Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

khảo sát thực tế môi trường ở chùa hương mùa lễ hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.96 MB, 36 trang )

Đề án môn Kinh tế Du lịch
LỜI MỞ ĐẦU
Con người luôn luôn thích đi du lịch, được đi chơi đó đây trong một số ngày
nghỉ trong năm là một điều thú vị và là hình thức nghỉ ngơi tích cực, có văn hoá. Quan
hệ với tự nhiên của con người được thể hiện qua sự tiếp xúc trực tiếp với các cảnh đẹp
của tự nhiên, sự tiếp xúc này phải thể hiện rõ sự trân trọng, đối xử có đạo đức. Đứng
trước vẻ đẹp do thiên nhiên và con người tạo nên cần phải có quan hệ đối xử ở mức độ
văn hoá cao.
Một trong các nhiệm vụ chính của du lịch là dạy cho con người biết yêu mến và
kính trọng tự nhiên, hiểu biết các quy luật của tự nhiên, thật sự có ý thức bảo vệ. Vai
trò làm chủ tự nhiên luôn luôn làm giàu có thêm cho nền văn minh loài người. Nếu
chúng ta can thiệp tích cực vào các quá trình tự nhiên thì cần phải có sự cân nhắc kỹ
càng, kết hợp xem xét các quy luật tự nhiên để tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Xuất phát từ quan điểm đó, ngành du lịch cần phải trở thành một trong những ngôi
trường giáo dục con người, ngôi trường của thẩm mỹ và nhân đạo. Du lịch là một
ngành kinh tế sử dụng một phần lớn tài nguyên thiên nhiên, điều đó không có sự thay
đổi. Trong một số trường hợp du lịch có thể gây ra sự thay đổi tổng thể tự nhiên, sự
biến đổi này phần lớn là sự biến đổi xấu đi.
Quần thể chùa Hương là danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam đã được Bộ
VH – TT quy hoạch rộng 18.000 ha, chủ yếu nằm trên địa bàn xã Hương Sơn, trong địa
phận huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây. Xã gồm 6 thôn: Tiên Mai, Phú Yên, Hội Xá, Đục
Khê, Yến Vĩ và Hạ Đoàn. Chùa Hương không phải là một ngôi chùa mà là một hệ
thống chùa chiền, đền thờ và hang động nằm trong khu vực có những ngọn núi đá vôi
và rừng nhiệt đới. Lễ hội Chùa Hương được bắt đầu từ Tết Nguyên đán, kéo dài trong 3
tháng, thu hút 90% lượng khách du lịch đến với Chùa Hương trong cả năm. Những
ngày cao điểm, Chùa Hương đón tiếp trên 30.000 khách du lịch. Như vậy, trong một
thời gian ngắn, lượng khách du lịch ồ ạt đến với Chùa Hương đã gây một sức ép rất lớn
lên môi trường tự nhiên và môi trường xã hội tại đây.
Bài viết này của em đề cập đến tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay đang diễn
ra tại chùa Hương mùa lễ hội trong những năm gần đây. Bài viết được chia làm 3 phần
chính:


I. Lễ hội chùa Hương
II. Khảo sát thực tế môi trường ở chùa Hương mùa lễ hội
III. Một số biện pháp khắc phục
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
1
Đề án môn Kinh tế Du lịch
NỘI DUNG
I. Giới thiệu khái quát về lễ hội chùa Hương.
Hàng năm, mỗi độ xuân về hoa mơ nở trắng núi rừng Hương Sơn, hàng triệu phật
tử cùng tao nhân mặc khách khắp bốn phương lại nô nức trảy hội chùa Hương. Hành
trình về một miền đất Phật – nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu hành, để dâng lên
người một lời nguyện cầu, một nén tâm hương, hoặc thả hồn bay bổng hòa quyện cùng
với thiên nhiên ở một vùng rừng núi còn in dấu Phật.
Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3
âm lịch. Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch. Lễ hội
chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả
các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã
Hương Sơn.
Trong ngày lễ khai hội; khách du lịch và các tín đồ rất đông. Ngày hội có lễ dâng
hương tưởng nhớ vị tướng của vua Hùng do nhà chức trách địa phương đảm nhiệm.
Hôm ấy, dân Yến Vĩ tổ chức múa rồng ở sân đền Trình, bơi thuyền múa rồng trên dòng
suối Yến
Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức
ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng
đồ lễ lên bàn thờ. Trong lúc chạy đàn, hai vị tăng ni múa rất dẻo và đẹp mắt qua những
động tác ít thấy ở mọi nơi. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư
ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương
khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở chùa ngoài lại
thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Vòng là "chân
long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngổn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung

quanh với cái tên là "tì nữ tuý Hồng" của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết
Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
2
Đề án môn Kinh tế Du lịch
Như vậy, phần lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể tôn
giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Những tính
chất tôn giáo có phần bị tình yêu thiên nhiên, tinh yêu nam nữ, tình cảm cộng đồng…
tràn đầy chất thẩm mỹ vừa thanh cao, rất trần tục lấn đi. Trẩy hội chùa Hương vì vậy cả
tâm hồn và thể xác đều được đắm sâu vào trong mây ngàn cỏ nội. Ngày hội, làng tổ
chức rước thần từ đền ra đình. Cờ trống đi trước dàn nhạc bát âm kế theo, trai thanh gái
lịch phù kiệu, ông già bà cả thành tâm tiễn thần. Không khí ấy làm tâm linh mọi người
sảng khoái. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn
văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng
làm lễ tế rước các vị thần làng.
Sau lễ mở cửa chùa du khách trẩy hội trên ba tuyến đó đông dần, mà cao điểm nhất
là ngày 18 tháng hai âm lịch. Tương truyền là ngày khánh đản Đức Quan Thế Âm,
nghĩa là ngày sinh của bà Chúa Ba ở chùa Hương.
Trong suốt những ngày hội là sự nồng nhiệt của tuổi trẻ, là sự thành kính của các
bậc cao niên, là sự hoan hỷ mà nam phụ lão ai ai cũng có phần riêng của mình. Cả ở
những triền núi thấp cao, những rừng cây, rừng mơ… là những đoàn người trẩy hội. Kẻ
đi ra, người đi vào, kẻ đi lên, người đi xuống bồng bềnh vào những đám mây nhẹ. Họ
gặp nhau, quen hay không quen cũng vui vẻ chào nhau bằng một lời chào: "Nam mô a
di đà Phật" nhẹ nhàng. đằm thắm và ấm áp…
Du khách đến chùa Hương sẽ có dịp được chứng kiến và may mắn tham dự vào
không khí sinh hoạt văn hóa của lễ hội. Cảm nhận tinh thần thiên nhiên của ngày hội
lịch sử ấy để từ đó hồi âm về quá khứ của tổ tiên ở một làng quê ven chân núi.
Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét
độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãng cảnh lạc vào non tiên cõi
Phật. Chính vì vậy, nói đến chùa Hương là nghĩ đến con đò - một dạng của văn hóa

thuyền của cư dân Việt ngay từ thuở xa xưa. Và đến nay, ngày hội bơi thuyền ở chùa
Hương luôn tạo cảm hứng mãnh liệt cho người đi hội.
Rời con thuyền, giã từ sông nước, con người được hòa nhập vào núi vãn cảnh chùa
chiền và bắt đầu hành trình mới - hành trình leo núi. Leo núi chơi hang, chơi động lý
thú vui nước đông đảo mọi người tham gia và hưởng ứng. Vì vậy mà leo núi Hương
Sơn dẫu có mệt nhưng có cảnh có người và có không khí của ngày hội nên ai cũng cảm
thấy thích thú với cuộc chơi sông núi của mình. Cuộc leo núi ấy tạo ra trong con người
tâm lý kỳ vọng, muốn vươn lên đến cái đẹp. Và sự kỳ vọng cái đẹp hẳn sẽ làm cho con
người thêm phần sảng khoái tin yêu cuộc đời này hơn.
Có thể thấy, trẩy hội chùa Hương không chỉ dừng lại ở chốn Phật đài hay bầu trời -
cảnh bụt, mà trước hết là do ở sự tiếp xúc - hòa nhập huyền diệu giữa con người trước
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
3
Đề án môn Kinh tế Du lịch
thiên nhiên cao rộng. Đó là vẻ đẹp lung linh của sông nước, bao la của đất trời, sâu lắng
của núi rừng, huyền bí của hang động… Và dường như đất - trời, sông núi đẹp hơn nhờ
tài sáng tạo hình tượng - trí tưởng tượng này lòng nhân ái của con người.
Quan niệm lưỡng hợp biểu hiện ở thế đối ứng hai hiện tượng, hai phạm trù khác
nhau mà bên nhau, làm cho cuộc hành trình về nơi thờ Phật dù có lúc vất vả nhưng vẫn
đem lại sự cân bằng trong tâm thức và thể lực cho du khách.
Trẩy hội chùa Hương là hành động giải tỏa hòa hợp giữa thực và mơ, tiên và tục -
thực là nền tảng, mơ là uất vọng - trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà con người Việt
Nam chất phác, nhân ái thuở xưa cảm nhận hành động và trao truyền.
Nếu chỉ là cảnh đẹp không thôi, thiếu bàn tay con người tạo dựng và biết tới thì ý
nghĩa của cảnh đẹp ấy cũng có phần hạn chế. Tìm ra động Hương Tích, dựng thảo am
Thiên Trù là do ba vị hòa thượng, thời vua Lê Thánh Tông (1442-1497) kế tiếp gây
dựng. Sau đó vào nửa cuối thế kỷ XVII thời Lê Trung Hưng, hòa thượng Trần Đạo
Viên Quang Chân nhân đã chấn hưng cõi Phật Hương Sơn. Cho đến đầu thế kỷ XX,
toàn khu thắng cảnh Hương Sơn đã mọc dậy trên một trăm nóc chùa, trong đó có
những ngôi chùa được xây dựng có qui mô lớn, nghệ thuật tinh xảo, như chùa Tam

