngời sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa
xã hội là chuyển từ tiểu sản xuất lên đại sản xuất, nghĩa là một bớc quá độ
phức tạp hơn so với chuyển từ chế độ tô nhợng lên chủ nghĩa xã hội.
ý nghĩa của chế độ hợp tác là ở chỗ không phải xoá bỏ ngời sản xuất
nhỏ với lợi ích t nhân của họ mà là đặt lợi ích đó dới sự điều tiết của nhà nớc
và phục tùng lợi ích chung.
6. Về mặt chính trị, Lênin khẳng định nhiều lần rằng chủ nghĩa t bản
nhà nớc là không đáng sợ, không thay đổi đợc gì có tính chất căn bản trong
chế độ xã hội của nớc Nga Xô viết, tất nhiên với hai điều kiện: một là, chính
7
Đề án kinh tế chính trị
quyền nhà nớc phải nắm trong tay giai cấp công nhân và nhà nớc quy định
khuôn khổ cho sự phát triển của chủ nghĩa t bản nhà nớc; hai là, nhà nớc phải

nắm các đỉnh cao kinh tế để điều tiết nền kinh tế. Ngời nói: chủ nghĩa t bản
nhà nớc không đáng sợ vì "chủ nghĩa t bản ấy sẽ chịu sự kiểm soát, sự giám
sát của nhà nớc. Nếu nhà nớc công nhận nắm lấy công xởng, nhà máy và đờng
sắt thì chúng ta không sợ gì chủ nghĩa t bản ấy". "chính sách kinh tế mới
không thay đổi cáo gì có tính chất căn bản trong chế độ xã hội của nớc Nga xô
viết và cũng không thể thay đổi đợc điều gì chừng nào mà chính quyền còn ở
trong tay công nhân"). Nh vậy, vấn đề là ở chỗ nhà nớc xã hội chủ nghĩa
phải kiểm soát, ngăn chặn bất cứ chủ nghĩa t bản nào vợt ra khỏi khuôn khổ
chủ nghĩa t bản nhà nớc và phải làm cho nó phù hợp với lợi ích của giai cấp
công nhân.
Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa t bản nhà nớc là một hình thức mới của
đấu tranh giai cấp, chứ không phải là hoà bình giai cấp. Cho dù sự điều tiết
của nhà nớc (giám sát, kiểm tra, quy định các hình thức) có thành công đi
nữa, thì sự đối lập về lợi ích giai cấp của lao động và của t bản nhất định vẫn
tồn tại. Vì vậy, nhà nớc phải bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động.
7. Chủ nghĩa t bản nhà nớc mà Lênin nêu, là một thứ chủ nghĩa t bản
đặc biệt. Nó khác với khái niệm thông thờng về chủ nghĩa t bản nhà nớc, vì ở
đây nhà nớc nắm trong tay giai cấp vô sản và những đỉnh cao của nền kinh tế
thì nắm trong tay nhà nớc xã hội chủ nghĩa. Lênin viết :"Chủ nghĩa t bản nhà
nớc của chúng tôi khác về căn bản so với chủ nghĩa t bản nhà nớc ở những nớc
có chính phủ t sản, sự khác biệt chính là ở chỗ nhà nớc của chúng tôi không
phải đại diện cho giai cấp t sản mà đại diện cho giai cấp vô sản". Ngời còn
nhắc nhở: " nếu chính quyền xô viết đem tô nhợng phần lớn tài sản của
mình thì nh vậy hoàn toàn khờ dại; nh vậy không phải là tô nhợng nữa mà là
quay trở lại chủ nghĩa t bản.".
Từ những điều vừa trình bày về chủ nghĩa t bản nhà nớc trong hệ thống
chính sách kinh tế mới, chúng ta có thể thấy: chủ nghĩa tứ bản nhà nớc không
chỉ là một thành phần kinh tế trong kết cấu của nhà nớc vô sản, là con đờng để
thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong một nứơc tiểu sản xuất chiếm u
thế.

3. Vai trò của CNTB nhà nớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH
8
Đề án kinh tế chính trị
Từ sự phân tích điều kiện thực tế của nớc Nga xô viết, Lênin đã đi đến
kết luận: thứ chủ nghĩa t bản ấy là "có lợi và cần thiết", là "điều đáng mong
đợi". Lênin đã luận cứ nh thế nào về cái "có lợi" này?.
Trớc hết, theo Lênin, cần phải nhận thức rõ, thực hành chủ nghĩa t bản
nhà nớc sẽ có lợi cho ai? ở đây cần nhìn thẳng vào vấn đề: chủ nghĩa t bản nhà
nớc không phải là chính sách "độc thoại", "cửa quyền". Bản thân chủ nghĩa t
bản nhà nớc chính là "sự kết hợp, liên hợp, phối hợp nhà nớc xô viết, nền
chuyên chính vô sản với CNTB" là "một khối với CHTB ở bên trên". Và đơng
nhiên sẽ không có chủ nghĩa t bản nhà nớc, nếu không có những điều kiện cho
họ, điều kiện ấy theo Lênin, chính là những "cống vật". Trong điều kiện trên
thế giới chỉ có một chính quyền Xô viết, xung quanh là cả một hệ thống các n-
ớc t bản, muốn tồn tại, chính quyền Xô viết không thể bỏ qua sự thật ấy.
"Hoặc là chiến thắng toàn bộ giai cấp t sản ngay lập tức, hoặc phải nộp cống
vật".
Khi thực hiện tô nhợng, một hình thức của chủ nghĩa t bản nhà nớc, rõ
ràng là nhà t bản đợc lợi nhuận không phải thông thờng mà "bất thờng", "siêu
ngạch" hoặc có đợc loại nguyên liệu mà họ không tìm hoặc khó tìm đợc bằng
cách khác. Điều này rất có ý nghĩa thực tiễn và đặc biệt có ý nghĩa đối với nớc
ta hiện nay khi thực hành chủ nghĩa t bản nhà nớc. Nhà nớc t bản đợc "lập
lại", đợc "du nhập" "không phải vì lợi ích củng cố chính quyền Xô viết, mà vì
lợi ích của bản thân họ". Chính Lênin còn dự kiến cả khả năng sự phân chia
lợi ích đó thoạt đầu có lợi nhiều cho các nhà t bản dới hình thức "trả giá" cho
sự lạc hậu, cho sự kém cỏi của mình. Nhng không có cách nào khác, mà điều
cần phải học. Phải học cách phân chia lợi ích cho quy luật ngự trị trong kinh
tế, đó là sự phân chia theo sức mạnh kinh tế kỹ thuật. Phải trả giá, phải có một
vài hy sinh" nhng cái giá ấy là bao nhiêu? Một thiên tài nh Lênin, về vấn đề
này cũng chỉ có thể trả lời "mức độ là bao nhiêu, kinh nghiệm và thực tiễn sẽ

