Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

khảo sát thực trạng dạy và học tiếng anh tại đại học ngân hàng thành phố hồ chí minh để tìm ra giải pháp quản lý hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.15 KB, 84 trang )











Khảo sát thực trạng dạy và học tiếng
Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố
Hồ Chí Minh để tìm ra giải pháp quản
lý hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo của trường



Hà Thành Hưng
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân dân Việt Nam cũng như các dân tộc khác trên toàn thế giới đang sống trong những
năm đầu của thiên niên kỷ thứ 3. Đây là thời kỳ mà theo nhiều nhà khoa học đầu ngành thuộc
mọi lónh vực nhận đònh: Ngày nay đang xuất hiện một xã hội thông tin, một nền kinh tế tri thức,
một thế giới phụ thuộc vào nhau mà phát triển (nếu không gọi là toàn cầu hóa) trong khi mỗi
nước vẫn giữ vững nền độc lập, tự chủ và bản sắc văn hóa dân tộc của đất nước mình.
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới,
trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010, Đảng và Nhà nước ta đã xác đònh:
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo đònh hướng xã hội chủ nghóa, xây dựng nền tảng
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.” [ 29 ; 222]
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam, hoạt động ngân hàng có một


tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình thúc đẩy kinh tế hội nhập theo xu hướng toàn cầu hóa
nền kinh tế. Chính hệ thống các ngân hàng là khâu đột phá trong hội nhập kinh tế để tạo ra môi
trường tiền tệ - tài chính rộng mở và an toàn cho các chủ thể kinh tế có thể hội nhập một cách
thuận lợi nhất. Sự phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam luôn gắn bó với sự phát triển của
nền kinh tế trong tương lai.
Một trong những yếu tố quyết đònh để ngành ngân hàng hoàn thành sứ mạng của mình là
nguồn nhân lực. Thực tế đã chứng minh, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, người cán bộ ngân
hàng không những phải giỏi về trình độ chuyên môn, vi tính mà còn phải giỏi về ngoại ngữ. Bởi
vì, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, hơn lúc nào hết, ngoại ngữ là một công cụ
để giúp cho người sử dụng nó tiếp thu các tư tưởng và kỹ thuật tiên tiến, đồng thời tạo lập những
mối quan hệ cần thiết, đôi khi có tính quyết đònh cho thành công.
Xuất phát từ yêu cầu bức thiết của thực tế về việc đào tạo con người mới cho nền kinh tế
tri thức, xu hướng phát triển tất yếu của ngành Ngân hàng Việt Nam đã đặt ra cho Trường Đại
học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Đó là phải đổi mới
nội dung chương trình đào tạo, phương pháp dạy-học, trong đó có việc đổi mới phương pháp dạy
– học tiếng Anh, đặc biệt là tiếng Anh chuyên ngành tài chính ngân hàng nhằm đào tạo ra
nguồn nhân lực có thể đáp ứng được mọi đòi hỏi khắt khe của xã hội.
Tuy nhiên, việc dạy ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng tại Trường Đại học
Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh còn nhiều điều bất cập: nội dung chương trình học, kế
hoạch dạy-học, giáo trình, phương pháp dạy học, cơ sở vật chất và trang thiết bò dạy học còn
chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo, dẫn đến chất lượng dạy và học tiếng Anh bò hạn chế. Chính
vì vậy, đề tài: “ Khảo sát thực trạng dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ
Chí Minh để tìm ra giải pháp quản lý hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường"
được nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khảo sát thực trạng dạy và học tiếng Anh nhằm tìm ra các giải pháp quản lý hữu hiệu
trong việc dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh để góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo của trường.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các giải pháp quản lý việc dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân
hàng Thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường.
3.2. Khách thể nghiên cứu: Đội ngũ giảng viên dạy môn tiếng Anh tại trường và sinh viên của
trường.
4. Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu được tác động tích cực bởi các biện pháp quản lý hữu hiệu thì chất lượng dạy và học môn
tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh sẽ được nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
5.1. Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài
5.2. Tìm hiểu thực trạng dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh
5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý việc dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành
phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường.
6. Giới hạn đề tài
6.1.Phạm vi nghiên cứu :
Nghiên cứu thực trạng dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí
Minh để tìm ra giải pháp quản lý hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường.
6.2. Đòa bàn nghiên cứu :
Hoạt động dạy và học tiếng Anh của sinh viên và giảng viên tiếng Anh, Bộ môn Ngoại
ngữ Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây đã được thực hiện trong quá trình chúng tôi
làm nhiệm vụ nghiên cứu:
7.1. Nghiên cứu tài liệu nhằm thu thập tư liệu để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài
7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò dành cho sinh viên và giảng viên
Quá trình tiến hành:
7.2.1. Giai đoạn 1: Xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến
Phiếu trưng cầu ý kiến được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận, mục đích và nhiệm vụ của
đề tài nghiên cứu, đồng thời dựa trên sự tham khảo những đề tài có liên quan đã được nghiên
cứu .
Phiếu trưng cầu ý kiến có hai loại:

- Phiếu trưng cầu ý kiến dành cho giảng viên gồm 40 câu hỏi được soạn thảo dưới những
hình thức khác nhau (xem phụ lục 1). Đa số câu hỏi gồm 3 lựa chọn, có một số câu hỏi có 5 lựa
chọn để giảng viên lựa chọn một lựa chọn . Có loại câu hỏi gồm 7 lựa chọn và giảng viên được
quyền chọn một hoặc hơn một điều mà họ thấy phù hợp với ý kiến của mình .
- Phiếu trưng cầu ý kiến dành cho sinh viên gồm 44 câu được soạn thảo dưới nhiều hình
thức khác nhau ( xem phụ lục 2 ) . Đa số câu hỏi có 3 lựa chọn, có một số câu hỏi có 2 hoặc 5
lựa chọn để sinh viên chọn một lựa chọn. Cũng có loại câu hỏi gồm 7 lựa chọn và sinh viên
được quyền chọn một hoặc hơn một lựa chọn mà họ thấy phù hợp với ý kiến của mình .
Hai bản trưng cầu ý kiến trên có nội dung cơ bản về thực trạng công tác quản lý việc dạy
và học tiếng Anh tại Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh .
7.2.2. Giai đoạn 2 : Trưng cầu ý kiến
7.2.3. Giai đoạn 3 : Tiến hành phân loại , xử lý số liệu , thống kê tần số , tính phần trăm và nhận
xét về từng vấn đề
7.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Mục đích của phương pháp nghiên cứu sản phẩm là để đánh giá trình độ tiếng Anh của
sinh viên khi bắt đầu vào trường và khi ra trường nhằm xác đònh chính xác nhiệm vụ quản lý
hoạt động dạy và học tiếng Anh tại Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh .
Quá trình tiến hành:
7.3.1. Kiểm tra đầu vào:
- Xây dựng bài kiểm tra đầu vào dựa trên chương trình tiếng Anh mà sinh viên đã học ở trường
phổ thông
- Tổ chức cho sinh viên làm bài kiểm tra
- Chấm bài và phân loại kết quả: thống kê tần số bài đạt loại xuất sắc, giỏi, khá,trung bình, yếu,
kém và tính tỷ lệ phần trăm
7.3.2. Lấy kết quả đầu ra
- Liên hệ với các khoa để xin kết quả thi hết môn của sinh viên
- Tiến hành phân loại, thống kê tần số, tính tỷ lệ phần trăm
7.3.3. So sánh kết quả đầu vào và đầu ra, vẽ đồ thò minh họa và viết nhận xét
7.4. Tổng kết kinh nghiệm
7.5. Phương pháp thống kê để xử lý số liệu. Tất cả số liệu thống kê được xử lý theo phần mềm

