Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

vận dụng lý luận mác - lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.69 KB, 107 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sở hữu tư liệu sản xuất là một nhân tố cơ bản cấu thành hệ thống quan
hệ sản xuất trong từng chế độ kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, một trong những nội dung cơ bản cần phải giải quyết là phải tiến
hành cải tạo các quan hệ sản xuất mà điểm xuất phát là cải biến quan hệ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sang quan hệ sở hữu công cộng để đáp ứng
yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất.
Ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới, quá trình chuyển sở hữu tư nhân sang
sở hữu nhà nước được thực hiện thông qua quốc hữu hoá các tư liệu sản xuất
của giai cấp tư sản dưới hai hình thức không bồi thường và có bồi thường;
chuyển sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tập thể
thông qua phong trào hợp tác hoá để tập thể hoá tư liệu sản xuất. Việc làm đó
đããđưa quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất vượt quá xa so với khả năng quản l›
và trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới,
trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở
hữu, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và văn kiện
các kỳ Đại hội Đảng từ Đại hội VII đến nay đều khẳng định thực hiện nhất
quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong đó sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể phải ngày cảng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân. Điều đó có nghĩa là song song với phát triển kinh tế tư nhân phải từng
bước chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.
Thực hiện chủ trương đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về kinh tế thị
trường ở nước ta nói chung và sở hữu tư liệu sản xuất nói riêng đã được triển khai
mạnh mẽ. Tuy vậy, đến nay trên một số lĩnh vực việc nghiên cứu lý luận vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chẳng hạn, kinh tế tư nhân, kinh tế tập
1


thể, kinh tế nhà nước đã được nhiều công trình nghiên cứu, nhưng vấn đề chuyển
từ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng còn chưa được nghiên cứu một cách đầy
đủ; quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chuyển sở hữu thuần túy của
nhà nước sang sở hữu của các cổ đông đã làm cho nhiều người lầm tưởng đó là
quá trình tư nhân hóa tư liệu sản xuất. Trong khi đó, trên thực tế quá trình cổ phần
hóa đang được đẩy mạnh, quá trình chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng
đã và đang diễn ra thường xuyên và phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau.
Thực trạng đó phải được lý giải về mặt lý luận để làm cơ sở cho việc chỉ đạo hoạt
động thực tiễn chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng trong quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó là lý do để tác
giả lựa chọn “Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước
ta” làm đề tài luận văn tốt nghiệp sau quá trình học tập hệ cao học chuyên ngành
Kinh tế chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, trong hơn hai thập niên vừa qua, liên quan đến vấn đề sở
hữu tư liệu sản xuất đã có nhiều công trình nghiên cứu, cụ thể là:
- Luận văn thạc sĩ triết học của Vũ Hồng Sơn với đề tài: Đa dạng hoá
sở hữu ở nước ta hiện nay, xu hướng và vận dụng. Bảo vệ năm 1993, tại Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận án phó tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Đình Kháng với đề tài: Sở
hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần. Bảo vệ năm 1993 tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận án phó tiến sĩ kinh tế của Đỗ Trọng Bá với đề tài: Vấn về sở
hữu trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Bảo vệ năm 1994, tại Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận án phó tiến sĩ triết học của Lương Minh Cừ với đề tài: Quan
niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa
xã hội. Bảo vệ năm 1996 tại Viện Triết học.
2

Năm 1998, Viện Thông tin khoa học xã hội xuất bản cuốn Vai trò của
nhà nước trong nền kinh tế trị trường, cũng năm này Nxb Chính trị quốc gia
xuất bản cuốn Xu hướng biến động của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt
Nam do PGS.PTS Nguyễn Tĩnh Gia chủ biên.
Tác phẩm Những nhận thức kinh tế chính trị trong giai đoạn đổi mới ở
Việt Nam của hai tác giả PGS.PTS Nguyễn Đình Kháng và PTS Vũ Văn Phúc
xuất bản năm 1999.
Năm 2004, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản cuốn Một số vấn đề về sở
hữu ở nước ta hiện nay do GS.TS Nguyễn Văn Thạo và TS Nguyễn Hữu Đạt
đồng chủ biên. Cùng năm này, Nxb Khoa học xã hội cũng giới thiệu cuốn Sở
hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt nam của tác giả Nguyễn Văn Thức.
Năm 2006, Nxb lý luận chính trị cho ra mắt bạn đọc cuốn Sở hữu nhà
nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt nam của hai tác giả PGS.TS Nguyễn Cúc và PGS.TS
Kim Văn Chính.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và diễn đàn trên đã làm rõ vị trí,
vai trò của từng hình thức sở hữu trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển. Song, việc nghiên cứu sự biến đổi sở hữu tư nhân sang sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất dưới các hình thức còn chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Do đó chưa làm rõ nội dung và yêu cầu xã hội hóa sở hữu tư liệu sản xuất ở
nước ta để xác định phương hương và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quan
hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Với những nhận xét đó, luận văn mong muốn góp
phần vào việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra trên đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Khái quát hoá những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị
trí, vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất và sự biến đổi của quan hệ sở hữu tư
nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất để làm cơ sở cho việc phân
3

tích, đánh giá thực trạng vận dụng những luận điểm đó vào thực tiễn nước ta
thời kỳ trước và sau đổi mới, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm củng cố và
phát triển sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất phù hợp với yêu cầu phát triển
lực lượng sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò
của sở hữu tư liệu sản xuất và sự biến đổi quan hệ sở hữu tư nhân sang sở hữu
công cộng về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta giai đoạn trước và sau đổi mới.
- Đề xuất các giải pháp nhằm củng cố và phát triển sở hữu công cộng
về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
3.3.1. Về nội dung
Lý luận Mác – Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất rất rộng lớn và trừu
tượng, bao hàm nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, song luận văn chỉ tập trung vào
những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự biến đổi quan hệ sở
hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư liệu sản xuất bao gồm nhiều loại, nhưng luận văn chỉ phân tích làm rõ
sự biến đổi quan hệ sở hữu về những tư liệu sản xuất do lao động của con người
tạo ra thông qua sự chuyển hoá từ vốn tiền tệ thành tư liệu sản xuất và ngược lại.
3.3.2. Về thời gian
Nghiên cứu sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu
tư liệu sản xuất ở nước ta từ khi đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội cho đến nay.
4

