Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Luan Van-vai trò và chính sách lãi suất trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.43 KB, 27 trang )

TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Có thể nói việc điều chỉnh ổn định và phát triển nền kinh tế của đất nước là một
mục tiêu quan trọng nhất của các nước trên thế giới - thông qua việc sử dụng các
công cụ của chính sách tiền tệ. Trong đó, Lãi Suất là một trong những công cụ điều
hành chính sách tiền tệ để đạt được mục tiêu đó.
Lãi suất là tỷ lệ mà theo đó tiền lãi được người vay trả cho việc sử dụng tiền mà
họ vay từ một người cho vay. Cụ thể, lãi suất là phần trăm tiền gốc phải trả cho một
số lượng nhất định của thời gian mỗi thời kỳ (thường được tính theo năm). Lãi suất
thường được thể hiện như một tỷ lệ phần trăm của tiền gốc trong một khoảng thời
gian một năm.
Quan tâm đến vấn đề kinh tế, chúng ta không ai có thể phủ nhận lãi suất là một
công cụ sắc bén trong điều hành kinh tế vĩ mô. Song sử dụng công cụ lãi suất cũng
giống như sử dụng một con dao hai lưỡi. Muốn điều hành nền kinh tế có hiệu quả,
đòi hỏi phải nắm bắt, nghiên cứu kỹ lưỡng lãi suất, nếu không nó sẽ đem lại những
kết quả ngoài dự kiến. Với mong muốn được hiểu thêm về những ảnh hưởng của lãi
suất đối với nền kinh tế vĩ mô, chúng em chọn đề tài:
“ VAI TRÒ VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ”
2. Mục đích nghiên cứu:
- Phân tích được vai trò và chính sách của lãi suất có ảnh hưởng như thế nào đến nền
kinh tế nước ta hiện nay đặc biệt là trong điều tiết vĩ mô từ đó có thể rút ra những suy
nghĩ đúng đắn về vấn đề này
- Có được thêm những kiến thúc bổ ích về sự biến động của lãi suất để có những
quyết định đúng đắn đối với sự phát triển của kinh tế của đất nước.
Trong quá trình làm bài tiểu luận môn này, tuy đuợc sự huớng dẫn tận tình của
thầy và sự rất cố gắng của nhóm nhưng do kiến thức có hạn nên chúng em không thể
nào tránh khỏi một số sai sót. Kính mong thầy xem xét và bổ sung để chúng em có
thể hoàn thiện về đề tài này hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!


1
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT
1. KHÁI NIỆM VỀ LÃI SUẤT
Lãi suất được hiểu theo nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng-giá cả của quan hệ
vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng
tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người cho vay khoản tiền
dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số lãi trên số vốn gọi là lãi
suất
Ở trong tầm kinh tế vĩ mô, lãi suất là cơ sở cho các cá nhân cũng như các doanh
nghiệp đưa ra quyết định kinh tế của mình như: chi tiêu hay để dành gửi tiết kiệm:
đầu tư số vốn tích luỹ được gửi vào danh mục đầu tư này hay danh mục đầu tư
khác…
2. PHÂN LỌAI LÃI SUẤT
a) Căn cứ vào tính chất của khoản vay, có các loại phổ biến sau
- Lãi suất tiền gửi ngân hàng: là lãi suất ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi vào
ngân hàng. Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào loại
tiền gửi (không kỳ hạn, tiết kiệm…), thời hạn gửi và quy mô tiền gửi .
- Lãi suất tín dụng ngân hàng: là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng khi
đi vay từ ngân hàng. Lãi suất tín dụng ngân hàng cũng có nhiều mức tuỳ theo loại
hình vay (vay thương mại, vay trả góp, vay qua thẻ tín dụng…), theo mức độ quan hệ
giữa ngân hàng và khách hàng… và phụ thuộc cả vào sự thoả thuận giữa hai bên.
Đối với các ngân hàng thương mại, hai loại lãi suất này hình thành nên những khoản
thu nhập và chi phí chủ yếu của ngân hàng.
- Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức
chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách
hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được
khấu trừ ngay khi ngân hàng đưa tiền vay cho khách hàng. Như vậy lãi suất chiết
2
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

khấu được trả trước cho ngân hàng chứ không trả sau như lãi suất tín dụng thông
thường.
- Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung
gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn
chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ phần
trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi ngân hàng
trung ương cấp tiền vay cho ngân hàng.
Lãi suất tái chiết khấu do ngân hàng trung ương ấn định căn cứ vào mục tiêu, yêu
cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động lãi suất trên
thị trường liên ngân hàng.
- Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên
thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành qua quan hệ cung
cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các
ngân hàng trung gian vay của ngân hàng trung ương. Mức độ chi phối này phụ thuộc
vào sự phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay ngân hàng
trung ương của các ngân hàng trung gian.
- Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức
lãi suất kinh doanh của mình.
Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tuỳ từng nước, nó có thể do Ngân hàng
trung ương ấn định (như ở Nhật - là mức lãi suất cho vay thấp nhất); hoặc có thể do
bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân
hàng mình (ở Mỹ, Anh, Úc - đó là mức lãi suất áp dụng cho khách hàng có mức rủi
ro thấp nhất)….Mặc dù khác nhau, lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều hình
thành trên cơ sở thị trường và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép. Khi áp
dụng đối với các đối tượng có mức rủi ro khác nhau, mức lãi suất kinh doanh sẽ khác
nhau vì sự biến động của mức bù rủi ro.
b) Căn cứ vào giá trị thực của tiền lãi thu được
- Lãi suất danh nghĩa (Nominal interest rate): là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa
của tiền tệ vào thời điểm xem xét hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ
lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các hợp đồng