Bảo, đến nhà tổ ở Thiên Trù thành tòa điện Phật tráng lệ. Kể từ đó tới nay, công việc
kiến tạo chùa có lúc hưng, lúc thịnh nhưng chùa Hương không bị lãng quên trong tâm
trí nhân dân. Điều này phản ánh vai trò của đạo Phật trong việc gây dựng, phát triển
Hương Sơn thành một đại kỳ quan của đất nước
Nguồn tư liệu thứ hai đáng chú ý là Phật thoại. Theo cuốn Nam Hải Quán Thế Âm
- một truyện nôm ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII - XIX thì chùa Hương là nơi lưu dấu
tu hành của công chúa Diệu Thiện con vua Diệu Trang Vương nước Hưng Lâm. Dân
gian quen gọi công chúa Diệu Thiện là Bà Chúa Ba. Bà tu hành chín năm ở động
Hương Tích đắc đạo trở thành Đức Quán Thế Âm bồ tát, sau trở về diệt trừ cái ác, đáp
hiếu cha mẹ, phổ độ chúng sinh.
Phật thoại truyền miệng còn phong phú hơn. Các cụ bô lão làng Phú Yên (làng
quản lý tuyến Tuyết Sơn) thì kể: Khi mãnh hổ cõng Bà Chúa Ba đến núi Hương Sơn,
ban đầu bà tu hành ở chùa Hỏa Quang, nay là nền đình làng Phú Yên, sau đó bà lên núi
để tĩnh tâm, tu hành ở động Tuyết Sơn. ít lâu sau, bà ngược hướng Bắc tu ở động
Hương Tích.
Phật thoại do các cụ ở làng Yến Vĩ kể cho biết: khi Ngọc Hoàng sai thần linh hóa
hổ đến cứu bà Diệu Thiện (vì quyết chí tu hành, không tuân theo lời cha, nên bị vua cha
sai lính giết), mãnh hổ cõng bà vào núi Hương Sơn. Chỗ bà xuống đầu tiên là hang
Thánh Mẫu, còn gọi là am Phật Tích, tương truyền trong hang còn dấu một bàn chân bà
in trên đá. Am Phật Tích (dấu tích nhà Phật) có tên từ đó. ở đấy bà sang một vũng nước
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
4
Đề án môn Kinh tế Du lịch
trong hang bên cạnh tắm gội rửa nỗi oan ức bụi trần. Chỗ đó sau thành chùa Giải Oan,
có giếng Giải Oan (gọi là Thiên Nhiên Thanh Trì). Trước cửa hang có dòng suối gọi là
suối Giải Oan. Người xưa quan niệm ai oan ức điều gì, thành kính đến nơi đây lễ Phật,
uống nước ở giếng Giải Oan coi như đã giải được nỗi uẩn khúc trong lòng.
Vậy là trong tâm thức của nhân dân đều cho rằng bà Chúa Ba đã tu hành đắc đạo ở
núi rừng Hương Sơn. Câu chuyện về bà Chúa Ba là câu chuyện nhà Phật sáng tác dựa
trên các kinh điển đạo Phật. Nam Hải Quán Thế Âm bồ tát là biểu tượng đẹp đẽ của sự

chân tu giữ đạo cứu đời, trở thành hình tượng gần gũi, thân thương, cảm thông sâu sắc
nỗi bất hạnh của con người và dân chúng. Nguồn Phật thoại trên được dân gian hóa
đậm đà màu sắc địa phương nên có nhiều chi tiết sinh động, cụ thể hóa về sự nghiệp tu
hành của bà Chúa Ba.
Việc lưu truyền Phật thoại về bà chúa Ba và hang Phật Tích ở nơi thờ Tam Phủ đã
khẳng định sự thắng thua của đạo Phật ở đất Hương Sơn. Ở đó, Phật hiện thân trong tín
ngưỡng thờ đá mà người dâm quen gọi là bụt mọc. Sức mạnh huyền diệu của Phật pháp
đồng nhất với linh hồn thiêng liêng trong những cây đá, nhũ đá sẽ truyền cho các tín đồ
niềm tin, tăng thêm sức mạnh cho mỗi người.
Người xưa đã để lại tượng bà Nam Hải Quán Thế Âm bồ tát hiện đặt trên bệ thờ
Phật ở động Hương Tích. Theo bài ký: "Linh quang vô cực linh nghiêm bảo tượng ký"
khắc đá ở động Hương Tích thì từ trước ở động đã có một tòa tượng Phật bằng đồng,
đến năm Bính Ngọ gặp nạn binh hỏa, các khí vật bằng đồng ở đây đều mất. Tới năm
Quí Sửu (1793) đầu niên hiệu Cảnh Thịnh triều Tây Sơn dân chúng mộ Phật ở thành
Thăng Long đã quyên góp tiền của tạc tượng Quan Âm bằng đá và kính cẩn rước vào
động. Văn bia viết vào năm Gia Long thứ năm (1806). Đây là pho tượng khá đẹp, nét
chạm rắn rỏi mà thanh thoát. Hình tượng Phật Bà gần gũi với người lao động. Bà ngồi
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
5
Đề án môn Kinh tế Du lịch
ở tư thế một chân co, một chân buông, tay cầm viên ngọc minh châu, mắt khép hờ,
gương mặt đôn hậu như đang thiền định.
Ngoài ra, tuyến Hương Tích còn có năm pho tượng bằng đá trắng đặt trong động
chùa Tiên. Theo văn bia ở núi Tiên thì tượng được làm vào năm Đinh Mùi (1907), thể
hiện cảnh xum vầy của gia đình bà chúa Ba sau bao năm gian nan, đau khổ. Bà chúa Ba
ngồi giữa; phía sau là bố, mẹ; phía trước là hai chị. Chị cả Diệu Thanh cưỡi con sư tử
xanh, chị hai Diệu Âm cưỡi con voi trắng. Dựa vào Phật thoại bà chúa Ba, những
người thợ Kiện Khê (Hà Nam) đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật trên. Do vậy, đến
với Hương Sơn là cuộc hành hương vào nơi tu hành của bà chúa Ba. Vào Hương Sơn là
vào cõi Phật nên phải xử sự theo cách ứng xử của các tín đồ đạo Phật. Người đi kẻ lại,

gặp nhau chào hỏi, câu cửa miệng là Nam Mô A di đà Phật. Trong cách nói dân gian,
người ta bảo đi chùa Hương, ít ai nói đi du lịch Hương Sơn.
Đạo Phật đã ngấm vào lòng người, khẳng định vị trí ở Hương Sơn mà hệ quả là
được triển khai trong một không gian ba tuyến, với hệ thống chùa chiền, tượng đài có
nhà sư trụ trì, làm công việc truyền đạo và hành lễ, dẫn tới các sinh hoạt cũng mang
đậm phong cách nhà Phật. Người Việt phần nhiều theo đạo Phật thì việc hàng năm
đông người đi hội cũng là điều dễ hiểu, tạo nên sắc thái một mùa hội chùa (hội tôn
giáo) ở đất Hương Sơn.
Văn hóa dân gian thể hiện những nội dung dân tộc. Tư tưởng của một tộc người có
thể tìm thấy qua nền văn hóa đó.Nếu như ở một làng Việt, tam giáo Nho, Phật, Đạo
đồng hành phát triển thì ở Hương Sơn, đạo Nho biểu hiện tư tưởng của giai cấp thống
trị thời phong kiến mà cốt lõi là tam cương, ngũ thường không tìm được chỗ đứng. Đất
hội Hương Sơn không dễ gì chấp nhận tính gia trưởng, trọng nam khinh nữ, sự phân
chia đẳng cấp của Nho giáo, nên vắng bặt văn chỉ thờ Khổng Tử. Đạo giáo ngoại lai mà
biểu hiện của nó là thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Thái Thượng Lão Quân cũng
không được chuộng như ở một số nơi khác. Như bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương đã
cảm tác "Người quen cõi Phật chen chân xọc, Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm", bởi có
cảnh, có người có không khí hội nên ai cũng thích thú cuộc chơi núi của mình.
Cuộc leo núi ấy tạo ra trong con người tâm lý kỳ vọng, muốn vươn lên đến cái đỉnh
của cái đẹp (nơi ấy là hang động). Và, sự kỳ vọng cái đẹp hẳn sẽ làm con người thêm
phần sảng khoái tin yêu cuộc đời này.Và ở chốn bồng lai tiên cảnh này, con người lại
thể hiện khát vọng rất thực của cuộc đời, cầu mong sự sinh sôi nảy nở, ước mong cuộc
sống đầy đủ. Nhà nông cầu mong mình làm ruộng gạo vun lên thành đụn gạo trắng như
ngọc, người buôn bán mong sao có lẽ, có lời, tiền của như cây vàng, cây bạc. Ai muốn
con trai thì xoa đầu núi cậu, ai ước con gái thì xoa đầu núi cô. Còn người bệnh thì tin
rằng những giọt nước rớt tí tách từ bầu sữa tiên (vú mẹ) sẽ trợ thêm sức mạnh cho
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
6
Đề án môn Kinh tế Du lịch
người mau khỏe… Đó thực là những tín ngưỡng của người lao động. Nơi đây không có