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Những nguyên lý kinh tế, những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin về vấn đề sở hữu nói chung và sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết vấn đề sở
hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố liên
quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của Triết học Mác -
Lênin, thông qua phương pháp trừu tượng hóa nhằm làm rõ các quan hệ lợi
ích kinh tế từ sở hữu và sự cần thiết biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất
để thực hiện lợi ích kinh tế.
Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng tổng hợp các phương
pháp cụ thể như điều tra khảo sát, thu thập và xử lý tư liệu để làm cơ sở cho
việc phân tích và tổng hợp, rút ra những kết luận cần thiết.
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Làm rõ những cơ sở lý luận về sự biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản
xuất ở nước ta trong quá trình đổi mới.
- Phân tích, đánh giá thực trạng biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất
trong thời gian qua.
- Đề xuất các giải pháp nhằm củng cố và phát triển sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận trong quá trình thực hiện
đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta.
5
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham

khảo trong việc giảng dạy và hoạch định chính sách về xã hội hóa sở hữu tư
liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VỀ SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT
1.1. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VỀ SỞ HỮU VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT
1.1.1. Khái quát một số luận điểm chủ yếu về sở hữu theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin
Sở hữu luôn là một vấn đề được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác -
Lênin quan tâm đặc biệt. Trong hầu hết các tác phẩm từ Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản đến bộ “Tư bản”, dù không dành riêng một phần nào để nói về
sở hữu, về chế độ sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, nhưng khi bàn về cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, các ông luôn
đặt sở hữu lên vị trí hàng đầu và coi đó là vấn đề cơ bản mà các cuộc cách
mạng xã hội phải giải quyết.
Qua nghiên cứu những tư tưởng đã được nêu lên trong các tác phẩm
của các nhà kinh điển xoay quanh các vấn đề về sở hữu, có thể rút ra những
luận điểm chủ yếu về sở hữu như sau:
Một là, sở hữu trước hết là quan hệ xã hội giữa người với người trong
việc chiếm hữu sản phẩm tự nhiên và của cải do con người tạo ra. Sở hữu
chính là phương thức chiếm hữu mang tính xã hội trong những điều kiện lịch
sử cụ thể đối với những của cải vật chất và tinh thần được sử dụng trong quá
trình sản xuất ra của cải vật chất ấy, hoặc để thỏa mãn mọi nhu cầu sinh hoạt
của con người. Theo Mác: “Khoa kinh tế chính trị không nghiên cứu các vật

phẩm, mà nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người, xét cho đến cùng là
giữa giai cấp với giai cấp, nhưng các quan hệ đó bao giờ cũng gắn với các vật
phẩm và biểu hiện ra như là những vật phẩm” [31, tr.615]. Cho nên, nói đến
sở hữu là nói đến quan hệ xã hội giữa người và người đối với vật.
Hai là, sở hữu được coi là điều kiện của nền sản xuất xã hội. Mác viết:
“Bất cứ nền sản xuất nào cũng đều là việc con người chiếm hữu những vật
7
phẩm của tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định và thông qua
hình thái đó. Theo ý nghĩa đó, nói rằng sở hữu (sự chiếm hữu) là một điều
kiện của sản xuất ” [30, tr.860]. Mác lại nói “Nhưng khi người ta nói rằng,
nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó cũng không thể có một
nền sản xuất nào cả, do đó cũng không có một xã hội nào cả, thì đấy chỉ là
một điều lắp lại” [30, tr.860].
Trên thực tế, sản xuất xã hội lại là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội
loài người, vì thế sở hữu là vấn đề trọng yếu trong lịch sử nhân loại.
Ba là, quan hệ sở hữu luôn luôn biến đổi, không có một hình thức sở
hữu nào tồn tại vĩnh viễn. Nguyên nhân của sự biến đổi đó là sự phát triển của
lực lượng sản xuất mới, đòi hỏi phải có quan hệ sở hữu mới phù hợp.
F.Ăngghen viết: “Bất cứ một sự thay đổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự
cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo
nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở
hữu cũ nữa” [29, tr.467]. C.Mác cũng đã nói về sự chuyển biến liên tục của
quan hệ sở hữu từ thấp đến cao: “Quan hệ sở hữu “cổ đại” đã bị quan hệ sở
hữu “phong kiến” tiêu diệt, và quan hệ sở hữu phong kiến đã bị quan hệ sở
hữu “tư sản” tiêu diệt. Như vậy, chính lịch sử đã phê phán những quan hệ sở
hữu đã qua” [32, tr.41].
C.Mác cũng đã chỉ ra cơ sở khách quan quyết định sự tồn tại của một
hình thức sở hữu nhất định nào đó chính là sự phát triển của lực lượng sản
xuất: Sự chiếm hữu đó nhất thiết phải có một tính chất phổ biến, phù hợp với
những lực lượng sản xuất và sự giao tiếp.

Bốn là, sự vận động, phát triển của quan hệ sở hữu là một quá trình lịch
sử tự nhiên. Một hình thái xã hội - với một hình thức sở hữu nhất định chỉ mất
đi, một hình thái xã hội mới với một hình thức sở hữu mới chỉ ra đời trong
những điều kiện nhất định nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Bởi vì,
theo C.Mác:
Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những
lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát
8
triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất
hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó
chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ [31, tr.15-16].
Năm là, quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa chuyển biến theo hướng xã
hội hóa, quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng. C.Mác chỉ ra rằng, chủ nghĩa
tư bản trong quá trình sản xuất, theo đuổi giá trị thặng dư đã tạo ra những
nhân tố kinh tế mang tính chất quá độ sang phương thức sản xuất mới là các
công ty cổ phần và nhà máy hợp tác của công nhân.
Những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, cũng như nhà máy
hợp tác, đều phải được coi là những hình thái quá độ từ phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể, nhưng chỉ
có điểm khác nhau là: trong những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa,
mâu thuẫn được giải quyết một cách tiêu cực, còn trong những nhà máy
hợp tác, mâu thuẫn được giải quyết một cách tích cực [36, tr.673].
Điều đáng chú ý là, khi nghiên cứu công ty cổ phần, C.Mác đã thấy “chức
năng tư bản tách rời với quyền sở hữu tư bản”, và Người cho rằng “đó là kết quả
của sự phát triển cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa” [36, tr.670, 668].
Sự tách rời đó chính là sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng
(quyền quản lý và quyền kinh doanh). Điều này cũng được C.Mác đề cập rất
kỹ khi nghiên cứu về tư bản cho vay và địa tô. Với sự tách rời này cho phép
huy động được nguồn vốn to lớn trong xã hội cho sự phát triển sản xuất.
Sáu là, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xóa bỏ chế độ tư