SPSS for Win 9.1.
Dùng phương pháp toán thống kê để phân tích và xử lý các số liệu thu thập được để đònh
lượng các kết quả nghiên cứu.
Thống kê kết quả của các phiếu trưng cầu ý kiến và xử lý thô .
Thống kê tần số.
Tính tỷ lệ phần trăm.
8. Tiến trình nghiên cứu

8.1. Hoàn chỉnh tóm tắt đề cương tháng 8/2003
8.2. Thăm dò ý kiến giảng viên, và sinh viên Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh:
tháng 9 và 10 năm 2003.
8.3. Tìm hiểu nội dung chương trình và kế hoạch dạy-học của một số trường đại học thuộc khối
các ngành kinh tế: tháng 9, 10/2003
8.4. Xử lý số liệu: tháng 04/2004
8.5. Viết báo cáo kết quả và hoàn thành luận văn: tháng 10 /2004.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lòch sử vấn đề nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc
đại học, trong đó có việc quản lý dạy – học ngoại ngữ, đặc biệt là ngoại ngữ chuyên ngành,
nhiều nhà khoa học, cán bộ giảng dạy đã quan tâm, nghiên cứu đề tài đổi mới công tác quản lý
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học như:
- Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục của Nguyễn Đức Quyết “Thực trạng và một
số giải pháp quản lý nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả sử dụng ngoại ngữ của cán bộ giảng dạy
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh” năm 2002. [ 12 ]
Tác giả đã khảo sát để đánh giá đúng trình độ ngoại ngữ, thực tế và hiệu quả sử dụng ngoại
ngữ trong công tác chuyên môn-nghiệp vụ và nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ giảng

dạy Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả cũng đã phân tích rõ các nguyên
nhân của thực trạng đó để đưa ra giải pháp quản lý nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả sử dụng
ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong nhà trường.
- Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục của Trần Thò Bình “Thực trạng và biện
pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý việc giảng dạy tiếng Anh ở các khoa không chuyên
ngữ tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh” năm 2002.
Tác giả đã tìm hiểu thực trạng việc giảng dạy tiếng Anh ở các khoa không chuyên ngữ tại
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó xác đònh nguyên nhân của thực
trạng và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý việc giảng dạy tiếng Anh ở
các khoa đã nêu ở trên của trường [18].
- Trong các cuộc hội thảo khoa học chuyên ngành, tạp chí Nghiên cứu Giáo dục… nhiều bài
tham luận, nhiều ý kiến khoa học cũng đã được đề xuất như :
- Bài : "Nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ hệ không chính quy của Trường Đại học Ngoại
ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội" của PGS.TS. Trần Hữu Luyến - Trường Đại học Ngoại Ngữ Hà
Nội, [ 17 ] .
- Bài: "Nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ hệ không chính quy nhìn từ góc độ động lực" của
Trần Xuân Điệp - cán bộ giảng dạy Khoa Anh - Đại học Ngoại Ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Bài : "Một vài biện pháp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ không chính quy"
của giảng viên Kim Văn Tất - Khoa Ngôn ngữ và Văn học Anh Mỹ - Đại học Ngoại ngữ, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
- Bài : "Phát huy tính tích cực học tập - là một biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ
không chính qui" của TS. Đỗ Thò Châu - Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia - Hà Nội
Những bài viết trên đã được in trong kỷ yếu Hội thảo khoa học : "Nâng cao chất lượng
đào tạo ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội" được tổ chức tại
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2001. Trong các bài tham luận này,
các tác giả từ những góc độ khác nhau đã đề cập đến những vấn đề khác nhau của công tác
quản lý chất lượng đào tạo, đến cách dạy và học ngoại ngữ và đều thống nhất một ý kiến rằng -
cần phải đổi mới cách dạy và học để nâng cao chất lượng giáo dục ngoại ngữ cho học sinh, sinh
viên.
Trên tạp chí nghiên cứu giáo dục, ngày càng xuất hiện nhiều bài viết về các vấn đề của

giáo dục ngoại ngữ. Bài : " Giáo dục ngoại ngữ trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập" của
Bùi Hiền đăng tải trên tạp chí giáo dục số 44/2002; bài " Hệ đào tạo ngoại ngữ chuyên ngành II
một loại hình đào tạo mới" của TS. Nguyễn Ngọc Ly Liên; bài "Về việc dạy tiếng Anh hệ tại
chức của Th.S. Phạm Khải Hoàn đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Giáo Dục số 10/92 .
Ngay tại Hội nghò Giáo dục Đại học được tổ chức vào tháng 3 năm 2004 tại Hà Nội, trong
bài phát biểu "Những kiến nghò về giải pháp cấp bách để đổi mới giáo dục Việt Nam và Hội
nhập quốc tế." GS.TS. Mai Quốc Liên cũng thấy rằng: "Cần cấp bách có một chiến lược ngoại
ngữ để phủ khắp tiếng Anh trong các trường học toàn quốc." [ 9 ; 6]
Các đề tài và nghiên cứu được nêu ở trên đã đề cập đến nhiều vấn đề của việc quản lý
việc dạy và học ngoại ngữ trong đó có dạy – học tiếng Anh. Tuy nhiên, chưa thấy tác giả nào
nghiên cứu sâu vấn đề một cách có hệ thống về quản lý dạy và học tiếng Anh trong một trường
đại học cụ thể thuộc khối các ngành kinh tế.
Vì thế, tôi hy vọng rằng nghiên cứu đề tài này sẽ trực tiếp góp phần vào việc cải tiến, đổi
mới phương pháp quản lý việc dạy và học tiếng Anh tại Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí
Minh nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường.