chứng tỏ". Vấn đề là không cần che giấu sự thật: phải nộp cống vật. Nhng đối
với nhà nớc vô sản thì sự dung nạp và du nhập chủ nghĩa t bản sẽ mang lại lợi
ích cơ bản và lâu dài.
Sự phát triển của chủ nghĩa t bản do nhà nớc vô sản kiểm soát và điều
tiết có thể đẩy mạnh sự phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ việc
tăng lực lợng sản xuất trong nông nghiệp mà ổn định xã hội, thoát ra khỏi
khủng hoảng, thoát ra ttình cảnh giảm sút "tín nhiệm của nông dân đối với
chính quyền xô viết, khắc phục tình trạng trộm cắp của công nặng nền và nạn
đầu cơ nhỏ lan tràn (nạn này nguy hiểm nhất)". Nói về tầm quan trọng của
9
Đề án kinh tế chính trị
vấn đề này, Lênin đã chỉ ra rằng chính quyền vô sản có giúp đỡ cho sự phát
triển đó đợc không, hay là bọn t sản dễ chinh phục đợc tầng lớp tiểu nông, đó
là điều sẽ quyết định kết cục cuộc đấu tranh giữa t bản và vô sản. Đó là kinh
nghiệm của mấy mơi cuộc cách mạng trớc đây.
Bằng sự "du nhập" chủ nghĩa t bản từ bên ngoài mà tăng nhanh lực lợng
sản xuất, tăng lên ngay hoặc trong mộ thời gian ngắn. ở trong nớc có xí
nghiệp, hàm mỏ, khu rừng, nhng do thiếu máy móc, lơng thực, phơng tiện vận
tải, cho nên không thể khai thác đợc. Vì thế mà thành tiểu t hữu tăng lên về
mọi mặt, kinh tế nông dân ở vùng xung quanh bị xuy yếu, các lực lợng sản
xuất nông nghiệp bị lung lay. Nếu " du nhập" đợc chủ nghĩa t bản thì sẽ có thể
cải thiện đợc nhanh chóng tình trạng sản xuất, đời sống của công nhân và
nông dân, nền đại công nghiệp Xô viết sẽ đợc khôi phục. Đó là cái lợi cơ bản,
cấp thiết nhất của giai cấp vô sản khi mới giành đợc chính quyền.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại,
khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát t bản và t bản
chủ nghĩa.
Vì công nghiệp lớn chứa khôi phục, các cơ sở kinh tế nhỏ không nhận
đợc sự giúp đỡ, hỗ trợ của công nghiệp lớn, chúng không bị sức hút nào cả,
nên kinh tế nhỏ vẫn tồn tại một cách độc lập trong chủ nghĩa xã hội. Trong

điều kiện ấy, chủ nghĩa t bản nhà nớc sẽ là liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, bởi
vì chủ nghĩa t bản là xu hớng và là kết quả phát triển. Tự phát của nền sản xuất
nhỏ: Với ý nghĩa ấy "t bản làm cho sản xuất nhỏ liên hợp lại, t bản sinh ra nền
sản xuất nhỏ". Xét về trình độ phát triển thì chủ nghĩa t bản nhà nớc về kinh tế
cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế tiểu nông. Nếu phát triển đợc chủ nghĩa t
bản nhà nớc thì chính quyền xô viết sẽ tăng cờng đợc nền đại sản xuất đối lập
với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản xuất lạc hậu,
nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm sản
phẩm mà nó thu đợc của đại công nghiệp , củng cố đợc những quan hệ kinh tế
do nhà nớc điều chỉnh, đối lập với những quan hệ kinh tế tiểu t sản vô
chínhphủ.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc, vì lẽ ấy, trơ thành cụ để đấu tranh chống tính
tự phá t bản chủ nghĩa, tính tự phát tiểu t sản, chống tệ đầu cơ, đợc coi là kẻ
thù chính của chủ nghĩa xã hội, ở nớc tiểu nông tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Lênin đã bác bỏ luận điểm cho rằng cuộc đấu tranh diễn ra chủ yếu là giữa
chủ nghĩa t bản nhà nớc và chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin chính giai cấp tiểu t
10
Đề án kinh tế chính trị
sản cộng với chủ nghĩa t bản t nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ
nghĩa t bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Nó chống lại bất cứ sự can thiệp, kiểm kê và
kiểm soát nào của nhà nớc, dù là chủ nghĩa t bản nhà nớc hay chủ nghĩa xã
hội. Không hiểu đợc vấn đề này thì sẽ gây ra nhiều sai lầm về kinh tế.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc là một bớc tiến lớn, nhờ nó mà chiến thắng
tình trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, hiện tợng lỏng lẻo, những tập
quán, những thói quen, địa vị kinh tế của giai cấp ấy là cái quan trọng hơn hết.
Bởi vì việc để tình trạng vô chính phủ của những kẻ đáng sợ nhất, nó sẽ đa đất
nớc đến chỗ diệt vong (bọn Napôlêông và Ca-Vai-Nhắc đã lật đổ cách mạng
hồi trớc cũng chính do chúng phát triển trên cơ sở tiểu t hữu ấy). Cũng vì thế
mà chủ nghĩa t bản nhà nớc sẽ đa nớc Nga lên chủ nghĩa xã hội bằng con đờng
chắc chắn nhất. Nếu khôi phục đợc tình trạng này thì "tất cả những con chủ

bài đều nằm trong tay công nhân và sẽ bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội đợc
củng cố".
Chủ nghĩa t bản nhà nớc còn là công cụ để khắc phục đợc "kẻ thù
chính trong "nội bộ" đất nớc, kẻ thù của các biện pháp kinh tế" của chính
quyền Xô viết. Đó là bọn đầu cơ, bọn gian thơng, bọn phá hoại độc quyền của
nhà nớc.Lênin nói rằng không thể giải quyết vấn đề này bằng biện pháp xử
bắn hoặc "những lời tuyên bố sấm sét", bởi vì cơ sở kinh tế của tệ đầu cơ là
tầng lớp những kẻ tiểu t hữu và chủ nghĩa t bản t nhân, có đại diện của mình
trong mỗi ngời tiểu t sản.
Chủ nghĩa nhà nớc còn đợc xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa
quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa. Khi nói tới thực chất của
chính sách kinh tế mới, Lênin đã đề cập tới nhiệm vụ "đấu tranh chống chủ
nghĩa quan liêu và tác phong lề mề". Vì sao và thông qua chính sách kinh tế gì
mà có thể thực hiện đợc nhiệm vụ này? Lênin phân tích về nguồn gốc kinh tế
của chủ nghĩa quan liêu ở nớc Nga: ấy là tình trạng riêng rẽ, tình trạng phân
tán của những ngời sản xuất nhỏ, cảnh khốn cùng của họ, tình trạng dốt nát
của họ, tình trạng không có đờng sá, nạn mù chữ, tình trạng khong có sự trao
đổi giữa nông nghiệp và công nghiệp, tình trạng thiếu sự liên hệ và tác động
qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Thông qua chủ nghĩa t bản nhà nớc mà giai cấp công nhân có thể học
tập đợc cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ chức một nền sản xuất lớn. Khi
ấy, giai cấp vô sản Nga, so với bất cứ giai cấp vô sản ở các nớc phát triển nào
khác là giai cáp tiên tiến hơn về chế độ chính trị của nớc mình và về sức mạnh
11
Đề án kinh tế chính trị
của chính quyền công nông, nhng lại lạc hậu hơn những nớc lạc hậu nhất ở
Tây Âu về mặt tổ chức một chủ nghĩa t bản nhà nớc có quy củ, về trình độ văn
hoá, về mức độ chuẩn bị cho việc "thực hiện" chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực
sản xuất vật chất. Lênin phê phán luận điểm cho rằng, vì không có sự tơng
xứng đó cho nên không cớp chính quyền. Lênin coi đó là luận điểm của hạng