hữu phải là một quá trình lâu dài. Tư tưởng này được F.Ăngghen nêu rõ:
Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?
Trả lời: Không, không thể được, cũng như không thể làm cho lực
lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để
xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của
giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ
có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã
9
tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải
tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu [29, tr.469].
Khi bàn về cải tạo chế dộ tư hữu, Ph.Ăngghen còn nói rõ thêm: “Đặc
trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung,
mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản” [29, tr.615], và “Chủ nghĩa cộng sản
không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ
nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động
của người khác” [4, tr.618].
Vận dụng quan điểm này, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải tuân theo di huấn của các nhà kinh điển: không nôn nóng xóa
bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, sử dụng các thành phần kinh tế dựa trên
tiền đề sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đang phù hợp với yêu cầu phát triển
lực lượng sản xuất nhưng phải tìm cách hạn chế và ngăn cấm lợi dụng quyền
sở hữu tư liệu sản xuất để nô dịch người lao động.
Bảy là, sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Trong một giai đoạn nào đó của sự phát triển xã hội, bên cạnh
một phương thức sản xuất chủ đạo còn phải kế thừa những tàn dư của các
phương thức sản xuất tàn dư, điều đó khiến cho trong cùng một thời gian,
trong một nước có thể cùng tồn tại nhiều hình thức sở hữu. C.Mác viết:
Chúng ta đau khổ không những vì sự phát triển của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ.
Ngoài những tai họa của thời đại hiện nay ra, chúng ta còn phải chịu

đựng cả một loạt những tai họa kế thừa do chỗ các phương thức sản
xuất cổ xưa lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với những quan hệ
chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra [35, tr.19].
Sau này, V.I.Lênin đã khẳng định sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ: “Vận dụng vào kinh tế, có phải
nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận,
những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai
cũng đều thừa nhận là có” [21, tr.362].
10
1.1.2. Vị trí của sở hữu tư liệu sản xuất trong các cuộc cách mạng
xã hội
Trong lịch sử, các cuộc cách mạng xã hội đã diễn ra bao giờ cũng gắn
liền với mục tiêu cải biến hoặc thay đổi chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm giữ sở hữu những tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội thì giai cấp đó nắm giữ quyền thống trị xã hội về mặt kinh
tế và do đó thống trị chính trị, tư tưởng. Theo C.Mác: “Vấn đề sở hữu bao giờ
cũng là vấn đề sống còn của giai cấp này hay giai cấp khác - tùy thuộc vào
trình độ phát triển của công nghiệp” [29, tr.428].
Đối với những người cộng sản, sở hữu được coi là vấn đề hàng đầu, vấn
đề cơ bản của mọi phong trào cách mạng. Điều này đã được C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản: “Tóm lại, ở tất cả
mọi nơi, những người cộng sản đều ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống lại
trật tự xã hội và chính trị hiện hành. Trong tất cả phong trào ấy, họ đều đưa vấn đề
sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào” [29, tr.645-646].
Xuất phát từ quan niệm cho rằng mọi cuộc cách mạng xã hội nhằm lật
đổ chế độ cũ và thiết lập chế độ xã hội mới bao giờ cũng phải đưa vấn đề chế
độ sở hữu lên hàng đầu, song mục đích của chủ nghĩa cộng sản không phải là
xóa bỏ hoàn toàn mọi thứ sở hữu, cũng không tước bỏ mọi quyền chiếm hữu
sản phẩm xã hội của người lao động, mà chỉ tước bỏ quyền chiếm hữu sản
phẩm lao động ấy để nô dịch lao động của người khác. Khi coi chế độ sở hữu

tư sản hiện đại là thứ sở hữu dựa trên “bóc lột lao động làm thuê”, thứ sở hữu
vận động trong sự đối lập giữa hai cực: Tư bản và lao động, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ
sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Nhưng chế độ tư
hữu hiện thời, chế độ sở hữu tư sản lại là biểu hiện cuối cùng và hoàn
bị nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở những đối
kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia. Theo
11
ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành
công thức duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu [29, tr.616].
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, C.Mác đã chỉ rõ vị
trí và vai trò của sở hữu trong sự vận động và phát triển của xã hội loài người.
Chế độ sở hữu là yếu tố cơ bản chi phối các yếu tố khác của đời sống xã hội.
Mặt khác, bản thân chế độ sở hữu cũng là một yếu tố động, luôn có sự cải
biến. Một trong những động lực chủ yếu, nguyên nhân chủ yếu của sự vận
động, biến đổi, cải biến đó là sự phát triển không ngừng cả về trình độ, tính
chất và quy mô của lực lượng sản xuất xã hội. Khi chế độ sở hữu thay đổi sẽ
kéo theo sự thay đổi mọi yếu tố khác trong cấu trúc xã hội, cuối cùng sẽ làm
thay đổi toàn bộ hình thái kinh tế - xã hội, một chế độ xã hội nào đó. Mỗi một
hình thái kinh tế - xã hội có một chế độ sở hữu cơ bản đặc trưng cho hình thái
kinh tế - xã hội đó. Từ chế độ sở hữu, trong những quan hệ sở hữu, “bao giờ
chúng ta cũng tìm được cái điều bí ẩn sâu xa nhất, cái nền móng thầm kín của
toàn bộ kết cấu xã hội” [37, tr.499].
C.Mác chỉ ra rằng, giai cấp nào nắm giữ những tư liệu sản xuất chủ yếu
thì giai cấp đó nắm quyền tổ chức quản lý sản xuất, nắm quyền phân phối sản
phẩm xã hội. Giai cấp nào nắm quyền chi phối lĩnh vực sản xuất các giá trị
vật chất thì giai cấp đó cũng nắm quyền chi phối mọi lĩnh vực hoạt động khác
của đời sống xã hội, là giai cấp thống trị trong xã hội.
C.Mác đã nêu lên các giai đoạn phát triển của xã hội loài người, trải

