Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.39 KB, 87 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Với nền kinh tế Việt Nam cũng như các nước trên thế giới doanh
nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đang ngày càng khẳng định vai trò và vị trí của
mình trong nền kinh tế xã hội. Theo thống kê đội ngũ này chiếm khoảng 85%
tổng số các doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp khoảng 30% GDP và thu
hút được một lực lượng lao động đáng kể, tạo nhiều công ăn việc làm, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác những tiềm năng trong dân chúng.
Tuy nhiên, các DNVVN vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn vướng mắc
cần giải quyết, và một trong những khó khăn lớn nhất đó là vốn.
Thành lập và đi vào sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp nói chung
và các DNVVN nói riêng cần có một lượng vốn nhất định. Nguồn vốn này có
thể được huy động bằng nhiều nguồn khác nhau: của bạn bè, của gia đình
Nhưng có một nguồn vốn mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn tiếp cận đó
là vốn vay từ ngân hàng thương mại. Các NHTM có thể cung cấp cho các
doanh nghiệp một lượng vốn lớn, rẻ và quan trọng hơn là họ có thể đáp ứng
ngay khi các doanh nghiệp có yêu cầu và có đủ điều kiện để vay vốn. Các
NHTM có vai trò hết sức quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn của
các DNVVN. Nhưng bên cạnh việc ngân hàng cho các doanh nghiệp vay
ngày càng tăng là việc nâng cao chất lượng tín dụng các khoản vay để công
tác tín dụng ngân hàng ngày một hiệu quả.
Nhận thức vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với các
DNVVN, sau một thời gian thực tập, khảo sát tình hình thực tế cho vay của
Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, em đã
chọn đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình là “Nâng cao chất lượng tín
dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội”.
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
1
Chuyên đề tốt nghiệp
Chuyên đề gồm 3 chương:


Chương I: Chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
của NHTM
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các DNVVN tại
ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các
DNVVN tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội.
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
2
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương I. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI.
1.1- Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1- Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1.1- Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc gần đây đã khẳng định: Phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Nhà nước ta khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho DNVVN phát huy
tính chủ động sáng tạo vốn có, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học
công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình
doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị
trường, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.
Trên thế giới có rất nhiều quan điểm cũng như tiêu thức khác nhau dể
định nghĩa và phân biệt DNVVN với các loại hình doanh nghiệp khác. Trong
đó có hai tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất là: tổng số vốn sản xuất kinh
doanh và số lượng lao động của doanh nghiệp (DN).
Đối với Việt Nam, văn bản đầu tiên đưa ra tiêu chí xác định DNVVN là
công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/06/1998. Theo đó, DNVVN
được tạm thời quy định là “Những DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số

lao động trung bình hàng năm dưới 200 người”. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển chung của nền kinh tế đất nước, các DN mới ra đời ngày một nhiều, có
không ít DN có số vốn vượt quá 5 tỷ đồng nhưng vẫn chưa đủ mạnh để được
coi là một DN lớn. Để đáp ứng được đòi hỏi của thực tế, ngày 23/11/2003,
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/NĐ-CP đưa ra tiêu chí mới để xác định
DNVVN của Việt Nam. Theo Nghị định:
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá
10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Vì tình hình kinh tế của mỗi địa phương là khác nhau nên trong khi
phân loại các DN có thể áp dụng cả hai chỉ tiêu hoặc chỉ sử dụng một trong
hai chỉ tiêu vốn và số lượng lao động để xếp loại và có những định hướng
cũng như các chính sách hỗ trợ.
1.1.1.2- Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Theo số liệu của Chi cục Thống kê TP Hà Nội, đến hết năm 2006,về
mặt số lượng các DNVVN trên địa bàn chiếm tuyệt đại đa số trong tổng số
DN của thủ đô (Số DN có dưới 500 lao động chiếm 86%, số DN có vốn dưới
10 tỷ đồng chiếm 75%). Phần lớn các DNVVN nằm trong khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại (khoảng
50%) và công nghiệp (khoảng 22-24%) tiếp theo là xây dựng, kinh doanh
khách sạn nhà hàng với số lượng đông đảo như trên, các DNVVN có một số
đặc điểm nổi bật như sau:
 Chủ doanh nghiệp có trình độ chưa cao nên khả năng quản lý, điều
hành hoạt động sản xuất, kinh doanh thấp.
Theo số liệu thống kê, chủ các DNVVN thường có trình độ về một lĩnh
vực nhất định. Các chủ doanh nghiệp này có trình độ đại học, trên đại học còn
hạn chế, đặc biệt là những kiến thức về thị trường cũng như hiểu biết về các