1.2. Những khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Quản lý Giáo dục
Có thể hiểu quản lý giáo dục vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Quản lý giáo dục một
cách khoa học đòi hỏi người quản lý phải có những hiểu biết về đối tượng quản lý (giảng viên,
cán bộ công nhân viên, sinh viên, các lực lượng xã hội tham gia vào giáo dục…) và phải biết
cách vận dụng linh hoạt các qui luật, các phương pháp thích hợp trong từng trường hợp cụ thể.
Đối tượng trong quản lý giáo dục là những con người cụ thể và các mối quan hệ được hình thành
một cách tự nhiên giữa các con người cụ thể, giữa các nhóm người, tạo nên một mạng lưới phức
tạp và đa dạng mà chủ thể quản lý phải xử lý khi thực hiện các chức năng của mình. Nhiệm vụ
của quản lý là biết biến các mối quan hệ nói trên thành những yếu tố tích cực, hạn chế xung đột
và tạo nên môi trường thuận lợi để thực hiện mục tiêu. Ở khía cạnh này, quản lý là một nghệ
thuật. Đó là bí quyết làm việc với con người, bí quyết sắp xếp các nguồn lực của tổ chức, là sự
sáng tạo khi đối phó với những tình huống khác nhau trong hoạt động của tổ chức. Quản lý giáo
dục có các chức năng chính như: lập kế hoạch, tổ chức, quản lý nhân sự, lãnh đạo, kiểm tra và

ra quyết đònh. Thông tin đóng vai trò quan trọng trong từng giai đoạn nói trên để thực hiện các
chức năng quản lý, đảm bảo cho việc thực thi các quyết đònh giáo dục và có liên quan đến giáo
dục thành công trong thực tiễn.
1.2.2. Quản lý chất lượng giáo dục đại học
Quản lý chất lượng giáo dục đại học là hoạt động nhằm mục đích đảm bảo chất lượng
đào tạo của những trường đại học. Hệ thống quản lý chất lượng đại học thường phải triển khai
các hoạt động sau:
 Xây dựng tiêu chí, quy trình, các tài liệu hướng dẫn và công cụ để đánh giá chất lượng
đại học.
 Theo dõi đảm bảo chất lượng và các hoạt động tự đánh giá bên trong với sản phẩm là
một báo cáo tự đánh giá.
 Tổ chức các đợt đánh giá từ bên ngoài về chất lượng khái quát của từng trường đại học
hoặc từng ngành đào tạo, công bố báo cáo đánh giá.
 Phổ biến các điển hình tốt về đảm bảo chất lượng đại học, về phương pháp giảng dạy,
phương pháp thi cử. [2;324]
1 .2.3. Quá trình dạy học đại học
Quá trình dạy học là quá trình hoạt động thống nhất của thày (tác nhân) và trò (chủ thể),
trong đó thày giữ vai trò tổ chức, chỉ đạo, đánh giá hoạt động học của trò, tạo điều kiện cho trò
tích cực, độc lập hoạt động nhằm nắm vững được đối tượng của việc dạy học ( tri thức, kó năng,
thái độ … )
Quá trình dạy học cũng có khi được gọi là quá trình sư phạm theo nghóa hẹp. Quá trình
sư phạm theo nghóa rộng bao gồm quá trình dạy học và quá trình giáo dục.
Quy luật cơ bản của quá trình dạy học: hoạt động dạy và hoạt động học phải thống nhất
và biện chứng với nhau. Dạy và học là hai mặt không thể thiếu được của quá trình dạy học.
[2.,326]
1.3. Yêu cầu đổi mới về chất lượng đào tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng
1 .3.1. Yêu cầu đổi mới về chất lượng giáo dục - đào tạo
Chất lượng đào tạo được đánh giá qua mức độ đạt được trước mục tiêu đào tạo đã đề ra
cho một chương trình đào tạo.
Chất lượng đào tạo là kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về

phẩm chất, năng lực hành nghề, giá trò nhân cách của người tốt nghiệp một chương trình đào tạo
theo các ngành nghề cụ thể. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực của thò trường lao động, quan niệm
về chất lượng đào tạo đại học không chỉ dừng ở kết quả của quá trình đào tạo trong nhà trường
với những điều kiện đảm bảo nhất đònh như cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên … mà còn phải
tính đến mức độ phù hợp và sự thích ứng của người đã được đào tạo với thò trường lao động.
Điều này được phản ánh ở tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp, năng lực hành nghề tại
các cơ sở, doanh nghiệp, cơ quan hay các tổ chức sản xuất, dòch vụ cùng với khả năng phát triển
nghề nghiệp của họ tại các cơ sở này.
Từ quan niệm trên về chất lượng đào tạo, hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo
đại học đối với từng ngành đào tạo bao gồm các tiêu chí sau:
- Các phẩm chất về xã hội, nghề nghiệp (đạo đức, ý thức, trách nhiệm, uy tín …).
- Các chỉ số về sức khỏe, tâm lý
- Trình độ kiến thức, kỹ năng chuyên môn
- Năng lực hành nghề
- Khả năng thích ứng với thò trường lao động
- Năng lực nghiên cứu và tiềm năng phát triển nghề nghiệp
1 .3.2. Yêu cầu đổi mới về chất lượng đào tạo đại học
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 của Đảng xác đònh: “Đổi mới phương
pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực
hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay. Đổi mới
và tổ chức thực hiện nghiêm minh chế độ thi cử. Đề cao tính tự chủ của các trường đại học.” [
31 ; 203 –204 ]
Thực hiện nghò quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã xác đònh
kế hoạch triển khai công tác đổi mới chất lượng giáo dục trong đó khẳng đònh: "Các trường đại
học, cao đẳng đẩy nhanh quá trình đổi mới và hiện đại hóa nội dung chương trình và phương
pháp đào tạo; tăng cường dạy ngoại ngữ và công nghệ thông tin; liên kết với các trường đại học,
cao dẳng có uy tín trong khu vực và trên thế giới để nâng cao chất lượng đào tạo, hội nhập với
nền giáo dục các nước … Các trường phải đảm bảo đủ giáo trình và tài liệu học tập cho sinh
viên, chú ý sử dụng thông tin, tư liệu khoa học qua Internet[ 5 ].
Trước những yêu cầu đổi mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong điều kiện toàn