"ngời trong vỏ ốc" không biết rằng sẽ không bao giờ có, không thể có sự tơng
xứng ấy trong sự phát triển của tự nhiên cũng nh của xã hội, mà chỉ có trải qua
hàng loạt lần làm thử thì mới có thể xây dựng nên chủ nghĩa xã hội hoàn
chỉnh Chủ nghĩa t bản nhà nớc, nếu thực hiện đợc, sẽ giúp cho chính quyền
Xô viết khắc phục dần đợc tình trạng lạc hậu ấy. Cũng qua đây mà học tập đợc
cách quản lý của "những ngời tổ chức thông minh và có kinh nghiệm" trong
những xí nghiệp hết sức to lớn thực sự đảm nhận đợc việc cung cấp sản phẩm
cho hàng chục triệu ngời.
Chủ nghĩa t bản thông qua sự "du nhập" của t bản từ bên ngoài là hình
thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại ; qua đó mà hy vọng có đợc trình độ
trang thiết bị cao của chủ nghĩa t bản. Nếu không lợi dụng kỹ thuật đó thì
không xây dựng tốt đợc cơ sở cho nền đại sản xuất của chính quyền Xô viết.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc mang lại cái lợi là, thông qua sự phát triển nó
mà phục hồi đợc giai cấp công nhân. Nếu chủ nghĩa t bản đợc lợi thế, thì sản
xuất cm cũng sẽ tăng lên về giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn nhanh lên.
Nếu chủ nghĩa t bản đợc khôi phục lại thì cũng có nghĩa là sẽ khôi phục lại
giai cấp vô sản tạo ra một giai cấp vô sản công nghiệp, nghĩa là đã bị đẩy ra
ngoài con đờng tồn tại giai cấp của mình và không còn tồn tại với t cách là
giai cấp vố sản nữa. Đôi khi về hình thức nó đã đợc coi là giai cấp vô sản, nh-
ng nó không có gốc về kinh tế.
Chính là với ý nghĩa của việc thực hiện chủ nghĩa t bản nhà nớc nh vậy
mà Lênin nói rằng đó là "điều có lợi và cần thiết", 'đáng mong đợi" trong điều
kiện của chính quyền Xô viết.
4.Các hình thức của CNTB nhà nớc và điều kiện cần có để sử dụng
CNTB nhà nớc.
Lênin chẳng những là ngời mác xít đầu tiên nêu ra luận điểm về việc bổ
sung chủ nghĩa t bản làm phơng tiện để tăng lực lợng sản xuất, mà còn chỉ đạo
việc thực hiện chủ trơng này trong thực tiễn. Và đó mới là điều quan trọng
nhất. Khi giải thích vì sao dùng danh từ chủ nghĩa t bản nhà nớc, Lênin nói
'điều mà tôi luôn luôn quan tâm tới, là mục đích thực tiễn".

12
Đề án kinh tế chính trị
Theo Lênin, mục đích thực tiễn ấy là tìm ra những hình thức cụ thể để
thực hiện. Cần lu ý rằng, đối với Lênin, mặc dù thời gian sống quá ngắn ngủi
song t tởng về sự phong phú, đa dạng của những hình thức là t tởng của ngời
mà ta cần quán triệt. Lênin không trói buộc chủ nghĩa t bản nhà nớc chỉ vào
một số hình thức đã tồn tại. T tởng của Lênin chính là: 'ở chỗ nào có những
thành phần tự do buôn bán và những thành phần t bản chủ nghĩa nói chung,
thì ở đó có chủ nghĩa t bản nhà nớc dới hình thức này hay hình thức khác, ở
trình độ này hay trình độ khác.".
ở thời Lênin đã có những hình thức cụ thể nh:
1. Tô nhợng. Trong cuốn bàn về thuế lơng thực, Lênin quan niệm tô nh-
ợng là giao kèo, một sự liên kết, liên minh giữa chính quyền nhà nớc Xô viết,
nghĩa là nhà nớc vô sản với chủ nghĩa t bản nhà nớc, chống lại thế lực tự phát
tiểu t hữu. Ngời nhận tô nhợng là nhà t bản. Tô nhợng là chính quyền Xô viết
ký hợp đồng với nhà t bản. Theo hợp đồng ấy, nhà t bản đợc sử dụng một vài
thứ: nguyên liệu, hầm mỏ, xí nghiệp, quặng hay thậm chí một công xởng
riêng biệt. Chính quyền nhà nớc xã hội chủ nghĩa giao cho nhà t bản t liệu sản
xuất của mình: nhà máy, vật liệu, hầm mỏ (trong thực tế không phải chỉ cso
nh vậy. Trong bức th ngày 5-12-1921, Lênin còn nói đến việc tô nhợng quay
phim,và mua phim ở nớc Nga và kinh doanh những phim ấy ở ý). Nhà t bản
tiến hành kinh doanh với t cách là một bên ký kết, là ngời thuê t liệu sản xuất
xã hội chủ nghĩa, và thu đợc lợi nhuận của t bản mà mình bỏ ra, rồi nộp cho
nhà nớc xã hội chủ nghĩa một phần sản phẩm tô nhợng là hình thức kinh tế mà
hai bên cùng có lợi. Nhà t bản kinh doanh theo phơng thức t bản cốt để thu đ-
ợc lợi nhuận bất thờng, siêu ngạch hoặc để có đợc loại nguyên liệu mà họ
không tìm đợc hoặc khó tìm đợc bằng cách khác. Chính quyền Xô viết cũng
có lợi: lực lợng sản xuất phát triển, số lợng sản phẩm tăng lên.
Hình thức tô nhợng là sự "du nhập"chủ nghĩa t bản từ bên ngoài vào.
Tất cả khó khăn trong nhiệm vụ này là phải suy nghĩ, phải cân nhắc hết mọi

điều kiện khi ký hợp đồng tô nhợng và sau đó phải biết theo dõi việc chấp
hành nó.
Thời Lênin hình thức tô nhợng đợc coi là phổ biến hơn cả. Với cách đặc
vấn đề của Lênin hồi đó, có thể quan niệm đó là hình thức "làm ăn" với t bản
nớc ngoài nói chung.
Trong báo cáo về tô nhợng, Lênin đã nêu ra những điều cần phải chú ý
nh sau:
13
Đề án kinh tế chính trị
- Để thực hành chủ nghĩa t bản nhà nớc (tô nhợng) cần phải từ bỏ chủ
nghĩa ái quốc địa phơng của một số ngời cho rằng, tự mình có thể làm lấy,
không chấp nhận trở lại chịu ách nô dịch của t bản. Lênin nêu rõ cần phải sẵn
sàng chịu đựng cả một loạt hy sinh thiếu thống và bất lợi miễn sao có đợc một
sự chuyển biến quan trọng và cải thiện tình trạng kinh tế trong các ngành công
nghiệp chủ yếu. Cũng phải dự kiến rằng trong thời gian đầu không thể tránh
khỏi sai lầm, nhng dù sao cũng phải cố đạt đợc điều đó. "Bất cứ ngời nhận tô
nhợng nào cũng vẫn là nhà t bản, và nó sẽ cố gắng phá hoại chính quyền Xô
viết; còn chúng ta thì lại cố lợi dụng lòng tham lam của nó".
- Ngời nhận tô nhợng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân
trong xí nghiệp to nhợng sao cho đạt tới mức sống trung bình của nớc ngoài.
Điều trọng yếu nhất khi thực hành chế độ tô nhợng là nâng cao số lợng sản
phẩm lên. Nhng điều đặc biệt quan trọng, thậm chí càng quan trọng hơn là cải
thiện ngay tức khắc đời sống của công nhân trong các xí nghiệp đó. Cải thiện
đời sống của công nhân các xí nghiệp tô nhợng và ngoài tô nhợng đợc xem là
"cơ sở chính sách tô nhợng".
- Ngoài ra, ngời nhận tô nhợng phải bán thêm cho chính quyền Xô viết
(nếu có yêu cầu) từ 50-100% số lợng sản phẩm tiêu dùng cho các công nhân ở
xí nghiệp tô nhợng cũng với giá bán nh trên, làm cải thiện đời sống công nhân
khác.
- Vấn đề trả lơng cho công nhân ở các xí nghiệp tô nhợng trả bằng