tín dụng và ghi rõ trên công cụ nợ.
- Lãi suất thực (Real interest rate): là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo
những thay đổi về lạm phát, hay nói cách khác, là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm
phát.Lãi suất thực có hai loại: lãi suất thực tính trước và lãi suất thực tính sau
c) Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất qui định
3
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
- Lãi suất cố định: là lãi suất được qui định cố định trong suốt thời hạn vay. Nó có ưu
điểm là số tiền lãi được cố định và biết trước, nhưng nhược điểm là bị ràng buộc vào
một mức lãi suất nhất định trong một khoảng thời gian dù cho lãi suất thị trường đã
thay đổi.
- Lãi suất thả nổi: là lãi suất được qui định là có thể lên xuống theo lãi suất thị trường
trong thời hạn tín dụng (báo trước hoặc không báo trước). Lãi suất thả nổi vừa chứa
đựng cả rủi ro lẫn lợi nhuận. Khi lãi suất tăng lên người đi vay bị thiệt trong khi
người cho vay được lợi, ngược lại với trường hợp lãi suất giảm xuống.
Thường thì lãi suất được qui định cố định trong từng kỳ hạn tín dụng, khi chuyển
sang kỳ hạn khác thì lại theo lãi suất thị trường tại thời điểm bắt đầu kỳ hạn mới. Ví
dụ lãi suất tiền gửi 3 tháng là 0,5%/tháng sẽ không đổi trong suốt 3 tháng, nhưng nếu
gửi tiếp kỳ hạn 3 tháng nữa thì sẽ theo lãi suất hiện hành vào thời điểm bắt đầu kỳ
hạn mới. Tuy nhiên, với các kỳ hạn dài, ví dụ các khoản vay trung hạn (5 năm) thì lãi
suất có thể qui định cố định trong suốt 1 năm, sau đó sẽ áp dụng lãi suất hiện hành
vào năm tiếp theo.
d) Căn cứ vào loại tiền cho vay
- Lãi suất nội tệ: là lãi suất cho vay và đi vay đồng nội tệ.
- Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất cho vay và đi vay đồng ngoại tệ.
e) Căn cứ vào nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế
- Lãi suất trong nước hay lãi suất địa phương (National interest rate): là lãi suất áp
dụng trong các hợp đồng tín dụng trong một quốc gia.
- Lãi suất quốc tế (International interest rate): là lãi suất áp dụng trong các hợp đồng
tín dụng quốc tế.Các hợp đồng tín dụng quốc tế áp dụng mức lãi suất của thị trường

quốc gia nào thì lãi suất của thị trường quốc gia đó trở thành lãi suất quốc tế
3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT
Trong các nền kinh tế thị trường, Nhà nước đóng vai trò là người điều tiết vĩ mô,
thị trường tài chính hoạt động theo cơ chế tự do hoá, cơ chế hình thành lãi suất là cơ
chế thị trường. Lãi suất vì vậy mà chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố kinh tế vĩ mô
cũng như nhiều các nhân tố khác.
a) Ảnh hưởng của cung - cầu tiền tệ
Đây là nhân tố tác động trực tiếp đến việc hình thành lãi suất trên thị trường .
Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để thanh toán trên thị trường .Cầu tiền tệ
là nhu cầu về tiền của các đơn vị ,cá nhân ,tổ chức để làm phương tiện giao dịch ,trao
4
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
đổi hàng hoá ,dịch vụ … Lãi suất cân bằng được xác định là giao điểm của đường
cung và cầu tiền
Nhà nước có thể tác động vào mức cung và cầu tiền tệ này và không chế lãi suất
để thực hiện các mục tiêu kinh tế và xã hội của mình .Giả sử khi Chính phủ , Ngân
hàng TW lo sợ nền kinh tế có nguy cơ bị suy thoái thì NHTW sẽ tằng mức cung tiền
bằng cách bơm tiền vào lưu thông và lãi suất sẽ có xu hướng giảm .Còn khi nền kinh
tế phát triển quá nóng và có thể xảy ra lạm phát thì nhà nước sẽ thực hiện các biên
pháp nhằm làm giảm lượng cung tiền và khi đó lãi suất sẽ tăng lên . Như vậy qua đây
chúng ta có thể thấy được mức cung cầu tiền tệ trên thị trường là nhân tố hình thành
và hưởng rất lớn đến thay đổi lãi suất tín dụng trên thị trường .
b) Ảnh hưởng của lạm phát
Có thể nói rằng là lạm phát là một trong những nhân tố chủ chốt ảnh hưởng đến
lãi suất tín dụng .Lạm phát là một hiện tượng của tiền tệ ,chính bởi vậy chúng ta
không thể tránh khỏi nó mà chỉ có kiềm chế nó ở mức ít hay nhiều . Vậy ở đây lạm
phát có ảnh hưởng như thế nào đến lãi suất ? Khi lạm phát tăng lên một trong những
biện pháp của Nhà nước để giảm phát chính là áp dụng các biện phát để hút bớt
lượng tiền lưu thông về .Đồng thời các cá nhân ,tổ chức trong nền kinh tế đang nắm
dữ lượng vốn ,tiền cũng sẽ không dám cho vay do lo sợ đồng vốn của mình sẽ bị mất

giá ,bởi vậy họ sẽ chuyền hướng sang dự trữ các loại hàng hoá như vàng ,ngoại tệ hay
đầu tư ra nước ngoài .Hai điều này khiến cho khả năng cung ứng vốn trên thị trường
sẽ giảm nhanh chóng ,như đã nói ở trên thì khi cung ứng vốn giảm thì tất yếu sẽ
khiến cho lãi suất tăng . Khi áp dụng các biện phát nhằm kiềm chế lạm phát cho sản
xuất ,đầu tư sẽ bị thu hẹp khiến cho nền kinh tế có khả năng đi vào suy thoái .Chính
bởi vậy một khi lạm phát đã được kiềm chế ,giảm phát thì Ngân hàng TW sẽ giảm lãi
suất tín dụng nhằm giúp cho các cá nhân ,tổ chức ,doanh nghiệp trong nền kinh tế dễ
dàng tiếp cận được nguồn vốn .Để có thể mở rộng sản xuất , đầu tư giúp cho nền kinh
tế phục hồi . Trong nền kinh tế thị trường thì lạm phát và lãi suất có mối quan hệ chặt
chẽ và tác động qua lại mật thiết với nhau .
c)
5
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
d) Ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của các dự án đầu tư phải cao hơn lãi suất các khoản
vay tài trợ cho dự án. Có như vậy các nhà đầu tư mới có lợi nhuận từ các dự án đầu tư
và phấn khởi mở rộng đầu tư. Do đó, cách đánh giá, lựa chọn chính sách lãi suất phù
hợp sẽ dựa trên cơ sở ước lượng tỷ suất lợi tức trung bình của nền kinh tế.
e) Ảnh hưởng của bội chi ngân sách
Bội chi ngân sách ở trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu tiền tăng và
làm tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công chúng về
gia tăng mức lạm phát và sẽ gây áp lực tăng lạm phát. Thông thường, Chính phủ
thường tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu. Lượng cung
trái phiếu trên thị trường tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm và lãi suất
thị trường có xu hướng tăng. Mặt khác, do tài sản có của NHTM tăng ở khoản mục
trái phiếu chính phủ, dự trữ vượt mức giảm nên lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng.
f) Những thay đổi trong thuế:
Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn có tác động đến lãi
suất. Khi các hình thức thuế này tăng sẽ điều tiết đi một phần thu nhập của các cá
nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh doanh