cầu hóa, mở rộng giao lưu và hội nhập kinh tế quốc tế, công tác giáo dục-đào tạo không thể coi
nhẹ việc giáo dục ngoại ngữ nói chung và giáo dục tiếng Anh nói riêng trong các trường đại
học. Ngoại ngữ là một phương tiện đặc biệt quan trọng và không thể thiếu trong việc đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
1 .4. Vai trò của ngân hàng và tầm quan trọng của ngoại ngữ trong thời kỳ đổi mới đất
nước
1.4.1. Vai trò của ngân hàng trong thời kỳ đổi mới đất nước
Hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại nói chung và trong nền kinh tế nước ta
nói riêng có một tầm quan trọng đặc biệt.
Ngành ngân hàng mà đứng đầu là Ngân hàng Trung ương chòu trách nhiệm thực hiện
chính sách tiền tệ, cung ứng tiền cho nền kinh tế, điều hành chính sách lãi suất, điều hành chính
sách tỷ giá, nhằm đảm bảo cho nền kinh tế có một sự phát triển bền vững, lâu dài.
Có thể nói Ngân hàng Trung ương là một cơ quan quản lý vó mô có chức năng điều tiết
mọi hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thò trường hiện đại.
Tuy nhiên, Ngân hàng Trung ương chỉ là cơ quan quản lý nhà nước, Ngân hàng Trung
ương không trực tiếp quan hệ với các chủ thể trong nền kinh tế, mà chính các ngân hàng thương
mại mới là các tổ chức có chức năng huy động các nguồn vốn, quan hệ với Ngân hàng Trung
ương để tái cấp vốn, qua đó sử dụng nguồn vốn huy động để cung ứng cho nền kinh tế, tổ chức
thanh toán hộ cho khách hàng và cung cấp các dòch vụ tài chính - ngân hàng khác cho khách
hàng khi khách hàng có nhu cầu.
Với các hoạt động nói trên của hệ thống ngân hàng, chúng ta có thể thấy vai trò của hệ
thống ngân hàng như là hệ thống tuần hoàn của nền kinh tế, nó có chức năng "sản xuất" và điều
tiết cho nền kinh tế và cụ thể hơn cho các chủ thể của nền kinh tế một "lượng máu" cần thiết để
đảm bảo cho sự phát triển bền vững và hài hoà của "cơ thể" nền kinh tế.[ ]
Hoạt động ngân hàng là một phát kiến vó đại của nhân loại nó làm cho mọi quan hệ khác
trong xã hội từ quan hệ kinh tế, đến quan hệ xã hội đều trở nên dễ dàng hơn. Chính nhờ vào
tiền tệ và hệ thống ngân hàng mà sản phẩm, dòch vụ của nhà sản xuất có thể vươn ra thò trường
thế giới, phục vụ cho mọi dân tộc, không phân biệt màu da, ngôn ngữ, nền văn minh khác nhau.
Trong tương lai, quan hệ tài chính – ngân hàng sẽ gắn bó các dân tộc, nền kinh tế với
nhau thành một chỉnh thể kinh tế, mà ở đó mọi người sẽ sống với nhau một cách hoà bình trong

một nền kinh tế thònh vượng, với một chất lượng văn minh cao.
1.4.2. Vai trò của ngoại ngữ trong thời kỳ đổi mới đất nước
Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thò số 422/TTg ngày 15/08/1994 để chỉ thò cho
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) cho đội ngũ cán bộ
quản lý và công chức thuộc phạm vi quản lý của mình, phấn đấu đến hết năm 1997 có thể sử
dụng ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) và cán bộ quản lý, công chức Nhà nước được sử dụng
một phần thời gian hợp lý trong giờ hành chính để học ngoại ngữ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã chỉ đạo các trường đại học phải xây dựng đề án đưa
việc giảng dạy ngoại ngữ vào chương trình bắt buộc. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ tài
chính chòu trách nhiệm cân đối và cấp phát kinh phí cho sự nghiệp này. Ban Tổ chức - Cán bộ
Chính phủ chòu trách nhiệm theo dõi việc triển khai thực hiện kế hoạch, phân bố chỉ tiêu, chiêu
sinh đối tượng là cán bộ trung, cao cấp đi học ngoại ngữ. Chỉ thò đã nêu rõ cán bộ từ cấp thứ
trưởng trở xuống, dưới 45 tuổi phải sử dụng được ít nhất một ngoại ngữ thông dụng là yêu cầu
bắt buộc. Điều này được coi là một tiêu chuẩn và điều kiện để xem xét đề bạt, nâng ngạch, cử
đi công tác nước ngoài.
Liên quan đến công tác đào tạo ngoại ngữ, ngày 20/11/1996, Thủ tướng Chính phủ ra tiếp
quyết đònh số 874/TTg, Điều 2 của văn bản này ghi rõ: “Đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán
bộ, công chức Nhà nước để tăng cường khả năng giao tiếp, nghiên cứu tài liệu nước ngoài trong
lónh vực chuyên môn.”
Để phối hợp trách nhiệm giữa các ngành, ngày 19/09/1997 liên tòch Ban Tổ chức Cán bộ
Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Giáo dục đã ra thông tư liên tòch số 79/TTLT
và thông tư liên tòch số 171/TTLB ngày 04/11/1994 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và Bộ
Giáo dục và Đào tạo để hướng dẫn thực hiện chỉ thò nói trên.
Chưa bao giờ việc học ngoại ngữ lại có nhiều văn bản pháp lệnh như thế. Điều đó chứng
tỏ ngoại ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực và là thực tế
khách quan cần thiết. Ngoài khoa học chuyên ngành, ngoại ngữ và tin học là một nội dung đào
tạo bắt buộc. Đó là phương tiện không thể thiếu được đối với cán bộ quản lý và công chức, đặc
biệt trong bối cảnh khoa học kỹ thuật đang phát triển với tốc độ như vũ bão hiện nay. Ngoại ngữ
không những giúp chúng ta tiếp cận những thành tựu khoa học, những thông tin mới nhất, mà

còn là cầu nối, là phương tiện giao lưu giữa các quốc gia, các dân tộc.
Đối với sinh viên, ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng là công cụ hữu hiệu để
sinh viên tự đào tạo mình ngay khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường và sau khi ra trường.
1.5. Quản lý giảng dạy và học tập tiếng Anh trong trường đại học
Trong công tác quản lý dạy và học tiếng Anh tại các trường đại học, trước hết cần làm rõ
những vấn đề sau:
1.5.1. Quản lý mục tiêu môn học
Quản lý mục tiêu giáo dục của môn học tiếng Anh tại trường đại học phải dựa vào chất
lượng đầu ra nghóa là đánh giá được kiến thức, kỹ năng, thái độ của học sinh đã tốt nghiệp.
Đánh giá không chỉ nhằm xác đònh mức độ chất lượng mà còn nhằm xác đònh sự tiến bộ về các
mặt từ khi sinh viên vào trường tới khi sinh viên ra trường. Đánh giá theo tiêu chí này là đánh
giá hiệu quả đào tạo của một trường đại học.
Mục tiêu đào tạo của môn học tiếng Anh cho sinh viên các khoa không chuyên ngữ tại
các trường đại học là:
Nâng cao kiến thức tiếng Anh tổng quát và cung cấp kiến thức tiếng Anh chuyên ngành
cho sinh viên, giúp họ có thể tham khảo tài liệu chuyên ngành bằng tiếng Anh trong học tập,
nghiên cứu khoa học, có năng lực giao tiếp cơ bản trong lónh vực xã hội và chuyên môn ngay từ
khi còn học tập tại trường và trong nghề nghiệp của họ ở tương lai.
Hoạt động dạy – học tiếng Anh cho sinh viên của các khoa không chuyên ngữ của môn
học .
1.5.2. Quản lý trình độ đầu vào của sinh viên
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quy đònh tạm thời về mục tiêu và kế hoạch dạy học của
trường phổ thông trung học. Quy đònh này có hiệu lực từ ngày 22/03/2002. Một trong những mục
tiêu xác đònh là học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học phải có khả năng sử dụng một
ngoại ngữ trong giao tiếp thông thường. Trình độ tiếng Anh ban đầu của sinh viên khi vào
trường đại học phải ở mức cơ bản, có sự hiểu biết khái quát về đất nước, con người và văn hoá
của một số nước sử dụng tiếng Anh.
Nếu xét theo yêu cầu của Bộ, khi vào trường đại học, sinh viên đã có khả năng sử dụng
tiếng Anh như một công cụ giao tiếp ở mức độ đơn giản, cơ bản, phổ thông ở cả 4 lónh vực :
nghe - nói - đọc - viết. Cụ thể là:

 Khả năng nghe:
Nghe hiểu các cuộc hội thoại trực tiếp bằng tiếng Anh ở mức độ đơn giản, phổ thông có
liên quan đến các chủ đề, ngôn ngữ đã được học trong chương trình. Đồng thời, nghe hiểu các ý
chính trên phương tiện thông tin đại chúng những thông tin liên quan đến chủ đề và nội dung
ngôn ngữ đã học.
 Khả năng nói :
- Trao đổi trực tiếp bằng ngôn ngữ nói ở mức độ đơn giản các tình huống giao tiếp hàng ngày
thông qua việc vận dụng các kiến thức ngôn ngữ cơ bản về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
- Diễn đạt được ý mình trong những tình huống giao tiếp thông thường có liên quan đến những
chủ đề quen thuộc thông qua việc vận dụng các chức năng ngôn ngữ đã học.
 Khả năng đọc :
- Có kỹ năng đọc hiểu cơ bản các đoạn văn trong phạm vi 3.000 từ liên quan đến các chủ điểm
và nội dung ngôn ngữ được qui đònh trong chương trình.
- Đọc hiểu nội dung chính các văn bản xác thực có nội dung phù hợp với sở thích cá nhân, với
những vấn đề văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật phổ thông trên cơ sở ngữ liệu và chủ đề đã
học có kết hợp với suy đoán và tra cứu.
 Khả năng viết :
- Viết để phục vụ các nhu cầu giao tiếp cá nhân và xã giao như viết thư cho bạn bè, viết các
thiệp mừng, thiệp mời sinh nhật… mô tả hoặc tường thuật các hoạt động của cá nhân, của lớp
học hoặc điền vào các phiếu, mẫu đơn các bảng điều tra…
- Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 100 đến 150 từ) có liên quan đến các chủ đề đã học trong
phạm vi nội dung ngôn ngữ được qui đònh trong chương trình. [ 8]
1.5.3. Quản lý nội dung chương trình môn ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng
1.5.3.1. Quản lý nội dung chương trình môn ngoại ngữ
Xuất phát từ mục đích , yêu cầu và dựa trên cơ sở lý luận dạy – học, môn ngoại ngữ
trong chương trình giáo dục nói chung quy đònh những nội dung thiết yếu nhất trên các mặt :
giáo dục tư tưởng đạo đức, bồi dưỡng trí thức văn hoá và rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng
ngoại ngữ. Các mặt nội dung này liên quan chặt chẽ với nhau, hợp thành một thể thống nhất với
hạt nhân trung tâm là kỹ năng giao tiếp để thông qua hoạt động dạy –học tạo nên khả năng giao
tiếp bằng ngoại ngữ cho người học . Mối tương quan các mặt nội dung như vậy chính là đặc

trưng cơ bản của môn ngoại ngữ , mà người dạy và người học cần tâm niệm trong suốt cả quá
trình chiếm lónh đối tượng môn học .

- Nội dung kỹ năng giao tiếp

Các kỹ năng thực hành là một bộ phận hợp thành không thể thiếu được của nội dung,
song môn ngoại ngữ lấy hệ thống các kỹ năng thực hành giao tiếp làm trọng tâm của nội dung
dạy –học, bởi vì hệ thống các bài tập thực hành giao tiếp không dừng lại ở chổ minh hoạ các
khái niệm khoa học, khắc sâu các ấn tượng thực tế, củng cố các hiểu biết lý thuyết, mà ở đây
thực hành giao tiếp thực sự trở thành nội dung hoạt động chủ yếu, là mục tiêu chiếm lónh hàng
đầu của cả thầy trò trong việc dạy – học ngoại ngữ . Sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu của
môn học ngoại ngữ, nếu như hoạt động chủ đạo lại không phải là rèn luyện thành thạo các kỹ
năng thực hành giao tiếp . Bởi vậy, trong mối tương quan giữa 3 phần cơ bản của nội dung dạy –
học ngoại ngữ, việc hình thành các kỹ năng giao tiếp vừa bao quát cả 2 phần nội dung tư tưởng
đạo đức và kiến thức văn hoá, vừa chi phối cả cả 2 phần nội dung đó .
Nội dung kỹ năng giao tiếp bằng ngoại ngữ ở nhà trường bao gồm 4 dạng hoạt động giao
tiếp là : nghe, nói, đọc, viết . Cả 4 phần nội dung này đều có mặt thường trực trong suốt quá
trình dạy – học ngoại ngữ .
Nội dung kỹ năng thực hành giao tiếp được thể hiện dưới dạng các bài tập tương ứng với
yêu cầu hình thành từng kỹ năng cụ thể .
- Nội dung tri thức văn hoá
Môn học ngoại ngữ có nhiệm vụ vừa trang bò cho người học những kiến thức khoa học
chuyên ngành lại vừa cung cấp, bổ sung những kiến thức thuộc tất cả các lónh vực của nền văn
hoá dân tộc chứa đựng trong tiếng nói mà nhà trường đang dạy như một ngoại ngữ cho người
học .
- Nội dung tư tưởng đạo đức
Ngoại ngữ có khả năng góp phần hình thành thế giới quan và nhân sinh quan tiến bộ cho
người học thông qua các bài học với những nội dung đa dạng và phong phú, giúp người học xây
dựng cho mình từ những thói quen đạo đức và hành vi văn minh cần thiết trong cuộc sống xã hội
đến những quan niệm và những chính kiến khoa học về tự nhiên , về xã hội, về lối sống cao đẹp