chỗ cho những ai cầu vinh hoa danh vọng, chức tước, quyền hành.
Hương Sơn là đất Phật. Phần nhiều người đi chiêm ngưỡng thiên nhiên và lễ Phật
thường ưa phong thái tĩnh nên những gì thái quá đều bất cập. Vì thế, hội chùa nhộn
nhịp mà không náo nhiệt.
Thông thường các tín đồ đạo Phật vào chùa Hương đi thành đoàn. Sau lễ Phật, các
vãi thường ở một nơi và nhóm dậy hình thức sinh hoạt vui là hát chèo đò. Hát chèo đò
được thực hiện ở bất cứ chỗ nào, đông vui hơn cả là ở sân chùa, sân nhà tổ. Các vãi có
giọng hay đứng dậy làm động tác như chèo đò và hát những đoạn văn trên sáu dưới tám
liên quan đến tích nhà Phật gọi là kể hạnh. Các vãi già nghe hát, chắp tay thành kính và
xướng lại lời con hát như thể thức hát - hò. Đây là một sinh hoạt rất được các vãi hâm
mộ. Khi ấy, những đoàn tín đồ theo tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ đến lễ các Thánh
Mẫu ở các đền, điện thờ, như điện trước chùa Giải Oan, điện Cô gần động Tuyết Sơn,
đền Mắc Võng thờ bà Chúa Thượng Ngàn ở những nơi này thường có hầu bóng kèm
theo múa. Rồi hát văn. Thầy cung văn hát có trống chầu, bộ nhạc cụ đàn, sáo, nhị, hồ
dân tộc phụ trợ. Lời hát văn nhiều chỗ khó hiểu nhưng nhịp điệu hát lại luyến láy, gợi
cảm, ăn nhập với nhạc cụ dân tộc. Tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ và các lễ thức kèm
theo là một vấn đề lý thú đang được giới nghiên cứu văn hóa dân gian quan tâm luận
giải.
II. Khảo sát thực tế môi trường ở chùa Hương mùa lễ hội.
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật
thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại,
phát triển của con người và thiên nhiên.
Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự
sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước,
ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung
quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển.
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại:
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học,
tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người.
Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước Môi

trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi,
cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là
nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho
cuộc sống con người thêm phong phú
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
7
Đề án môn Kinh tế Du lịch
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ,
thể chế, cam kết, quy định, ước định ở các cấp khác nhau như: Liên Hợp Quốc, Hiệp
hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ
chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể, Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con
người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thxuận lợi cho sự phát
triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác.
Môi trường có các chức năng cơ bản sau:
- Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật.
- Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản
xuất của con người.
- Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống
và hoạt động sản xuất của mình.
- Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và
sinh vật trên trái đất.
- Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người.
Con người luôn cần một khoảng không gian dành cho nhà ở, sản xuất lương thực
và tái tạo môi trường. Con người có thể gia tăng không gian sống cần thiết cho mình
bằng việc khai thác và chuyển đổi chức năng sử dụng của các loại không gian khác như
khai hoang, phá rừng, cải tạo các vùng đất và nước mới. Việc khai thác quá mức không
gian và các dạng tài nguyên thiên nhiên có thể làm cho chất lượng không gian sống mất
đi khả năng tự phục hồi.
1.Tác động của môi trường đến du lịch
Quần thể Hương Sơn được coi là một đại kỳ

quan của đất nước. Tổng thể thắng cảnh chùa Hương
là biểu hiện của sự hòa hợp tự nhiên giữa tôn giáo và
tín ngưỡng dân gian. Tuy du khách đến chùa Hương
có nhiều mục đích khác nhau nhưng mục đích tích
cực nhất là đến chùa Hương đồng nghĩa đến với cái
đẹp. Điều đó đã phản ánh sự khao khát của con ngưòi
hướng tới cái đẹp để tự hoàn thiện bản thân mình.
Yếu tố này tạo nên sắc thái văn hóa du lịch của chùa
Hương. Trước hết phải ghi nhận chùa Hương là một
danh thắng nổi tiếng. Tạo hóa khéo bày đặt ở vùng này những dãy núi đá gồ ghề bên
cạnh sự mềm mại của các dòng suối. Màu sắc xám đanh, già dặn, dãi dầu của đá trơ ra
bên màu xanh non tơ của cây lá. Quần thể núi non tạo ra những dáng hình kỳ thú. Dáng
núi tựa hai con rồng đá tranh hòn Ngọc ốc ở cánh đồng Đục Khê. Núi nổi trên cánh
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
8
Đề án môn Kinh tế Du lịch
đồng nước ở gần đền Trình tạo thành hình bốn con vật (rồng, sư tử, rùa, phượng) linh
thiêng trong tâm thức người Việt. Lại có núi ông Sư và Vãi, núi Mâm Xôi, núi Con Gà.
Tuyến Tuyết Sơn có dãy núi như chiếc thuyền rồng, như đầu sư tử.
Sự hấp dẫn của Hương Sơn không chỉ ở bề ngoài, mà còn ở bên trong. Đó là vẻ
đẹp sâu lắng, giàu triết lý dân gian của các hang động. Du khách đến chùa Hương có
cái thú ngồi thuyền chiêm ngưỡng bầu trời, cảnh bụt, khoái cảm nhìn sông ngắm núi
như thấy một góc của non sông đất nước vừa thơ, vừa thực thu gọn trong tầm mắt và
cũng ảo huyền như lạc vào cõi bồng lai tiên cảnh. Sau đấy là thú vui trèo núi, thật dân
dã trong tay cây gậy lụi, cứ theo con đường núi lấm tấm hoa dại, lây lan thơm gợi mùi
hoài cổ, lạ lẫm một dáng cây, thoảng nghe tiếng chim rừng, uống một bát chè lão mai,
ăn một quả mơ đặc sản của Hương Sơn, thật như ngỡ mình đang thoát thực để tận
hưởng đến viên mãn cái đẹp của thiên nhiên đất nước, để thêm yêu cuộc đời.
Hang động ở Hương Sơn là yếu tố cấu thành quan trọng để quần thể Hương Sơn
trở thành danh thắng nổi tiếng. Đây là một hình thức bắt nguồn từ thời kỳ tối cổ của

loài người, dần dần hình thức này hội nhập với tôn giáo thích ứng để biến thành một
miền thánh địa. Hiện nay cả người Kinh và người miền núi cũng còn sử dụng nhiều
hang làm chùa - như nhiều chùa Mường, rồi chùa Bà Đen (Tây Ninh), chùa Non Nước
(Đà Nẵng) Cả ba tuyến du lịch (Hương Tích, Long Vân, Tuyết Sơn) đều khai thác
các vị trí động đá để thu hút khách. Ven suối có hang Sơn Thủy Hữu Tình, hang Long
Vân, hang Cá. Trên núi có hang Hồng Sơn, hang Sũng Sàm, hang Trú Quân, có động
Tiên, động Tuyết Sơn, động Hương Tích. ở Hương Sơn thường chùa đi liền với hang,
hay gọi đúng tên là chùa hang (chùa ở trong hang) như chùa Tuyết Sơn, chùa Cá, chùa
Cây Khế, chùa Hinh Bồng, chùa Tiên, chùa Giải Oan Trong tất cả các hang động, nổi
bật hơn cả là động Hương Tích và động Tuyết Sơn.
Chù
a Hinh
Bồng
Chùa Giải
Oan
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
9
Đề án môn Kinh tế Du lịch
Động Hương Tích
Động Hương Tích đã to lại rộng. Người xưa coi động Hương Tích là miệng con
rồng. Theo quan niệm dân gian, đã đi chùa Hương mà chưa tới động Hương Tích coi
như chưa tới chùa Hương. Du khách đến Hương Tích lặng người chiêm ngưỡng những
nhũ đá - những tác phẩm tuyệt mỹ mà tạo hóa phải thầm lặng hàng triệu năm bồi hoàn
mới thành khối, thành hình lạ lùng đến thế. Bởi vậy vào năm Canh Dần (1770) Tĩnh Đô
vương Trịnh Sâm, người có tài văn chương tuần thú qua vùng Hương Sơn, đề thơ ở
động chùa Tiên, sau lên thăm động Hương Tích đã đặt bút cho khắc năm chữ: "Nam
thiên đệ nhất động" (động đẹp nhất trời Nam). Điều đó, chứng tỏ không phải ngày hôm
nay mà cách đây hơn hai thế kỷ non nước Hương Sơn đã nổi tiếng.
Sau động Hương Tích là động Tuyết Sơn. Động này Phan Huy Chú đã từng giới
thiệu trong sách Lịch triều hiến chương loại chí: "Tuyết Sơn ở huyện Hoài An, có