quy luật kinh tế, các quy định của pháp luật. Vì vậy mà các ông chủ này gặp
rất nhiều khó khăn trong việc lập kế hoạch sản xuất, phân phối, tiêu thụ hàng
hoá cũng như nắm bắt các công nghệ hiện đại và có kế hoạch lâu dài nhằm
mang lại lợi nhuận cho DN cũng như sự phát triển ổn định cho nền kinh tế.
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
4
Chuyên đề tốt nghiệp
 DNVVN có quy mô hoạt động nhỏ bé.
Do nguồn vốn tự có ban đầu nhỏ bé lại thêm khó khăn trong việc tiếp
cận với nguồn vốn của ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng nên quy mô
hoạt động của các DN này ngay từ đầu đã rất hẹp, mang tính tự phát. Hơn
nữa, trong quá trình hoạt động, các DNVVN ít khi tiếp cận được những khách
hàng lớn và những nguồn vốn rẻ nên cơ hội để mở rộng quy mô sản xuất là
rất hiếm hoi. Vì vậy, muốn mở rộng quy mô cho các DNVVN thì nhà nước và
đặc biệt là các NHTM có những chính sách ưu đãi đối với họ.
 Sức cạnh tranh của các DNVVN thấp, chịu nhiều ảnh hưởng của
môi trường kinh doanh bên ngoài.
Do nguồn vốn có hạn, quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu nên các
sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh thấp hơn so với sản phẩm của các DN lớn,
doanh nghiệp quốc doanh và đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh với nước
ngoài. Thêm nữa, do sức cạnh tranh thấp nên các DNVVN ít có khả năng
chống lại những biến động lớn của thị trường, và thường thì các DN này hay
gặp rủi ro khi có những biến động bất lợi của thị trường.
1.1.1.3- Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
 Tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Mục đích chính của các nhà doanh nghiệp là lợi ích kinh tế mà họ thu
được. Nhưng vô hình chung, sự ra đời của các DN lại giải quyết vấn đề việc
làm cho không ít người lao động. Ở Việt Nam hàng năm có khoảng 20 triệu
người đến độ tuổi lao động, ngoài ra còn một số lượng lớn những người bán
thất nghiệp ở nông thôn và thành thị. Với nhu cầu về việc làm lớn như vậy,

chỉ các DN lớn hay các DNNN không thể đáp ứng nổi. Mặt khác, một phần
lực lượng lao động này cũng không đáp ứng được những đòi hỏi về tay nghề
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
5
Chuyên đề tốt nghiệp
và trình độ mà các DN lớn trong nước và nước ngoài đòi hỏi. Vì vậy, các
DNVVN ra đời đã phần nào giảm bớt gánh nặng thất nghiệp cho xã hội.
DNVVN hoạt động trong nhiều lĩnh vực nên các DN này có thể sử dụng
người lao động ở mọi trình độ, vì vậy những người có trình độ chuyên môn
không cao vẫn có thể tìm được việc làm thích hợp với khả năng của mình.
Theo số liệu của bộ lao động thương binh và xã hội, tỷ lệ thất nghiệp ở khu
vực thành thị đã giảm từ 13% năm 1989 xuống còn 6,2% năm 1994 và hàng
năm có khoảng gần 1 triệu lao động tìm được việc làm trong các DNVVN.
 Góp phần to lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế
Từ khi ra đời các DNVVN đã khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực kinh tế tiềm ẩn trong dân cư, hoạt động của các DNVVN thực sự
đã góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Theo số liệu thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư, mỗi năm các DNVVN Việt
Nam tạo ra khoảng 25-26% GDP của cả nước, 31% giá trị tổng sản lượng
công nghiệp, 64% tổng khối lượng luân chuyển hàng hoá. Bên cạnh đó, các
DNVVN còn giữ một vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển
những làng nghề truyền thống nhằm giữ được những nét văn hoá Việt Nam
trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
 Tăng tính năng động và đa dạng cho nền kinh tế
Với đặc trưng về nguồn vốn và quy mô hoạt động, các DNVVN có khả
năng nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng kinh doanh, chuyển hướng sản xuất
và đổi mới công nghệ…cho phù hợp với sự biến động của môi trường kinh
doanh. Như vậy, vô hình chung các DNVVN đã làm cho nền kinh tế trở nên
năng động hơn. Thực tế cho thấy tốc độ gia tăng các DNVVN lớn hơn rất
nhiều so với các DN lớn và đương nhiên khi có càng nhiều doanh nghiệp ra

đời thì tính cạnh tranh của thị trường càng được tăng lên. Một thị trường có
tính cạnh tranh cao sẽ thúc đẩy các DN tự hoàn thiện và nâng cao vị thế của
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
6
Chuyên đề tốt nghiệp
mình. Và với vai trò là các đơn vị vệ tinh cho các DN lớn, DN quốc doanh
các DNVVN cũng góp phần không nhỏ vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
cho phù hợp với định hướng phát triển của từng giai đoạn.
 Góp phần tăng thu cho Ngân sách Nhà nước.
Đóng thuế là trách nhiệm của mọi công dân, mọi tổ chức, và như chúng
ta đã biết thuế là nguồn thu chính của ngân sách nhà nước. Đây chính là
nguồn chi trả cho lợi ích chung của xã hội. Do đó, sản xuất kinh doanh phát
triển tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Trong những năm vừa qua, do
có sự quan tâm tạo điều kiện của nhà nước và với khả năng sáng tạo của mình
các DNVVN đã từng bước khẳng định vị trí của mình. Hàng năm khu vực này
đã đóng góp trên 30% ngân sách nhà nước, góp phần giảm sự mất cân đối của
cán cân ngân sách, phát huy vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1.1.1.4- Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vốn có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh
doanh. Ngay từ khi mới thành lập một doanh nghiệp, một công ty hay bất kỳ
một loại hình kinh tế nào khác cũng cần phải có một số vốn nhất định. Trong
mọi DN, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và nợ.Vốn chủ sở
hữu của DN bao gồm vốn góp ban đầu, nguồn vốn từ lợi nhuận không chia và
phát hành cổ phiếu. Nguồn vốn còn lại được hình thành từ các khoản vay
ngân hàng, phát hành trái phiếu công ty.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì tình trạng thừa thiếu vốn luôn là
điều không thể tránh khỏi đối với một doanh nghiệp. Để giải quyết sự thiếu
hụt vốn, trước hết, bản thân doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường thông
qua con đường phát hành cổ phiếu, trái phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải có
qui mô lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị trường, hơn