chứng khoán. Mọi người đều quan tâm đến thu nhập thực tế hơn là thu nhập danh
nghĩa. Do vậy, để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định, họ phải cộng thêm vào
lãi suất cho vay những thay đổi của thuế.
g) Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái kỳ vọng
Khi đồng nội tệ yếu, bị những sức ép lớn do những dao động của các đồng ngoại
tệ mạnh thì tâm lý phổ biến của người dân là coi ngoại tệ mạnh như một trong những
loại tài sản tiết kiệm an toàn. Chẳng hạn, khi hiện tượng đô la hoá xảy ra, người dân
sẽ ồ ạt chuyển sang tiết kiệm bằng ngoại tệ cụ thể là đô la Mỹ. Làm như vậy người
gửi hưởng lợi kép gồm lãi suất tiền gửi và sự lên giá của đồng đô la Mỹ. Sự chuyển
dịch này tạo ra sự khan hiếm nội tệ ở các NHTM và buộc các ngân hàng này phải
tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ để huy động cho vay nền kinh tế. Như vậy, khi xây
dựng chính sách lãi suất cần phải xem xét đến khía cạnh tỷ giá để giảm bớt mức
chênh lệch giữa lợi tức lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ hay lãi suất cho vay nội tệ
và ngoại tệ. Điều này giúp giảm bớt sự dịch chuyển không mong đợi từ tiền gửi nội tệ
sang đô la khi đồng đô la lên giá.
h) Những thay đổi trong đời sống xã hội:
6
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu
tố thuộc về đời sống xã hội khác như tình hình về kinh tế, chính trị cũng như những
biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới,
các luồng vốn đầu tư ra vào đối với các nước
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ ĐỐI
VỚI NỀN KINH TẾ
1 LÃI SUẤT LÀ CÔNG CỤ ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ
Đối với ngân hàng nhà nước thì lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô. Sự biến động
của lải suất trong quá trình điều chỉnh của Ngân hang Nhà nuớc tác động đến nhiều
mặt của nền kinh tế như đầu tư, tiêu dung, tiết kiệm, tỉ giá…qua đó ảnh hưởng trực
tiếp đến các mục tiêu kinhtế vĩ mô củađất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dung và các doanh nghiệp có thể tiến

hành bất cứ việc gì nếu họ muốn trong khuôn khổ pháp luật, miễn là họ có phương
tiện thanh toán. Vì vậy bằng cách kiểm soát giá bán và mua quyền sử dụng tiền tức
lãi suất, Ngân hang Nhà nước ở bất kỳ quốc gia nào cũng có thể chi phối dược sự
tăng trưởng nền kinh tế. Bằng cách tăng lãi suất, Ngân hang nhà nước có thể làm yếu
đi khà năng cho vay của các Ngân hàng thương mại và do đó thực hiện chính sách
tiển tệ, giảm bớt khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh và
chi tiêu cho người tiêu dung. Cũng như vậy, bằng cách sử dụng lãi suất, Ngân hang
Nhà nước có thể tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Hoặc muốn kìm hãm tốc độ
phát triển hay đẩy mạnh phát triển cho một ngành nào đó, Ngân hang Nhà nước có
thể tăng hoặc giảm lãi suất cho vay để thu hẹp hay đầu tư ở ngành này.
Bên cạnh vai trò hướng dẫn điều hành nền kinh tế, lãi suất còn đóng vai trò tích
cực trong kiềm chế lạm phát. Tháng 3 năm 1989, Việt Nam chủ trương áp dụng chế
độ siêu lãi suất tiền gửi đã nhanh chóng đem lại kết quả lá chặn đứng lạm phát: từ 7%
trong tháng 1; 9,2% trong tháng 2 đã giảm 4,5% trong tháng 3; 3,5% trong tháng 4 và
tiếp tục giảm trong những tháng sau. Điều này khẳng định sức mạnh của lãi suất
trong điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô dù có gây nên hiệu ứng tiêu cực đến hoạt động
kinh tế. Từ năm 1989 đến nay, chính sách lãi suất luôn được sử dụng để điều chỉnh
nền kinh tế Việt Nam. Sau khi đã kiềm chế và giữ được lạm phát ở mức ổn định,
Ngân hang Nhà nước đang thực hiện hạ thấp dần khung lãi suất để khuyến khích hoạt
động đầu tư mở rông sản xuất kinh doanh, khôi phục kinh tế.
Có thể nói chính sách lãi suất là một bộ phận của chính sách tiền tệ của nhà nước
nhằm điều hoà lưu thong tiền tệ, kích thích, điều tiết và hướng dẫn sản xuất kinh
doanh của các đơn vị kinh tế. Lãi suất được cho vay được mở rông để cung ứng tiền
tệ, thu hẹp đầu tư và kiềm chế lạm phát.
7
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
LÃI SUẤT CÓ VAI TRÒ TÍCH CỰC TRONG KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
Hiện trạng tăng chỉ số giá cả (CPI) ở Việt Nam có mầm móng từ năm 2005 -
2006, khi mà nền kinh tế Việt Nam đang trên đã ổn định về cơ cấu và nhịp độ tăng
trưởng. Tình trạng đó kéo dài suốt 2007. Song do hạn chế về khả năng dự báo và sự

nhạy bén trong điều hành kinh tế vĩ mô mà lạm phát bùng phát ở “đỉnh điểm” vào
cuối quí I/2008 với mức tăng giá tiệm cận tới 20%. Điều này như một cảnh báo về
tính bức xúc của việc điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ, mà trong
đó, chính sách tiền tệ là tiêu điểm.
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và lạm phát.
Hiệu ứng Fisher cho rằng có mối quan hệ một – một giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất
danh nghĩa. Những năm có tỷ lệ lạm phát cao tương ứng với lãi suất danh nghĩa cao
Biểu đồ: biến động tỷ lệ lạm phát và lãi suất danh nghĩa
(Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước các năm 2004 – 2010, Tổng cục
thống kê ).
Những nước có lạm phát cao thường cũng có xu hướng lãi suất danh nghĩa
cao.Lạm phát là hiện tượng mất giá của đồng tiền, là tình trạng tăng liên tục mức giá
chung của nền kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy tuy có nhiều biện
pháp khác nhau để kiểm soát lạm phát, nhưng giải pháp về
lãi suất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút
phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông g
8
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
iảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi su
ất cũng góp phần chống lạm phát.
Tuy nhiên,việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy trì lâu
dài vì lãi suất tăng sẽlàm giảm đầu tư, giảm tổng cầu và làm giảm sản lượng. Do vậy l
ãi suất phải được sử dụng kết hợp với các công cụ khác thì mới có thể kiểm soát
được lạm phát, ổn định giá cả, ổn định đồng tiền. Một chính sách lãi suất phù hợp là
sự cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
9
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
4. ẢNH HƯỞNG CỦA LÃI SUẤT ĐẾN TIÊU DÙNG, TIẾT KIỆM VÀ ĐẦU