nhiều lớp núi cao, trong núi có động rất đẹp. Trong động có nhũ đá nhủ xuống, trùng
trập hiện ra, coi như vảy rồng. Trên ngọn núi có tượng phật bằng đá, lại có những cây
thông mọc từng hàng, coi như một dãy tán. Cảnh trí xanh tốt, âm u". Chỗ nhũ đá như ổ
rồng được đặt tên là động Ngọc Long. Chúa Trịnh Sâm đã thăm thú nơi này, cảm tác
hai bài thơ (một Hán, một Nôm) tạc đề ở cửa động. Chùa Tuyết được xác lập vào năm
Giáp Tuất (1694) do bà Quận phu nhân Hoàng Ngọc Hương bỏ tiền ra tu chỉnh. Bia
Chính Hòa năm 24 (1703) ở chùa Tuyết có ghi về việc này
Không phải ngẫu nhiên các bậc tao nhân mặc khách của nhiều thời đã tìm đến
Hương Sơn và để lại nhiều bài thơ hay, lắng sâu trong trái tim bạn đọc, sống mãi với
thời gian, góp tiếng nói đưa Hương Sơn trở thành danh thắng không của một vùng mà
của cả nước. Cũng không phải ngẫu nhiên, ca dao - tâm tư tình cảm của người lao động
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
10
Đề án môn Kinh tế Du lịch
- được sưu tầm ở Hương Sơn, lại dành nhiều câu ca ngợi vẻ đẹp của Hương Sơn như
thế
Hương Sơn không chỉ hấp dẫn du khách ở vẻ đẹp thiên tạo, nơi đây còn giữ lại dấu
tích văn hóa của nhiều giai đoạn lịch sử. Đó là những sản phẩm vô giá kết tinh tài năng
trí tuệ, tâm tư tình cảm của nhân dân lao động, phản ánh tư tưởng của các thời đại.
Cho tới hôm nay không kể những tầng văn hóa (ốc, đá, xương thú) của người
nguyên thủy phát hiện ở hang Sũng Sàm (tuyến Long Vân) có niên đại trên một vạn
năm mang truyền thống đá cuội, gạch nối văn hóa
Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn thì cổ vật ghi niên
đại sớm nhất ở Hương Sơn là quả chuông đồng có
tên là "Bảo Đài Hương Tích Sơn hồng chung".
Chuông cao 1m24, đường kính đáy 0,63m, thân
chuông có sáu vú lồi chia ra ở bốn góc, hai góc đối
xứng, mỗi góc hai vú. Xung quanh mỗi vú là những
chấm tròn tạo nên sự khác biệt so với chuông cùng
thời. Niên đại ghi trên chuông là thời hậu Lê. Dựa

vào tên tự, địa chỉ những người cúng tiến chạm
khắc trên chuông được biết ở thời ấy danh thắng
chùa Hương đã lan tỏa khắp xứ Bắc Kỳ nên nhiều
nội cung, phó tướng, đề đốc, quận phu nhân và
các tín thí ở đồng quê đã góp công của đúc nên chiếc chuông này. Đây là quả chuông
khá đẹp hiện treo ở trong động Hương Tích có niên đại Cảnh Hưng 27 tức năm 1766.
Đáng lưu ý là quả chuông đúc thời Tây Sơn niên hiệu Cảnh Thịnh nhị niên (1793)
trước treo trong động Hương Tích, nay treo ở nhà tổ chùa Thiên Trù. Văn khắc trên
chuông cho biết công lao của nhà sư tự Hải Viên đã đi phổ khuyết thập phương đúc nên
quả chuông này. Chuông cao 1m02, đường kính đáy là 0,56m. Thân chuông có gờ chia
làm bốn múi. Bốn góc nổi bốn vú chuông, xung quanh vú là hạt tròn trông như hình
bông cúc. Chuông chùa như khí cụ tụ linh khí núi sông và phát tiếng ngân vang vọng
như những đợt mưa thấm nhuần vào chúng sinh.
Ngoài giá trị của tượng Phật như đã nói ở phần trên thì ở chùa Hương cổ vật bằng
đá khá nhiều. Điển hình là bia đá. Loạt bia dẹt, bia trụ (tứ trụ, lục trụ ), bia ma nhai
(bia mài khắc trên vách đá) theo thống kế sơ bộ có khoảng 60 đơn vị. Trong đó bia có
niên đại sớm nhất là bia Thiên Trù tự bi ký hiện dựng ở nhà bia trên đường từ bến
Thiên Trù vào chùa. Bia có niên đại Chính Hòa thứ bảy (1686). Nhờ bia này người đời
sau biết được thời ấy hòa thượng Viên Quang "một lòng thanh khiết, tinh thông tam
bảo, trong tu sửa động báu Hương Tích, ngoài mở Phật cảnh Thiên Trù".
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
11
Đề án môn Kinh tế Du lịch
Đây là tấm bia đá lớn, diềm bia được người nghệ sĩ chạm đẽo công phu, các nét
chạm bay bướm mà khỏe khoắn đưa được hơi thở của cuộc sống dân dã lên mặt bia qua
hình tượng các con vật như voi, cua, trâu, vịt rất có giá trị phản ánh tư tưởng của
đương thời. Ít nhiều có giá trị nghệ thuật là bệ đá đặt trước điện thờ Phật ở động Hương
Tích thuộc loại hình nghệ thuật thời Lê - Trịnh do hai vương phủ Nguyễn Hữu Phước -
Lê Trung Vũ.
Do đó, tuy du khách đến chùa Hương có nhiều mục đích khác nhau nhưng mục

đích tích cực nhất là đến chùa Hương đồng nghĩa đến với cái thiện, cái đẹp, phản ánh
sự khao khát của con người hướng tới ước vọng tự hoàn thiện bản thân mình. Yếu tố
này tạo nên sắc thái văn hóa du lịch của hội chùa Hương.
2. Tác động của du lịch đến môi trường.
Mặt tích cực:
+ Bảo tồn thiên nhiên: Du lịch góp phần khẳng định giá trị và góp phần vào việc bảo
tồn các diện tích tự nhiên quan trọng, phát triển các Khu Bảo tồn và Vườn Quốc gia.
+ Tăng cường chất lượng môi trường: Du lịch có thể cung cấp những sáng kiến cho
việc làm sạch môi trường thông qua kiểm soát chất lượng không khí, nước, đất, ô
nhiễm tiếng ồn, rác thải và các vấn đề môi trường khác thông qua các chương trình quy
hoạch cảnh quan, thiết kế xây dựng và duy tu bảo dưỡng các công trình kiến trúc.
+ Đề cao môi trường: Việc phát triển các cơ sở du lịch được thiết kế tốt có thể đề cao
giá trị các cảnh quan.
+ Cải thiện hạ tầng cơ sở: Các cơ sở hạ tầng của địa phương như sân bay, đường sá,
hệ thống cấp thoát nước, xử lý chất thải, thông tin liên lạc có thể được cải thiện thông
qua hoạt động du lịch.
+ Tăng cường hiểu biết về môi trường của cộng đồng địa phương thông qua việc trao
đổi và học tập với du khách.
Mặt tiêu cực:
+ Ảnh hưởng tới nhu cầu và chất lượng nước: Du lịch là ngành công nghiệp tiêu thụ
nước nhiều, thậm chí tiêu hao nguồn nước sinh hoạt hơn cả nhu cầu nước sinh hoạt của
địa phương.
+ Nước thải: Nếu như không có hệ thống thu gom nước thải cho khách sạn, nhà hàng
thì nước thải sẽ ngấm xuống bồn nước ngầm hoặc các thuỷ vực lân cận (sông, hồ,
biển), làm lan truyền nhiều loại dịch bệnh như giun sán, đường ruột, bệnh ngoài da,
bệnh mắt hoặc làm ô nhiễm các thuỷ vực gây hại cho cảnh quan và nuôi trồng thủy sản.
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
12
Đề án môn Kinh tế Du lịch
+ Rác thải: Vứt rác thải bừa bãi là vấn đề chung của mọi khu du lịch. Đây là nguyên