ngoại tệ, bằng phiếu đặc biệt hay bằng tiền Xô viết thì sẽ đợc quy định theo
sự thoả thuận riêng trong từng hợp đồng. Có điều, về phơng diện hình thức trả
lơng, chính quyền Xô viết không hề trói buộc các nhà t bản. Vấn đề đối với
nhà nớc là phải biết thích ứng với mọi điều kiện sao cho có thể đấu tranh đợc
với họ để cải thiện tới một mức nào đó đời sống của công nhân.
- Điều kiện về thuê mớn, về sinh hoạt vật chất, về trả lơng cho các công
nhân lành nghề và nhân viên ngời nớc ngoài đợc quy định theo sự thoả thuận
tự do giữa ngời nhận tô nhợng với những loại công nhân viên nói trên. Công
đoàn không có quyền đòi áp dụng các mức lơng của Nga, cũng nh các luật lệ
của Nga về thuê mớn công nhân đối với những công nhân đó. Nên nhớ rằng,
tô nhợng là một hợp đồng ký với một quốc gia t sản, cho nên ngời cộng sản
nào muốn ký hợp đồng tô nhợng trên cơ sở các nguyên tắc cộng sản thì Lênin
nói rằng nên "bỏ ngời đó vào nhà thơng điên". Cũng tơng tự nh vậy nếu đảng
viên cộng sản nào, trong chính sách tô nhợng mà lại muốn thể hiện chủ nghĩa
cộng sản của mình vào trong bản hợp đồng, cố nhiên, việc thuê mớn công
14
Đề án kinh tế chính trị
nhân nớc ngoài, tổng số cũng nh từng loại phải theo tỷ lệ phân trăm so với
công nhân, nhân viên Nga, tỷ lệ này sẽ thoả thuận trong hợp đồng.
- Còn đối với những công nhân Nga - chuyên gia có trình độ cao, nếu
các xí nghiệp tô nhợng muốn mời thì phải đợc sự đồng ý của các cơ quan
chính quyền trung ơng. Theo tinh thần không thể để các chuyên gia u tú nhất
làm việc ở các xí nghiệp tô nhợng. Tuy không cấm hoàn toàn nhng việc thi
hành hợp đồng phải đợc giám sát từ trên xuống và từ dới lên.
-Phải tôn trọng pháp luật của nớc Nga, chẳng hạn các đạo luật về điều
kiện lao động, về kỳ hạn phát lơng nếu ngời nhận tô nhợng yêu cầu phải ký
hợp đồng với các công đoàn (theo định mức của một công nhân trung bình ở
Mỹ hoặc Tây Âu, là định mức bắt buộc đối với cả hai bên). Ký hợp đồng với
công đoàn chính là nhằm xoá bỏ mối lo của t bản đối với các công đoàn ở ta.
Ngoài những hàng tiêu dùng và những thiết bị máy móc nhập vào xí

nghiệp tô nhợng, ngời nhận tô nhợng còn phải nhập thêm cho ta, ví dụ 25% số
cần thiết của họ bán cho ta theo giá thoả thuận (giá thành cộng với một tỷ lệ
tạp phí nhất định).
- Phải nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc khoa học và kỹ thuật phù
hợp với pháp luật của nớc Nga và nớc ngoài. Điều này phải đợc quy định tỉ mỉ
trong từng hợp đồng, bởi vì đặc trng cơ bản của nền kinh tế t bản chủ nghĩa là
ở chỗ nó không có khả năng chăm lo đến việc sử dụng đất đai và sức lao động
một cách khoa học và đúng đắn. Những quy tắc khoa học - kỹ thuật là biện
pháp đấu tranh chống hiện tợng đó. (Ví dụ khi cho thuê rừng cần quy định
cách thức kinh doanh lâm nghiệp đúng đắn).
Các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa t bản nhà nớc
Thoạt đầu Lênin quan niệm hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ
nghĩa t bản nhà nớc, nhng sau này Lênin lại có quan niệm hơi khác. Trong
một tác phẩm cuối cùng của mình, Lênin viết: "Cần phải viện đến một cái gần
giống nh chủ nghĩa t bản nhà nớc. Tôi muốn nói đến một chế độ hợp tác xã".
Tiếp ngay sau đó Lênin nói "thờgn thờng trong hoàn cảnh nớc ta, chế độ hợp
tác xã hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội". Có thể hiểu quan niệm của
Lênin về tổ chức hợp tác xã nh thế nào?.
Căn cứ vào những thời điểm lịch sử trớc và sau có thể nhận thấy rằng,
thoạt đầu Lênin quan niệm các hợp tác xã đều là hình thức của chủ nghĩa t bản
nhà nớc . Về sau này, từ thực tiễn nớc Nga, Lênin đã phân biệt tổ chức kinh tế
này trong những chế độ khác nhau. Nghĩa là trong thực tế tồn tại hai chế độ
hợp tác xã: t bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chế độ hợp tác xã t bản chủ
15
Đề án kinh tế chính trị
nghĩa trong lòng chế độ Xô viết đợc coi là một hình thức chủ nghĩa t bản nhà
nớc.
Trong một nớc t bản chủ nghĩa, hợp tác xã là những tổ chức t bản tập
thể. Còn trong điều kiện kinh tế mới-tức chính quyền Xô viết, đã hình thành -
nh Lênin nói, một kiểu xí nghiệp thứ ba, tức xí nghiệp hợp tác xã trớc đây, về