của con người .
1.5.3.2. Quản lý nội dung chương trình môn học tiếng Anh tại Trường Đại học Ngân hàng
Thành phố Hồ Chí Minh
Xác đònh nội dung chương trình của môn học tiếng Anh nhằm đạt được mục tiêu đào tạo
tại các trường đại học là vô cùng quan trọng. Dựa vào kiến thức tiếng Anh tổng quát mà sinh
viên đã có ở chương trình của trường phổ thông trung học, chương trình tiếng Anh ở Trường Đại
học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh phải tiếp tục nâng cao kiến thức tiếng Anh tổng quát
cho sinh viên, đồng thời cung cấp cho họ những kiến thức tiếng Anh chuyên ngành từ cơ bản
đến nâng cao ở các mặt của cả 3 nội dung – Giáo dục tư tưởng đạo đức, bồi dưỡng tri thức văn
hoá, chuyên môn và rèn luyện kỹ năng giao tiếp ( nghe, nói, đọc, viết) bằng tiếng Anh.
1.5.4. Quản lý cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật dạy học
Để tạo điều kiện về cơ sở vật chất và trang thiết bò đảm bảo chất lượng cho hoạt động
dạy và học, các cơ sở trường học cần thực hiện tốt các việc sau:
 Phải có đủ giáo trình và tài liệu phong phú phục vụ cho việc dạy và học.
 Sắp xếp số sinh viên đối với một lớp học ngoại ngữ không quá 30 người.
 Trong điều kiện chưa có thể trang bò các phòng học chuyên ngành đặc biệt với các phương
tiện dạy học cho bộ môn ngoại ngữ thì phòng học cho một sinh viên không được ít hơn 4m
3
/
1sinh viên, đồng thời phải đảm bảo được ánh sáng và độ thông thoáng cho phòng học.
 Phải có các trang thiết bò phục vụ cho việc dạy học ngoại ngữ (âmli, cassette, máy đèn chiếu,
băng hình, các giáo cụ trực quan…). Đối với những giờ dạy luyện nghe, sinh viên phải được bố
trí học tại phòng nghe nhìn.
 Bàn ghế, bảng và các thiết bò dạy học phải được bố trí thật khoa học.
 Phải có khu dành riêng cho việc dạy học ngoại ngữ (do đặc thù của bộ môn ngoại ngữ) để
khỏi ảnh hướng tới việc dạy các bộ môn khác.
1.5.5. Quản lý việc tổ chức dạy – học tiếng Anh
Tổ chức công tác dạy-học là một khâu rất quan trọng trong chu trình quản lý việc dạy-học ở
nhà trường, đây là một chuỗi các hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu đào tạo đề ra. Đó là:
việc lập chương trình, kế hoạch dạy-học thật khoa học, bố trí, sắp xếp, sử dụng một cách tối ưu

đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất trang thiết bò dạy-học, và đưa ra các biện pháp quản lý có
hiệu quả… Vì vậy, khi quản lý việc tổ chức dạy-học tiếng Anh cần tập trung vào những vấn đề
sau:
 Chỉ đạo việc tổ chức các hoạt động về chuyên môn, nghiệp vụ như: soạn giáo án, lên lớp, dự
giờ, kiểm tra đánh giá sinh viên…
 Sắp xếp đội ngũ giảng viên đúng chức danh, đúng chuyên môn và phân công theo năng lực.
Thường xuyên có kế hoạch tổ chức, động viên cán bộ học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, cải tiến phương pháp dạy-học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp
ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
 Tổ chức tốt việc tiếp nhận và phân phối các nguồn lực (người, kinh phí, các trang thiết bò…)
và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực này.
 Chỉ đạo, kiểm tra hoạt động giảng dạy, chủ yếu tập trung vào việc chỉ đạo tổ chức thực hiện
mục tiêu, kế hoạch, qui chế chuyên môn, kiểm tra nền nếp dạy và học, hệ thống cơ sở vật chất,
trang thiết bò phục vụ đào tạo và đặc biệt chú trọng đến việc đánh giá chất lượng dạy và học
của thầy và trò.
Việc kiểm tra, thanh tra hoạt động dạy và học không những giúp cho việc đánh giá thực
chất hoạt động dạy-học của nhà trường khi kết thúc một kỳ hoặc một năm của việc thực hiện kế
hoạch mà còn có tác dụng chuẩn bò tích cực cho kỳ hoặc năm học sau. Việc kiểm tra, đánh giá
nếu được thực hiện tốt sẽ đánh giá được một cách chính xác kết quả hoạt động, giúp cho người
quản lý đơn vò thấy được những mặt tồn tại, những lệch lạc, sai sót cùng nguyên nhân của chúng
và những vấn đề mới nảy sinh cần phải giải quyết.
1.5.6. Quản lý việc thực hiện các phương pháp dạy học môn tiếng Anh
Phương pháp dạy học là quá trình trong đó giảng viên tổ chức các hoạt động học tập của
sinh viên, hướng dẫn người học tham gia tích cực vào quá trình học tập thông qua việc dự đoán,
đưa giả thiết, tham gia tranh luận và giải quyết các tình huống có vấn đề cũng như tạo cơ hội để
sinh viên tích cực tham gia hoạt động thực hành giao tiếp thông qua các hoạt động cá nhân, theo
cặp và trong nhóm. Để có được phương pháp dạy tiếng Anh tốt, giảng viên cần được đào tạo cơ
bản, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng, có khả năng kết hợp hài hòa các phương
pháp và kỹ thuật dạy học, sử dụng hiệu quả các thiết bò, đồ dùng dạy học và các tài liệu hỗ trợ
nhằm tạo hứng thú học tập cho sinh viên.

Có nhiều phương pháp dạy-học ngoại ngữ khác nhau, sau đây là những phươg pháp hiện
đang phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam
 Phương pháp ngữ pháp – phiên dòch
Đây là một trong những phương pháp dạy – học ngoại ngữ ra đời sớm nhất thế giới nhằm
đáp ứng nhu cầu bành trướng về chính trò, lãnh thổ, tôn giáo của các nhà nước Hi Lạp, La Mã,
đạo Cơ đốc, thời cổ đại ở châu Âu.
Mục đích cơ bản của việc dạy-học ngoại ngữ cũng như tiếng Anh theo đònh hướng phương
pháp ngữ pháp-phiên dòch là giúp người học nhanh chóng và có hiệu quả tiếp xúc với các văn
bản được đặt lên hàng đầu và là tiêu chí cơ bản đánh giá chất lượng và hiệu quả của việc dạy-
học. Các kó năng nghe, nói bằng ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày là yêu cầu thứ yếu và là hệ quả
tự nhiên của quá trình đọc-dòch hiểu văn bản. Nội dung chủ yếu của quá trình dạy-học theo
phương pháp này là giới thiệu một cách có hệ thống toàn bộ ngữ pháp của tiếng nước ngoài gắn
liền với việc đưa vào những thí dụ minh họa cho các hiện tượng ngữ pháp mới, giới thiệu theo
từng giờ học và thường kết thúc bằng những bài tập đọc phục vụ cho yêu cầu rèn luyện nhằm
nắm vững các kiến thức ngôn ngữ cần thiết. Sau khi đi qua hết một vòng ngữ pháp cơ bản,
phương pháp dạy –học sẽ tập trung phân tích từ pháp, cú pháp, từ vựng của những bài học trích
dẫn được lược giản hoặc được giữ nguyên bản để đạt được yêu cầu dòch đúng, hiểu đúng nội
dung của bài khóa. Hệ thống bài tập thực hành tập trung phục vụ cho việc rèn luyện, nắm vững
những qui tắc ngữ pháp, tiến tới vận dụng thành thạo chúng để giải quyết các nhiệm vụ đọc
dòch đúng văn bản ngoại ngữ và diễn đạt được nội dung, cần thiết sang tiếng nước ngoài, chủ
yếu dưới dạng viết dòch.
Phương pháp ngữ pháp-phiên dòch hiện nay tuy đã không còn thònh hành nữa, nhưng nó
vẫn có sức sống và tỏ ra khá có hiệu quả đối với những người lớn tuổi học ngoại ngữ cốt đạt
được mục đích đọc hiểu nắm bắt thông tin qua sách báo nước ngoài.
 Phương pháp tự nhiên (hay trực tiếp)
Mục đích của phương pháp này đối lập lại các phương pháp truyền thống, lấy tiếng nói
sinh động trong đời sống sinh hoạt hàng ngày làm đối tượng chiếm lónh chủ yếu (nên người ta
thường gọi là học sinh ngữ) chứ không phải các văn bản viết như trước nữa. Để đảm bảo thực
hiện triệt để mục đích, yêu cầu nêu trên, người ta đề ra một số luận điểm có tính nguyên tắc
như :