a) Ảnh hưởng đến tiêu dung và tiết kiệm
Một tác động khác của lãi suất đó là ảnh hưởng của nó đến tiêu dùng, tiết
kiệm.Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và
tiết
kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đềhàng hoá
lâu
bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó lãi suất có tác
dụng tích cực tới các nhân tố đó. Nếu lãi suất thực tế càng cao thì số tiền gửi vào
ngân hàng
càng lớn. Việc này sẽ tác động đến quy mô mua sắm tài sản của nhân dân. Khi lãi
súât cao nó sẽ kích thích người dân gửi tiết kiệm tại ngân hàng vì nó có khả năng sinh
lời cao và an toàn hơn việc tích trữ tài sản, nhờ đó nguồn vốn nói chung của ngân
hàng tăng lên và khối lượng tiền tệ phụ vụ cho nền kinh tế quốc dân cũng tăng lên,
ảnh hưởng của lãi suất thự tế dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiết kiệm tài
chính.
Khi lãi suất thấp chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc tiêu dùn
g hàng hoá nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản ti
ền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết
kiệm tăng.
b) Ảnh hưởng đến đầu tư
Việc ảnh hưởng của lãi suất đến tiêu dung và tiết kiệm cũng giống như ảnh hưởng
đến các quyết định đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất tín dụng được coi là
công cụ quan trọng để phân phối vốn hợp lý và phù hợp với đường lối phát triển kinh
tế từng thời kỳ. Trong quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và Ngân hàng, lãi suất cho
vay phản ánh giá cả của đồng vốn mà người sử dụng vốn là các doanh nghiệp phải trả
cho người cho vay là các NHTM. Đối với các doanh nghiệp, lãi suất cho vay hình
thành nên chi phí vốn và là chi phí đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó,
mọi sự biến động về lãi suất cho vay trên thị trường cũng đều ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh hay nói cách khác là tác động trực tiếp đến lợi nhuận
của doanh nghiệp và qua đó điều chỉnh các hành vi của họ các hoạt động kinh tế. Khi

lãi suất cho vay của NHTM tăng sẽ đẩy chi phí đầu vào và giá thành sản phẩm tăng
lên, làm suy giảm lợi nhuận cũng như khả năng cạnh tranh của DN, gây ra tình trạng
thua lỗ, phá sản trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Xu hướng tăng lãi suất Ngân
10
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
hàng sẽ luôn đi liền với xu hướng cắt giảm, thu hẹp quy mô và phạm vi của các hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Ngược lại, khi lãi suất Ngân hàng giảm
sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiep giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao hiệu quả kinh
doanh và khả năng cạnh tranh. Lãi suất cho vay thấp luôn là động lực khuyến khích
các DN mở rộng đầu tư, phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó kích
thích tăng trưởng trong toàn bộ nền kinh tế.
Mặt khác, lãi suất là căn cứ để các chủ thể kinh tế lựa chọn đầu tư. Doanh nghiệp
chi kinh doanh khi tỷ suất lợi nhuận cao hơn lãi suất tín dụng. Cá nhân chi gửi tiết
kiệm khi lãi suất đem lại cao hơn món đầu tư khác và cao hơn tỷ lệ lạm phát. Như
vậy lãi suất tín dụng làm thay đổi tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dung của doanh nghiệp và
cá nhân, đồng nghĩa với việc họ mở rông hay thu hẹp đầu tư.
11
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG , CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP
1 THỰC TRẠNG VÀ CÁC CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
VĨ MÔ CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
a) Thực Trạng
Vn hiện nay đang trên con đường thị trường hóa và hướng ngoại nền kinh tế. Tốc
độ và sự thành công trong các chính sách kinh tế phục vụ tăng trưởng phụ thuộc quan
trọng vào sự điều tiết và cân đối vĩ mô của chính phủ. Để điều tiết và định hướng nền
kinh tế, nhà nước không thể không lấy công cụ lãi suất và kiểm soát lượng cung tiền
tệ. Những chính sách khác nhau được đưa ra vào những thời điểm khác nhau đã có
những tác động to lớn tới nền kinh tế.
- Lãi suất VN từ sau đổi mới đến năm 2000.
Sau hơn 10 năm đổi mới, chính sách lãi suất của VN đã góp phần thực hiện tốt các

mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia đồng thời được đổi mới mạnh mẽ, thận trọng
và phù hợp với từng giai đoạn. Tuy nhiên, vẫn còn có những tồn tại, hạn chế trong
chính sách lãi suất.
Giai đoạn 1986-1989, chình sách lãi suất có những bước đột phá đầu tiên với
quyết định 125/QĐ-NH trên cơ sở sửa đổi và thay thế một số mức lãi suất đã tạo ra
sự thay đổi căn bản trong tư tưởng chỉ đạo điều hành chính sách lãi suất của VN. Lãi
suất được công nhận như là một công cụ điều tiết vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Tuy
nhiên, nguyên tắc hình thành lãi suất bị vi phạm nghiêm trọng, đẩy lãi suất thời kỳ
này luôn trong trạng thái âm. Biểu lãi suất được quy định quá chi tiết, tỉ mỉ, gây khó
khăn phức tạp cho việc thực hiện. Thực tế, chính sách lãi suất trong giai đoạn này ở
tình trạng chung là: cả người gửi tiền, ngân hang và doanh nghiệp đều lỗ.
Từ 1992 trở đi, lãi suất thực sự bước sang giai đoạn mới. Quyết định ngày
1/6/1992 do thống đốc ngân hang nhà nước ban hành đã đảm bảo cho lãi suất thực tế
dương, lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất tiền gửi.
Năm 1994, NHNN chủ trương hạ lãi suất nhưng không thực hiện được. Giai đoạn
này, NHNN vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi suất thỏa thuận.
12
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Trên thực tế, có khoảng 30% - 60% tổng dư nợ lúc bấy giờ từ các khoản cho vay
bằng lãi suất thỏa thuận, mà phần lớn là cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và hộ nông dân với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5%/tháng. Với cơ chế này, lãi
suất được tự do hóa một phần. Tuy nhiên, lãi suất thỏa thuận này có mức chênh lệch
lãi suất cho vay và lãi suất huy động từ 0,1%-0,7% tạo cho các ngân hàng thương mại
lợi nhuận khá cao. Nguồn vốn của các ngân hàng thương mại tuy có tăng nhưng chủ
yếu là tăng vốn ngắn hạn làm cho một số ngân hàng thương mại quốc doanh thừa vốn
ngắn hạn trong khi nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế còn thiếu nghiêm
trọng.
Năm 1996, NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất ba lần và hai lần sau đó vào năm 1998.
(Đơn vị: %/tháng)
Quyết định điều