phơng diện nguyên tắc cha thành một loại riêng biệt. Những xí nghiệp hợp tác
xã này đợc coi là một hình thức của chủ nghĩa t bản nhà nớc. Đặc trng của xí
nghiệp này là sự kết hợp những xí nghiệp t bản t nhân (xây dựng trên đất đai
thuộc về xã hội) với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống. Dới
chế độ t bản t nhẫnn hợp tác xã là tổ chức t bản tập thể cho nên chúng khác
với xí nghiệp t bản chủ nghĩa, cũng nh xí nghiệp tập thể khác với xí nghiệp t
nhân. Con đờng khác mà Lênin gọi là con đờng của chủ nghĩa t bản hợp tác.
Vì quan niệm nếu có tự do bán lơng thực thì tất yếu chủ nghĩa t bản sẽ phát
triển, cho nên phải hớng sự phát triển ấy cho con đờng chủ nghĩa t bản hợp
tác xã. Hợp tác xã là tổ chức bao gồm hàng ngàn thậm chí hàng triệu tiểu
nghiệp chủ. Nếu chủ nghĩa t bản hợp tác xã theo con đờng kết hợp xí nghiệp t
bản t nhân với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống là bớc
chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang một hình thức đại sản xuất
khác thì chế độ hợp tác xã theo con đờng thứ hai là bớc chuyển từ tiểu sản
xuất sang đại sản xuất trong một "thời kỳ lịch sử" '10 hay 20 năm". Con đờng
theo chế độ này về sau Lênin quan niệm là "hoàn toàn đồng nhất với chủ
nghĩa xã hội".
Nh vậy, theo cách dặt vấn đề của Lênin, ở thời điểm ấy đã có hai quan
niệm khác nhau về cùng một chế độ hợp tác xã. Một loại là tổ chức đợc quần
chúng nhân dân chân chính thực sự tham gia một cách tự giác; một tổ chức có
thể kết hợp lợi ích t nhân, lợi ích thơng nghiệp t nhân với việc nhà nớc kiểm
soát và kiểm tra lợi ích đó, làm cho lợi ích t nhân phục tùng lợi ích chung. Chế
độ hợp tác xã kiểu này có ý nghĩa đặc biệt trớc hết là về phơng diện nguyên
tắc (nhà nớc nắm quyền sở hữu t liệu sản xuất) sau nữa là về phơng diện bớc
quá độ sang một chế độ mới bằng con đờng giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ
tiếp thu nhất đối với nông dân. Trong hoàn cảnh mới, chế độ này là hoàn toàn
đồng nhất với chủ nghĩa xã hội và nếu chúng ta tổ chức đợc toàn thể nông dân
vào hợp tác xã thì chúng ta đứng vững đợc hai chân trên mảnh đất xã hội chủ
nghĩa. Với chế độ hợp tác xã này, " khi các t liệu sản xuất đã thuộc về xã
hội, khi giai cấp đã thắng giai cấp t sản - thì chế độ của những xã viên hợp tác

xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa".
16
Đề án kinh tế chính trị
Còn loại hợp tác xã đợc coi là hình thức chủ nghĩa t bản nhà nớc, với
cách diễn đạt của Lênin phải chăng là hình thức hợp doanh (công t hợp doanh)
theo khái niệm thờng dùng ngày nay. Nhng cũng từ t tởng này liệu có thể giúp
ta hình dung ra những hình dung ra những hình thức có thể thuộc loại khác
nhng vẫn là một hình thức có thể thuộc loại khác nhng vẫn là một hình thức
của chủ nghĩa t bản nhà nớc (vấn đề này sẽ đợc đề cập ở phần sau trong điều
kiện hiện nay ở nớc ta).
Hình thức đại lý uỷ thác
Liênin coi hình thức này là hình thức thứ ba. Theo hình thức này thì
nhà nớc lôi cuốn nhà t bản với t cách một nhà buôn, trả cho họ một số tiền hoa
hồng để họ bán sản phẩm của nhà nớc và mua sản phẩm của ngời sản xuất
nhỏ:
Cho t bản trong nớc thuê xí nghiệp, vùng mỏ, rừng, đất.
Hình thức này giống hình thức tô nhợng, nhng đối tợng tô nhợng không
phải là t bản nớc ngoài, mà là t bản trong nớc. Hình thức này đợc coi là hình
thức riêng biệt để phân biệt nó với hình thức tơng tự nhng đối tợng thuê chỉ là
t bản trong nớc.
-Cho nông dân thuê những hầm mỏ.
Qua thực tiễn vùng mỏt Đôn bát, Lênin rút ra một hình thức nữa của
chủ nghĩa t bản nhà nớc: cho nông dân thuê những hầm mỏ. Qua việc làm này,
Lênin rút ra hai kết luận - một hiện tợng ngợc đời: chính ở những hầm mỏ nhỏ
cho nông dân thuê, sản xuất lại đặc biệt phát triển hơn là những xí nghiệp lớn
nhất trớc kia là t bản, ngang hàng với các xí nghiệp t bản nhà nớc đợc phát
triển. Những nông dân này hoạt động theo kiểu nộp tô cho nhà nớc (gần 30%
số than khai thác đợc). Đây cũng là kiẻu cho thuê, nhng đối tợng thuê - cách
nói của Lênin là những tiểu t bản.
Công ty hợp doanh

Trong báo cáo tại Đại hội IV Quốc tế cộng sản, Lênin đã nói về những
thành tựu đạt đợc do thực hành chế độ chủ nghĩa nhà nớc. Khi nói về lĩnh vực
thơng nghịêp, chính quyền Xô viết đang cố gắng lập ra những công ty hợp
doanh và đã thành lập đợc theo thể thức tiền vốn một phần là của t bản t nhân,
ngoài ra của t bản nớc ngoài và một phần của chính quyền Xô viết.
Đó là một số hình thức của chủ nghĩa t bản nhà nớc có thể rút ra từ thực
tiễn thực hành chế độ này và đợc Lênin trình bày khi thì tập trung, khi thì rải
rác ở một số tác phẩm.
5. Kết quả thực hiện CNTB nhà nớc thời Lênin
17
Đề án kinh tế chính trị
Đến tháng 11 năm 1922 (khoảng hơn 1 năm thực hành chế độ này),
Lênin đã trình bày khái quát những thành tựu của chính sách kinh tế mới nói
chung, chủ nghĩa t bản nói riêng, nh sau:
Trớc hết và chủ yếu là tình hình giai cấp nông dân. Từ chỗ đói kém, một
bộ phận rất lớn trong nông dân bất bình, đến chỗ trong vòng 1 năm, nông dân
chẳng những đã thoát khỏi đợc nạn đói, mà còn đợc thuê lơng thực hàng trăm
triệu pút. Từ những cuộc bạo động mang tính chất phổ biến năm 1921, nông
dân đã hài lòng với tình hình của họ. Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển,
đời sống của công nhân đợc cải thiện, tình trạng bất mãn của công nhân không
còn nữa.
Công nghiệp nặng tuy vẫn còn khó khăn nhng đã có sự thay đổi nhất
định. Lý do là không có những khoản cho vay lớn hàng mấy trăm triệu đôla.
Chính sách tô nhợng thì hay thật nhng cho đến lúc ấy (1922) vẫn cha có một
tô nhợng sinh lợi nào trong công nghiệp nặng. Không hy vọng vay đợc ở các
nớc giàu có, vì các nớc đế quốc vẫn đang muốn bóp chết nhà nớc xã hội chủ
nghĩa non trẻ. Tuy nhiên 20 triệu vàng (nhờ thơng nghiệp mà có vốn ấy). Điều
quan trọng nữa là tiết kiệm về mọi mặt, kể cả những chi phí về trờng học để
cứu vãn công nghiệp nặng.
Riêng về chính sách chủ nghĩa t bản nhà nớc, qua các tài liệu và sự