qua năm phương thức sản xuất, đánh dấu những bước tiến của lịch sử xã hội
loài người, tương ứng với các giai đoạn phát triển đó là những hình thái (chế
độ sở hữu) khác nhau: sở hữu bộ lạc, sở hữu công xã hay sở hữu nhà nước
thời cổ, sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp, sở hữu tư sản, sở hữu xã hội
xã hội chủ nghĩa. Sự thay thế chế độ sở hữu này bằng chế độ sở hữu khác là
một tất yếu khách quan, là kết quả tác động của các quy luật khách quan,
trong đó chủ yếu là tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ của lực lượng sản xuất.
12
1.1.3. Vị trí của sở hữu tư liệu sản xuất trong hệ thống các quan hệ
sản xuất
Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát trong hệ thống các quan hệ sản
xuất. Ta biết rằng quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá
trình tái sản xuất, do sự chi phối của ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức
quản lý và quan hệ phân phối. Sở hữu là mặt đầu tiên, là cơ sở cho các mặt
khác của quan hệ sản xuất.
1.1.3.1. Sở hữu - cơ sở của các quan hệ tổ chức quản lý và phân phối
Trong một xã hội nhất định, giai cấp nào, tập đoàn nào nắm quyền sở
hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp đó, tập đoàn đó nắm quyền
chi phối việc tổ chức quản lý sản xuất và phân phối kết quả sản xuất, quyết
định hình thức thực hiện lợi ích kinh tế có lợi cho mình. Ngược lại, những
giai cấp khác, tập đoàn khác không nắm được quyền quyết định về những tư
liệu sản xuất chủ yếu sẽ bị rơi vào tình trạng phụ thuộc và phục tùng, do đó
mọi hoạt động sản xuất cũng như những thành quả thu được bởi lao động của
họ chỉ nhằm phục vụ trước hết cho lợi ích của giai cấp thống trị.
Tuy nhiên, trên thực tế, từ khi quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng tư
liệu sản xuất thì mâu thuẫn giữa chủ sở hữu tư liệu sản xuất với người lao
động sử dụng tư liệu sản xuất xuất hiện. Vấn đề đầu tiên và cuối cùng mà
người lao động quan tâm là phân phối như thế nào, tức là vấn đề lợi ích kinh
tế. Chỉ thông qua lợi ích, các thành viên có liên quan trong hệ thống quan hệ

sản xuất mới nhận thức đúng về quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức quản lý
sản xuất. Quan hệ giữa người với người đối với việc chiếm hữu tư liệu sản
xuất là cơ sở quyết định vai trò cũng như việc thực hiện lợi ích kinh tế của
mỗi người, mỗi tập đoàn, giai cấp. Nói cách khác, lợi ích là quan hệ phản ánh
cái bản chất sâu thẳm bên trong của quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu. Lịch
sử cho thấy, con người từ xưa đến nay tranh giành quyền sở hữu, quyền tổ
chức quản lý sản xuất cuối cùng cũng chỉ để thực hiện lợi ích kinh tế mà thôi.
Giai cấp bị trị xưa nay đi theo lực lượng tiến bộ thực hiện các cuộc
cách mạng xã hội để cuối cùng có được lợi ích chính đáng của mình. Xác
13
định điều này có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc xác định mối quan hệ trực
tiếp giữa quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối. Khi
lợi ích của người lao động không được bảo đảm thì sớm muộn gì cũng tạo ra
mâu thuẫn với chủ sở hữu mà trước hết là mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế rồi
tất yếu sau đó là mâu thuẫn về quyền lợi xã hội, chính trị.
Tuy quan hệ sở hữu có vai trò quyết định đối với những mặt khác của
quan hệ sản xuất, nhưng các quan hệ phân phối và tổ chức quản lý, đến lượt
nó lại quyết định trở lại đối với việc bảo tồn hay phá vỡ quan hệ sở hữu. Nếu
hệ thống tổ chức quản lý thích hợp, giải quyết hài hòa vấn đề lợi ích kinh tế
thì nó duy trì sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sở hữu. Trái lại,
không có một hệ thống tổ chức quản lý thích hợp và không giải quyết tốt vấn
đề lợi ích thì nó sẽ kìm hãm, thậm chí phá vỡ quan hệ sở hữu. Nói cách khác,
nếu bỏ qua hai yếu tố quản lý và phân phối thì việc xác lập quan hệ sở hữu chỉ
là hình thức, không có tác dụng tích cực trong thực tế. Vai trò của quan hệ
quản lý và quan hệ phân phối là ở chỗ chúng làm cho quan hệ sở hữu từ chỗ
được thừa nhận về mặt pháp lý trở nên có nội dung hiện thực, được cảm nhận
rõ ràng và cụ thể ở việc thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở hữu. Lịch sử cho
thấy, nhờ cải cách trong quản lý tổ chức sản xuất và điều hoà vấn đề lợi ích
giữa chủ sở hữu tư bản với người lao động mà xã hội tư bản vẫn tiếp tục tồn
tại và phát triển cho đến ngày nay.

Quyền sở hữu của chủ sở hữu sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có lợi ích
kinh tế. Lợi ích sẽ được duy trì tương đối ổn định và trở thành động lực bên
trong thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội khi chủ sở hữu và chủ sử dụng tư
liệu sản xuất được thực hiện về mặt kinh tế trong quá trình tái sản xuất. Thực
tiễn đổi mới trong 20 năm qua cho thấy vai trò to lớn của việc thực hiện đúng
đắn lợi ích kinh tế quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ xã hội.
1.1.3.2. Sở hữu - cơ sở của chế độ chính trị - xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội giữ vai trò phương pháp luận để
phân tích các thời đại lịch sử khác nhau. Để nhận thức đúng các giai đoạn lịch
14
sử xã hội của các chế độ chính trị, nhất thiết phải căn cứ vào đặc tính quy định
của hệ thống các quan hệ sản xuất, trong đó các quan hệ sở hữu và phương
thức kết hợp các yếu tố sản xuất để thực hiện các lợi ích kinh tế được coi là
hạt nhân quy định bản chất và phương thức vận động của toàn bộ hệ thống.
Quan hệ sở hữu là cơ sở để phân định bản chất chế độ xã hội; là cơ sở phân
kỳ lịch sử và phân biệt sự giống và khác nhau của các giai đoạn lịch sử xã hội.
Sự biến đổi của quan hệ sở hữu là động lực bên trong thúc đẩy sự thay đổi
một hệ thống kinh tế - chính trị - xã hội. Chính trị bắt nguồn từ kinh tế, chính
trị chẳng qua là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, do kinh tế và vì kinh tế.
Cho nên chế độ chính trị thực chất là một hệ thống thiết chế nhằm bảo vệ chế
độ sở hữu để thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở hữu. Do vậy, sự biến đổi của
cơ sở kinh tế, của chế độ sở hữu sẽ kéo theo sự biến đổi của chế độ chính trị
với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng.
Từ mối quan hệ tất yếu giữa chế độ sở hữu và chế độ chính trị cho phép
chúng ta tin tưởng vào dự báo khoa học về tính tất yếu của cách mạng vô sản
và sự ra đời của xã hội cộng sản văn minh. Một xã hội: “Thay cho xã hội tư
sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một
liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người” [29, tr.628].

