Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

(TH) một số biện pháp nâng cao năng lực đánh giá thường xuyên học sinh lớp một theo định hướng đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.21 KB, 22 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng Khoa học huyện ......................
Số
TT

1

Họ và tên

Ng ày
Nơi cơng tác Chức
tháng
danh
năm sinh

......................

Tiểu
Giáo
học ............... viên
.......

Trình
độ
chun
mơn

T ỉ lệ
(%)đóng


góp vào
việc tạo ra
sáng kiến

Đại học

100%

Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số biện pháp nâng cao năng
lực đánh giá thường xuyên học sinh lớp Một theo định hướng đổi mới"
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Khơng có
2. Lĩnh vực áp dụng của sáng kiến: Thay đổi được nhận thức, cách nghĩ,
cách vận dụng vào thực tiễn đánh giá thường xuyên học sinh của các đồng chí giáo
viên trong nhà trường. Trong đó chú trọng đến việc rèn cho học sinh biết cách tự
đánh giá và đánh giá bạn. Giúp phụ huynh thay đổi cách nghĩ, cách làm, vận dụng
sáng tạo cách thức đánh giá.
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Từ ngày 06/9/2018
4. Mơ tả bản chất của sáng kiến:
4.1. Tính mới:
Các đồng chí giáo viên sẽ chọn lựa và phối hợp các phương pháp và kĩ thuật,
công cụ đánh giá thường xuyên ở trên lớp một cách linh hoạt có hiệu quả từ đó tự
điều chỉnh nội dung giảng dạy, phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học sao
cho phù hợp nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường.

1


Phụ huynh và các em học sinh thay đổi cách nghĩ, cách làm, vận dụng sáng
tạo cách thức đánh giá. Trao đổi thông tin, phối kết hợp cùng giáo viên trong quá
trình đánh giá các nội dung học tập cũng như các năng lực, phẩm chất cần đạt.

Đảm bảo đánh giá một cách trung thực, khách quan, đánh giá vì sự tiến bộ
của người học.
4.2. Tính thực tiễn:
* Đặc điểm tình hình:
Năm học 2018 - 2019 tơi được phân cơng giảng dạy lớp 1B, thống kê số liệu
đầu năm của lớp như sau:
Tổng số

Nữ

Dân tộc

Nữ dân

Mồ côi

Nghèo

tộc
27

15

05

05

Cận

Da cam


nghèo
01

02

07

0

Hầu hết các em học sinh là con em các gia đình nhân dân trong
xã ....................... Khi nhận lớp, bản thân tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn:
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Phòng Giáo dục &Đào
tạo ......................, tôi đã được tham gia các lớp tập huấn về chuyên môn ngay từ đầu
năm học.
Đảng ủy- HĐND-UBND, các đoàn thể địa phương cùng Ban giám hiệu nhà
trường tạo điều kiện để lớp học có đầy đủ cơ sở vật chất, đồ dùng trang thiết bị dạy
học.
Bản thân là giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm ở lớp Một, ln nhiệt tình,
tâm huyết với nghề, hết lịng vì học sinh, được phụ huynh và học sinh tín nhiệm.
Các em học sinh ngoan, hiền lành, nghe lời cô giáo.
* Khó khăn:
Giáo viên: Năm học 2018 - 2019, tơi được phân công dạy lớp Một, là lớp
học đầu tiên của cấp học, các em học sinh còn mải chơi, chưa tập trung trong giờ
2


học, hơn nữa các em tiếp cận với môn Tiếng Việt cơng nghệ là mơn học địi hỏi sự
đổi mới toàn bộ phương pháp, bản thân học sinh tiếp thu chậm vì lượng kiến thức

nhiều. Phụ huynh chưa nắm bắt được cách hướng dẫn con em mình học tập nên rất
áp lực với giáo viên.
Việc đánh giá thường xuyên các môn học/ hoạt động giáo dục theo thông tư
số 22/2016/TT- BGDĐT đã được thực hiện trong những năm qua. Trong q trình
thực hiện bản thân tơi cịn thấy nhiều khó khăn trong việc đánh giá. Nhận xét bằng
lời nói thì các em còn quá nhỏ nghe xong rồi nhanh quên, nhận xét ghi vào vở thì
các em chưa đọc được, chưa hiểu rõ những gì cơ viết. Vậy nên nói như thế nào để
học sinh dễ nhớ và nhớ lâu? Viết vào vở cho học sinh ra sao để đỡ mất thời gian mà
có hiệu quả? Ln là những câu hỏi mà tôi trăn trở.
Học sinh: Bản thân các em vừa mới học ở trường Mầm non hoạt động chơi là
chủ yếu nay các em bắt đầu bước vào môi trường học tập mới mà hoạt động chủ
yếu là học và rèn luyện các kỹ năng nên các em chưa quen nề nếp học tập, một số
học sinh chưa được sự quan tâm của gia đình, bố mẹ cịn đi làm ăn xa gửi con cho
ơng, bà. Vì vậy việc theo dõi và kèm cặp các em còn gặp rất nhiều hạn chế.
Phụ huynh: Một số phụ huynh còn coi trọng về điểm số, quan điểm của họ là
đi học thì phải biết được hơm nay con mình học bài như thế nào và điều đó được
thể hiện qua điểm số ở trong vở, đọc nhận xét của giáo viên và nghe trao đổi của
giáo viên về con mình họ chưa thấy thỏa đáng. Họ chưa nắm được những ưu thế
nổi bật của đánh giá bằng nhận xét trong việc giúp đỡ, hỗ trợ học sinh trong quá
trình học tập và rèn luyện các năng lực, phẩm chất.
* Thực trạng:
Việc đánh giá thường xuyên hiện nay là hoạt động đánh giá diễn ra trong
tiến trình thực hiện hoạt động giảng dạy môn học, cung cấp thông tin phản hồi cho
giáo viên và học sinh nhằm mục tiêu cải thiện hoạt động giảng dạy, học tập. Mục
đích của đánh giá thường xuyên là cung cấp thông tin phản hồi cho học sinh, giáo
viên và để hỗ trợ phát triển hoạt động học tập của học sinh, giúp các em điều chỉnh
việc học của mình đồng thời là thơng tin giúp giáo viên điều chỉnh nội dung học
3