nữa phải có một thị trường vốn hoàn chỉnh với một hệ thống tổ chức tài chính
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
7
Chuyên đề tốt nghiệp
trung gian đủ mạnh có khả năng đảm đương việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu,
trái phiếu của công ty và nó còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí, thói
quen kinh doanh và sự sôi động của thị trường vốn thứ cấp.
Ở nước ta hiện nay thị trường chứng khoán đang trên đà phát triển và
hoàn thiện. Việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu của các công ty để huy động
vốn cũng không phải là một điều gì quá xa lạ và mới mẻ. Tuy nhiên, để đáp
ứng được những quy định của việc phát hành các chứng khoán và tham gia
niêm yết trên thị trường thì phải thoả mãn các điều kiện như trong quy định
của Nghị định 144 và mới đây nhất là Luật Chứng khoán. Theo các văn bản
này một chủ thể phát hành phải có số vốn tối thiểu là 10 tỷ đồng. Điều kiện
này tuy đơn giản nhưng không phải bất cứ một DNVVN nào cũng đáp ứng
được. Do đó, huy động vốn qua thị trường chứng khoán để huy động vốn phát
triển sản xuất kinh doanh đối với các DNVVN vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Chính vì lẽ đó, đối với các DNVVN tín dụng Ngân hàng luôn được coi là
một điểm tựa vững chắc về vốn.
1.1.2- Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2.1- Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường có nhiều hình thức quan hệ tín dụng, như:
Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu
dùng, tín dụng quốc tế…Trong đó, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng
phổ biến và có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng thời nó cũng
giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại.
Chúng ta có thể nói: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng
tiền tệ giữa một bên là ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ - với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó
ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay”

Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Nói đến tín dụng ngân hàng ta vẫn cho rằng nó bao gồm cả hoạt động
“đi vay” và hoạt động “cho vay” của ngân hàng .Tuy nhiên, trên thực tế, do
tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng mà các nhà quản lý đã tách riêng
hoạt động nhận tiền gửi và hoạt động cho vay, do hai bộ phận chuyên môn
độc lập nhau đảm nhận: bộ phận Nguồn vốn và bộ phận Tín dụng. Hoạt động
nhận tiền gửi không được gọi là hoạt động tín dụng mà là hoạt động “huy
động vốn” do bộ phận Nguồn vốn thực hiện. Bộ phận tín dụng chuyên làm
nhiệm vụ cho vay. Như vậy định nghĩa: "Tín dụng ngân hàng là quan hệ
vay mượn bằng tiền tệ, trong đó ngân hàng là người cho vay, còn người đi
vay là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ
hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào một thời điểm xác định trong tương lai như hai
bên đã thoả thuận" sẽ phù hợp với hoạt động thực tế của các ngân hàng.
Tuy nhiên,“Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn
tiền tệ thông qua các ngân hàng”. Ngân hàng bằng các nghiệp vụ và các hình
thức huy động vốn khác nhau huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông
tạo thành nguồn vốn lớn. Đồng thời ngân hàng sử dụng chính nguồn vốn này
để đem cho vay với lãi suất lớn hơn lãi suất tiền gửi. Là trung gian nên ngân
hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn, hay nói cách khác việc
sử dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp nói riêng và trong nền kinh tế nói
chung được ngân hàng điều hoà sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao. Như
vậy, ngân hàng bằng hoạt động của mình đã góp phần vào việc nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn trong xã hội, thông qua chức năng tạo tiền ngân hàng có thể
nhận nguồn tiền gửi tăng trưởng theo bội số tạo tiền. Qua đó ngân hàng sẽ
được hưởng phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động.
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
9
Chuyên đề tốt nghiệp

1.1.2.2- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNVVN
 Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn hợp lý cho
DNVVN
Nguồn vốn của một DN luôn bao gồm hai phần: Vốn tự có và vốn vay.
Sự kết hợp nhất định giữa hai nguồn này chỉ ra chi phí vốn tối ưu cho doanh
nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ cho
kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hoá giá trị thị
trường của doanh nghiệp tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất. Cơ cấu vốn tối
ưu cần đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận. Nếu tỷ lệ vốn của chủ
lớn thì mức độ rủi ro của DN thấp nhưng kéo theo mức lợi nhuận thu được
cũng thấp do vốn chủ sở hữu thường là nhỏ bé trong khi nhu cầu vốn của DN
là rất lớn, vì vậy để đáp ứng được nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như mong muốn tăng nguồn lợi thu được, các DN phải tiếp cận với
nguồn vốn vay.
Nhưng nếu vốn vay quá lớn thì chi phí vốn sẽ tăng, kéo theo giá thành
tăng và đương nhiên lợi nhuận thu được sẽ giảm, đồng thời khả năng thanh
toán của DN giảm, rủi ro dẫn tới nguy cơ phá sản tăng. Do đó, tỷ lệ vốn vay
càng lớn, doanh nghiệp càng phải chịu sự kiểm soát sát sao và các điều kiện
vay vốn chặt chẽ của ngân hàng. Vì thế, các ngân hàng và các DN phải cân
nhắc trong việc quyết định tỷ trọng giữa vốn vay và vốn chủ trong cơ cấu vốn
sao cho hợp lý để vừa đáp ứng được nhu cầu về vốn, vừa đảm bảo được
nguồn thu và mang lại sự an toàn cho hoạt động kinh doanh.
 Tín dụng ngân hàng tác động vào xu thế chuyển dịch cơ cấu sản
xuất của DNVVN
Nhà nước ta đang có chủ trương chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế
theo hướng nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong tổng thu
nhập quốc nội. Như vậy, các DN hoạt động trong các lĩnh vực nãy sẽ được
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
10
Chuyên đề tốt nghiệp