Logic này cho phép chúng ta khẳng định cách mạng xã hội chủ nghĩa
lấy việc xây dựng và phát triển chế độ công hữu về tư liệu sản xuất làm cơ sở
là đúng đắn, xa rời mục tiêu này sẽ không còn mang ý nghĩa là cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất không những là
đặc trưng có ý nghĩa quyết định để phân biệt xã hội chủ nghĩa với tư bản chủ
nghĩa, mà còn là cơ sở để các đặc trưng cơ bản khác của chủ nghĩa xã hội tồn
tại và phát huy tác dụng. Trong kiến trúc thượng tầng thì chế độ chính trị là
một bộ phận quan trọng nhằm bảo đảm quyền lực của giai cấp cầm quyền qua
những thiết chế, thể chế tương ứng để thực thi quyền lực về chính trị - kinh tế
- xã hội, chủ yếu là thực hiện lợi ích kinh tế trong đó vấn đề sở hữu là căn bản
nhất. Không phải ngẫu nhiên mà tất cả các cuộc cách mạng xã hội đều coi
15
việc xác lập quyền thống trị của mình đối với tư liệu sản xuất - tài sản quốc
gia như là điều kiện tiên quyết để giữ vững những thành quả cách mạng và
phát triển kinh tế.
Như vậy, chế độ sở hữu và chế độ chính trị là những thành phần cốt lõi
nhất của một chế độ xã hội. Chế độ chính trị là một phạm trù lịch sử, nó biến
động cùng với sự biến động của cơ sở kinh tế, của chế độ sở hữu. Quan hệ sở
hữu lại phụ thuộc vào lực lượng sản xuất ở một trình độ phát triển nhất định.
Thực chất quan hệ giữa chế độ sở hữu và chế độ chính trị là sự phản ánh mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong đời sống xã hội hiện thực. Do vậy, để
xác định đúng mối quan hệ giữa sở hữu và chính trị chúng ta phải căn cứ vào
đời sống hiện thực của xã hội. Chế độ sở hữu và chế độ chính trị có mối quan
hệ biện chứng. Tuy sở hữu đóng vai trò là cơ sở của chế độ chính trị nhưng
chế độ chính trị lại là nhân tố tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và vận động
của chế độ sở hữu. Thông thường trong lịch sử, khi quan hệ sở hữu lỗi thời, trở
thành lực cản của lực lượng sản xuất thì tất yếu sẽ bị thay thế bởi quan hệ sở hữu
tiến bộ hơn và theo đó chế độ chính trị phải tương ứng. Nhưng mặt khác, giai
cấp thống trị cũng thông qua những thiết chế của hệ thống chính trị để tác động,
xây dựng và bảo vệ chế độ sở hữu, duy trì quyền lợi kinh tế cho mình. Tùy theo

chế độ chính trị và mức độ tác động của nó tại một thời điểm nhất định mà cơ
cấu sở hữu ở các nước có sự khác nhau. Nếu trong các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển chế độ tư hữu là đặc trưng chủ yếu, thì trong các nước xã hội chủ
nghĩa việc xây dựng chế độ công hữu là đặc trưng nền tảng cho một chế độ mới.
Như vậy, trong cơ cấu sở hữu của hai chế độ xã hội tuy có những đặc trưng khác
nhau, nhưng trong quá trình vận động vẫn có điểm tương đồng là cùng thực hiện
đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong quá trình phát triển kinh tế.
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua phát triển kinh tế thị
trường cho nên không thể không thực hiện đa dạng hóa các loại hình sở hữu
trong kinh tế, đồng thời cũng không thể không tăng cường các quyền lực
chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa (thông qua việc từng bước hoàn thiện
hệ thống chính trị). Vì điều đó bảo đảm cho nền kinh tế nhiều thành phần phát
16
triển theo đúng định hướng phục vụ lợi ích của quần chúng lao động và sự tự
do sáng tạo trong mỗi con người. Trong việc hoàn thiện hệ thống chính trị,
cần đặc biệt chú trọng vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
trong việc nhạy bén nắm bắt, xác lập, thừa nhận về mặt pháp lý các hình thức
sở hữu được hình thành từ phong trào quần chúng cho phù hợp với định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Phân tích mối quan hệ giữa sở hữu và chế độ chính trị, nhất là vai trò
tác động tích cực của hệ thống chính trị giúp chúng ta có cơ sở phương pháp
luận trong việc hình thành những nguyên tắc và giải pháp hoàn thiện quan hệ
giữa các loại hình sở hữu trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay.
1.2. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ SỰ BIẾN ĐỔI QUAN
HỆ SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
1.2.1. Những luận điểm chủ yếu về sự biến đổi sở hữu tư nhân của
những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tư bản tư nhân
Sở hữu tư nhân cũng phát triển từ nhỏ đến lớn. Sự ra đời và phát triển
của sở hữu tư nhân từ sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ sang sở

hữu tư bản tư nhân gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng
hóa, từ sản xuất hàng hóa nhỏ lên sản xuất hàng hóa lớn (còn gọi là sản xuất
hàng hóa tư bản chủ nghĩa). Cách thức thực hiện lợi ích của chủ sở hữu nhỏ
về tư liệu sản xuất là kết hợp trực tiếp sức lao động của bản thân với các
thành viên trong gia đình với tư liệu sản xuất của chính mình sản xuất ra các
sản phẩm để sử dụng trực tiếp gọi là sản xuất nhỏ tự cung tự cấp; hoặc thông
qua trao đổi để sử dụng vào đời sống và sản xuất của gia đình họ, cách thức
thực hiện lợi ích đó gọi là sản xuất hàng hóa nhỏ.
Khi quy mô sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vượt quá khả năng sử
dụng của các thành viên trong gia đình thì chủ sở hữu phải sử dụng sức lao
động của những người ngoài gia đình để thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở
hữu các tư liệu sản xuất. Trong lịch sử, việc thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở
hữu ấy đã diễn ra như sau: thời cổ đại, chủ nô sử dụng lao động nô lệ; thời
17
trung cổ, chủ sở hữu ruộng đất - địa chủ sử dụng lao động tá điền; thời hiện
đại, chủ sở hữu tư bản sử dụng lao động công nhân làm thuê. Trong các thời
đại ấy, sở hữu tư bản tư nhân là đỉnh cao nhất, là hình thái cuối cùng của sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Sự chuyển hóa sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ
sang sở hữu tư bản tư nhân được thực hiện trước hết là do sự tác động của quy
luật giá trị đã làm phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ. Quy luật này
đòi hỏi: trong quá trình sản xuất hàng hóa, người sản xuất phải thực hiện
nguyên tắc hao phí lao động xã hội cần thiết, nghĩa là tiết kiệm lao động (cả
lao động quá khứ và lao động sống) thì người sản xuất hàng hóa mới có lãi.
Muốn vậy, người sản xuất hàng hóa phải tìm mọi cách để hạ thấp giá trị cá
biệt của sản phẩm so với thời gian lao động xã hội cần thiết; còn trong trao
đổi phải thực hiện nguyên tắc ngang giá, nghĩa là giá cả bằng giá trị, phải đảm
bảo bù đắp được chi phí cho người sản xuất hàng hóa (dựa trên cơ sở hao phí
lao động xã hội cần thiết).
Để tồn tại và phát triển, người sản xuất phải tìm mọi biện pháp để

nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm giá trị cá biệt so với giá trị xã
hội của hàng hóa, bằng cách tăng năng suất lao động. Cơ sở nào biết cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để tăng năng suất lao động cá biệt, nâng
cao giá trị sử dụng của hàng hóa, đồng thời hạ thấp giá trị cá biệt sẽ chiến
thắng các đối thủ cạnh tranh, có lãi cao, có điều kiện mở rộng sản xuất,
thuê mướn nhân công, họ ngày càng giàu có, khối lượng tiền của ngày càng
tăng và dần dần trở thành chủ sở hữu lớn tư bản. Ngược lại, đại bộ phận
những người sản xuất hàng hóa nhỏ do những khó khăn không cải tiến
được kỹ thuật, năng suất lao động cá biệt thấp, sản xuất ngày càng sa sút,
dần dần đi đến phá sản, không còn tư liệu sản xuất, chỉ còn lại khả năng lao
động. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, muốn tồn tại, họ phải bán sức lao
động cho người tập trung được phần lớn tư liệu sản xuất - các nhà tư bản
và trở thành lao động làm thuê.
18
Trong thực tế, sự tác động phân hóa này của quy luật giá trị diễn ra
chậm chạp, phải trải qua một thời kỳ lâu dài. Vì vậy, trong lịch sử, quá trình
phân hóa này đã được đẩy nhanh thông qua tích lũy nguyên thủy tư bản.
Trong quá trình phát triển của sản xuất hàng hóa nhỏ, từ khi tiền tệ ra
đời là sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân hoạt động trên cơ sở mua rẻ, bán
đắt để thu lợi nhuận. Tích lũy sự giàu có vào tầng lớp thương nhân, đến cuối
thế kỷ XV, chủ thuyết làm giàu bằng cách mở rộng trao đổi không ngang giá
được hình thành ở nhiều nước trên thế giới. Địa vị kinh tế của tầng lớp thương
nhân ngày càng tăng, họ sử dụng lực lượng kinh tế thông qua thuế và tín dụng
để chi phối nhà nước phong kiến, buộc nhà nước phong kiến phải ban hành
các chính sách và xây dựng lực lượng đáp ứng yêu cầu của họ về tích lũy
nguyên thủy tư bản. Trong trường hợp này, nhà nước có vai trò quan trọng
trong quá trình chuyển đổi sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ sang
sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Đó là vai trò “bà đỡ” cho sự ra đời phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng việc đưa ra các chính sách đẩy mạnh quá
trình tích lũy nguyên thủy của tư bản.

Thực chất của tích lũy nguyên thủy tư bản là dùng bạo lực để tước đoạt
quyền sở hữu tư liệu sản xuất của những người sản xuất nhỏ, nhất là người
nông dân để tập trung tiền của vào tay các nhà tư bản và biến họ thành những
người lao động làm thuê. Điển hình của quá trình này là ở nước Anh, giai cấp
tư sản dựa vào nhà nước phong kiến dùng bạo lực đuổi nông dân, biến đồng
ruộng thành bãi chăn cừu. Đồng thời, ban hành các đạo luật hà khắc để buộc
những người nông dân bị mất đất phải vào làm thuê trong các xí nghiệp tư
bản. Tích lũy nguyên thủy tư bản còn được thực hiện bằng việc đi chinh phục
và bóc lột thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen từ Châu Phi đến các vùng đất mới
ở Châu Mỹ, thực hiện thương mại không bình đẳng,v.v…
Tóm lại, quá trình chuyển sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của những
người sản xuất nhỏ sang sở hữu tư nhân tư bản được thực hiện thông qua tác
động của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa nhỏ và thông qua tích
lũy nguyên thủy tư bản. Trong đó, tác động của quy luật giá trị là nguyên
19
nhân sâu xa làm xuất hiện sở hữu tư nhân tư bản; tích lũy nguyên thủy tư bản
là nhân tố trực tiếp tạo ra sở hữu tư bản tư nhân quy mô lớn và làm xuất hiện
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từ cuối thế kỷ XVII.
1.2.2. Những luận điểm chủ yếu về sự biến đổi sở hữu tư bản tư
nhân thuần túy sang sở hữu tư bản độc quyền và sở hữu tư bản độc
quyền sang sở hữu tư bản độc quyền nhà nước
Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản thời kỳ tự do cạnh tranh, C.Mác đã chỉ rõ:
tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ sản xuất; tích tụ sản xuất phát triển tới một
mức nào đó sẽ dẫn tới sự xuất hiện các tổ chức độc quyền, cạnh tranh tự do sẽ
nhường chỗ cho độc quyền. C.Mác cũng xác định sự hình thành các công ty
cổ phần và chế độ độc quyền là: “Điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển
thành sở hữu của những người sản xuất nhưng không phải với tư cách là sở
hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ nữa, mà với tư cách là sở hữu
của những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp” [24, tr.192].
Đó là một xu hướng có tính quy luật của nền kinh tế thị trường tự do tư bản