tập, điều chỉnh phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp đạt
được mục tiêu bài học.
Để thấy được thực trạng đánh giá thường xuyên trong nhà trường hiện nay
tôi nghiên cứu kĩ từng nội dung bài học, mục tiêu cần đạt và trực tiếp đi dự giờ
thăm lớp tôi nhận thấy việc đánh giá thường xun học sinh của các thầy giáo, cơ
giáo cịn nhiều vấn đề cần trao đổi, cần chia sẻ tìm cách tháo gỡ. Mặc dù Phòng
Giáo dục đã mở lớp tập huấn nâng cao năng lực đánh giá học sinh, nhà trường đã tổ
chức các buổi sinh hoạt chuyên môn chia sẻ cách đánh giá nhưng một số thầy cô
chưa lựa chọn cho mình các phương pháp, kĩ thuật, cơng cụ để đánh giá sao cho
hiệu quả nhất. Công tác tổ chức, tập huấn đội ngũ học sinh cốt cán của lớp để các
em hỗ trợ nhau trong học tập thực sự chưa được quan tâm. Tôi thiết nghĩ để các em
tự nhận xét đánh giá kết quả, sản phẩm của mình và của bạn thì trước hết giáo viên
phải dạy cho các em cách nhận xét, cách diễn đạt, cách kiểm tra nhau sau đó mới
hy vọng đi vào nề nếp. Công tác phối hợp cùng phụ huynh học sinh nhận xét đánh
giá, hỗ trợ con học ở nhà bước đầu được thầy cô quan tâm xong các biện pháp phối
hợp, mơ hình thực hiện hiệu quả chưa cụ thể, rõ ràng, chưa ăn ý.
* Nguyên nhân của thực trạng:
* Giáo viên đã hiểu rõ mục tiêu bài học xong sử dụng chưa linh hoạt các
phương pháp đánh giá cũng như công cụ, kĩ thuật đánh giá sao cho hiệu quả: quan
sát chưa tỉ mỉ, ghi chép nhật ký chỉ là lời nhận xét chung chung, chưa chỉ ra được
các biện pháp đã hỗ trợ hay cần hỗ trợ trong thời gian tới,…Việc nhận xét trước
lớp, viết nhận xét ở vở còn chung chung (Bài làm chưa đúng/sai/làm lại; chưa đạt
yêu cầu; có tiến bộ/cần cố gắng,…). Nội dung chỉnh sửa chưa triệt để (sửa danh số
ở phép tính nhưng không chú ý sửa ở cả phần đáp số). Lời khuyên của thầy cô chưa
rõ ràng, hành động hỗ trợ đôi khi chưa đúng mực và phù hợp (giọng nói, cử chỉ,
…). Chỉ chú ý đánh giá kiến thức, kỹ năng mà chưa chú trọng đến việc đánh giá
năng lực, phẩm chất của các em. Chưa làm tốt công tác tuyên truyền, giải thích để
học sinh và cha mẹ học sinh hiểu đúng bản chất, mục đích, yêu cầu, cách thức đánh
giá của đánh giá theo hướng đổi mới,…
4



* Học sinh: Các em nhận sự bao bọc của ơng bà, bố mẹ cịn q lớn vì vậy ý
thức tự lập, tự quản, tự tin,… các kỹ năng như giao tiếp, diễn đạt chia sẻ,… đều hạn
chế. Các em quen mơi trường ở lớp Mầm non chơi là chính. Nay đến mơi trường
mới mà việc học là chính, cịn nhiều điều lạ lẫm…
* Phụ huynh: Rất bỡ ngỡ với cách học của các con hiện nay nên việc hỗ trợ
các em học tập gặp rất nhiều khó khăn. Chưa nắm rõ mục đích, yêu cầu, cách thức
đánh giá theo hướng đổi mới, phối hợp chưa tốt cùng giáo viên trong việc hỗ trợ
các em trong quá trình học tập và rèn luyện các năng lực, phẩm chất,…
Sau khi được tham gia lớp tập huấn nâng cao năng lực đánh giá thường
xuyên các môn học và hoạt động giáo dục do Phòng Giáo dục tổ chức, qua các buổi
sinh hoạt chuyên môn của cụm trường, sinh hoạt chuyên môn do nhà trường tổ
chức, qua nghiên cứu thông tư 30, thông tư 22, văn bản hợp nhất số 03 và trực tiếp
áp dụng vào thực tế giảng dạy. Với tâm huyết của một nhà giáo, được học và thấm
nhuần tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, hưởng ứng phong trào “Mỗi thầy, cô giáo
là một tấm gương tự học và sáng tạo”, với tấm lịng u thương học sinh và ln
dành cho các em những điều tốt đẹp nhất. Tôi nghiên cứu và đã áp dụng có hiệu
quả “Một số biện pháp nâng cao năng lực đánh giá thường xuyên đối với học sinh
lớp Một. ”
4.3: Một số biện pháp nâng cao năng lực đánh giá thường xuyên đối với
học sinh lớp Một theo định hướng đổi mới:
Biện pháp 1: Chọn lựa và phối hợp các phương pháp và kĩ thuật đánh giá
thường xuyên ở trên lớp một cách linh hoạt có hiệu quả:
* Phương pháp quan sát:
Đây là một trong những phương pháp chủ yếu tôi sử dụng để thu thập dữ
liệu kiểm tra đánh giá.
Quan sát quá trình học của học sinh tôi thường chú ý đến những hoạt động
dù là nhỏ nhất như: phát âm sai từ trong khi đọc, sự tương tác giữa các em trong
nhóm với nhau, nói chuyện riêng trong lớp, mất tập trung, tinh thần căng thẳng, lo