hưởng sự ưu đãi khi muốn vay vốn của các NHTM. Cụ thể, như khi muốn lập
hồ sơ vay vốn, các DN này được sự ủng hộ của chính quyền địa phương nên
thủ tục giấy tờ được giải quyết nhanh chóng, về phía ngân hàng sẽ có những
chính sách ưu đãi về lãi suất, về xét duyệt hạn mức tín dụng, điều kiện cho
vay cũng dễ dàng hơn các DN khác…
 Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho DNVVN mở rộng sản xuất
Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình thông qua việc huy
động vốn tạm thời nhàn rỗi trong toàn bộ nền kinh tế để tài trợ cho các thành
phần kinh tế nói chung và DNVVN nói riêng. Để đảm bảo cho các DNVVN
không chỉ duy trì sản xuất mà còn mở rộng tái sản xuất, tín dụng ngân hàng
tài trợ vốn cho DN không chỉ với các khoản vay ngắn hạn mà còn có các
khoản vay trung và dài hạn. Muốn mở rộng sản xuất kinh doanh ngoài thị
trường tiềm năng trong nước các DN còn phải chú trọng tới thị trường nước
ngoài. Tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh, tài trợ cho nghiệp
vụ xuất nhập khẩu giúp cho DN đạt được mục đích này. Nói chung với các
nghiệp vụ của mình ngân hàng đã giúp các DN nói chung và DNVVN nói
riêng mở rộng được thị phần của mình, mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh.
 Tín dụng ngân hàng giúp các DNVVN sử dụng đồng vốn tiết kiệm và
có hiệu quả.
Nhằm giảm thiểu rủi ro cho hoạt động của mình, các ngân hàng không
chỉ tiến hành thẩm định, phân tích rồi giải ngân mà còn có nhiều biện pháp
kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của DN và tình hình sử dụng vốn vay
của họ. Do đó, không chỉ thu hồi vốn là đủ mà các DN còn phải tìm kiếm các
biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn
đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất của ngân hàng thì DN mới trả được
nợ và kinh doanh có lãi.
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
11
Chuyên đề tốt nghiệp

Hơn nữa, bằng việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, giám sát
chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của DN ngân hàng không chỉ kiểm
soát được đồng vốn của mình mà còn đưa ra những tư vấn, giúp đỡ trong
phạm vi cho phép giúp DN tháo gỡ khó khăn trước mắt và gây dựng được
mối quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng.
1.1.2.3- Các hình thức tín dụng ngân hàng
Có nhiều tiêu thức để có thể phân loại các hình thức tín dụng ngân hàng,
tuy nhiên dưới đây chúng ta chỉ đề cập đến các tiêu thức chính như sau:
 Phân loại theo mục đích vay vốn
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia ra làm các loại:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất
như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc…
- Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín
dụng và các định chế tài chính khác.
- Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải các chi phí
thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
 Phân loại theo thời hạn cho vay
Theo căn cứ này cho vay được chia làm 3 loại sau:
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
12
Chuyên đề tốt nghiệp
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được

sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu
chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân
- Cho vay trung hạn: theo quy định hiện nay của ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Tín dụng
trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các
dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Ngoài ra nguồn vốn
trung hạn này còn được các doanh nghiệp dùng để đổi mới sản phẩm.
- Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời gian
tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên tới 40
năm. Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu về xây dựng cơ
bản.
 Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này, cho vay được chia làm hai loại chính, đó là:
- Cho vay không bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, có khả năng tài
chính mạnh ngân hàng có thể cung cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như
thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ hai.
Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng khi vay
vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng
có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc
chắn.
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong những năm 90 các ngân hàng chỉ được phép cho vay có bảo đảm
trừ các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả và cho vay hộ nông

dân, từ 5 triệu đồng trở xuống. Ngày 29/12/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 178/1999/ NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng; theo
đó mà việc cho vay không bảo đảm được mở rộng hơn so với trước đây, cho
phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo
đảm, tuy nhiên khách hàng vay không bảo đảm phải hội tụ đầy đủ những điều
kiện sau đây:
+ Có tín nhiệm đối với tổ chức cho vay trong việc sử dụng vốn vay và
trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi
+ Có dự án đầu tư, hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi
có khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án phương án phục vụ đời sống khả thi
phù hợp với quy định của pháp luật
+ Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
+ Cam kết thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tài chính theo yêu cầu của
tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong trường hợp
đồng tín dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện
pháp bảo đảm bằng tài sản.
Mức vay tối đa không bảo đảm của mỗi loại hình tổ chức tín dụng do
Ngân hàng Nhà nước quy định trong mỗi thời kỳ.
 Phân loại theo phương pháp hoàn trả
Cho vay của ngân hàng được chia làm hai loại:
- Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ
thể theo hợp đồng. Cho vay có thời hạn bao gồm các loại sau:
+ Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là cho vay trả góp:
Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng trong cho vay bất động sản nhà ở
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
14
Chuyên đề tốt nghiệp
thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ
(cho vay chợ), cho vay để mua sắm thiết bị.

+ Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ (hay còn gọi là phi trả góp): là loại
cho vay thanh toán một lần theo thời hạn đã thoả thuận.
+ Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể, mà
việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay. Hoặc cho vay
này được áp dụng theo kỹ thuật thấu chi.
Đối với loại cho vay có thời hạn, khách hàng có thể trả nợ trước hạn
nhưng ngân hàng vẫn có quyền thu lãi toàn bộ kỳ hạn trả nợ theo hợp đồng,
trừ trường hợp có những thoả thuận khác.
- Cho vay không có thời hạn: Đối với loại cho vay không có thời hạn thì
ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất kỳ lúc nào,
nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thoả
thuận trong hợp đồng.
 Phân loại theo xuất xứ tín dụng
Dựa vào căn cứ này, cho vay được chia làm hai loại:
- Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu,
đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn
thanh toán. Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau:
- Chiết khấu thương mại (discount): Người hưởng thụ hối phiếu hoặc
lệnh phiếu còn trong thời hạn thanh toán có thể nhượng lại cho ngân hàng.
Trong trường hợp này ngân hàng cấp cho khách hàng một khoản tiền bằng
mệnh giá trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng phí. Khi các chứng từ này đến
hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc người phát hành lệnh phiếu có
trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng. Cần lưu ý trong nghiệp vụ chiết khấu
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
15
Chuyên đề tốt nghiệp
thương mại người được cấp tín dụng và người chịu trách nhiệm thanh toán
cho ngân hàng là hai người khác nhau.

- Mua các phiếu bán hàng (dealer paper) tiêu dùng và máy móc nông
nghiệp trả góp.
Do sự tác động của phương thức tiêu thụ hàng hoá gắn phương pháp
tiếp thị mới đã thúc đẩy các NHTM đưa vào áp dụng loại cho vay gián tiếp.
Trong điều kiện hiện nay các DN thương mại đang tìm mọi biện pháp đã cạnh
tranh trong việc tiêu thụ hàng hoá, trong đó bán chịu hàn hoá được coi là biện
pháp để mở rộng tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả nhất. Tuy nhiên nguồn vốn
của các DN có hạn, vì vậy cần phải có nguồn tài trợ của ngân hàng thông qua
nhượng lại các phiếu bán hàng trả góp.
Một số điểm cần lưu ý trong việc thực hiện cho vay gián tiếp:
- Trước khi thực hiện hợp đồng mua lại các phiếu bán hàng trả góp,
ngân hàng phải thoả thuận với người bán các điều kiện bắt buộc khi thực hiện
việc bán hàng trả góp và ngân hàng chỉ mua những hồ sơ bán hàng theo đúng
các điều kiện đã thoả thuận.
- Ngân hàng phải giữ lại từ 10% - 30% so với số tiền phải thanh toán
cho người bán và sẽ hoàn lại cho người bán khi người mua thanh toán hết nợ.
Quy định này là cần thiết để nâng cao trách nhiệm của người bán trong việc
giám định các hồ sơ bán chịu.
- Hợp đồng mua lại các phiếu bán hàng trả góp là các hợp đồng được
phép truy đòi, có nghĩa là khi người mua không thanh toán được nợ thì người
bán có trách nhiệm phải thanh toán cho ngân hàng.
- Phần lớn lãi thu được từ khoản tín dụng này ngân hàng được hưởng và
chỉ dành cho người bán một mức hoa hồng nhất định.
- Nghiệp vụ bảo lãnh (factoring): là nghiệp vụ mua các khoản nợ thương
mại (các khoản phải thu), trong đó bên mua (factor) nhận việc thu nợ và chấp
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
16
Chuyên đề tốt nghiệp
nhận rủi ro tín dụng. Factoring thực chất là hình thức tài trợ vốn lưu động cho
các DN.

1.2- Chất lượng tín đối với các DNVVN của ngân hàng thương mại.
1.2.1- Khái niệm chất lượng tín dụng đối với DNVVN của ngân hàng
thương mại.
Tín dụng là hoạt động truyền thống và là tiền thân của hoạt động ngân
hàng. Đó là hoạt động mang lại những nguồn thu chính cho các NHTM, tuy
nhiên theo những số liệu thống kê đây là lĩnh vực ẩn chứa nhiều rủi ro nhất
trng hoạt động của các NHTM. Vậy để đánh giá được hoạt động tín dụng của
một ngân hàng có hiệu quả hay không chúng ta phải tìm hiểu thế nào là chất
lượng của hoạt động tín dụng đó. Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng
nghĩa: Đồng vốn của ngân hàng cho các doanh nghiệp vay phù hợp với khả
năng của ngân hàng, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của địa
phương, và quan trọng là với đồng vốn đó các DN sẽ tiến hành hoạt động
kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận và hoàn trả vốn vay cho ngân
hàng cả gốc và lãi đúng thời hạn đã ký trong hợp đồng.
Như vậy, "Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng yêu cầu của
khách hàng (ở đây là các DNVVN) về vốn vay phù hợp với định hướng
phát triển kinh tế của địa phương cũng như của nhà nước, đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng, và thoả mãn được nhu cầu về vốn của DN
cũng như tạo tâm lý thoải mái cho họ trong và sau khi giao dịch với ngân
hàng ".
Theo khái niệm nói trên, chúng ta có thể thấy một khoản vay được coi là
có chất lượng cao khi thoả mãn cả ba đối tượng: ngân hàng, khách hàng và
nền kinh tế.
 Chất lượng tín dụng xét trên giác độ NHTM
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, giới hạn tín dụng. Lượng tín
dụng mà ngân hàng cung cấp phải phù hợp với khả năng, thực lực của bản
thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường đảm bảo

nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng thể
hiện qua các chỉ tiêu: lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ, doanh số cho vay,
doanh số thu nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy
định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn, trung và dài hạn trong
nền kinh tế ngân hàng
Như vậy, để có được chất lượng tín dụng tốt, các nhà ngân hàng phải tiến
hành phân tích, kiểm tra đánh giá kỹ lưỡng mỗi khách hàng trước khi cho
vay, phải tiếp cận với hoạt động các DN để có những cái nhìn đúng đắn về
tình hình sản xuất kinh doanh đang diễn ra tại các DN này, từ đó đưa ra hạn
mức cho vay, phương thức trả lãi và các điều khoản liên quan nhằm mang lại
sự hài lòng cho khách hàng nhưng cũng giảm thiểu rủi ro cho đồng vốn.
 Chất lượng tín dụng xét trên giác độ nền kinh tế
Trong bất kỳ giai đoạn nào, sự vận động của nền kinh tế đều đi theo
định hướng phát triển của các chính sách mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Hoạt động ngân hàng nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, vì vậy, nó
cũng phải nằm trong khuôn khổ những định hướng phát triển chung. Như vậy
chúng ta có thể thấy: Chất lượng tín dụng trên giác độ nền kinh tế là sự đáp
ứng các nhu cầu về vốn phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của từng
vùng, địa phương nhằm xây dựng cơ sở vật chất, giải quyết việc làm, phát
triển kinh tế và nâng cao mức sống cho người dân.
 Chất lượng tín dụng trên giác độ khách hàng
Tạo nên một khoản vay có chất lượng không chỉ cần có sự nỗ lực của
phía ngân hàng mà khách hàng lại là chủ thể quyết định phần lớn vấn đề này.
Sau quá trình phân tích, thẩm định kỹ lưỡng, ngân hàng quyết định cho vay,
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
18
Chuyên đề tốt nghiệp
tiếp đó là ký hợp đồng, giải ngân. Nhưng sau khi nhận được tiền, khách hàng
lại sử dụng số vốn đó vào một mục đích khác không như trong phương án sản
xuất. Như vậy khả năng thu hồi vốn của ngân hàng đã bị đe doạ bởi sự không

trung thực của khách hàng.
Mặt khác, thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, ngân hàng sẽ có
sự am hiểu nhất định về nhu cầu vốn vay của doanh nghiệp (Ngân hàng nắm
được quy luật mùa vụ, chu kỳ sản xuất…của khách hàng). Từ đó ngân hàng
sẽ có kế hoạch chuẩn bị về nguồn để phục vụ nhu cầu của khách hàng. Vậy,
chất lượng tín dụng trên giác độ một khách hàng là sự đáp ứng yêu cầu hợp
lý của khách hàng với mức lãi suất hợp lý, thái độ phục vụ tận tình, thủ tục
đơn giản, đảm bảo nguyên tắc an toàn của tín dụng.
Sự khác nhau giữa chất lượng tín dụng của DNVVN với chất lượng
tín dụng của DN lớn
Xét về khái niệm và những chỉ tiêu phản ánh cũng như những yếu tố
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng nói chung, chất lượng tín dụng của
DNVVN và DN lớn là không có gì khác nhau. Nhưng trên thực tế chất lượng
tín dụng của các DN lớn thường cao hơn so với các DNVVN. Sở dĩ như vậy
là vì các DN này thường có lượng vốn tự có lớn, máy móc thiết bị hiện đại và
một thị trường tiêu thụ hàng hoá rộng lớn, vì vậy khả năng trả nợ của họ rất
cao do nguồn thu của các DN này mang lại, đó là thuận lợi của các DN lớn
trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Còn trên giác độ các NHTM, các
DN lớn thường là các DNNN vì vậy mức độ tin cậy là rất lớn, vì vậy chất
lượng tín dụng đối với khu vực này thường cao hơn các DNVVN.
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
19
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2- Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng đối với
DNVVN.
1.2.2.1- Các chỉ tiêu định tính
Chất lượng tín dụng được phản ánh qua khả năng cho vay và thu hồi vốn
của ngân hàng, tình hình sử dụng vốn đúng mục đích và khả năng trả nợ vay
của DN, sự phát triển của doanh nghiệp đó có phù hợp với định hướng phát
triển kinh tế của vùng, địa phương hay không. Như vậy, ta có thể thấy được