đánh giá cho đến năm 1924, nhìn chung đã mang lại cho nớc Nga Xô viết
những tác dụng tích cực nhất định, góp phần làm sống động nền kinh tế nớc
Nga đã bị suy sụp sau chiến tranh, Nhờ tô nhợng với nớc ngoài, nhiều ngành
công nghiệp quan trọng (đặc biệt khai thác dầu) đã phát triển, nhiều kinh
nghiệm tiên tiến với kỹ thuật, thiết bị hiện đại của nền sản xuất lớn t bản chủ
nghĩa đã đợc đa vào quá trình sản xuất, mang lại hiệu quả cao. Tô nhợng cùng
các công ty hợp doanh đã góp phần phát triển sản xuất hàng hoá, tăng thêm dự
trữ ngoại tệ cho đất nớc, mở rộng các quan hệ liên doanh, liên kết kinh tế
trong các lĩnh vực đầu t sản xuất, chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát
triển ngoại thơng với các nớc t bản phơng tây. Thông qua các hoạt động cảu
các công ty hợp doanh, những ngời cộng sản Nga còn có thể thực sự học cách
buôn bán , điều mà bấy lâu nay Lênin thờng nói là nhiệm vụ rất quan trọng.
Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hỗn hợp đã góp phần
giúp nhà nớc Xô viết duy trì sự hoạt động sản xuất bình thờng ở các cơ sở
kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội , việc làm cho ngời lao động. Hình
thức đại lý thơng nghiệp và các hợp tác xã t bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực
sản xuất, tín dụng và tiêu thụ đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ thơng
18
Đề án kinh tế chính trị
nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lu thông hàng hoá
tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những ngời
tiểu nông, nối liền quan hệ trao đổi công-nông nghiệp, thành thị-nông thôn
Những kết quả ấy có ý nghĩa tích cực đối với nớc Nga xô viết. Nó góp
phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế nớc Nga sau chiến tranh.
Tuy nhiên so với sự mong muốn và mục tiêu ban đầu đặt ra của Lênin thì kết
quả thực hành chế độ này vẫn còn thấp. Nguyên nhân quan trọng nhất là chủ
nghĩa t bản đế quốc vẫn tìm cách bóp chết chính quyền Xô viết, vì thế sự hợp
tác, sự đầu t của t bản nớc ngoài vào Liên Xô, không đạt sự mong muốn. Và
trong những năm 1923, 1924 (năm cuối cùng của Lênin) tỷ trọng của chủ
nghĩa t bản nhà nớc - với tính cách là một thành phần, một hình thức kinh tế,

trong tổng sản phẩm của cả nớc chỉ chiếm có 1%.Năm 1923, các xí nghiệp tô
nhợng mới sản xuất đợc khối lợng sản phẩm trị giá 35,1 triệu rúp.
Tuy nhiên, kết quả nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới và chủ
nghĩa t bản nhà nớc đã thực sự là một phần đặc trng của chính sách kinh tế
mới. Và nhờ chính sách kinh tế mới mà chính quyền Xô viết đã giữ đợc những
vị trí vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp và có khả năng tiến lên đ-
ợc. Nông dân vừa lòng, công nghiệp cũng nh thơng nghiệp đang hồi sinh và
phát triển. Đó là một thắng lợi của chính quyền Xô Viết.
ii. sự vận dụng lý luận của lênin về CNTB nhà nớc ở
Việt Nam.
1. Tình hình Việt Nam hiện nay, sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế
t bản nhà nớc ở nớc ta.
Trong nhiều năm qua ở nớc ta cũng nh các nớc xã hội chủ nghĩa anh
em, tuy trình độ phát triển khác nhau, nhng tất cả đều phải bỏ nhiều công phu
vào việc giải quyết vấn đề thời sự và cấp bách là vấn đề lãnh đạo quản lý kinh
tế. Sau nhiều tìm tòi, phân tích, ngời ta mới nhận ra rằng, những sai lầm và
khuyết tật trong cơ chế quản lý kinh tế, có nguồn gốc từ các quan điểm kinh tế
- chính trị sai lầm (nh quan điểm về lợi ích kinh tế, vận dụng quan hệ hàng -
tiền, về cơ cấu kinh tế, về sử dụng các hình thức kinh tế quá độ, về vận dụng
nguyên tắc và phơng pháp quản lý tập trung dân chủ, về sử dụng chuyên gia
và lực lợng khoa học - kỹ thuật )
Những ngời phân tích sâu hơn, còn nhận ra rằng nguyên nhân chủ yếu
của sai lầm trong lãnh đạo, quản lý kinh tế là đã xa rời chủ nghĩa Lênin ở mức
độ nào đó, rằng những sai lầm đó không phải là tất yếu, mà có thể tránh đợc,
19
Đề án kinh tế chính trị
có thể sửa chữa đợc nếu biết nắm vững NEP, lĩnh hội thấu đáo học thuyết
Lênin, không phải trên câu chữ mà ở chiều sâu của t duy lý luận triết học -
kinh tế của ngời. Chỉ có nh vậy, mới cho phép nhìn sáng tỏ hai mối quan hệ
cơ bản gắn bó với nhau của đời sống xã hội, là mối quan hệ giữa kiến trúc th-

ợng tầng và chính trị với cơ sở kinh tế, giữa quan hệ sản xuất với lực lợng sản
xuất, trong điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc và thời đại. Nói một cách hình
ảnh,thì đó là "trục tung và trục hoành" của một đồ thị phát triển kinh tế - xã
hội .
2. Những hình thức cụ thể của kinh tế TBNN đang đợc vận hành ở
nớc ta.
Chủ nghĩa t bản nhà nớc với tính cách là những hình thức kinh tế cụ thể
đã đợc Lênin đề cập và thực hiện. Ngày nay, những hình thức cụ thể ấy vẫn
còn có giá trị hiện thực của nó. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử thay đổi, cho
nên có những hình thức mà thời Lênin khó có thể thực hiện đợc (ví dụ tô nh-
ợng), nhng ngày nay lại có tính hiện thực nhiều hơn, đồng thời cũng những
hình thức cơ bản nh thế, nhng ngày nay mỗi hình thức lại trở nên phong phú
và đa dạng nhiều hơn. Với tinh thần cơ bản là phát triển chủ nghĩa t bản nội
địa dới sự kiểm soát và điều tiết của nhà nớc và du nhập chủ nghĩa t bản bên
ngoài, chủ nghĩa t bản nhà nớc ngày nay mang nhiều hình thức ở mỗi quốc
gia, mỗi chế độ nhà nớc khác nhau. Trong điều kiện nớc ta hiện nay đáng chú
ý là những hình thức vừa có tính chất phổ biến trên thế giới, vừa có tính hiệu
quả cao.
1. Hình thức liên doanh, liên kết giữa nhà nớc với các chủ sở hữu ngoài
quốc doanh ở trong nớc hoặc với các chủ sở hữu ở các nớc t bản chủ nghĩa.
Sự liên doanh, liên kết đợc các nhà kinh tế, kể cả t bản chủ nghĩa hiện
đại, coi là "một ý tởng tuyệt vời). Sự khai thác triệt để t tởng về chủ nghĩa t
bản nhà nớc đòi hỏi phải mở rộng khái niệm liên doanh, liên kết. Không phải
chỉ liên doanh, liên kết với chủ nghĩa t bản từ bên ngoài mà còn cả với chủ
nghĩa t bản nội địa, với các cơ sở thuộc thành phần kinh tế t nhân, kể cả hợp
tác xã t nhân. Mô hình kinh doanh của Seapredex là một ví dụ. ở đây, sự liên
doanh, liên kết thật rộng rãi cả với bên ngoài và bên trong; trong nội địa thì
gồm cả nhà nớc, hợp tác xã và t nhân. Thông qua sự liên doanh, liên kết giữa
nhà nớc và các chủ thể sở hữu ngoài quốc doanh ở trong nớc, nhà nớc có thể
huy động vốn đợc nhiều, đổi mới kỹ thuật và quy trình công nghệ, nâng cao