lắng hay hào hứng giơ tay phát biểu ý kiến,…
5


- Quan sát sản phẩm: Khi các em tạo ra sản phẩm cụ thể, là bằng chứng của
sự vận dụng các kiến thức đã học. Sản phẩm rất đa dạng như: bài tập tốn, bài viết
chính tả, bài của nhóm, … HS phải tự trình bày sản phẩm của mình, cịn tơi nhận
xét sự tiến bộ hoặc xem xét q trình làm ra sản phẩm đó. Tơi quan sát và cho ý
kiến đánh giá về sản phẩm, giúp các em hồn thiện sản phẩm.
- Các kĩ thuật tơi thường sử dụng trong quan sát là ghi chép ngắn, ghi chép
các sự kiện thường nhật.
Ghi chép ngắn là một kĩ thuật đánh giá thường xuyên thông qua việc quan
sát trong giờ học, giờ thực hành hay trải nghiệm thực tế. Những ghi chép khơng
chính thức này cung cấp cho tơi rất nhiều thông tin về mức độ học sinh học tập cần
tập trung xử lí thơng tin, phối hợp với nhóm bạn học, những khó khăn/ vướng mắc
của các em… cũng như những quan sát tổng hợp về cách học, thái độ và hành vi
học tập. Hàng ngày, tôi ghi chép các sự kiện thường nhật làm việc giữa tôi với học
trị, quan sát q trình học của các em và ghi nhận được rất nhiều thông tin về hoạt
động học tập.
Ví dụ : Em Sang hay nhìn ra cửa sổ trong giờ học, em Phương luôn làm
xong nhiệm vụ của mình sớm và giúp đỡ các bạn trong giờ thực hành,… đơi khi tơi
ghi lại được những tình huống rất hiếm hoi, ví dụ em Ngân rất ít nói, nhút nhát hay
ngồi một mình trong giờ ra chơi, em Quyền mới 6 tuổi thơi đã hay nổi nóng, đấm
các bạn trong lớp…. Nhờ chú ý và ghi chép tình huống như vậy mà tơi đã phát
hiện ra tích cách của từng em và xác định được biện pháp giáo dục phù hợp. Nay
Ngân và Phương là một trong những thành viên cốt cán của lớp, tự tin, thân thiện
biết cùng các chị trong đội cờ đỏ hỗ trợ các bạn trong 15 phút đầu giờ, tham gia đội
văn nghệ biểu diễn trong Ngày hội văn hóa trường học. Em Quyền đã biết kiểm
sốt cảm xúc, khơng bị kích động, hịa nhã với các bạn, được các bạn yêu quý….
Những sự kiện lặt vặt hàng ngày ấy lại có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong đánh

giá. Nó giúp tơi dự đoán khả năng và cách ứng xử của các em trong những tình
huống khác nhau từ đó có giải pháp hỗ trợ kịp thời. Cách tốt nhất là tôi sử dụng sổ
cá nhân ghi chép những sự kiện thường nhật. Để việc quan sát và ghi chép có tính
khả thi, tôi chú trọng hướng việc quan sát vào những hành vi không thể đánh giá
6


được bằng những phương pháp khác. Xác định trước những sự kiện cần quan sát,
nhưng cũng cần chú ý đến những sự kiện bất thường. Quan sát và ghi chép đầy đủ
về sự kiện đặt trong một tình huống/ bối cảnh cụ thể để sự kiện trở nên có ý nghĩa
hơn. Sự kiện xảy ra cần phải được ghi chép lại ngay, càng sớm càng tốt. Cần ghi
chép cả những hành vi tích cực và cả hành vi tiêu cực. tôi thu thập đầy đủ thông tin
trước khi đưa ra những nhận xét, đánh giá về hành vi, thái độ của học trò.
* Phương pháp vấn đáp:
Vấn đáp là phương pháp thứ hai mà tôi thường xuyên sử dụng để thu thập dữ
liệu trong đánh giá kiểm tra trên lớp. Đây là phương pháp tôi đặt câu hỏi và học
sinh trả lời và ngược lại nhằm rút ra kết luận, kiến thức mà các em cần nắm được.
Tuỳ theo nội dung bài mà tôi đặt câu hỏi vấn đáp. Khi dạy bài mới tôi sử dụng vấn
đáp gợi mở, sau khi đã cung cấp kiến thức, dùng vấn đáp củng cố để đảm bảo học
sinh nắm chắc kiến thức, cuối giờ tơi thường dùng vấn đáp kiểm tra để có thơng tin
ngược từ phía học sinh.
Kĩ thuật then chốt của phương pháp vấn đáp là kĩ thuật đặt câu hỏi, đây là
một vấn đề vừa là khoa học vừa là cả một nghệ thuật. Để học sinh phát huy được
tính tích cực và trả lời đúng bao giờ tơi cũng chuẩn bị trước câu hỏi tập trung vào
vấn đề quan trọng của bài học. Câu hỏi phải chính xác, sát trình độ học sinh, sát
mục tiêu bài học, đặc biệt với học sinh lớp Một câu hỏi phải ngắn gọn, dễ hiểu. Khi
các em trả lời tơi bình tĩnh lắng nghe, khơng nơn nóng (bởi học sinh lớp Một vốn từ
cịn ít, diễn đạt rất chậm, chưa tự tin, chưa mạnh dạn,…), sau đó hướng dẫn lớp
nhận xét, bổ sung rồi giáo viên mới tổng kết. Việc làm chủ, thành thạo các kĩ thuật
đặt câu hỏi đặc biệt có ích trong khi dạy học.

Bên cạnh đó nhận xét bằng lời nói có tác dụng điều chỉnh hành vi. Đánh giá
nhận xét bằng lời của cơ giáo và các bạn có tác dụng ni dưỡng suy nghĩ tích cực,
hình thành sự tự tin ở trẻ đồng thời giúp các em tự điều chỉnh hành vi của mình.
* Phương pháp viết:
Đây là nhóm phương pháp kiểu truyền thống cũng được tơi sử dụng trong
đánh giá thường xuyên. Tôi thường viết lời nhận xét vào vở, sản phẩm học của học
7