chỉnh
Thời điểm Trần lãi suất cho
vay ngắn hạn
Trần lãi suất cho
vay trung và dài
hạn
191/QĐ-NH1 15/07/1996 1,60 1,65
255/QĐ-NH1 27/08/1996 1,50 1,55
266/QĐ-NH1 27/09/1996 1,25 1,35
197/QĐ-NH1 28/06/1997 1,00 1,25
39/QĐ-NH1 17/01/1998 1,20 1,25
Lãi suất cho vay năm 1996 đã được điều chỉnh theo hướng giảm mạnh đã giúp
cho các doanh nghiệp giảm được chi phí và giá thành trong việc vay vốn cho sản xuất
kinh doanh, đồng thời mạnh dạn hơn trong thực hiện các dự án cho vay, đầu tư phát
triển và đổi mới công nghệ.
Tuy nhiên, trước khi NHNN chính thức công bố lãi suất trần, các ngân hàng
thương mại đã tiến hành điều chỉnh hạ thấp lãi suất cho vay để tăng cường thu hút
khách hàng. Hiện tượng này diễn ra âm thầm, tự phát .Điều này đẵ dẫn tới tình trạng
lãi suất ở khu vực nông thôn, nơi cần nhiều sự giúp đỡ lại cao hơn. Đây chính là một
trong những bất cập đòi hỏi chính sách lãi suất cần phải được xem xét.
Năm 1998, hệ thống ngân hàng thực sự phải đối mặt với những hệ quả nghiêm
trọng của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á. Áp lực làm giảm giá của đồng VN
không chỉ biểu hiện ở những tác động hữu hình như tình trạng xấu đi nhanh chóng
của hoạt động đối ngoại, mà còn biểu hiện ở tâm lý lo sợ về sự phá giả của đồng VN
13
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
nối tiếp theo làn sóng phá giá mạnh đang diễn ra đối với nhiều đồng tiền Châu Á tạo
ra những bất ổn trên thị trường ngoại hối. Vì thế, để duy trì kiểm soát chính sách lãi
suất là cần thiết trong điều kiện khi mà NHNN vẫn chưa có đủ các công cụ cần thiết
và hiện hữu để có thể kịp thời điều chỉnh. Với việc thực hiện kiểm soát lãi suất,

NHNN đã hạn chế phần nào dòng dịch chuyển của nguồn tiền thông qua các hoạt
động tăng lãi suất tín dụng ngắn hạn cho vay bằng VNĐ từ 1%/tháng lên 1,2%/tháng,
cho vay trung và dài hạn từ 1,1%/tháng lên 1,25%/tháng và nâng lãi suất cấp vốn cho
các TCTD từ 0,9%/tháng lên 1,1%/tháng (quyết định 40/1998/QĐ ngày 17/1/1998).
Mặc dù đã có một số ưu điểm nhất định song vẫn chịu tồn tại những áp lực làm
giảm lãi suất cho vay như nền kinh tế ít nhiều chịu ảnh hưởng của cơn bão tiền tệ nên
tăng trưởng chậm lại. Khả năng cạnh tranh của hàng hóa kém, vốn tự có của doanh
nghiệp nhỏ, chênh lệch giữa trần lãi suất cho vay và dài hạn. Tuy nhiên khả năng lãi
suất cho vay này là không khả thi.
Năm 1999, NHNN tiếp tục thực hiện quản lý và điều hành chính sách lãi suất tín
dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các TCTD. Trần lãi suất
năm 1999 được NHNN điều chỉnh lien tục cho phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ
cung cầu vốn tín dụng, góp phần thực hiện giải pháp kích cầu đầu tư của chính phủ
thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất tín dụng. Đây được coi là năm lãi suất được điều
chỉnh nhiều nhất và có xu hướng giảm dần và tiếp tục kéo dài tới năm 2000.
Quyết định điều
chỉnh
Thời điểm Trần lãi suất cho
vay ngắn hạn
Trần lãi suất cho
vay trung, dài hạn
01/1999/CT-NH1 17/1/1999 1,2 1,25
184/1999/QĐ-NH1 29/5/1999 1,15 1,15
266/1999/QĐ-NH1 30/7/1999 1,05
05/1999/CT-NH1 9/1999 0,95 0,95
383/1999/QĐ-NH1 10/1999 0,85 0,85
Trong liên tục hai năm 1999-2000, lạm phát âm thầm xuất hiện làm cho trần lãi
suất giảm lien tục. Mặt khác, do mức độ điều chỉnh lãi suất của NHNN tương đối lớn
nên dư nợ tín dụng không có động cơ tăng mặc dù lãi suất đã giảm mạnh bởi khách
hàng kỳ vọng ở khả năng lãi suất tiếp tục giảm, ngay cả một số TCTD cũng đã tạm