một vài chỉ tiêu định tính cơ bản nói lên chất lượng tín dụng của ngân hàng
đối với các DNVVN
 Các chỉ tiêu của ngân hàng
- Trước hết là việc chấp hành các bước cụ thể trong quy trình tín dụng,
đây là việc làm cơ bản mà về nguyên tắc là không thể bỏ qua bất kỳ một công
đoạn nào. Nó là cơ sở pháp lý đảm bảo cho món vay được an toàn, hiệu quả.
Hiện nay, một quy trình tín dụng thường gồm năm bước cơ bản: tiếp nhận và
lập hồ sơ, phân tích tín dụng, quyết định tín dụng, giải ngân và cuối cùng là
giám sát và thanh lý tín dụng.
- Kết cấu nguồn cho vay: một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng đó là dàn trải rủi ro. Như vậy, chúng ta có thể thấy cơ
cấu của nguồn cho vay là rất quan trọng trong việc hạn chế rủi ro cho ngân
hàng. Để thực hiện được yêu cầu này ngân hàng cần phải đa dạng hoá các đối
tượng khách hàng của mình, làm như vậy ngân hàng vừa tránh được rủi ro lại
vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển của một nền kinh tế đa dạng.
- Quy mô của hoạt động tín dụng: ngân hàng không chỉ quan hệ với các
tổng công ty lớn mà quên đi thị trường tiềm năng các DNVVN, một ngân
hàng có chất lượng tín dụng cao là phải có được một đội ngũ khách hàng
đông đảo, đa dạng, hơn thế nữa tỉ lệ dư nợ trên một khách hàng cũng không
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
20
Chuyên đề tốt nghiệp
nên quá cao, vì như vây sẽ dẫn đến tốc độ quay vòng vốn của ngân hàng sẽ
giảm, rủi ro tiềm ẩn cao.
 Các chỉ tiêu về phía khách hàng
- Một món vay có chất lượng cao chỉ khi khách hàng có ý muốn hợp tác
và là một khách hàng giữ chữ tín. Ngân hàng chỉ có thể đưa ra quyết định cho
vay sau khi đã tiến hành các bước phân tích, thẩm định tín dụng. Tuy nhiên,
ngân hàng có thể bị đánh lừa bởi các báo cáo kết quả kinh doanh “giả” nếu
các khách hàng không trung thực, và như vậy khoản vay đã gặp rủi ro ngay từ

khi giải ngân.
- Bằng những phương án sản xuất kinh doanh hợp lý, khả năng về tài
chính đảm bảo, khách hàng sẽ được chấp nhận cho vay từ phía ngân hàng
nhưng việc sử dụng vốn đúng mục đích mới là yếu tố quyết định đến chất
lượng của khoản vay. Một khoản vốn được sử dụng đúng mục đích sẽ mang
lại cho khách hàng chữ tín, ngân hàng sẽ có được một khách hàng đáng tin
cậy và như vậy quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng sẽ ngày càng gắn bó.
 Về phía nhà nước
Các hợp đồng tín dụng muốn được thành lập nhanh chóng chỉ khi các
giấy tờ, thủ tục của cơ quan có thẩm quyền, uỷ ban các cấp được giải quyết
kịp thời. Hiện nay ở nước ta, thủ tục, giấy tờ còn khá rườm rà, mất thời gian
làm ảnh hưởng tới tốc độ giải ngân, gây thiếu vốn, làm chậm quá trình sản
xuất kinh doanh của DN.
1.2.2.2- Các chỉ tiêu định lượng
 Doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ và kết cấu dư nợ
- Doanh số cho vay phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân cho
DN trong đầu tư cải tiến máy móc thiết bị, ứng dụng công nghệ mới, mở rộng
sản xuất kinh doanh. Con số và tốc độ của doanh số cho vay qua các năm
phản ánh quy mô và xu hướng của hoạt động tín dụng là mở rộng hay thu hẹp.
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
21
Chuyên đề tốt nghiệp
- Doanh số thu nợ phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã thu hồi được
trong một thời kỳ.
- Dư nợ phản ánh lượng vốn mà khách hàng còn nợ ngân hàng tại một
thời điểm cụ thể.
- Kết cấu dư nợ là tỷ lệ phần trăm các khoản mục dư nợ chia theo kỳ hạn
khoản vay, thành phần kinh tế, các ngành kinh tế
Các chỉ tiêu về doanh số cho vay, dư nợ tuy có nói lên khả năng của
ngân hàng trong hoạt động cho vay, tuy nhiên nó chưa khẳng định được chất

lượng tín dụng của ngân hàng có phải là cao hay không, muốn khẳng định
được điều đó chúng ta phải thông qua các chỉ tiêu sẽ nói tới dưới đây.
 Hệ số sử dụng vốn vay
Công thức:
Tổng dư nợ
Hệ số sử dụng vốn vay =
Tổng nguồn vốn huy động
- Hệ số này phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn huy động trong hoạt
động cho vay của các NHTM. Hệ số này luôn nhỏ hơn 1. Hệ số sử dụng vốn
cao là một tín hiệu tốt đối với hoạt động tín dụng, nhưng nếu hệ số này tiến
quá gần tới 1 thì ngân hàng cần đề phòng trường hợp mất khả năng thanh
toán. Nếu hệ số sử dụng vốn thấp cần tăng trưởng dư nợ hoặc giảm huy động
vốn bằng cách hạ lãi suất huy động hạn chế rủi ro nguồn vốn tác động đến
hiệu quả kinh doanh.
 Tỉ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ
Công thức:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100 %
Tổng dư nợ
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
22
Chuyên đề tốt nghiệp
Đây là chỉ tiêu phản ánh rõ nhất về chất lượng tín dụng ngân hàng. Nếu
tỷ lệ nợ quá hạn cao thì chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động kém hiệu quả, chất
lượng tín dụng không cao. Ngược lại nếu tỷ lệ nợ quá hạn thấp chứng tỏ chất
lượng tín dụng cao, rủi ro đối với ngân hàng thấp.
Nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn thường chia làm hai loại:
* Nguyên nhân thứ nhất: Nợ quá hạn do kỳ hạn trả nợ ngắn hơn chu kỳ
sản xuất kinh doanh hoặc vì một lý do nào đó chưa thu được tiền bán hàng
nên đến kỳ hạn trả nợ khách hàng chưa có tiền trả, ngân hàng buộc phải