chất lợng sản phẩm Đồng thời nhà nớc cũng thực hiện đợc thuận lợi chức
20
Đề án kinh tế chính trị
năng kiểm kê kiểm soát, hớng dẫn, điều tiết sự phát triển để thúc đẩy cải cách
cơ cấu kinh tế và cơ cấu sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị trờng trong
nớc và thế giới, cấu trúc lại nền kinh tế.
Sự liên doanh, liên kết giữa các nớc với nhau đang là xu hớng phát triển
kinh tế chung của thế giới. Ngay những nớc đã có nền kinh tế phát triển nh
Mỹ, Nhật, Cộng hoà liên bang Đức, Anh, Pháp, Nam triều tiên cũng đang
mở rộng sự liện doanh với nhau. Một ngueyen nhân khiến cho hàng IBM-
hãng sản xuất máy điện toán lớn nhất thế giới - đạt vị trí dẫn đầu thế giới là do
hãng này có rất nhiều xí nghiệp liên doanh ở nhiều nớc trên thế giới. 50% việc
đổi mới kỹ thuật lại xuất phát từ chính những công ty nhỏ của họ.
2. Công ty cổ phần với tính cách là hình thức kinh tế t bản nhà nớc và
"cổ phần hoá" xí nghiệp để thành lập xí nghiệp t bản nhà nớc.
Trong điều kiện hiện nay, trong nền kinh tế nhiều thành phần, công ty
cổ phần đợc xem là tất yếu kinh tế - sự tồn tại của nó không những chỉ là kết
quả của quá trình tích tụ vốn, mà còn là nhu cầukhách quan của việc củng cố
tính hiệu quả kinh tế nhiều thành phần nói chung của quốc doanh nói riêng.
Tuy nhiên, ở nớc ta, cái khó hiện nay là sản xuất cha ổn định, lạm phát
vẫn còn cao, số đông ngời lao động không có vốn để góp cổ phần. Những ngời
có khả năng về vốn, trong lúc này cũng cha giám mạo hiểm bỏ tiền ra mua cổ
phần, mà gửi tiết kiệm lấy lãi, hoặc kinh doanh thơng nghiệp còn chắc chắn
hơn. Để khắc phục trở ngại này việc cổ phần hoá xí nghiệp quốc doanh cần có
chủ trơng, bớc đi phù hợp với thực trạng kinh tế -xã hội của đất nớc.
Điều quan tâm ở đây là: từ trong thực hành "cổ phần hoá" xí nghiệp nhà
nớc mà tạo ra những hình thức kinh tế t bản nhà nớc.
Nhiều ngời quan niệm rằng, cổ phần hoá xí nghiệp nhà nớc đồng nghĩa
với t nhân sở hữu. Nhận thức nh thế chỉ đúng một phần. Lý luận cũng nh thực
tiễn đã cho thấy, một quá trình nh thế có thể dẫn đến những chế độ sở hữu

khác nhau. Nó có thể trở thành sở hữu tập thể của nhân dân, sở hữu tập thể về
hình thức, nhng thực chất là của một nhóm ngời hoặc có cổ phần khống chế.
Nó cũng có thể trở thành một hình thức kinh tế t bản nhà nớc, trong đó có sự
tham gia vốn một bên là nhà nớc, một bên là đông đảo các chủ sở hữu và ngời
lao động cả trong và ngoài nớc. Ngay trong cuốn "các phơng pháp t nhân hoá
các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nớc" (Techniques of Privatization of State
Owned Enterprises), tác giả cũng quan niệm cổ phần hoá là t nhan hoá sở hữu.
Theo tác giả có 7 phơng pháp t nhân hoá nhằm thực hiện 3 ý tởng cơ bản: bán
21
Đề án kinh tế chính trị
một phần tài sản của doanh nghiệp nhà nớc để thu nhỏ "hàm lợng nhà nớc",
gọi vốn góp thêm vào doanh nghiệp nhà nớc; khoán hay cho thuê cơ sở vật
chất -kỹ thuật của doanh nghiệp nhà nớc. Thật ra đó không phải là t nhân hoá
hoàn toàn xí nghiệp nhà nớc, mà chỉ là những biện pháp khác nhau để tạo ra
hình thức kinh tế có sự hỗn hợp sở hữu đợc gọi là kinh tế t bản nhà nớc.
Trong điều kiện nớc ta, xuất phát từ những khó khăn, trở ngại về mọi
mặt nh đã nói ở trên (không riêng gì ở ta mà ở nhiều nớc không dễ dàng gì
thực hiện đợc chủ trơng t nhân hoá), sự hình thành những công ty cổ phần với
tính cách là hình thức kinh tế t bản nhà nớc là việc làm có nhiều khả năng thực
hiện. Tuy vậy, việc tổ chức công ty cổ phần đã gặp nhiều vớng mắc (qua thực
tiễn cổ phần hoá Seaprodex) vì trớc hết hình thức này đòi hỏi một trình độ
lãnh đạo và quản lý cao cùng với một môi trờng kinh tế - xã hội, đặc biệt hệ
thống luật và hành chính tơng đối ổn định.
3. Đặc khu kinh tế
Qua thực tiễn nhiều nớc, đặc khu kinh tế là một vùng lãnh thổ quốc gia
mà trên đó ngời ta áp dụng chế độ đặc biệt đối với các hoạt động kinh tế đối
ngoại. Mục tiêu của nó là tăng cờng khả năng cạnh tranh của nền sản xuất,
tăng cờng khả năng xuất khẩu, thu hút đầu t trực tiếp của nớc ngoài, đẩy
nhanh các quá trình khai thác công nghệ, kỹ thuật mới và học tập kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới.

Tuỳ thuộc vào mục đích của mỗi quốc gia mà các vùng này đợc mang
những tên gọi khác nhau: "vùng hải quan tự do", "vùng công nghiệp xuất
khẩu", "vùng thơng mại tự do".
Là nớc đi sau, để thực hiện chính sách mở các đặc khu kinh tế, từ kinh
nghiệm các nớc đi trớc có thể rút ra một số nhận xét bổ ích sau đây:
- Với vai trò là "cầu nối" nền kinh tế trong nớc với nền kinh tế thế giới,
các đặc khu kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng để biến các đờng lối, chủ trơng,
chính sách kinh tế đối ngoại của các nớc này thành hiện thực.
- Là công cụ để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ mới, kinh nghiệm
quản lý của nhà nớc khác có nền kinh tế phát triển; là công cụ để nền kinh tế
quốc gia hoà nhập vào thị trờng thế giới
- Vị trí địa lý kinh tế là yếu tố quan trọng nhất trong việc lựa chọn
thành lập "đặc khu kinh tế". Kinh nghiệm cho biết, thờng là những trung tâm
22
Đề án kinh tế chính trị
hoặc các địa điểm nằm trên các trục giao thông đờng bộ, đờng biển và đờng
sông, thuận tiện cho việc giao lu hàng hoá với nớc ngoài.
- Muốn cuốn hút việc đầu t trực tiếp của nớc ngoài, điều quan trọng là
tại các đặc khu kinh tế phải có đợc môi trờng cho hoạt động kinh tế càng gần
với điều kiện và trình độ bên ngoài càng tốt.
- Sự kết hợp một cách thoả đáng các lợi ích giữa nớc chủ nhà, vùng sở
tại và ngời bỏ vốn đầu t là yếu tố quyết định nhất đối với sự ra đời và phát
triển của đặc khu kinh tế.
- Đặc khu kinh tế có mặt trái của nó. Kinh nghiệm cho biết, giá thành
sản phẩm ở các đặc khu kinh tế thờng là thấp, sức cạnh tranh cao, xuất khẩu
không tơngứng với tỷ lệ đầu t so với cả nớc.
Hiện nay ở nớc ta đang chủ trơng thí điểm thành lập khu chế xuất Tân
Thuận (TP. Hồ Chính Minh); vì vấn đề còn hết sức mới mẻ nên cần tham
khảo kinh nghiệm cáckhu chế xuất trên thế giới.
4. Cho t bản trong và ngoài nớc, cho nông dân thuê các cơ sở sản xuất