ngừng huy động vốn có kỳ hạn (loại 6 tháng và 9 tháng) với lý do tương tự đã tạo nên
14
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
tình trạng đóng băng vốn số lượng lớn. nền kinh tế vẫn tiếp tục rơi vào trạng thái trì
trệ và hạ lãi suất lúc này là cần thiết. để giải tỏa nguồn vốn ứ đọng này, các NHTM
có nguồn vốn dư thừa đã tận dụng triệt để phương châm “thà cho vay với lãi suất
thấp tới mức 0,4%/tháng còn hơn để vốn chết tại NHNN để hưởng lãi suất
0,1%/tháng”. Giữa các ngân hàng dần hình thành nên thế cạnh tranh bằng lãi suất cho
vay. Mặc dù lãi suất cho vay của các NHTM giảm xuống từ 0,15% - 0,2%/tháng so
với quy định của NHNN nhưng tốc độ tăng tín dụng tới tận nữa đầu năm 2000 vẫn
chưa thực sự có ý nghĩa. Trong bốn tháng đầu năm 2000 vốn huy động tặng 12,3%
trong khi dư nợ tín dụng chỉ tăng 5,8%. Tín dụng chỉ được đẩy mạnh từ cuối quý 2
năm 2000 khi các ngân hàng tiếp tục hạ lãi suất cho vay và nhu cầu vốn của nền kinh
tế tăng lên. Mức huy động VNĐ cho kỳ hạn 12 tháng thời kỳ này là 0,5%/tháng đối
với các NHTMQD và từ 0,55%-0,57%/tháng đối với các NHTMCP. Lúc này, cơ chế
trần lãi suất tín dụng tỏ ra không còn thích hợp với môi trường VN. Nền kinh tế vĩ
mô biến động liên tục mặc dù đã có những cải thiện đáng ghi nhận, song đó chưa
thực sự ổn định.
- Từ năm 2000-2008
Từ năm 2000-2008 lãi suất liên tục thay đổi. tuy nhiên lãi suất huy động vẫn giữ
được ổn định tương đôi. Đầu 2008, cuộc đua lãi suất bắt đầu bùng nổ, biểu hiện đầu
tiên là sự leo thang của lãi suất qua đêm trên liên ngân hàng với các kỷ lục 20%, 25%
liên tục bị đánh đổ, và đỉnh điểm là mức chào 27%/năm…
- Năm 2009
Từ những ảnh hưởng khủng hoảng trên thế giới, sản xuất kinh doanh trong nước
rơi vào khó khăn. Đây là năm thứ hai trong quãng 8 năm qua lãi suất huy động VND
tương đối ổn định quanh 9%/năm, cũng là năm có chính sách cấp bù lãi suất kích cầu
của Chính phủ.
Điểm nổi bật trong năm này là câu chuyện của đường cong lãi suất, khi nó được kéo
thẳng ở hầu hết các kỳ hạn. Trạng thái này kéo dài cho đến trước ngày 11/6/2012.

- Năm 2010:
Những biến động nửa đầu năm đẩy lãi suất huy động VND lên quanh 11%/năm.
Đồng thuận lãi suất là yêu cầu quen thuộc đặt ra giữa các ngân hàng trong năm này.
Trước xu hướng biến động mạnh vào cuối năm, Hiệp hội và Ngân hàng Nhà nước đã
họp với các thành viên, đồng thuận không quá 12%/năm được đưa ra vào ngày 5/11.
Tuy nhiên, sau đó nhiều thành viên “phá rào”, lãi suất lần lượt tăng lên 13%, 14%,
15
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
15%/năm…
Đỉnh điểm, sự kiện 3 ngày vàng của Techcombank diễn ra ngày 8/12/2010, mức lãi
suất được nâng lên mức 17%/năm, cùng chính sách tặng ngay 500.000 đồng khi giới
thiệu khách hàng gửi tiết kiệm mới từ 1 tỷ trở lên đã gây chấn động thị trường. Phản
ứng cạnh tranh ghi nhận ở sự kiện này là SeABank cũng lập tức nâng lên 18%/năm.
Những lãi suất gây sốc này nhanh chóng bị chấm dứt, lãnh đạo Techcombank bị
Ngân hàng Nhà nước khiển trách.
- Năm 2011 đến nay :
Nếu năm 2010, các đồng thuận lãi suất 11%, 12% rồi 14%/năm được đặt ra, thì
đến đầu 2011 nó tiếp tục bị phá vỡ. Và ngày 3/3, Ngân hàng Nhà nước ban hành
Thông tư số 02/2011/TT-NHNN, chính thức áp trần 14%/năm, và sau đó là những
xáo trộn từ các thỏa thuận ngầm, sự nở rộ của các giao dịch ủy thác…
Nửa cuối năm 2011, Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiêm quy định trần, một số
ngân hàng bị xử lý mà lần đầu tiên trong hệ thống có cụm từ “ngân hàng cài bẫy lẫn
nhau”.
Lãi suất vẫn tiếp tục biến động trên thị trường, tuy nhiên đang có xu hướng giảm
từ tháng 8/2011 đến tháng 6/2013
Biểu đồ: Diễn biến trần lãi suất huy động từ tháng 8/2011 đến 6/2013
Hiện tại, lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng phổ biến: không kỳ hạn và kỳ
hạn dưới 1 tháng ở mức 1-1.2%/năm, kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng ở mức 5-
7%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng ở mức 6.5-7.5%/năm, kỳ hạn từ 12
16

TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
tháng trở lên ở mức 7.5-9%/năm, phù hợp với kỳ vọng lạm phát đến cuối năm 2013
và cả năm 2014.
Việc giảm lãi suất huy động tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm mạnh lãi
suất cho vay qua đó chia sẻ khó khăn đối với các doanh nghiệp.
Hiện lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên hiện ở mức 7-9%/năm, lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh ở mức 9-11%/năm, trong đó, đối với khách hàng tốt lãi suất cho vay
chỉ từ 6,5-7%/năm.
Ngân hàng Nhà nước cũng khẳng định, mặc dù lãi suất huy động giảm mạnh
nhưng người dân vẫn yên tâm gửi tiền vào các tổ chức tín dụng với kỳ hạn dài hơn
cho thấy gửi tiền vẫn là kênh đầu tư an toàn và hiệu quả nhất hiện nay so với các
kênh đầu tư khác trong điều kiện lạm phát hiện nay và mục tiêu ổn định tỷ giá.
Đến giữa tháng 9/2013, tiền gửi VND của dân cư tăng 13,78% so với cuối năm
2012. Cùng với đó, dù Ngân hàng Nhà nước đã bỏ quy định trần lãi suất kỳ hạn từ 6
tháng trở lên nhưng tính trật tự, kỷ luật trên thị trường vẫn được duy trì, không có
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về lãi suất giữa các tổ chức tín dụng với nhau
nhằm chèo kéo khách hàng, người gửi tiền gửi tiền với kỳ hạn dài hơn, không rút tiền
từ tổ chức tín dụng này gửi sang tổ chức tín dụng khác để hưởng chênh lệch lãi suất.
Đường cong lãi suất đã dần được hình thành (kỳ hạn ngắn có lãi suất thấp, kỳ hạn
dài có lãi suất cao) phù hợp với cơ chế thị trường trong điều kiện không biến động.
Qua đó cho thấy việc điều hành lãi suất, trần lãi suất huy động của Ngân hàng Nhà
nước là phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay.
b)
17
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
c) Các chính sách lãi suất trong nền kinh tế hiện nay
Từ thực tế diễn biến tiền tệ, lãi suất trong thời gian qua, có thể rút ra một số chính
sách sau:
• Chính sách tiền tệ của chính phủ : Như chúng ta đã biết một khi lãi suất tín dụng tăng
quá cao hay giảm thấp thì đều có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế .Chính bởi vậy