chuyển khoản nợ đó sang nợ quá hạn, loại nợ quá hạn này khả năng thu được
nợ của ngân hàng cao.
* Nguyên nhân thứ hai: Nợ quá hạn do khách hàng vay vốn kinh doanh
thua lỗ, bị phá sản hoặc không còn khả năng trả nợ lúc này ngân hàng phải
chuyển các khoản nợ này sang nợ quá hạn chờ xử lý. Loại nợ quá hạn này gọi
là “nợ khó đòi”, khả năng thu hồi vốn ít.
Nợ khó đòi
 Tỷ lệ nợ khó đòi =
Tổng dư nợ
Các ngân hàng thương mại thường dùng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý
giảm hoặc xoá nợ theo tình hình thực tế từng món vay để giảm tỷ lệ nợ quá
hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn phụ thuộc vào tổng dư nợ chuyển sang nợ quá hạn và
tổng dư nợ tại một thời điểm, thường là ngày cuối quý hoặc ngày cuối năm.
Để giảm tỉ lệ nợ quá hạn các ngân hàng thương mại thường giảm giá trị tuyệt
đối nợ quá hạn nếu dư nợ tín dụng tăng không đáng kể hoặc vừa giảm nợ quá
hạn vừa tăng tín dụng. Trường hợp không thể giảm được nợ quá hạn hoặc
giảm không đáng kể, các ngân hàng thương mại thường tăng tổng dư nợ tín
dụng, tức là tăng quy mô dư nợ tín dụng. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ nợ quá
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
23
Chuyên đề tốt nghiệp
hạn dưới 8% trên tổng dư nợ có thể chấp nhận được. Tỷ lệ này càng thấp
chứng tỏ hoạt động tín dụng của các ngân hàng này càng cao.
 Tốc độ quay vòng vốn tín dụng
Công thức:
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này cho ta biết số lần vốn từ ngân hàng đến tay khách hàng rồi

quay lại đúng thời hạn trong một thời gian nhất định. Tốc độ luân chuyển vốn
cao chứng tỏ đồng vốn của ngân hàng đã tham gia nhiều vào chu kỳ sản xuất
kinh doanh của DN. Với số lượng vốn nhất định, nhưng do tốc độ vòng quay
vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng không những đáp ứng được nhu cầu vốn
cho các doanh nghiệp mà còn thêm nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho các
doanh nghiệp khác thực hiện phát triển sản xuất kinh doanh. Vòng quay vốn
tín dụng nhanh chứng tỏ tốc độ quay vòng vốn của các DN vay vốn cao, các
DN hoạt động có hiệu quả với đồng vốn vay của ngân hàng.
1.3- Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng đối với
DNVVN
1.3.1- Các nhân tố chủ quan
 Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là hệ thống các chủ trương, định hướng quy định
chi phối hoạt động tín dụng do Hội đồng quản trị của các ngân hàng đưa ra
nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, các hộ gia
đình và cá nhân trong phạm vi cho phép của những quy định của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
Các ngân hàng lập ra chính sách tín dụng nhằm mục đích:
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
24
Chuyên đề tốt nghiệp
- Chính sách tín dụng xác định những giới hạn áp dụng cho các hoạt động tín
dụng. Đồng thời cũng thiết lập môi trường nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt
động tín dụng.
- Chính sách tín dụng được đưa ra nhằm bảo đảm rằng mỗi quyết định
tín dụng đều khách quan, tuân thủ quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và phù hợp thông lệ chung của quốc tế. Không một tổ chức, cá nhân nào
được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu
nợ của các NHTM. Chính sách tín dụng xác định:
* Các đối tượng có thể vay vốn của ngân hàng

* Phương thức quản lý các hoạt động tín dụng
* Các loại sản phẩm tín dụng khác nhau do ngân hàng cung cấp
* Những ràng buộc về tài chính
* Nguồn vốn dùng để tài trợ các hoạt động tín dụng
* Phương thức quản lý danh mục cho vay
* Thời hạn và điều kiện áp dụng cho các loại sản phẩm tín dụng khác
nhau
 Tình hình huy động vốn của ngân hàng
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ
yếu là “đi vay để cho vay”, bởi vậy nếu không đi vay được tức là ngân hàng
không có vốn để đem cho vay. Nguồn vốn huy động được càng lớn và đa
dạng về kỳ hạn, về hình thức thì càng tạo điều kiện cho hoạt động cho vay
phát triển. Bên cạnh đó, chi phí huy động vốn cũng ảnh hưởng lớn tới lãi suất
cho vay, vì lãi suất cho vay phải đủ để trang trải chi phí đầu vào. Nếu chi phí
huy động cao thì lãi suất cho vay cũng phải cao. Chất lượng hoạt động huy
động cũng phụ thuộc vào chất lượng cho vay, chúng phụ thuộc lẫn nhau. Nếu
ngân hàng huy động được nhiều vốn mà không cho vay hết được số đó sẽ dẫn
Sinh viên: Phạm Thị Cúc Lớp: TCDN 46B
25

×