sinh,… Thời gian đầu năm học, các em chưa thể đọc được lời nhận xét của cô
nhưng tôi vẫn thường xuyên viết lời nhận xét với mục đích là để cha mẹ học sinh
đọc. Lời nhận xét được viết ra mang tính xây dựng, chứa đựng cảm xúc tích cực,
thân thiện, tôn trọng. Tôi đề cập ngay đến ưu điểm trước sau đó đến những điểm
cần xem lại, lỗi cần điều chỉnh với giải pháp đưa ra rõ ràng, cụ thể. Không nhận xét
chung chung làm tổn thương trẻ và phụ huynh.
Vào thời điểm hiện nay, có thể nói các em học sinh lớp 1B do tôi phụ trách
đã đọc thông, viết thạo. Tôi hướng dẫn thêm cho các em cách tự đánh giá, suy
ngẫm việc học và sự tiến bộ của bản thân mình, những điều em muốn nói qua câu
hỏi sau:
+ Đến lớp điều gì làm em vui nhất?
+ Ước mơ của em là gì?
+ Mơn học nào em thích nhất ? Mơn nào em gặp khó khăn?
+ Em thích nhất ở cơ Thủy điều gì? Điều gì em chưa thích ở cơ?
+ Ba điều em thích nhất? Ba điều em ghét nhất?
+ Bạn nào có thể hỗ trợ em học tốt nhất? vì sao ?...
Khi học sinh viết ra những suy nghĩ của mình gửi vào hộp thư Điều em muốn
nói, Hộp thư vui. Các em được chia sẻ với cô giáo và các bạn, với bố mẹ … từ đó
tơi tự điều chỉnh bản thân, điều chỉnh phương pháp dạy học và giáo dục học sinh
trong lớp sao cho phù hợp đạt hiệu quả cao nhất.
Khi đánh giá thường xuyên đối với học sinh lớp Một tơi chú trọng đến 3

nhóm phương pháp đánh giá trên. Ngồi ra, tơi cịn sử dụng một số phương pháp,
kĩ thuật đánh giá khác như : phân tích, phản hồi; thực hành; thẻ, phiếu học tập; trị
chơi học tập,….qua đó đánh giá được thêm các năng lực, phẩm chất của học sinh
một cách chân thực, sinh động nhất.
Biện pháp 2: Phát huy vai trò, trách nhiệm của giáo viên trong quá trình đánh
giá thường xuyên.
Để thực hiện việc đánh giá thường xun, trong q trình dạy học tơi ln
căn cứ vào mục tiêu và nội dung của mỗi bài, linh hoạt sử dụng các phương pháp,
8


kĩ thuật đánh giá học sinh như đã đề cập ở trên. Quan sát ghi lại những gì đã quan
sát ngay lúc đó của cá nhân, nhóm từ cách làm bài, thái độ, hành vi. Từ đó tơi ra
quyết định hỗ trợ, giúp đỡ học sinh ngay lúc đó hoặc hỗ trợ, can thiệp sau. Trước
hết tơi tìm hiểu nhu cầu, năng lực của học sinh, sử dụng câu hỏi vấn đáp, phỏng vấn
nhanh, trả lời nhanh, phiếu câu hỏi, trị chơi,….để khích lệ, định hướng học tập cho
các em ngay trong giờ học. Tôi rất chú trọng việc quan sát, ghi chép thường nhật
đồng thời tôi thường xuyên dự giờ các thầy cô bộ môn, giáo viên chuyên dạy lớp
mình phụ trách. Qua đó đánh giá một cách khách quan được hết khả năng nhận
thức, kỹ năng cần đạt và năng lực, phẩm chất cần được hình thành của mỗi em.
Đánh giá thường xuyên học sinh chủ yếu bằng lời nói, chỉ ghi lời nhận xét khi
cần thiết. Chính vì vậy, trong mỗi giờ học, tơi dùng lời nói chỉ ra cho học sinh biết
chỗ đúng, chỗ chưa đúng và cách sửa chữa. Lời nói nhẹ nhàng, khơng chê bai, ln
thể hiện niềm tin tích cực của tơi đối với trị, thể hiện sự quan tâm, tình u thương
trong đó thúc đẩy nỗ lực vượt khó của các em.
Ví dụ dạy bài Các số 1; 2; 3 (SGK Toán 1 trang 11)
* Nhận xét bằng lời : Khi giao nhiệm vụ cho các em học sinh quan sát hình vẽ
sách giáo khoa, nêu số lượng con chim, con mèo, bơng hoa, chấm trịn,…Tơi quan
sát học sinh nêu, chỉnh sửa cho các em cách nói phù hợp:
- Học sinh nói : một con chim ” ,….; Giáo viên sửa: Em hãy nói “có một con

chim ” , “có ba chấm tròn”
Khi học sinh viết số :
- Em viết số 2 rất đẹp, em giỏi lắm!
- Em đã cố gắng nhưng số 3 chưa đẹp, em viết lại: Hai nét cong phải, phần
trên và dưới bằng nhau.
- Cô cầm tay em viết lại số 3 cho đẹp nhé! Cô tin là em sẽ viết đẹp!
Khi dạy Đạo đức bài: “Gọn gàng, sạch sẽ” , tôi nhận xét :
- Em đã biết giữ gìn vệ sinh cá nhân rồi đấy.
- Em cắt móng tay đi nhé, nhìn bàn tay em sẽ sạch đẹp hơn
9


- Em sẽ rất xinh nếu buộc tóc lên cao. (Tơi buộc lại tóc cho Học sinh)
- Em sửa lại cổ áo một chút áo sẽ đẹp hơn,…(hướng dẫn học sinh bẻ lại cổ áo
cho ngay ngắn)
- Em buộc lại dây giày nếu không vướng vào chân khi đi sẽ bị ngã. Học sinh
buộc lại xong, tôi nhận xét: “Em đã gọn gàng rồi đấy”.
Ví dụ: Khi học mơn Tiếng Việt, giáo viên nhận xét:
- Kĩ năng nghe, viết tốt. Cơ khen em!
- Em vẽ mơ hình đúng và đẹp, thật tuyệt vời!
- Em phát âm chuẩn, tốt, em giỏi lắm!
- Em chú ý đọc bài nhiều để phân biệt các dấu thanh,…
Lớp tơi có hai em Lê Q Sang và Lê Quý Trọng (anh em sinh đôi) khi phát
âm luôn lẫn giữa thanh sắc và thanh ngã; thanh hỏi và thanh nặng nên khi viết cũng
viết sai như vậy: (ngã/ngá, thủy/thụy, quả/quạ, chả/ chạ,..). Do ảnh hưởng cách phát
âm của địa phương nên phát âm chưa chuẩn. Ví dụ với tiếng “quả” , tôi nhận xét rồi
hướng dẫn em phát âm lại nhiều lần bằng cách: khi phát âm phải trịn mơi, luồng
hơi bật ra mạnh hơn. Sau đó phát âm và đọc với các từ ngữ mở rộng hơn như “quả
cà, hoa quả, quả na,… Tương tự như vậy các lỗi phát âm chưa chuẩn tôi đều hướng
dẫn các em sửa sai một cách cụ thể. Đến nay, các em đã đọc chuẩn khơng cịn đọc