mà nhà nước đã thực hiện các chính sách tiền tệ của mình thông qua Ngân hàng TW
với vai trò chỉ huy toàn bộ hệ thống ngân hàng của một quốc gia (với các công cụ
như lãi suất tái chiết khấu ,tỉ lệ dự trữ bắt buộc) để điều chỉnh lãi suất ,bình ổn nền
kinh tế . Một khi lãi suất tăng làm cho nhu cầu tiêu dùng và đầu tư giảm thì Ngân
hàng Trung ương sẽ áp dụng chính sách giảm lãi suất tái chiết khấu cho các ngân
hàng thương mại ,và khi các ngân hàng thương mại được giảm lãi suất tái chiết khấu
( là lãi suất ngắn hạn mà ngân hàng TW cho các ngân hàng thương mại vay ) thì họ
cũng sẽ hạ lãi suất cho vay đối với các cá nhân ,tổ chức và doanh nghiệp trong nền
kinh tế .Làm cho toàn bộ hệ thống lãi suất giảm và các khoản cho vay tăng lên . Khi
lãi suất thị trường giảm ,thừa tiền trong thị trường thì Ngân hàng TW sẽ tăng lãi suất
tái chiết khấu để giảm bớt khối lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại nhằm
buộc các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất tín dụng đối với các thành phần
trong nền kinh tế ,các khoản cho vay sẽ giảm ,lượng tiền trong lưu thông cũng sẽ
giảm . Thông qua lãi suất tái chiết khấu mà Ngân hàng TW đã điều chỉnh được lãi
suất tín dụng .Mỗi khi lãi suất tái chiết khấu hay giảm đều làm thay đổi lượng vay
của các ngân hàng thương mại hay nói cách khác là thay đổi lượng tiền cung ứng cho
thị trường của các ngân hàng này và cuối cùng làm thay đổi lãi suất thị trường .
Ngoài ra ,Ngân hàng TW còn có một biện pháp nữa để kiểm soát lãi suất tín dụng và
lượng tiền cung ứng thị trường đó chính là tỉ lệ dự trữ bắt buộc .Khi ngân hàng TW
tăng hay giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc cũng tức là đã tác động đên lượng vốn khả dụng
của các ngân hàng thương mại .Gây ra những khó khăn ngân quỹ ,hạn chế tín dụng
hay là sự dư giả vốn và tín dụng của các ngân hàng .Giả sử tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc
khiến cho lượng vốn và tín dụng của các ngân hàng bị thu hẹp khiến họ buộc phải
tăng lãi suất và ngược lại .Từ đó có thể thấy được tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng
gián tiếp đến lãi suất thị trường . Như vậy thông qua việc thực hiện các chính sách
tiền tệ của mình ,Chính phủ đã có những thay đổi ,điều chỉnh về lãi suất tín dụng trên
thị truờng nhằm đảm bảo mục tiêu ổn định ,phát triển kinh tế - xã hội mà nhà nước đã
đề ra .
• Việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đã ngăn chặn được nguy cơ
xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM trong những

tháng đầu năm 2008, nhất là đối với NHTM cổ phần quy mô nhỏ chuyển đổi mô hình
từ nông thôn lên; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các
18
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các NHTM bằng
cách đẩy lãi suất lên cao. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ
mô ổn định và hoạt động của các NHTM đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị
trường tiền tệ và lãi suất trong những tháng đầu năm 2009 tương đối ổn định.
• Cơ chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối
với hoạt động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất thị
trường liên ngân hàng đã biến động xoay quanh các mức lãi suất chủ đạo của NHNN;
lãi suất huy động và cho vay của các NHTM biến động theo cung - cầu vốn và tăng,
giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của NHNN, đã tác động làm
cho thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng.
• Việc điều hành linh hoạt lãi suất cơ bản, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là
động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính
sách tiền tệ của NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ, đã và đang trở thành một
chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các doanh nghiệp,
người dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các NHTM quan tâm, theo dõi, dự
báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu
dùng. Kết quả này cú ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động
tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ
mô.
• Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Phối hợp với quy định của Luật NHNN và Bộ luật
Dân sự, mục tiêu của chính sách tiền tệ hiện nay và các năm tới đây là kiểm soát lạm
phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.
Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi
suất kinh doanh của NHTM, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra thị
trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị

trường. Xử lý vấn đề này, NHNN đã ban hành cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận đối
với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống và phát hành thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ
chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro. Hiện nay, đã và
đang xuất hiện ý kiến cho rằng NHNN cần dỡ bỏ trần lãi suất cho vay = Lãi suất cơ
bản x 150% mà để cho các NHTM được tự ấn định lãi suất kinh doanh. Ý kiến này
cần được xem xét ở một số khía cạnh:
• Theo kinh nghiệm của quá trình tự do hoá lãi suất ở các nước và nước ta trong nhiều
năm qua cho thấy điều kiện để tự do hoá lãi suất là kinh tế vĩ mô ổn định, thị trường
tài chính - tiền tệ minh bạch và có chiều sâu, mục tiêu chủ yếu của chính sách tiền tệ
là kiểm soát lạm phát; phát triển hệ thống thanh toán có khả năng kiểm soát được hầu
19
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
hết các luồng vốn khả dụng của khu vực ngân hàng, chứng khoán và các định chế tài
chính khác; hệ thống NHTM có năng lực cạnh tranh và khả năng đảm bảo an toàn
hoạt động kinh doanh; ngân sách nhà nước thâm hụt ở mức thấp. Với các điều kiện
này, có lẽ nền kinh tế và thị trường tài chính - tiền tệ của nước ta hiện nay chưa đáp
ứng được.
• Khủng hoảng tài chính thế giới đã trải qua tình trạng tồi tệ nhất, nhưng suy thoái và
phục hồi kinh tế thế giới còn diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đối với kinh tế
và thị trường tiền tệ trong nước, trước mắt cần thực thi các giải pháp tiền tệ theo
hướng đảm bảo an toàn hệ thống.
• Kinh tế trong nước, nguy cơ lạm phát cao chưa được ngăn ngừa một cách vững chắc,
kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, hệ thống các NHTM còn chênh lệch lớn về
quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản nợ và tài sản có; năng lực tài chính, khả năng
cạnh tranh và quản trị kinh doanh của các NHTM còn nhiều mặt hạn chế.
• Thị trường hàng hoá, tài chính, tiền tệ, vàng, ngoại hối, bất động sản, chứng khoán
còn chứa đựng những nguy cơ bất ổn do hiện tượng đầu cơ còn diễn ra khá phổ biến
và các biện pháp điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước chưa đủ mạnh để có thể ngăn
ngừa hoặc hạn chế các hiện tượng này, sẽ kéo theo các rủi ro cho hệ thống ngân hàng.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thời gian tới - giai đoạn hậu suy