nhân gây mất cảnh quan, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và nảy sinh
xung đột xã hội.
+ Ô nhiễm không khí: Tuy được coi là ngành "công nghiệp không khói", nhưng du
lịch có thể gây ô nhiễm khí thông qua phát xả khí thải động cơ xe máy và tàu thuyền,
đặc biệt là ở các trọng điểm và trục giao thông chính, gây hại cho cây cối, động vật
hoang dại và các công trình xây dựng bằng đá vôi và bê tông.
+ Năng lượng: Tiêu thụ năng lượng trong khu du lịch thường không hiệu quả và lãng
phí.
+ Ô nhiễm tiếng ồn: Tiếng ồn từ các phương tiện giao thông và du khách có thể gây
phiền hà cho cư dân địa phương và các du khách khác kể cả động vật hoang dại.
+ Ô nhiễm phong cảnh: Ô nhiễm phong cảnh có thể được gây ra do khách sạn nhà
hàng có kiến trúc xấu xí thô kệch, vật liệu ốp lát không phù hợp, bố trí các dịch vụ
thiếu khoa học, sử dụng quá nhiều phương tiện quảng cáo nhất là các phương tiện xấu
xí, dây điện, cột điện tràn lan, bảo dưỡng kém đối với các công trình xây dựng và cảnh
quan. Phát triển du lịch hỗn độn, pha tạp, lộn xộn là một trong những hoạt động gây
suy thoái môi trường tệ hại nhất.
+ Làm nhiễu loạn sinh thái: Việc phát triển hoạt động du lịch thiếu kiểm soát có thể
tác động lên đất (xói mòn, trượt lở), làm biến động các nơi cư trú, đe dọa các loài động
thực vật hoang dại (tiếng ồn, săn bắt, cung ứng thịt thú rừng, thú nhồi bông, côn
trùng ). Xây dựng đường giao thông và khu cắm trại gây cản trở động vật hoang dại di
chuyển tìm mồi, kết đôi hoặc sinh sản, phá hoại rạn san hô do khai thác mẫu vật, cá
cảnh hoặc neo đậu tàu thuyền
3. Thực tế môi trường ở chùa Hương mùa lễ hội.
a/ Những kết quả đã đạt được.
Hàng năm, lượng khách hành hương đổ về các khu di tích, lễ hội, danh lam thắng
cảnh tăng cao. Như vậy, khâu tổ chức và quản lý, đặc biệt là công tác lo bảo đảm an
ninh, trật tự, giữ gìn vệ sinh môi trường và bảo vệ cảnh quan cho các khu di tích, thắng
cảnh càng đè nặng lên vai các ban quản lý, ban tổ chức lễ hội tại nhiều địa phương.
Phát triển du lịch- dịch vụ chú ý tới hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề
quan trọng là đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Qua đó,

đảm bảo sự an toàn cho khách khi đến tham quan chùa Hương. Kết hợp phát triển du
lịch đồng nghĩa là đi kèm với bảo vệ cảnh quan di tích lịch sử, bảo vệ môi trường sinh
thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa. Vì vậy, mỗi năm xã phối hợp với Sở Du lịch
mở từ 2-3 lớp tập huấn về Luật Bảo vệ di sản văn hóa cho cán bộ và nhân dân trong xã,
tập huấn về nghiệp vụ du lịch, thái độ đón tiếp phục vụ khách trong mùa lễ hội. Phát
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
13
Đề án môn Kinh tế Du lịch
triển du lịch- dịch vụ phải toàn diện, lâu bền và đạt hiệu quả kinh tế cao, theo hướng
khai thác những tiềm năng sẵn có của địa phương.
Để phục vụ tốt hơn trong mùa hội, năm 2007 tỉnh Hà Tây đã đầu tư gần 90 tỷ đồng
vào hàng loạt công trình nâng cấp, cơi nới, xây mới cầu, cống, các tuyến đường và
trong khu vực thắng cảnh. Trong đó có hơn 63 tỷ cho các dự án bên ngoài khu du lịch
bao gồm: Khánh thành, thông xe cầu Tế Tiêu, nâng cấp và mở rộng đường và kè Đốc
Tín, xây dựng mới cầu Hội Xá, đổ nhựa apphan cầu Đục Khê… đặc biệt là đoạn từ
chùa Thiên Trù lên động Hương Tích, đoạn từ Dốc Tín đến cầu Hội, đường từ bến Trò
đến nhà Bia – cổng Nam Thiên Môn đều được mở rộng thêm, khách hành hương trảy
hội chùa Hương sẽ không còn lo ngại vì cảnh đùn đẩy, chen lấn .Cùng với đó là 16 tỷ
306 triệu đồng đầu tư cho các công trình nằm trong khu du lịch bao gồm: Xây bờ trái
bến Yến, trồng cây tạo môi trường xanh, sạch, đẹp; san lấp, quy hoạch mặt bằng cho
các hoạt động dịch vụ, xây dựng các trạm kiểm soát vé thắng cảnh, các khu vệ sinh
công cộng; cải tạo một số tuyến đường lên các ga cáp treo, lên các chùa, nhà khách…
Bên cạnh đó, dự án cải tạo suối Yến đã được ngành Du lịch đầu tư 35,1 tỷ đồng để mở
rộng; các tuyến lẻ như: Long Vân, Tuyết Sơn, Thanh Sơn -Hương Đài đã được nạo vét
và mở rộng lòng suối để du khách đi lại được thuận lợi và tăng thêm vẻ đẹp cho dòng
suối Yến.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức về du lịch, giao thông, an
ninh trật tự… cho nhân dân khu vực cũng đã được các ngành phối hợp với địa phương
tổ chức tốt. Phương án bảo vệ An ninh chính trị, an toàn xã hội Lễ hội Chùa Hương
cũng đã được Sở Công an phê duyệt…

Mùa lễ hội Chùa Hương năm 2007 có nhiều thay đổi sau những đợt trùng tu của
khu di tích: Con đường từ nhà Bia tới cổng Nam Thiên Môn đã được hoàn thiện rất
đẹp. Nhiều động, chùa trong cả quần thể được trùng tu, cải tạo. Các lòng động và sân
cũng được xây kè chắc chắn. Các pho tượng Phật Thích Ca, Bồ Tát, Tổ sư được tu lý
theo đúng phương pháp cổ truyền công phu. Quan trọng nhất là hệ thống lưới điện đã
vào đến lòng động Hương Tích, thay thế cho điện phát máy , đảm bảo đủ ánh sáng cho
du khách hành lễ. Phần lớn kinh phí dành để tôn tạo, tu sửa trùng tu chùa Hương đều
do sự đóng góp công đức của các Phật tử và nhân dân địa phương
Để nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo an toàn cho du khách trẩy hội, hệ
thống cáp treo đã được Công ty cổ phần Du lịch vận tải Hương Sơn đầu tư 1.500 tỷ
đồng hoàn thành xong việc bảo trì và nâng cấp cơ sở hạ tầng để phục vụ tốt du khách.
Để phục vụ khách hành hương, hệ thống cáp treo Hương Tích hoạt động từ 4 giờ 30
đến 20 giờ. Đặc biệt, cầu Vân Đình (Ứng Hòa) nằm trên quốc lộ 21B (tuyến đường
chính từ TP Hà Đông đi Chùa Hương) đã cơ bản hoàn thiện và thông cầu trước Tết
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
14
Đề án môn Kinh tế Du lịch
Mậu Tý, đảm bảo sự thông thoáng cho đi lại trên tuyến
đường này.Hệ thống đường bộ từ khu vực chùa Thiên
Trù ra vào các hang động trong quần thể di tích thắng
cảnh Hương Sơn cũng được đầu tư thêm 10 tỷ đồng để
mở rộng, giúp du khách đi lại thuận tiện. Tuy nhiên,
Ban tổ chức cũng thông báo nhiều dịch vụ trong mùa
lễ hội năm nay tăng giá từ 10 đến 50% như vé cáp treo,
vé thắng cảnh, vé đò đến các loại đồ ăn thức uống, nhà
trọ.
Để đáp ứng nhu cầu đi lại của du khách, năm 2008 Ban Tổ chức lễ hội đã cấp thêm
thuyền, đò chở khách. Có khoảng 3600 đò lớn, nhỏ được đánh số để phục vụ du khách
trên suối Yến đều được đăng kiểm và gắn biển số, quy định tải trọng, 100% người lái
đò đều được tập huấn để đảm bảo an toàn và phục vụ tốt du khách; hành lang ATGT