chủ nghĩa. Tuy nhiên C.Mác mới nêu lên những tư tưởng đầu tiên về sự biến
đổi của sở hữu tư bản tư nhân thuần túy sang sở hữu tập thể của các nhà tư
bản (sở hữu độc quyền) chứ chưa xây dựng một học thuyết hoàn chỉnh về chủ
nghĩa đế quốc. Quan sát thực tế vận động của chủ nghĩa tư bản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã có dự báo thiên tài rằng với sự phát triển của lực lượng sản xuất,
cạnh tranh tự do tất yếu sẽ dẫn đến độc quyền và độc quyền tư nhân sẽ chuyển
thành độc quyền nhà nước. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã
nhận xét:
Sự cạnh tranh trong nội bộ quốc gia nhường chỗ cho sự độc
quyền của một công ty duy nhất trong nội bộ quốc gia đó. Đại biểu
chính thức của xã hội tư bản chủ nghĩa, tức là nhà nước, cũng phải đảm
đương lấy việc lãnh đạo các tư liệu sản xuất…Tư liệu sản xuất hay tư
liệu giao thông đã thực sự vượt quá sự quản lý của các công ty cổ phần,
và do đó việc quốc hữu hoá trở thành không thể tránh khỏi về mặt kinh
tế [33, tr.385-386].
20
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những tư tưởng đó, khái quát hóa các
hiện tượng độc quyền trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, V.I.Lênin đã vạch ra đặc trưng của thời đại mới, xây dựng học
thuyết hoàn chỉnh về chủ nghĩa đế quốc, về sự biến đổi sở hữu tư bản tư nhân
thuần túy sang sở hữu tư bản độc quyền và từ sở hữu tư bản độc quyền sang
sở hữu tư bản độc quyền nhà nước.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư
bản, Lênin đã chỉ ra quy luật chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
sang chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc) là do sự tích tụ sản xuất
đã đạt đến trình độ cao vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Cuối thế kỷ XIX, tích tụ và tập trung tư bản dẫn đến tích tụ sản xuất
diễn ra mạnh mẽ trong nền kinh tế ở các nước tư bản phát triển. Sở dĩ như
vậy là do sự phát triển nhanh của lực lượng sản xuất và việc ứng dụng những
thành tựu khoa học, kỹ thuật mới vào sản xuất đòi hỏi nguồn vốn lớn, cùng

với nó là các cuộc khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ ở hầu hết các nước tư
bản chủ nghĩa. Những nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản hàng loạt, còn các
nhà tư bản lớn thì phát tài và tăng quy mô tư bản một cách nhanh chóng hơn
trước. Thêm vào đó, sự ra đời nhanh hơn của các cơ cấu tài chính trung gian
như tín dụng, ngân hàng; sự hoạt động của các công ty cổ phần và chế độ
liên hợp sản xuất đã thúc đẩy nhanh hơn quá trình tích tụ sản xuất trong các
công ty lớn.
Lênin giải thích: tích tụ sản xuất có nghĩa là tập trung sản xuất vào
những xí nghiệp lớn, nhưng không phải chỉ là kết quả của tập trung tư bản mà
mà là kết quả của cả hai quá trình: tích tụ và tập trung tư bản. Các xí nghiệp
cá biệt đã qua quá trình tích tụ tư bản (tích lũy nội bộ, nhờ tư bản hóa giá trị
thặng dư) nay lại diễn ra quá trình tập trung thành những xí nghiệp khổng lồ
và dẫn đến sự thay đổi quan trọng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cuối thế
kỷ XIX: đó là sự hình thành các tổ chức độc quyền.
21
Lênin khẳng định rằng: hình thức tích tụ sản xuất là “một đặc điểm cực kỳ
trọng yếu mà người ta gọi là chế độ liên hợp hóa, nghĩa là sự tập trung vào trong
tay một xí nghiệp duy nhất nhiều ngành công nghiệp khác nhau” [20, tr.398].
Các công ty cổ phần lớn và các xí nghiệp liên hợp tạo cơ sở vật chất để
tự do cạnh tranh chuyển thành độc quyền. Khi mỗi ngành sản xuất còn phân
tán trong hàng trăm, hàng ngàn xí nghiệp độc lập nhỏ bé thì không thể có sự
thỏa thuận để chi phối thị trường. Do tích tụ sản xuất, trong mỗi ngành nổi lên
năm, bảy xí nghiệp kếch sù nắm đại bộ phận sản xuất của ngành đó và cạnh
tranh nhau gay gắt thì lúc đó xuất hiện xu hướng thỏa thuận, liên minh với
nhau để “điều tiết việc sản xuất”, “quy định giá cả”, vì trong điều kiện mới,
cạnh tranh khó khăn và ác liệt, tư bản cố định to lớn, không thể dễ dàng di
chuyển tự do từ ngành này sang ngành khác. Cho nên, nghiên cứu quá trình
tích tụ sản xuất, Lênin rút ra kết luận quan trọng: tích tụ và tập trung sản xuất
tất yếu “dẫn thẳng đến độc quyền. Vì vài chục xí nghiệp khổng lồ có thể dễ
dàng thỏa thuận với nhau; mặt khác chính quy mô to lớn của các xí nghiệp

làm cho cạnh tranh ngày càng khó khăn và làm nảy sinh khuynh hướng đi đến
độc quyền” [20, tr.398].
Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã phát triển lên một nấc thang mới -
chủ nghĩa tư bản độc quyền, cạnh tranh tự do thống trị chuyển thành độc
quyền thống trị đồng thời đã đánh dấu sự biến đổi về chất cục bộ trong quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu tư nhân thuần
túy đã chuyển sang sở hữu tập thể của các tư nhân. Điều đó có nghĩa là quan
hệ giữa từng nhà tư bản với lao động làm thuê đã chuyển sang quan hệ giữa
tập thể các nhà tư bản với lao động làm thuê. Cho nên độc quyền không xóa
bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê
mà chỉ làm thay đổi hình thức vận động của quan hệ sản xuất: quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa thời kỳ tự do cạnh tranh dựa trên sở hữu tư bản cá thể
thì nay dựa trên sở hữu độc quyền - sở hữu của tập thể các nhà tư bản thống
trị các ngành kinh tế. Như vậy, quá trình hình thành các tổ chức độc quyền đã
dẫn đến sự biến đổi quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa: sở hữu tư nhân tư bản
22
cá thể, phân tán biến thành sở hữu độc quyền, hay sở hữu của tập thể của các
nhà tư bản để điều tiết các quan hệ kinh tế theo yêu cầu phát triển lực lượng
sản xuất.
Sau khi phân tích, tìm ra nguyên nhân và khẳng định tính tất yếu của
việc xuất hiện các tổ chức độc quyền, Lênin đã nghiên cứu các tổ chức độc
quyền - những biểu hiện của sự biến đổi sở hữu tư bản tư nhân sang sở hữu
độc quyền. Các hình thức tổ chức độc quyền ra đời và phát triển trong giai
đoạn đó là Các-ten, Xanh-đi-ca, Tơ-rớt và Công-xooc-xi-om.
Lênin chỉ rõ, độc quyền ra đời từ cạnh tranh tự do nhưng không thủ tiêu
cạnh tranh tự do mà nó tồn tại bên trên và bên cạnh tự do cạnh tranh.
Sống trong thời đại tư bản độc quyền, Lênin đã được chứng kiến sự
phát triển của độc quyền tư bản chủ nghĩa với những hình thức phong phú của
nó, đặc biệt là thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc đã trực
tiếp can thiệp vào quá trình kinh tế, thậm chí dùng “mệnh lệnh” để buộc một