kinh doanh và các t liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân.
Trong kinh tế nông nghiệp nớc ta đã và sẽ tồn tại các chế độ kinh doanh
khác nhau trên cùng một cơ sở t liệu sản xuất cơ bản là ruộng đất thuộc sở hữu
toàn dân: chế độ kinh doanh của nhà nớc, của tập thể, của từng hộ riêng lẻ,
chế độ kinh doanh hỗn hợp (nhà nớc, tập thể, từng hộ,nhà nớc với tập thể; tập
thể với t nhân trong và ngoài nớc).
Trừ chế độ kinh doanh ruộng đất trực tiếp của nhà nớc (xí nghiệp nông
nghiệp quốc doanh), các chế độ khác nhau cần và phải coi đó là những hình
thức cụ thể của chủ nghĩa t bản nhà nớc. Bởi vì khi trình độ xã hội hoá sản
xuất cha cao mà đã đa quan hệ xã hội chủ nghĩa đầy đủ vào thì thực tế lịch sử
đã chứng minh, sản xuất không thể phát triển mạnh mẽ và dài lâu đợc. Cho
nên, thoạt đầu phải chấp nhận xu hớng tự nhiên, nhiều khi mang tính chất tự
phát t bản chủ nghĩa. Cách tốt nhất là hớng sự phát triển ấy vào con đờng của
chủ nghĩa t bản nhà nớc, tức là đặt dới sự kiểm soát và giám sát của nhà nớc
của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, dới sự khống chế trực tiếp của
nhà nớc đối với cơ sở này hoặc cơ sở khác.
Theo hớng phát triển tự nhiên của lịch sử, đồng thời để phát triển nông
nghiệp theo yêu cầu thơng phẩm hoá sản phẩm nông nghiệp ngàycàng cao,
23
Đề án kinh tế chính trị
những hình thức kinh tế t bản nhà nớc sẽ có vai trò rất to lớn và cũng sẽ hết
sức đa dạng.
Cần và có thể phát triển hình thức liên doanh, liên kết rộng rãi không
chỉ trong mà còn cả ngoài nớc. Cần mở rộng mô hạn định về rừng, đồi trọc,
thềm lục địa, đất rừng, đồi hoang khuyến khích phát triển những hộ kinh
doanh độc lập trên nhiều lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, kinh tế vờn rừng, kinh
tế gia đinh đặc biệt những hộ kinh doanh lớn tổng hợp hoặc chuyên canh, có
hoặc không thuê mớn lao động.
5. Các tổ chức hợp tác liên doanh với tính cách là các hình thức kinh tế
t bản nhà nớc.

ở nớc ta mấy năm nay xuất hiện những tổ chức hợp tác tơng tự nh kinh
doanh liên hộ, tổ hợp dịch vụ, chế biến, cung ứng vật t, tiêu thụ sản phẩm
những tổ chức hợp tác liên doanh này mà có sử dụng đất đai của sở hữu toàn
dân, có vay vốn của nhà nớc, và nhất là có sự kiểm kê kiểm soát của nhà nớc,
thì với quan niệm rộng theo t tởng Lênin đó cũng đều là hình thức chủ nghĩa t
bản nhà nớc. Chúng ta cần nắm lấy để phát triển nền kinh tế quốc dân.
3. Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa - nhân tố quyết định việc
thực hành thành công chủ nghĩa t bản ở nớc ta.
Sức mạnh của một nhà nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
với việc thực hành chính sách chủ nghĩa t bản nhà nớc là sức mạnh của nhà n-
ớc pháp quyền và hợp pháp. Đây là một nhà nớc mới. Mới không phải vì bản
chất giai cấp, xã hội của nó thay đổi, mà mới là so với điều kiện hoạt động
của nó trớc đây. Đó là một nhà nớc trong điều kiện nền kinh tế thị trờng có
nhiều thành phần định hớng lên xã hội chủ nghĩa và có khả năng quản lý
thành công nền kinh tế ấy. Đó là nhà nớc thực hành thắng lợi chính sách ấy.
Sức mạnh của nhà nớc trong điều kiện đó là ở chỗ "biết dùng bàn tay của ngời
khác" để cùng với mình xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Cho nên trớc mắt cần nhanh chóng lập đầy đủ các cơ chế của kinh tế
hàng hoá, xây dựng các điều kiện và kết cấu kinh tế hạ tầng, thông tin, dịch
vụ, hoàn chỉnh các luật (nh luật đầu t, luật liên doanh liên kết, luật về công ty
cổ phần, luật xuất nhập khẩu và thuế xuất nhập khẩu, luật bảo hiểm, luật kinh
doanh dịch vụ, luật về thị trờng cạnh tranh). Tóm lại, mọi hoạt động kinh tế
đều có sự hớng dẫn và kiểm tra của nhà nớc bằng pháp luật.
24
Đề án kinh tế chính trị
Thực hành chủ nghĩa t bản nhà nớc theo ý muốn của nhân dân ta hiện
nay, nhà nớc ta đang gặp không ít khó khăn:
Chúng ta thiếu vốn, hiển nhiên là nh vậy. Và cũng chính vì sự thiếu vốn
ấy mà viện đến bàn tay của giai cấp t bản, của chủ nghĩa t bản trong và ngoài
nớc. Nhng điều này đã đợc Lênin phân tích và chỉ ra khá rõ ràng.

Phân tích tình hình nớc Nga năm 1922-1923, Lênin nói: sức mạnh của
chúng ta là ở đâu, và chúng ta thiếu cái gì? Chính quyền, chúng ta có rất đầy
đủ. Lực lợng kinh tế căn bản chúng ta nắm trong tay. Tất cả những xí nghiệp
lớn có tính chất quyết định, những đờng sắt đều nằm trong tay chúng ta. Nh
vậy thì cái gì? "rõ ràng, cái còn thiếu chính là trình độ văn hoá của những ng-
ời cộng sản".
Chính vì thiếu một trình độ nh thế mà những ngời lãnh đạo Đảng
Matxcova không phải là những ngời lãnh đạo mà đang bị lãnh đạo. Đó là điều
nói ra thì khó chịu, ít ra thì cũng không thích thú lắm, rằng họ "thờng bị ngời
ta đánh lừa".
Chủ nghĩa t bản nhà nớc gắn với một nền kinh tế thị trờng văn
minh.Muốn đạt tới phải học tập chứ không phải là cứ liên tiếp tung ra những
chỉ thị và sắc lệnh mà kết quả lại hoàn toàn khôngdc nh ý mình mong muốn.
Bộ máy nhà nớc ta, ít ra cũng phải có "có một số nhân viên có phẩm chất cao,
nghĩa là không kém gì những nhân viên kiểu mẫu giỏi nhất ở Tây Âu".
Tóm lại, cần phải nhận rõ tầm quan trọng của việc thực hành chủ nghĩa
t bản nhà nớc để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì là chủ nghĩa t bản nhà nớc cho
nên hiệu quả của việc thực hiện nó phụ thuộc vào năng lực tổ chức của bộ máy
nhà nớc ta-mà nhà nớc này là của dân, do dân, vì dân dới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam.
25

×