sai nữa.
Khi em My đọc bài cịn chậm, tơi nhận xét: “Em đọc to, rõ ràng song cố gắng
đọc nhanh hơn chút nữa nhé”. Khi em Mai quên sách vở, tôi nhận xét: “Em nhờ bố
hoặc chị sắp xếp cho để mai không thiếu đồ dùng nhé” .....và dần dần các em đã
theo kịp nề nếp học tập cùng các bạn, đã có tinh thần học tập hơn rất nhiều. Hoặc
trường hợp em Trần Thanh Trung, em làm tốn rất nhanh, rất thơng minh khi trả lời
các câu hỏi trong các giờ học song em đọc và viết lại hạn chế, tôi nhận xét: “Em rất
nhanh nhẹn, học toán tốt. Em chăm luyện đọc và viết nữa nhé”.
* Viết lời nhận xét: Khi viết nhận xét, bản thân tôi khi viết thường tự trả lời
câu hỏi: viết cho ai và để làm gì? sau đó là viết như thế nào? Vì học sinh lớp Một
10


vào đầu năm học chưa biết hết chữ nên việc viết nhận xét phải chọn lọc vì viết
khơng phải để các em học sinh đọc mà là viết để cho cha mẹ học sinh thấy được
việc học của con em họ từ đó có biện pháp hỗ trợ cùng giáo viên giúp các em vượt
qua khó khăn đang gặp phải. Lời nhận xét phải cụ thể, phù hợp và kịp thời đối với
mỗi tình huống khác nhau trên từng học sinh khác nhau. Lời nhận xét bao giờ tôi
cũng viết ngắn gọn, dễ hiểu và phù hợp với tâm lí học sinh lớp Một. Chữ viết dễ
đọc và viết bằng mực màu đỏ. Câu nhận xét ghi ở phía dưới trang vở sau phần viết
của học sinh. Đi cùng lời nhận xét là những chỉ dẫn chính xác về nơi dung, cách
thực hiện để phụ huynh biết cách hỗ trợ, điều chỉnh cho con khắc phục những nội
dung mà con chưa hồn thành.
Trong q trình theo dõi học sinh làm bài tập, tôi quan sát vở học sinh và viết
Đ bằng mực đỏ vào bài làm đúng, viết S vào bài làm sai cùng với lời nhận xét, biện
pháp hỗ trợ:
Ví dụ dạy bài Các số 1; 2; 3 (SGK Toán 1 trang 11)
- Em viết số 3 ngược rồi, viết lại cho đúng.
- Em viết số đúng rồi nhưng cần giữ vở sạch hơn,…
Khi học sinh viết chính tả, tôi viết nhận xét :

- Bài viết sạch, đẹp. Chữ viết khá đều nét. Em cần phát huy nhé!
- Em viết đúng chữ mẫu nhưng nắn nót thêm chút nữa thì chữ của em sẽ đẹp
hơn. ( khi cần học sinh viết cẩn thận hơn)
Em viết đủ bài song cần viết đúng khoảng cách giữa các con chữ hơn (khi
cần học sinh sửa độ rộng, hẹp giữa các con chữ),…
(Phụ lục ảnh 1, 2)
Trong lớp, có em Đinh Vũ Ngọc Mai nhận thức chậm và tác phong chưa được
nhanh nhẹn, em mải chơi, khơng có hứng thú học, sách vở em vẽ bẩn hoặc xé nát.
Trao đổi với bố em thì bố em bảo: “Em nhắc cháu mãi rồi mà không được, chị cố
giúp em để cháu biết chữ nào thì biết vậy”. Tơi đã lập kế hoạch cụ thể, chia sẻ cùng
phụ huynh hỗ trợ, nhắc nhở, động viên em. Hàng ngày sát sao, quan tâm để em biết
11


tự học và giải quyết những nội dung học tập ngay trên lớp. Biết tự giác, biết tự
phục vụ, tự quản . Khi em viết bài xong tôi viết nhận xét: “Mai hoàn thành bài viết
nhanh song em viết nắn nót hơn chút nữa chữ sẽ đẹp hơn nhiều”; “ Em biết cách
giữ vở sạch rồi đấy”. Trong đợt khảo sát chất lượng vừa qua, Mai là một trong số
các em học sinh được khen vì làm bài nhanh, đúng. Vở viết đầy đủ, sạch sẽ.
Khi nhận xét bằng lời hay viết vào vở của các em lời nhận xét ngắn gọn, dễ
hiểu khích lệ học sinh cố gắng. Chính vì vậy các em ln vui vẻ, tự sửa lỗi,…Khi
đánh giá tôi không bao giờ so sánh học sinh này với học sinh khác, không nặng lời.
Bản thân tôi luôn tự rèn kỹ năng kiềm chế cảm xúc, dù các em làm bài chưa đúng
cũng không bao giờ cáu giận. Ln đặt vị trí mình vừa là người tổ chức, hướng dẫn
các em chiếm lĩnh kiến thức vừa là người cùng học với các em nên tiết học nào
cũng diễn ra nhẹ nhàng, hiệu quả.
Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh tự đánh giá và học sinh đánh giá lẫn nhau
* Tự đánh giá là quá trình học sinh đánh giá hoạt động và kết quả đạt được
của bản thân. Với học sinh lớp Một việc này quả là quá khó song tơi khơng bỏ
cuộc. Tơi đã hướng dẫn các em tự nhận xét :