khu vực xã Hương Sơn đã cơ bản thông thoáng.
Đặc biệt Ban Tổ chức Lễ hội có những qui định nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh
thực phẩm trong mùa lễ hội, nên nhìn chung du khách cũng yên tâm hơn. Bên cạnh đó,
xác định việc giữ gìn ANTT trong lễ hội, tạo sự bình yên cho du khách là vấn đề quan
trọng hàng đầu, huyện đã phối hợp chặt chẽ với Công an tỉnh, chỉ đạo Công an huyện
xây dựng kế hoạch phục vụ lễ hội khá kỹ lưỡng. Công an huyện Mỹ Đức đã thành lập
tổ công tác vào nắm tình hình ở chùa Hương, phối hợp với xã Hương Sơn tuyên truyền,
vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật và làm tốt công tác ANTT
phục vụ du khách, vừa rà soát, truy quét các đối tượng trộm cắp, móc túi. Công tác đảm
bảo an toàn giao thông cho du khách trong khu vực cũng được tăng cường. Huyện đã
thông báo cấm các loại xe công nông, xe lam không được phép lưu hành trong khu
vực lễ hội và đồng ý cho phép xã Hương Sơn cho một DN có xe chạy điện vào phục vụ
du khách từ Đục Khê đến bến Yến. DN kinh doanh và vận hành cáp treo cũng đầu tư
thêm 12 ca bin nâng tổng số ca bin cáp treo lên 33 chiếc, phục vụ du khách nhanh
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
15
Đề án môn Kinh tế Du lịch
chóng, thuận lợi. Để tránh lộn xộn trong khu vực dịch vụ hàng quán, huyện đã quy
hoạch các điểm dịch vụ hàng quán với phương châm không để ảnh hưởng đến cảnh
quan môi trường và không lấn chiếm hành lang trên tuyến. Hiện nay, Ban Quản lý di
tích và thắng cảnh Hương Sơn đã ký hợp đồng với Công ty Quản lý môi trường khu
vực Hương Sơn thường xuyên thu gom rác thải trên các tuyến và lòng suối, đồng thời
tổ chức chôn lấp rác vào các điểm đã quy hoạch theo quy định.
Đối với nhiều phật tử, về với chùa Hương là về với cõi Phật để cầu cho quốc thái
dân an, cầu cho một năm an lành, hạnh phúc, an khang thịnh vượng cho nhà nhà, người
người. Tới chùa Hương, du khách được vãn cảnh chùa, được tham quan những hang
động, những thắng cảnh, tạm quên đi bao lo toan để tâm hồn được thanh thản nơi cõi
phật.
So với mùa lễ hội năm 2007, mùa lễ hội năm 2008 được chuẩn bị kỹ lưỡng và
ngay từ tháng 10-2007, UBND huyện Mỹ Đức đã thành lập xong Ban Chỉ đạo, BTC lễ

hội chùa Hương năm 2008 với đầy đủ các tiểu ban, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến
công tác đầu tư cơ sở hạ tầng và đảm bảo an ninh. UBND huyện đã cấp kinh phí hơn 7
tỷ đồng nâng cấp, mở rộng bến Trình (120m), đường lên xuống từ Thiên Trù lên động
Hương Tích (915m), xây dựng 3 công trình vệ sinh tự hoại, 3 trạm công an trên lộ trình
hành hương Ban quản lý đầu tư chùa Hương cũng đang hoàn thành tuyến đường từ
bến Trò lên sân Thiên Trù.
Tuy nhiên, vấn đề khiến BTC băn khoăn và là thực trạng tái diễn hàng năm, đó là
công tác đảm bảo ANTT, chống mê tín dị đoan, vệ sinh môi trường. Ông Lê Văn
Sang, Phó Chủ tịch UBND huyện Mỹ Đức, Trưởng BTC Lễ hội chùa Hương năm 2008
cho biết: Chúng tôi đã phối hợp với CA tỉnh, CAH Mỹ Đức lên phương án đảm bảo
tuyệt đối an toàn ANTT, bố trí 100 cán bộ cảnh sát ứng trực 24/24h trên tất cả các
tuyến nhằm tạo mọi thuận lợi cho du khách thập phương, tiến tới giảm thiểu và triệt
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
16
Đề án môn Kinh tế Du lịch
tiêu tình trạng kẻ gian móc túi, gây lộn xộn trong những ngày cao điểm lễ hội. Bên
cạnh đó, hệ thống hàng quán dịch vụ được bố trí ngăn nắp, thông thoáng hơn. Quy
hoạch dịch vụ trong khoảng sân từ nhà bia đến Nam Thiên Môn được mở rộng ra 20m,
thay vì 10m để tăng hiệu quả diện tích sử dụng. Dọc tuyến Thiên Trù lên động Hương
Tích,chúng tôi bắt buộc hạn chế dịch vụ hàng quán, kiên quyết thực hiện đúng mốc
giới, đặc biệt trước cổng động Hương Tích sẽ không bố trí hàng quán, tạo điều kiện cho
du khách ra vào thuận lợi.
Một vấn đề khác thường xuyên xảy ra tại các lễ hội mùa xuân là công tác vệ sinh
môi trường. Công tác giữ gìn ANTT và bảo vệ, làm sạch môi trường Chùa Hương sẽ
luôn được coi trọng nhất: Lực lượng bảo vệ địa phương được tăng cường. Mỗi chủ đò
đều phải có biển ghi tên, số hiệu đeo trước ngực. Trong trường hợp chủ đò có hành vi
bắt chẹt khách thì khách chỉ cần nhớ tên, biển hiệu, báo với bất cứ ai trong BTC thì chủ
đò đó sẽ bị xử lý nghiêm và phải bồi thường cho khách đi đò. Để giữ sạch môi trường
dòng suối Yến trên mỗi thuyền đều có 1 sọt rác, không để tình trạng vứt rác bừa bãi
xuống dòng suối. Mọi hành vi đổ rác xuống suối Yến của các cửa hàng ven bờ đều sẽ

bị xử phạt nặng. Đò chở khách nào mà không có sọt rác để khách phải vứt rác xuống
nước sẽ bị phạt 50 ngàn đồng/lần
Để phục vụ mùa lễ hội chùa Hương năm 2008, suối Yến đã được nạo vét sạch sẽ;
đội công nhân thu gom được bố trí suốt dọc các tuyến để thu gom rác thải nhanh và
sạch hơn. Nhưng theo BTC, hoạt động tuyên truyền, nâng cao ý thức của khách hành
hương cần được đẩy mạnh và cần có chế tài xử phạt nặng nếu du khách cố tình vứt rác,
vi phạm di tích. Suốt các tuyến hành hương, các bảng, biển tuyên truyền thực hiện nếp
sống văn minh, lịch sự đối với du khách và nhân dân địa phương đã được lắp đặt ở các
vị trí bắt mắt, hy vọng khách thập phương sẽ ý thức hơn trong việc bảo vệ, gìn giữ di
tích, sạch đẹp.
Tất nhiên, với sự đầu tư và chuẩn bị như thế, cộng với việc giá cả tăng, chắc chắn,
mùa lễ hội năm 2008, giá vé thắng cảnh, phí đò ở các tuyến trong khu di tích, thắng
cảnh Hương Sơn sẽ tăng. Theo quyết định của UBND tỉnh Hà Tây về việc điều chỉnh,
sửa đổi, bổ sung, ban hành thu và quản lý sử dụng một số loại phí trên địa bàn tỉnh,
trong đó có danh lam thắng cảnh chùa Hương, sẽ áp dụng mức giá vé cả với du khách
trong và ngoài nước: Đối với người lớn, điều chỉnh từ 22.500 đồng/lần/người lên mức
29.500 đồng/lần/người; đối với trẻ em, điều chỉnh từ mức 11.250 đồng/lần/người lên
mức 14.500 đồng/lần/người.
Mức quy định trên chưa bao gồm phí bảo hiểm 500 đồng/lần/người. Tuyến Hương
Tích, điều chỉnh từ mức 20.000 đồng/người/2 lượt (vào, ra) lên mức 25.000
đồng/người/2 lượt (vào, ra); tuyến đi Long Vân điều chỉnh từ mức 10.000 đồng/người/2
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
17
Đề án môn Kinh tế Du lịch
lượt (vào, ra) lên mức 15.000 đồng/người/2 lượt (vào, ra); tuyến Tuyết Sơn điều chỉnh
từ mức 10.000 đồng/người/2 lượt (vào, ra) lên mức 15.000 đồng/người/2 lượt (vào, ra).
Điều này đồng nghĩa với công tác quản lý, tổ chức, chống thất thoát vé phải đặt lên
hàng đầu. Bởi tăng giá vé thắng cảnh, phí đò song chất lượng tổ chức, quản lý không
tốt hơn, thì thành công của lễ hội dài nhất nước luôn tiếp đón khoảng 1 triệu du khách
hành hương mỗi năm, sẽ khó trọn vẹn.