số xí nghiệp dân sự phải chuyển sang hình thức hoạt động mang tính quân sự
hóa. Từ đó Lênin đã rút ra nhận xét: chiến tranh đã thúc đẩy nhanh chóng, phi
thường sự chuyển hóa của chủ nghĩa tư bản độc quyền thành chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước.
Nếu “tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất
này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền” [38, tr.402],
các tổ chức độc quyền dựa trên sở hữu tập thể tư nhân tư bản chủ nghĩa, thì tập
trung sản xuất cao hơn nữa làm cho tính xã hội hóa của lực lượng sản xuất phát
triển, trình độ quốc tế hóa của sản xuất cao hơn nữa làm cho sở hữu tập thể của
tư bản tư nhân trở nên không còn phù hợp, tất yếu ra đời chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước. Nội dung chủ yếu của nó là sự liên kết chặt chẽ giữa các tổ
chức độc quyền với nhà nước tư sản về kinh tế và chính trị để chi phối trên tất cả
các mặt của quan hệ sản xuất, qua đó tăng sức mạnh của độc quyền và mở rộng
vai trò kinh tế của nhà nước tư sản, biến nhà nước tư sản thành người đại diện lợi
ích của các tổ chức độc quyền.
23
Sự biến đổi từ sở hữu độc quyền của tập thể các tư nhân sang sở hữu độc
quyền nhà nước là để thích ứng với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất. Khi đã
đạt trình độ xã hội hóa cao, đòi hỏi phải có một lực lượng kinh tế mới là tư bản
độc quyền nhà nước điều hòa phối hợp quá trình sản xuất xã hội thông qua việc
nhà nước kế hoạch hóa sự phát triển các ngành kinh tế; nhà nước đầu tư vào
những ngành mà tư nhân không có khả năng đầu tư hoặc không muốn đầu tư
nhưng lại rất cần cho sự phát triển; nhà nước đại diện cho lợi ích các tổ chức độc
quyền trong quan hệ kinh tế quốc tế; nhà nước ban hành các chính sách nhằm ổn
định xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp tư sản phát triển, v.v
Xét về bản chất của sở hữu tư bản độc quyền nhà nước thì sở hữu của
nhà nước tư sản là sở hữu tập thể của toàn bộ giai cấp tư sản, sở hữu độc
quyền là sở hữu tập thể của tư nhân trong các tổ chức độc quyền. Khi chúng
xâm nhập vào nhau hình thành tư bản độc quyền nhà nước thì hoạt động của
nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền, phải phục tùng lợi ích của các

tổ chức độc quyền và biến thành nhà tư bản tập thể của các tổ chức độc
quyền. Vì theo Ăngghen: “Nhà nước hiện đại…là nhà nước của các nhà tư
bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng. Nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng
sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản
tập thể thực sự” [33, tr.387].
Sở hữu tư bản độc quyền nhà nước được hình thành dưới những hình
thức sau: xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách (trong đó
có cả doanh nghiệp sở hữu 100% vốn của nhà nước và doanh nghiệp liên kết
với tư bản tư nhân trong và ngoài nước, kể cả liên kết với các nhà nước khác);
quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ
phiếu của các doanh nghiệp tư nhân, mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng
vốn tích lũy nội bộ và vốn từ ngân sách.
Sự biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất từ sở hữu tư bản độc quyền
sang sở hữu tư bản độc quyền nhà nước là một tất yếu kinh tế mang đặc trưng
vận động của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn lực lượng sản
xuất đạt đến trình độ xã hội hóa cao.
24
1.3. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ
GIẢI QUYẾT QUAN HỆ SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.3.1. Những luận điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác - Ăngghen về
giải quyết vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình xây dựng xã hội
xã hội chủ nghĩa
Luận điểm cơ bản của Mác - Ăngghen về giải quyết vấn đề sở hữu tư
liệu sản xuất trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là: xóa bỏ chế
độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, cho nên thủ tiêu chế
độ tư hữu là một cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn
bộ chế độ xã hội, do đó: “Những người cộng sản hoàn toàn đúng khi đề ra
việc thủ tiêu chế độ tư hữu thành yêu cầu chủ yếu của mình” và “Những
người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành thành một luận điểm

duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu” [28, tr.447, 616].
Trong “Bản thảo kinh tế - triết học” năm 1844, C.Mác đã đề cập đến
những quan niệm khác nhau của một số trào lưu tư tưởng cộng sản chủ nghĩa
trước đây về vấn đề xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân. Trên quan điểm khách
quan khoa học, ông đã xem xét sự diệt vong của chế độ tư hữu do tính tất yếu
lịch sử của nó và vì thế, ông đã phê phán gay gắt “chủ nghĩa cộng sản thô lỗ”
khi họ chủ trương xóa bỏ tư hữu bằng chủ nghĩa bình quân. Theo C.Mác: với
chủ nghĩa bình quân, “chủ nghĩa cộng sản thô lỗ” chỉ là “hình thức biểu hiện
của sự ty tiện” của chế độ tư hữu. “Người ta thấy rõ điều đó chính là sự phủ
định một cách trừu tượng toàn bộ thế giới văn hóa và văn minh”. Bằng cách
đó, “con người không những không vượt lên trên trình độ của chế độ tư hữu
mà còn chưa đạt tới chế độ đó” [26, tr.126 - 127].
Khuyết tật lớn nhất của chế độ tư hữu đối với con người, theo cách lập
luận của C.Mác, là nó đã làm tha hóa con người. “Chế độ tư hữu đã làm cho
chúng ta ngu xuẩn và phiến diện đến nỗi một đối tượng nào đó chỉ là của
chúng ta khi nào chúng ta chiếm hữu nó, nghĩa là khi nó tồn tại đối với
chúng ta như là tư bản hoặc khi chúng ta trực tiếp chiếm hữu nó, ăn nó, uống
25

×