- Bắt chước trực tiếp tiếng nói tự nhiên của người nước ngoài.
- Loại trừ tiếng mẹ đẻ ra khỏi quá trình dạy học, tuyệt đối cấm phiên dòch trong giờ học.
- Tạo tình huống học tập bằng các đồ dùng và thao tác trực quan để giải thích ý nghóa của từ
ngữ và nội dung câu nối.
- Tăng cường luyện tập thực hành (bắt chước máy móc), tránh giải thích lí thuyết ngôn ngữ dài
dòng.
Phương pháp này thực sự đã làm đổi mới cách dạy, học ngoại ngữ và mang lại hiệu quả
cụ thể, thiết thực so với phương pháp ngữ pháp – phiên dòch và tữ ngữ – phiên dòch, do đó nó
nhanh chóng được phổ biến rộng rãi tại nhiều nước ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Á.
Tuy nhiên dần dần phương pháp trực tiếp cũng bộc lộ những nhược điểm rất lớn cả trên cơ sở lí
thuyết (ngôn ngữ học, tâm lí học, xã hội học), lẫn kết quả thực tiễn, mà về sau các nhà giáo học
pháp một mặt vẫn thừa kế những điểm mạnh, mặt khác từng bước khắc phục những điểm yếu
cơ bản để đưa ngoại ngữ vào nhà trường có chất lượng cao hơn. Từ đó xuất hiện những trường
phái giáo học pháp ngoại ngữ tự nhiên (trực tiếp) như phương pháp nghe – nói, phương pháp
nghe – nhìn, .
 Phương pháp nghe – nói
Nguyên tắc cơ bản của phương pháp nghe nói là
- Đảm bảo tính giao tiếp
- Đảm bảo khẩu ngữ đi trước một bước.
- Đảm bảo mô hình hóa ngữ liệu dạy-học
- Đảm bảo hình thành hệ thống các kỹ xảo ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết).
- Có tính đến đặc điểm của tiếng mẹ đẻ.
- Đảm bảo phương tiện kỹ thuật nghe – nói.
Thực tế áp dụng phương pháp nghe – nói ở Mỹ cũng như ở nhiều nước châu Âu đã cho
những kết quả tốt hơn nhiều so với các phương pháp trước, kể cả phương pháp tự nhiên thuần
túy. Tuy nhiên người ta cũng phát hiện ra những nhược điểm khá cơ bản cần khắc phục. Dựa
trên chủ nghóa hành vi của tâm lí học, phương pháp nghe – nói quá tập trung vào sự hình thành
kó xảo ngôn ngữ theo công thức: “kích thích – phản ứng”, mà nguồn gốc của nó là những thực
nghiệm trên các hành vi của những động vật. Trong khi đó con người lại khác hẳn con vật ở chỗ
hoạt động luôn luôn có ý thức về mục đích, yêu cầu của mỗi hành động cụ thể của mình và để

đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra, con người luôn luôn có ý thức tìm đủ mọi cách, mọi phương
tiện thực hiện, lần này khác với lần trước, sáng tạo hơn, hiệu quả hơn. Hành vi máy móc, thụ
động không phải là đặc trưng hoạt động của con người, cho nên dừng lại ở những bài tập tự
động hóa ở mức kó xảo ngôn ngữ sẽ không đem đến cho người học được kó năng giao tiếp thực
sự, vì tình huống giao tiếp sinh động, luôn luôn thiên biến vạn hóa đòi hỏi người nghe, người nói
phải tích cực, chủ động, sáng tạo mới đạt được mục đích, yêu cầu trong hoạt động giao tiếp
ngôn ngữ.
 Phương pháp nghe – nhìn
Phương pháp này mang lại hiệu quả rất nhanh và thiết thực, đáp ứng được các yêu cầu
giao lưu kinh tế, văn hoá hết sức cấp bách. Người học có thể nắm được một số vốn ngoại ngữ tối
thiểu để tham gia ngay vào các hoạt động thực tiển của đời sống trong một thời gian rất ngắn .
Tuy nhiên, khi thực hiện phương pháp này, chúng ta phải đầu tư nhiều vào cơ sở vật chất, trang
thiết bò dạy –học và vốn từ, ngữ pháp của người học bò hạn chế .
Trường phái giáo học pháp nghe – nhìn có những nguyên tắc sau đây:
- Đảm bảo tính giao tiếp là chủ đạo
- Đảm bảo khẩu ngữ đi trước một bước
- Đảm bảo tính bao quát cấu trúc
- Đảm bảo đúng chức năng hoạt động lời nói
- Đảm bảo tính tình huống
- Đảm bảo kết hợp nghe-nhìn
- Loại trừ tiếng mẹ đẻ
- Tăng cường nhòp độ học tập.
Trong việc giảng dạy tiếng Anh, nếu giảng viên sử dụng hài hoà các phương pháp dạy
học trên thì sẽ nâng cao được hiệu quả việc dạy-học. Điều này đòi hỏi nhiều ở trình độ, kiến
thức của người thầy và sự nhuần nhuyễn, thành thục trong việc sử dụng các phương pháp dạy
học.
Phương pháp giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành rất đa dạng và về cơ bản cũng giống
như phương pháp giảng dạy tiếng Anh tổng quát. Cái gốc của việc dạy tiếng Anh chuyên ngành
vẫn là năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh trong lónh vực chuyên môn.
1.5.7. Quản lý trình độ của giảng viên