Mùa lễ hội chùa Hương 2008 đã ghi nhận những nét mới từ công tác tổ chức của
BTC lễ hội chùa Hương như: quy hoạch lại các điểm dịch vụ, hàng quán và đầu tư kinh
phí để phục vụ sửa chữa cơ sở hạ tầng. Tuyến đường lên động chính đã được mở rộng
thêm, những đoạn đường cao, nguy hiểm được đổ bê tông có lan can bảo vệ. Dọc
đường vào suối Yến cứ 500 mét lại có một biển báo, nhắc nhở du khách bảo vệ môi
trường, niêm yết giá vé và cảnh báo du khách cẩn thận. Công tác vệ sinh môi trường đã
được tăng cường, đặc biệt an ninh mùa lễ hội cũng được thắt chặt hơn
Các biển
báo nhắc
nhở dọc bờ
suối Yến
Để nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ du khách trong 3 tháng diễn ra lễ hội, xã
thường xuyên phối hợp với Sở GT-VT tập huấn về Luật Giao thông đường thủy cho lái
đò; phát triển rộng mạng lưới bưu chính viễn thông. Để dịch vụ du lịch phát triển, xã
luôn tạo mọi điều kiện và khuyến khích các hộ kinh doanh các mặt hàng dịch vụ, tăng
cường chỉ đạo thúc đẩy phát triển các ngành nghề để tận dụng số lao động nhàn rỗi, tập
trung phát triển các loại đặc sản và mang dấu ấn đặc trưng của Hương Sơn như: Sản
xuất rượu mơ Hương Tích, rau sắng chùa Hương, bánh củ mài thương hiệu Chú Béo
Ngoài ra, xã khuyến khích nhân dân đa dạng hóa các loại hình dịch vụ như: Kinh doanh
các loại quần áo trang phục của các dân tộc trang trí với nhiều họa tiết khác nhau, các
đồ chơi dân gian để du khách có thể lựa chọn làm quà lưu niệm.
Đồng thời, xã thường xuyên tập huấn về vệ sinh an toàn thực phẩm cho các chủ
cửa hàng kinh doanh ăn uống để đảm bảo an toàn cho khách trong suốt thời gian diễn
ra lễ hội và mỗi năm đều tổ chức phát động Tuần lễ nước sạch cho hơn 5.000 cán bộ và
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
18
Đề án môn Kinh tế Du lịch
nhân dân trong xã Số lượng khách du lịch bốn phương hằng năm đến tham quan lễ
hội chùa Hương ngày một tăng. Đạt được những kết quả trên là có sự tập trung thống
nhất của chính quyền xã và người dân Hương Sơn. Với mục đích phát huy tối đa lợi thế

về tự nhiên và cảnh quan của xã gắn với đẩy mạnh phát triển các giá trị văn hóa, với
những giải pháp đúng đắn, trong thời gian tới tốc độ phát triển kinh tế ở Hương Sơn sẽ
có những bước tăng trưởng cao.
Với quyết tâm tổ chức và phục vụ tốt lễ hội chùa Hương, tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho du khách, mong muốn của huyện là được các cơ quan thông tấn báo chí quan
tâm tuyên truyền về các quy chế của lễ hội và Luật Di sản để mọi du khách khi về du
ngoạn tại chùa Hương kết hợp với chính quyền, giúp cho Ban tổ chức lễ hội làm tốt
công tác quản lý, để chùa Hương thực sự là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và
ngoài nước.
b/Những vấn đề đang gặp phải.
Ðầu mùa lễ hội năm nay, lượng khách trẩy hội chùa Hương (Hà Tây) khá lớn,
khoảng 40 - 50 nghìn lượt người. Một trong những nguyên nhân thu hút đông khách là
cơ sở hạ tầng khu di tích thắng cảnh được cải tạo, nâng cấp và hệ thống dịch vụ có
chuyển biến. Tuy nhiên một số điều chưa hay vẫn tồn tại rải rác trên đường lên đất Phật
ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường lễ hội.
+ Những vấn đề từ môi trường tự nhiên
Có thể hiểu cảnh quan môi trường là sự kết hợp của các yếu tố hữu hình, được tạo
ra dưới tác động của tất cả những thành phần môi trường tự nhiên và những hoạt động
của con người, đem lại những hiệu quả nhất định về mặt thẩm mỹ.
Trong mối quan hệ với các thành phần môi trường khác, cảnh quan môi trường
mang tính chất phái sinh bởi nó được tạo thành từ các thành phần môi trường liên quan.
Tuy nhiên, cảnh quan môi trường có tính độc lập tương đối.Sự độc lập tương đối này
thể hiện ở chỗ chất lượng của cảnh quan môi trường không được đánh giá theo chất
lượng của các thành phần môi trường cơ bản mà được đánh giá trên cơ sở cảm quan và
chỉ căn cứ vào những yếu tố hữu hình tác động lên giác quan của con người, được đánh
giá ở sự hài hòa khả năng tạo ấn tượng và tạo cảm xúc. Tính độc lập của yếu tố cảnh
quan môi trường còn thể hiện ở chỗ có những hành vi, mặc dù không làm tác động
đáng kể đến những thành phần như đất, nước, không khí song lại làm ảnh hưởng
đáng kể đến cảnh quan môi trường (như viết, vẽ bậy hay xây công trình chắn mất tầm
nhìn ). Tác động từ những biến đổi của cảnh quan môi trường lên hoạt động du lịch

thường mang tính trực tiếp, mạnh mẽ và nhanh chóng. Do vậy, việc bảo vệ cảnh quan
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
19
Đề án môn Kinh tế Du lịch
môi trường cần được coi là một trong những nội dung quan trọng của công tác bảo vệ
môi trường du lịch.
Khi diễn ra lễ hội không gian di tích trở nên chật chội, vì số người đột ngột đến
tham dự và trảy hội. Không gian di tích được hình thành từ lâu đời khi mà cư dân thời
đó chắc chắn sẽ ít hơn nhiều lần thời hiện tại. Người xưa trảy hội thường là đi bộ. Thời
hiện đại người ta đến với lễ hội bằng nhiều phương tiên cơ giới là chủ yếu. Không gian
di tích đã chật hẹp càng trở nên chật chội bởi các loại xe cơ giới gầm rú, thải khí độc.
Ai đã từng đi dự lễ hội chùa Hương, lễ hội Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Kho từng chứng kiến
cảnh này. Số người tham dự đông, kéo theo nó là hàng loạt dịch vụ cho người trảy hội:
ăn, uống, ngủ, nghỉ, vệ sinh cá nhân. ở một số hội lớn, diễn ra dài ngày thấy có một số
nhà vệ sinh theo kiểu tự hoại, xây kiên cố, tuy nhiên phần lớn là tạm bợ theo lối dịch vụ
để thu tiền là chủ yếu, không được xử lý. Rất nhiều hàng quán mọc lên với đủ hình
thức nấu nướng. Hàng trăm, hàng ngàn và có thể là hàng vạn con người ăn, uống, hút
tiện tay xả rác trên đường đi với vỏ hộp, giấy gói.
Các lễ hội được tổ chức vào mùa xuân lại chủ yếu vào tháng Giêng mùa cây cối
đâm chồi nảy lộc, lẽ ra cây cỏ phải được nâng niu bảo vệ nhưng người ta mặc sức dẫm
đạp, nhiều khi trèo lên cây cối. Không thiếu những cô cậu muốn lưu tên tuổi đã dùng
dao hoặc những vật nhọn khắc lên cây. Nhiều người hái lộc nhưng chặt cả những cành
đa, cành si Tan hội cây cối quanh di tích như trải qua một trận bom, trận bão.
Không khí lễ hội rất đông người ăn xin họ nằm ngồi hoặc đi lại dọc đường chèo
néo, van xin tiền của khách. Để khách động tâm, người ăn xin thường ăn mặc rách
rưới, bộ mặt lem luốc gớm ghiếc. Sau một ngày ăn xin họ thường tề tựu vào một nơi
nấu nướng ăn uống, góp một phần không nhỏ làm ô nhiễm môi trường sinh thái.
Theo tục lệ, “tháng Giêng là tháng ăn chơi” – mùa của lễ hội, nhân dân khắp cả
nước đang nô nức vãn cảnh, trẩy hội, lễ chùa cầu phúc, lộc. Tuy nhiên, do sự thiếu ý
thức của những người dự lễ hội, hầu hết các lễ hội đều xảy ra tình trạng rác thải tràn

lan, tệ nạn cờ bạc vẫn còn nhức nhối, an toàn thực phẩm trở thành nỗi lo chung…
Một trong những điều phiền hà nhất cho BTC các lễ hội là rác thải: Hầu hết các lễ
hội đều ghi nhận được rằng, rác thải đã và đang đe dọa nghiêm trọng đến cảnh quan
môi trường. Lễ hội chùa Hương với hàng vạn lượt khách/ngày, hai khu vực là suối Yến
và động Hương Tích đang phải đón nhận bất đắc dĩ hàng trăm tấn rác. Suốt chiều dài
gần 3km của suối Yến, từ đền Trình, đến bến Đục Khê, là một bãi xả rác khổng lồ với
hàng trăm loại từ vỏ lon bia, nước ngọt, hộp sữa, đến các túi ni-lông… nổi lềnh phềnh
trên mặt nước. BTC lễ hội đã bố trí 3 chiếc đò (một chiếc ở ngay Đền Trình, một chiếc
ở núi Đổi chèo, một chiếc ở bến Đục Khê) chuyên làm nhiệm vụ vớt rác, nhưng vẫn
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
20
Đề án môn Kinh tế Du lịch
không kịp vớt hết các loại mà du khách vô tình hay cố ý xả xuống lòng suối Yến. Vào
trong động Hương Tích, ngay ở cửa động, hai bên được BTC đặt hai thùng rác khổng
lồ. Nhưng, hai thùng vẫn chứa không đủ, rác tràn cả ra ngoài. Các vãi ở đây cho chúng
tôi biết, chỉ riêng khu vực động Hương Tích mỗi ngày thu gom được 25 thùng rác.
Vấn nạn lớn này bắt nguồn từ những nguyên nhân chính là các điểm lễ hội không
chuẩn bị chu đáo việc bảo vệ môi trường, không có hoặc thiếu, không bố trí đủ các
thùng rác công cộng. Tuy nhiên, điều đặc biệt hơn cả là do người đi dự lễ hội không có
ý thức bảo vệ môi trường. Mặc dù dọc bờ suối Yến các biển báo nhắc nhở du khách giữ
gìn vệ sinh chung, không xả rác bừa bãi đã được dựng lên nhiều nhưng rác vẫn được xả
trực tiếp xuống dòng nước.
Bên cạnh đó, môi trường ở chùa Hương tiếp tục bị báo động. Hiện có khoảng 3200
đò hoạt động tại bến én. Để góp phần cải thiện môi trường BTC đã phát túi rác miễn
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
21
Đề án môn Kinh tế Du lịch
phí cho mỗi đò, nhưng theo quan sát của chúng tôi không thấy đò nào có “túi rác lịch
sự” đó cả. Điều đáng nói hơn, dọc đường từ Thiên Trù lên Hương Tích không thấy bất
kỳ một thùng rác di động nào. Có lẽ, khu vực Thiên Trù được “ưu tiên” hơn cả khi xuất