- Em thích nhất điều gì trong bài học này ?
- Em đã học được những gì trong ngày hơm nay?
- Em cịn băn khoăn điều gì muốn hỏi cơ?
- Em tự nhận thấy mình đã tiến bộ những gì ?
- Điều gì cần cải thiện, cần cố gắng hơn trong ngày mai ?…
Học sinh tự đánh giá khi thực hiện từng nhiệm vụ học tập, báo cáo kết quả
với giáo viên:
- Bạn nào làm bài xong thì giơ tay.
- Bạn nào có kết quả giống như bài làm của bạn thì giơ tay,..
Các em tự tin hơn, các em tự học, học tập theo định hướng của bản thân. Bên
cạnh đó các em cịn được tham gia vào q trình đánh giá sản phẩm, cơng việc của
12


các bạn. Tôi hướng dẫn cho các em nắm rõ nội dung sẽ đánh giá để các em cùng
tham gia chương trình học tập đánh giá lẫn nhau. (Nhưng sự đánh giá cuối cùng
vẫn là giáo viên). Tôi thường quan tâm, kéo những em học sinh nhút nhát, ít được
các bạn chú ý đến tham gia vào hoạt động này.
Ví dụ trong giờ Tiếng Việt:
- Em có nghe rõ bạn đọc khơng? (tiêu chí về âm lượng)
- Em thấy bạn đọc chưa đúng những từ nào? (tiêu chí về đọc đúng)
- Bạn đọc nhanh hay chậm? (tiêu chí về tốc độ đọc), ….
Ví dụ: Trong giờ Tốn, tơi u cầu học sinh làm bài xong đổi vở cho nhau và
xem xét kết quả bài làm của mình với bạn, phát hiện xem cách làm của bạn có gì
khác với mình, đúng sai chỗ nào?
- Bạn làm bài đúng rồi.
- Bạn viết số 2 rất đẹp.
- Bạn viết số 3 bị ngược, bạn viết số 3 như thế này này…
- Bạn cịn viết bẩn, cần giữ vở sạch hơn, khơng được tẩy xóa nhé.
Qua đánh giá sản phẩm, hoạt động học của bạn mà các em học hỏi được

những điểm hay cũng như sẽ rút kinh nghiệm từ những điểm chưa tốt của bạn từ đó
hình thành kỹ năng tự chịu trách nhiệm với những nhận xét, đánh giá của mình.
Trên cơ sở đó mỗi học sinh tự phản hồi, tự điều chỉnh một cách linh hoạt, sáng tạo.
Học sinh sẽ rất dễ chấp nhận kết quả, học sinh có thể nhận xét, hỗ trợ nhau đánh
giá, không tạo áp lực cho các em.
(Phụ lục ảnh 3)
Biện pháp 3: Khuyến khích phụ huynh tham gia vào quá trình đánh giá.
Để thực hiện tốt phương châm kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và
xã hội thì bản thân tơi ln đẩy mạnh công tác tuyên truyền để ông bà, cha mẹ học
sinh hiểu rõ những quan niệm, cách thức mới của hoạt động đánh giá học sinh.

13


Ngay buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã triển khai các thông tư liên quan
đến việc đánh giá học sinh tiểu học, photo cho mỗi phụ huynh một bản để về nhà
học nghiên cứu và vận dụng vào đánh giá việc học cũng như các năng lực, phẩm
chất cần thiết khi ở nhà. Phân tích cho phụ huynh thấy rõ vai trò, trách nhiệm của
họ đối với việc học của con mình khi bước vào mơi trường học tập mới đầy bỡ ngỡ.
Hướng dẫn phụ huynh cách đọc, cách phân tích vần, cách đánh vần mỗi từ
mới. Thực sự họ rất bỡ ngỡ với những bài học đầu tiên xong tơi hướng dẫn học
cách phân tích vần ngay từ tên của mỗi thành viên trong gia đình. Cách phân tích từ
khơng có dấu thanh, khác với phân tích từ có dấu thanh,….
Tơi là người cơng tác và sinh sống tại địa phương vì vậy có rất nhiều thuận lợi
so với đồng nghiệp. Tôi sẵn sàng hướng dẫn phụ huynh tại nhà vào những buổi tối
hay ngày thứ bảy, chủ nhật. Hỗ trợ phụ huynh mọi lúc, mọi nơi mỗi khi họ cần. Sự
phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh ngày càng trở nên gắn kết hơn. Tôi hướng
dẫn phụ huynh quan sát, theo dõi quá trình học và học cùng con. Bản thân các em
học sinh lớp Một vừa bắt đầu vào môi trường học tập và rèn luyện nên chưa quen
nề nếp học tập, tuổi nhỏ còn mải chơi nên chưa ý thức được tầm quan trọng của

việc học tập nên cịn nhiều em ham chơi, khơng tập trung học bài, bởi vậy cha mẹ
cần học cùng con để giúp đỡ, hỗ trợ con, khích lệ con, khơi gợi sự hứng thú khám
phá của học sinh qua các bài học :
- Hôm nay con học bài nào?
- Cô giáo nhắc con cần sửa nét khuyết trên của chữ “ h, k, l, b” cho đẹp hơn.
Con hãy viết đúng cho bố, mẹ xem.
- Để làm bài tập này con cần học thuộc bảng cộng 5 đã, con đọc cho mẹ nghe….
- Thầy, cô hướng dẫn con như thế nào?
- Thầy, cơ nhận xét gì về bài làm của con?
- Số 6 con viết chưa đẹp, viết lại cho bà xem.
- Thế nào là ăn, uống sạch sẽ?
- Làm thế nào để ăn uống sạch sẽ?
14


- Con thực hiện rửa tay cho bố, mẹ (ông, bà) xem nào?...
Phụ huynh còn thường xuyên trao đổi với tơi bằng các hình thức như gọi điện,
viết thư tay: Cháu rất hay nói chuyện với mẹ về việc học Tốn ở trên lớp cơ ạ; Cháu
Trân nhà em đọc số cịn ngọng cơ ạ; cháu Trọng hay viết ngược số 6, làm thế nào
để sửa được cô giáo? Cháu Mai chưa biết tự chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập để
ngày mai đi học cô ạ; Bé Trung làm gì sai khơng chịu nhận lỗi và xin lỗi đâu cô,….
( Phụ lục ảnh 4,5,6 )
Biện pháp 4: Ghi chép sổ nhật ký theo dõi sự tiến bộ của học sinh.
Tôi đã sử dụng sổ nhật ký ghi chép những sự việc xảy ra hàng ngày. Để việc
quan sát và ghi chép có tính khả thi, tơi chú trọng hướng việc quan sát vào những
hành vi không thể đánh giá được bằng những phương pháp khác. Quan sát và ghi
chép đầy đủ về sự kiện đặt trong một tình huống, bối cảnh cụ thể để sự kiện trở nên
có ý nghĩa hơn. Sự kiện xảy ra cần phải được ghi chép lại ngay, càng sớm càng tốt.
Cần ghi chép cả những hành vi tích cực và cả hành vi tiêu cực. Tôi thu thập đầy đủ
thông tin trước khi đưa ra những nhận xét, đánh giá về hành vi, thái độ của học trò.