Tiềm lực và khả năng của đội ngũ giảng viên ở các trường học quyết đònh chất lượng đào
tạo. Giảng viên ở các trường đại học phải có bằng cấp chuyên môn và kinh nghiệm giảng dạy
theo đúng quy chuẩn về cán bộ giảng dạy đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng yêu
cầu của chương trình đào tạo phải đảm nhiệm.
Để giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành cho sinh viên, giảng viên vừa phải nắm vững toàn
bộ chương trình, vừa phải mở rộng tầm nhìn qua các tài liệu chuyên môn nhằm đảm bảo chất
lượng và hiệu quả giảng dạy. Giảng viên cũng cần phải có kiến thức về chuyên ngành, đồng
thời phải có phương pháp dạy phù hợp với giáo trình và luôn có sự nâng cao trình độ học vấn để
không những truyền đạt kinh nghiệm của bản thân cho học sinh mà còn phải cập nhật tri thức
mới, không để lạc hậu với người học trong lónh vực giảng dạy của mình.
1.5.8. Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn ngoại ngữ nói chung và tiếng
Anh nói riêng của sinh viên Việt Nam trong thời kì đổi mới
Với mục đích hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đang tiến
hành công cuộc đổi mới sâu rộng trong mọi ngành, mọi lónh vực. Đổi mới trong giáo dục đào tạo
là một yêu cầu khách quan, có tính cấp thiết nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng
được các yêu cầu của hội nhập. Một trong những yêu cầu của hội nhập là năng lực ngoại ngữ
của nguồn nhân lực. Do vậy, những quan niệm mang tính truyền thống về năng lực ngoại ngữ
cũng như năng lực về tiếng Anh trước thời kì đổi mới cần phải thay đổi nhằm đưa ra những
chuẩn mực, những tiêu chí đánh giá năng lực ngoại ngữ một cách chính xác, có hệ thống phù
hợp với sự phát triển của xã hội và kinh tế. Nói một cách cụ thể, hệ thống thi - kiểm tra ngoại
ngữ cần cải cách nhằm phục vụ đắc lực cho việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và
tuyển chọn nhân lực cho công cuộc đổi mới.
 Tổng quan việc thi – kiểm tra ngoại ngữ ở Việt Nam
Từ những năm 80 trở về trước, năng lực ngoại ngữ được đánh giá chủ yếu là kiến thức
ngôn ngữ qua ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và khả năng biên dòch. Nội dung yêu cầu thi - kiểm tra
cho bất kỳ mục đích nào thường là những bài tập mở.
Độ tin cậy của bài thi – kiểm tra khó đảm bảo do cách chấm chủ quan cho các loại bài
tập mở. Cách nhìn truyền thống trong kiểm tra đánh giá như vậy đã tác động rất nhiều tới
phương pháp dạy và học ở Việt Nam trong thời kỳ đó. Phương pháp ngữ pháp – dòch được coi là
phương pháp chủ đạo với quan niệm ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu được kết dính với nhau

theo các quy tắc nhất đònh.
Cuối những năm 70, nhờ trang thiết bò và điều kiện dạy – học tốt hơn, phương pháp trực
tiếp và phương pháp nghe nhìn được đưa vào giảng dạy trong một số trường đại học ở Việt
Nam. Song trọng tâm của việc học và dạy vẫn hướng tới khả năng nắm bắt các quy luật ngữ
pháp, từ vựng của ngôn ngữ đích. Giảng viên thường dùng hầu hết thời gian để trên lớp giảng
giải kiến thức ngôn ngữ và như vậy học sinh chỉ ngồi nghe giảng, ghi chép một cách hoàn toàn
thụ động. Kết quả của cách dạy - học này là khi hoàn thành khoá học, sinh viên có thể nắm
được kiến thức về ngôn ngữ khá tốt nhưng khả năng giao tiếp thì yếu.
Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ quản lý hành chính bao cấp sang nền kinh tế thò
trường, nhu cầu giao lưu trong và ngoài nước ngày càng tăng, với xu thế hội nhập với các nước
trong khu vực và thế giới, vai trò của ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng ngày càng trở
nên quan trọng. Thời kỳ đổi mới đòi hỏi một cách nhìn mới về việc đánh giá năng lực ngoại
ngữ, đó là năng lực giao tiếp hay năng lực thực hành ngoại ngữ.
Nói đến đánh giá năng lực thực hành ngôn ngữ là nhấn mạnh khía cạnh đánh giá năng
lực giao tiếp của người học. Tuy nhiên không thể nói đến năng lực giao tiếp nếu không có kiến
thức ngôn ngữ. Nói một cách khác, kiến thức ngôn ngữ giúp người học thực hiện các nhiệm vụ
giao tiếp đặt ra trong một bối cảnh cụ thể. Vì vậy, nội dung yêu cầu thi - kiểm tra kiến thức
ngôn ngữ được lồng vào bài thi - kiểm tra các kó năng: nghe, nói, đọc, viết qua các loại bài tập
"giao tiếp" như: chuyển hoá thông tin, điền thông tin, ghép hay chắp nối thông tin. Cách đánh
giá này phù hợp với nhu cầu sử dụng ngoại ngữ hiện nay trong xã hội, và đã tác động trực tiếp
tới nội dung, phương pháp dạy và học, chuyển từ đường hướng cấu trúc truyền thống sang đường
hướng giao tiếp, trong đó mục đích của việc dạy - học ngoại ngữ là làm cho người học có khả
năng giao tiếp một cách trôi chảy, phù hợp với các tình huống giao tiếp đích thực. Mọi hoạt
động dạy - học phải do người học thực hành đa chiều chứ không phải chỉ với giảng viên. Người
học trở thành trung tâm của mọi hoạt động dạy - học. Sản phẩm của quá trình dạy - học theo
đường hướng này đã phần nào đáp ứng được nhu cầu giao lưu, hội nhập giữa các nền văn hoá
trên thế giới trong những năm gần đây, góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Xây dựng một hệ thống thi – kiểm tra ngoại ngữ ở Việt Nam ổn đònh trong thời kì đổi mới

Các hội thảo khoa học ở nhiều cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, các công trình khoa
học đã công bố, thực tiễn đào tạo đã khẳng đònh kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng trong
quá trình dạy - học. Việc tổ chức thi / kiểm tra chuẩn mực không những giúp người học hình
thành thái độ tích cực trong học tập, giúp người học học có hiệu quả hơn, mà còn giúp giảng
viên đánh giá được hiệu quả công việc của mình, đồng thời giúp các nhà quản lý có những
quyết đònh cần thiết về công tác quản lý nội dung chương trình, giáo trình, người dạy, người học.
Kiểm tra đánh giá đóng góp vai trò làm động lực thúc đẩy hoạt động dạy - học, góp phần vào
việc nâng cao chất lượng đào tạo và tự đào tạo.

×