hiện một vài người ở tổ vệ sinh luôn tay nhặt rác. Có thể dễ dàng nhận thấy một điều,
cả du khách, người dân địa phương đều tồn tại một cách nghĩ “ăn xổi ở thì”, cả năm
đến một lần, mua bán cũng chỉ một lần, thảnh thử “cùng nhau xả rác”.
Rác tại khu du lịch chùa Hương đáng rung hồi chuông báo động. Rác mọi nơi mọi
chỗ, từ cổng vào đến bên trong, từ suối đến đường bộ. Ngồi trên cáp treo nhìn xuống
đường bộ lên động Hương Tích sẽ thấy cơ man nào là rác. Rác được xả ra từ các hàng
quán dịch vụ bên đường, từ khách thập phương, trong khi đó số lượng thùng rác BTC
đặt ra dọc đường quá ít. Có chỗ, tìm cũng chẳng thấy nên khách cũng chẳng ngần ngại
xả rác luôn ra đường
Từ bến đỗ cáp treo vào động Hương Tích, những tấm biển quảng cáo, bảng chỉ dẫn
nhà vệ sinh lẫn giữa những biển hiệu quán kem, sữa chua- giăng lên, trông lem nhem
lắm. Còn người bán rau sắng, khoai Tam Đảo, mơ hương thì cứ bày ra lối đi mà bán.
Khách muốn đi thì phải tránh. Số khách lên chùa Hương từ 1 vạn – 3 vạn người/ngày,
thì rác xả ra là bao nhiêu tạ, bao nhiêu tấn? Cũng có những con thuyền đi hớt rác nhưng
khách thập phương vẫn hồn nhiên vứt xuống suối Yến. Ban tổ chức Lễ hội dẫu có lo
cũng thật khó xuể khi ý thức về vệ sinh môi trường của du khách quá kém.
Chuyện vứt rác xuống suối, rác vứt ra lối đi - Ngỡ chuyện nhỏ mà không hề nhỏ
với một Lễ hội lớn như Chùa Hương. Có thể phải có biện pháp quản lý mạnh tay hơn,
kẻo mùa sau rác vẫn còn là chuyện âu lo về môi trường đối với động, núi, và suối ở
chốn được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhất động” này.
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
22
Đề án môn Kinh tế Du lịch
Ngay tại các chùa hệ thống vứt rác cũng chỉ là tạm bợ.

Những ngày đầu khai hội chùa Hương, đường sá sạch đẹp hơn, bến Đục được khơi
lòng rộng và sâu hơn. Tuy nhiên, cảnh quan hữu tình cũng không làm du khách thôi bất
an về tình trạng mất vệ sinh nghiêm trọng ở các cửa hàng ăn.
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
23

Đề án môn Kinh tế Du lịch
Tại một quán ăn ngay dưới chân Thiên Trù. Thịt cầy đá, bò, bê, thịt lợn rừng, gà
được treo lủng lẳng trước cửa, khá bắt mắt du khách phương xa. Khách yêu cầu món
gì, nhà hàng xẻo thịt trực tiếp phục vụ.
Những tảng thịt không che đậy, phơi trong không khí, lưu cữu ngày này qua ngày
khác, khi nào hết, nhà chủ lập tức bổ sung. Ở đây đa số đều không sử dụng tủ lạnh bảo
quản thực phẩm. Họ lý giải hồn nhiên, điều kiện thời tiết lạnh lý tưởng thế này, thực
phẩm làm sao hỏng được, vả lại lượng khách đông, tiêu thụ nhanh thôi (?). Sau "dàn"
thực phẩm là những chiếc bàn thái chặt chế biến, kế đến là bếp nấu.
Thực phẩm treo lủng lẳng trước cửa hàng. Ăn đâu, xẻo đấy
Nhà hàng tận dụng luôn khoảng không gian chật hẹp phía sau làm khu rửa bát, rửa
rau. Tấm phên cót được dựng lên che khu vệ sinh thô sơ, lâu ngày không được dọn,
nồng nặc mùi phân bắc, NH3. Ba chị giúp việc đang rửa bát trước cửa nhà vệ sinh,
dùng đôi đũa kẹp giẻ thoăn thoắt cọ những chiếc bát để kịp quay vòng phục vụ. Mỗi
khi có người vào, họ lặng lẽ, đứng lên nhường đường cho khách bước qua những chậu
bát đĩa để giải tỏa những lon bia, nước ngọt ngoài kia.
Sau 7 giờ tối, đò thuyền đã trở ra bến, đón khách của sáng hôm sau, dãy hàng
ăn xóm đò bắt đầu nhộn nhịp. Người người giặt quần áo, nhà nhà rửa bát đĩa, xoong nồi
bằng chính nước của dòng sông này. "Gần sông, tiện thì rửa luôn. Mà nhà nào cũng thế
cả!", cô nhân viên cửa hàng Đại Thắng thản nhiên. Anh Sương, chủ một cửa hàng thậm
chí còn chưa có tên biển hiệu, ngại ngần cho biết: "Vì thiếu nước nên phải rửa bát đia,
xoong nồi bằng nước sông, sau đó chúng tôi tráng lại bằng nước sạch.
Nước sông thì tất nhiên là bẩn, nước xà phòng rửa bát đổ ra không ăn thua gì so
với việc đi vệ sinh của con người ở đây. Cũng có nhà vệ sinh tự hoại nhưng ở đây chủ
yếu là cứ đi "bậy bừa" ra ngoài. Hơn nữa, đến mùa nước lên, cả khu này bị ngập,
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
24
Đề án môn Kinh tế Du lịch
những chất thải đó lại bị cuốn ra theo nguồn nước. Nước sạch khá đắt, phải mua với giá
từ 20.000 - 25.000đ/1 phi 200 lít".


Rửa bát đũa, xoong nồi bằng nước sông cho tiện

Lễ hội chùa Hương vào ngày cao điểm đã thải ra môi trường 7 tấn rác thải rắn và
khoảng 20.000 lít nước thải/ ngày; một số khu du lịch sinh thái lượng rác thải của du
khách cũng khá lớn nhưng ý thức về vệ sinh môi trường còn hạn chế, khu sản xuất của
các làng nghề còn nằm trong khu dân cư có lượng rác thải, nước thải nhiều nhưng phần
lớn chưa có hệ thống xử lý đạt chuẩn Chính vì vậy, tỉnh Hà Tây đã xây dựng cơ chế
phối hợp giữa ngành Du lịch và Tài nguyên - Môi trường về công tác bảo vệ môi
trường du lịch, xây dựng chiến lược, kế hoạch bảo vệ môi trường dài hạn và tăng
cường đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, có biện pháp xử lý kịp thời những vi
phạm trong vấn đề bảo vệ môi trường du lịch
Có hai đối tượng tạo ra các hoạt động tại các khu di tích: chủ nhà và khách. Khách
thập phương mới là những người chủ yếu tạo ra các sản phẩm phế thải, tạo ra ách tắc
giao thông vì chen lấn lộn xộn.
Không có một quốc gia nào trên thế giới giống như Việt Nam trong việc cúng tế,
ăn gì cúng nấy. Việc cúng tế, hóa vàng mã trước tiên là của nhà chùa, chúng tôi biết
những nguyên tắc lễ giáo, cúng Quan Thế Âm cần những gì, cúng Đức Thánh Mẫu cần
gì. Và không có cúng mặn.
Nhưng khách hành hương đa số mang theo đồ ăn, cúng lễ xong là ăn và xả rác
ngay tại chỗ. Họ không biết nguyên tắc đã đành nhưng thực tế họ chỉ đang nghĩ cho
bản thân trước khi nghĩ đến việc cúng lễ. Ví dụ, có đoàn đi khoảng 10 người thì phải
Phạm Thị Ngọc Hạnh - Lớp Du lịch 47
25

×