Biện pháp 5: Thành lập Câu lạc bộ cha mẹ học sinh.
- Câu lạc bộ này một tháng sinh hoạt một lần vào tiết cuối cùng của buổi học
ngày thứ sáu
- Trong buổi sinh hoạt đó các bậc phụ huynh có cơ hội để trao đổi, chia sẻ
những kinh nghiệm hỗ trợ con học ở nhà, cách tham gia nhận xét, đánh giá các
hành vi, cử chỉ, hoạt động của các con khi ở nhà,…
Biện pháp 6: Tổ chức sinh hoạt chuyên môn cộng đồng.
Tôi đã tổ chức một tiết sinh hoạt chuyên môn: Trong tiết đó tơi là người dạy
một tiết Tiếng Việt Cơng nghệ giáo dục 1 cho các bậc phụ huynh lớp tôi dự.
Qua tiết dự đó cho phụ huynh thấy được việc học của con em mình như thế
nào và cách nhận xét, đánh giá hiện nay thay đổi ra sao để phụ huynh hiểu và hỗ trợ
con học tập.
4.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến
15


Những giải pháp nêu trên, trong năm học 2018 - 2019 tôi đã áp dụng rất
thành công đối với lớp 1B do tôi chủ nhiệm. Tôi tin rằng với các giải pháp đó các
bạn đồng nghiệp của tơi ở các trường Tiểu học của huyện ...................... và
tỉnh ...................... đều có thể áp dụng được để thực hiện tốt đánh giá thường xuyên
học sinh.
5. Những thông tin cần được bảo mật: Khơng có
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Ban giám hiệu: Tôi xin ý kiến chỉ đạo từ Ban giám hiệu Trường Tiểu học
...................... cho áp dụng thử sáng kiến này tại lớp 1B của tôi đang giảng dạy và
chủ nhiệm.
- Giáo viên: Tôi cũng nhận được sự chỉ đạo của Tổ trưởng chuyên môn; sự
phối hợp, giúp đỡ của các đồng chí giáo viên trong khối, các đồng chí giáo viên dạy
mơn chun và giáo viên buổi 2 tạo điều kiện cho tôi áp dụng sáng kiến này. Về
bản thân tôi cũng cần quan tâm, tỉ mỉ, gần gũi, có trách nhiệm với các em học sinh

tạo cho các em một chỗ dựa tin cậy để các em có thể tâm sự, chia sẻ những mong
muốn của mình với cơ một cách thoải mái nhất.
- Học sinh: Các em học sinh tham gia vào các hoạt động đánh giá một
cách hứng thú và đầy tự tin.
- Phụ huynh: Tôi cũng phối hợp, động viên phụ huynh bớt thời gian
gần gũi với con như cùng học, cùng chơi và làm bạn với con và lắng nghe
khi con muốn chia sẻ.
7. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
7.1. Theo ý kiến của tác giả:
* Đối với học sinh: Với tất cả các biện pháp cơ bản nêu trên kết hợp với một
số biện pháp khác, tôi thường xuyên vận dụng nâng cao năng lực đánh giá thường
xuyên với các em học sinh của mình. Trên cơ sở đó, phát hiện tìm ra những thiếu

16


sót, lỗi,… để có những giải pháp hỗ trợ học sinh và điều chỉnh kịp thời phương
pháp giảng dạy, cải thiện nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục.
Các em đã phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ, sáng tạo, hăng hái tham gia
xây dựng bài. Biết tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. Đánh giá được nội dung học
tập mình đã làm được, những nội dung, việc làm cần phải cải thiện, các em dễ dàng
nhận ra những sai sót của bản thân và học được cách làm hay từ các bạn. Tất cả các
em đều được bàn bạc, trao đổi, thảo luận giúp đỡ và hợp tác với nhau. Các em
khơng những chỉ có trách nhiệm với việc học của mình mà cịn có trách nhiệm với
các bạn khác. Biết hỗ trợ, động viên, khích lệ bạn bè, có những em xưa vốn nhút
nhát, rụt rè, thiếu tự tin trong giao tiếp nay đã mạnh dạn hơn, biết bày tỏ ý kiến của
riêng mình trước nhóm học tập hay trước lớp.
Những nhận xét đánh giá thường xuyên của giáo viên, tự đánh giá và đánh
giá lẫn nhau của các em học sinh, đánh giá của phụ huynh kết hợp với bài kiểm tra

đánh giá định kỳ cuối học kì I đã giúp tơi có cách nhìn nhận đánh giá các em một
cách khách quan, toàn diện nhất.
Sau đây là tổng hợp kết quả đánh giá giáo dục giữa học kì II của lớp 1B do tơi
trực tiếp giảng dạy và chủ nhiệm Năm học: 2018- 2019.
Đánh giá về các mơn học:

Mơn
Tốn
Tiếng Việt
TN& XH
Đạo đức
Âm nhạc
Mĩ thuật
Thủ cơng
Thể dục

Kết quả
Hồn thành

Hồn thành tốt
SL
18
14
20
24
13
13
20
23


%
66,7
51,9
74,1
88,9
48,1
48,1
74,1
85,2

SL
9
13
7
3
14
14
7
4

%
33,3
48,1
25,9
11,1
51,9
51,9
25,9
14,8


Chưa hồn thành
SL
0
0
0
0
0
0
0
0

%
0
0
0
0
0
0
0
0

Đánh giá về năng lực:
17


Tốt
Năng lực

SL


Đạt
%

SL

Cần cố gắng
SL
%

%

Tự phục vụ tự 22
quản
Hợp tác
20

81,5

5

18,5

0

0

74,1

7


25,9

0

0

TH &GQVĐ

74,1

7

25,9

0

0

20

Đánh giá về phẩm chất:
Tốt

Đạt

CCG

Phẩm chất
SL


%

SL

%

SL

%

Chăm học chăm làm

19

70,4

8

29,6

0

0

Tự tin –Trách nhiệm

20

74,1


7

25,9

0

0

Trung thực - Kỉ luật

23

85,2

4

14,8

0

0

Đoàn kết – yêu thương

24

88,9

3


11,1

0

0

* Đối với giáo viên: Là giáo viên trẻ, tâm huyết và trách nhiệm với nghề, tôi
luôn trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, tự học tự rèn, nghiên cứu kĩ thông tư, mạnh
dạn chia sẻ suy nghĩ, kinh nghiệm của mình khi được tham gia các buổi tập huấn,
sinh hoạt chuyên môn chính vì vậy mà giờ học nào trên lớp cũng diễn ra nhẹ nhàng,
hiệu quả. Ban giám hiệu và đồng nghiệp dự giờ luôn đánh giá cao về năng lực
chuyên mơn, tơi vui vì điều đó. Cho đến thời điểm này kỹ năng đánh giá thường
xuyên các môn học và hoạt động giáo dục của tôi được năng cao lên rất nhiều, tôi
tự tin chia sẻ tất cả những kinh nghiệm mình có được tới đồng nghiệp.
* Đối với phụ huynh: Tơi rất vui vì cơng tác tun truyền cách đánh giá
thường xuyên học sinh của mình đến với phụ huynh đã thành công. Từng bước phụ
huynh đã hiểu quy trình, cách thức đánh giá thường xuyên và tham gia vào q
trình đánh giá, cung cấp thơng tin phản hồi để tơi có biện pháp hỗ trợ trên lớp, giúp
các em vượt qua khó khăn, hồn thiện nội dung học tập và cả những năng lực,
phẩm chất cần thiết.
18


7.2: Theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia sáng kiến lần đầu, kể cả
áp dụng thử (nếu có):
Sau khi nghiên cứu kĩ các biện pháp trên tơi kính gửi lên Ban giám hiệu xin
phép thực nghiệm. Ban giám hiệu nhà trường đã trực tiếp dự giờ thăm lớp thường
xuyên thấy việc đánh giá của cô và trị trên lớp thực sự có chất lượng.
Áp dụng các biện pháp đã nêu vào quá trình đánh giá học sinh tôi thấy hiệu
quả rõ rệt và chia sẻ cho các đồng chí giáo viên trong khối Một áp dụng thử các

đồng chí giáo viên hàng ngày, hàng giờ vận dụng làm theo đem lại hiệu quả cao. Đã
giải đáp những trăn trở của đồng nghiệp, các em học sinh tự tin chia sẻ, đoàn kết,
yêu thương giúp nhau vượt qua khó khăn trong học tập, trau dồi nhiều kỹ năng,…
* Lợi ích của những giải pháp:
Khi áp dụng sáng kiến này trong quá trình đánh giá thường xuyên giáo viên
không so sánh học sinh này với học sinh khác. Lời nhận xét khơng tiêu cực, khơng
tổn thương học trị chính vì lẽ đó các em học sinh đã phát huy tinh thần độc lập suy
nghĩ, sáng tạo, hăng hái tham gia xây dựng bài, tự tin chia sẻ, hỗ trợ bạn tốt,…
Từng bước phụ huynh đã hiểu cách thức đánh giá và tham gia vào quá trình
đánh giá, cung cấp thơng tin phản hồi để giáo viên có biện pháp hỗ trợ trên lớp,
giúp các em vượt qua khó khăn, hoàn thiện nội dung học tập và cả những năng lực,
phẩm chất cần thiết.
Với những giải pháp nêu trong sáng kiến đã mang lại lợi ích cao về kết quả
giáo dục, mặc dù những giải pháp đó khơng mất nhiều kinh phí đầu tư. Chủ yếu là
giáo viên làm việc với tâm huyết nghề nghiệp, tận tụy với công việc, yêu thương
học sinh, luôn luôn tự học, tự rèn, tự bồi dưỡng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ là
sẽ thành công.
8. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu ( nếu có):

19


Số

Họ và

Ngày

Nơi cơng tác Chức


TT

tên

tháng

danh

năm sinh

Trình

Nội dung cơng

độ

việc hỗ trợ

chun
mơn

1

Nguyễn

24/11/1969 TH ............... Giáo

Thị Tuân


.......

viên

Cao

Quan

sát,

ghi

đẳng

chép, thu thập dữ
liệu để đánh giá
toàn

diện

học

sinh.
Phối hợp với phụ
huynh và hỗ trợ
học sinh tham gia
vào

quá


trình

đánh giá.
2

Nguyễn
Thị

27/8/1992

TH ............... Giáo

Đại

Quan

.......

học

chép, thu thập dữ

viên

sát,

ghi

liệu để đánh giá


Quỳnh

toàn

diện

học

sinh, hỗ trợ học
sinh tham gia vào
quá trình đánh
giá.
3

Nguyễn
Thị Mi

14/11/1991 TH ............... Giáo
.......

viên

Đại

Quan

sát,

ghi


học

chép, thu thập dữ
liệu để đánh giá
toàn

diện

học

sinh. Phối hợp
với phụ huynh và
hỗ trợ học sinh
20


tham gia vào quá
trình đánh giá.
4

Đặng

23/03/1977 TH ............... Giáo

Thị Kim

.......

viên


Đại

Quan

sát,

ghi

học

chép, thu thập dữ
liệu để đánh giá

Nhung

toàn

diện

học

sinh. Phối hợp
với phụ huynh và
hỗ trợ học sinh
tham gia vào quá
trình đánh giá.
5

Lê Huyền 02/9/1978


TH ............... TPT

Đại

Quan

sát,

ghi

Ngọc

.......

học

chép, thu thập dữ
liệu để đánh giá
toàn

diện

học

sinh. Phối hợp
với phụ huynh và
hỗ trợ học sinh
tham gia vào quá
trình đánh giá.
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và

hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.

......................, ngày 10 tháng 4 năm
2019
Người nộp đơn

......................
21


22



×