giảm kinh tế, việc tiếp tục áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là một giải pháp
thích hợp, phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cung - cầu vốn thị trường. Việc
điều tiết lãi suất thị trường theo hướng ổn định được thực hiện kết hợp giữa điều tiết
khối lượng tiền thông qua các công cụ gián tiếp, điều hành linh hoạt các mức lãi suất
chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông. Sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo
hướng tự do hoá phải trên cơ sở đánh giá một cách khoa học và thực tiễn các điều
kiện kinh tế, thị trường tài chính - tiền tệ ở trong và ngoài nước, cũng như các rủi có
thể xảy ra và các biện pháp xử lý để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, sự an toàn và
phát triển của hệ thống tài chính.
5. GIẢI PHÁP HÒAN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
Khi xây dựng lãi suất phải đặt trong tương quan với giá trị của VND so với các
đồng tiền mạnh trên thế giới và trên khu vực đặc biệt là đồng USD,đồng EURO, đồng
Yên, đồng nhân dân tệ….Bởi lãi suất và giá có mối quan hệ hữu cơ với nhau,có môt
sư tăng giảm, chuyển đổi nội tệ sang ngoại tệ,ảnh hưởng trưc tiêp đến hoạt động xuât,
nhập khẩu của nền kinh tế.
20
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Việc công bố lãi suất phụ thuộc vào lợi nhuận bình quân của xã hội. Tỷ suất bình
quân này được hình thành trong quá trình cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Điều này,
hoàn toàn phù hợp với lý luận triết học Mác xít: lợi nhuận của tư bản cho vay bao giờ
cũng nhỏ hơn lơi nhuận bình quân của tư bản sản xuất và đó chính là một phần của
giá trị thặng dư do lĩnh vực sản xuất tạo ra.
Lãi suất phải được đặt trong mối tương quan với lãi suất tín phiếu kho bạc,trái
phiếu kho bạc để làm sao có thể khai thác tối đa mọi nguồn lực trong xã hội.
Cần xem xét mối quan hệ giữa lãi suất và doanh lợi chứng khoán để xác định
chính sách lãi suất .Nếu lãi suất ngân hàng trả cho tài chính,lãi suất trên thị trường
tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành mua bán chứng khoán trên thị trường tài
chinh.Nếu lãi suất ngân hàng trả cho người tiết kiệm cao,người gửi sẽ sẽ thích gửi
tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất cao và rủi ro thấp,hơn là mua chứng khoán với
lãi suất thấp nhưng rủi ro cao.

Do xu hướng hội nhập vào nền kinh tế tế khu vực nền kinh tế khu vực nên việc
điều chỉnh lãi suất phải căn cứ vào mức lãi suất trên thị trường quốc tế và khu vực.
Viêc điều chỉnh lãi suất phải tùy thuộc vào tâp quán và thói quen cũng như các
yếu tố tâm lý của dân chúng trong thời kỳ nhất định.
Phải xây dựng một môi trường để lãi suất cơ bản phát huy tác dụng.
- Đối với các NHTM
Nguồn thu về lãi suất cho vay là nguồn thu nhập nuôi sống hoạt động của Ngân
hàng và theo bản năng, Ngân hàng nào cũng muốn cho vay lãi suất cao. Tuy nhiên,
xét về bản chất kinh tế thì lãi suất tiền vay có lại nguồn gốc từ lợi nhuận hoạt động
của DN, do đó, các NHTM chỉ có thể “sống” được khi hoạt động SXKD của DN có
hiệu quả và phát triển. Vì vậy, khi thực hiện chính sách lãi suất, các NHTM nên:
- Phân tích và đánh giá chính xác mức sinh lời của DN để từ đó xác định lãi suất cho
vay hợp lý, đảm bảo đôi bên cùng có lợi.
21
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
- Nâng cao khả năng dự báo và thực hiện tốt vai trò tư vấn về lãi suất cho vay đối với
khách hàng để giúp DN phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho chính mình và cho cả Ngân
hàng.
- Cung cấp các sản phẩm phái sinh làm công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất cho các
DN.
- Thực hiện thường xuyên và kịp thời các chính sách ưu đãi, chia sẻ khó khăn về lãi
suất với các khách hàng gặp khó khăn trong khả năng của mình, qua đó hỗ trợ khách
hàng phát triển bền vững và gắn bó với Ngân hàng.
- Phát huy vai trò của Hiệp hội Ngân hàng trong việc thực hiện chính sách lãi suất ổn
định, đồng nhất, để vừa đảm bảo lợi ích kinh doanh của Ngân hàng vừa tránh những
xáo trộn về mặt bằng lãi suất gây ảnh hưởng đến nền kinh tế.
- Đối với các doanh nghiệp
Lãi suất tiền vay là chi phí đầu vào nên để đảm bảo hoạt động kinh doanh có lãi và
phát triển bền vững, DN cần phải:
- Tính toán và dự báo thật đầy đủ, chính xác về chi phí lãi vay khi xem xét, đánh giá

hiệu quả và quyết định thực hiện đối với các phương án/dự án SXKD.
- Tích cực và chủ động thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro về lãi suất thông qua
việc khai thác, sử dụng các sản phẩm phái sinh để bảo hiểm các rủi ro do biến động
lãi suất trên thị trường.
- Trích lập đầy đủ các quỹ dự phòng về tài chính trong hoạt động SXKD nhằm tạo
nguồn lực dự phòng, giúp cho DN đứng vững trong các cú sốc về lãi suất.
- Sử dụng thận trọng và linh hoạt công cụ đòn bẩy tài chính trong hoạt động kinh
doanh nhằm đạt được mục tiêu gia tăng lợi nhuận trong điều kiện lãi suất thấp, đồng
thời hạn chế rủi ro thua lỗ khi lãi suất biến động ngoài dự đoán.
- Thường xuyên tăng cường năng lực tự chủ về tài chính, đa dạng hóa các kênh huy
động vốn, tránh việc phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn vay Ngân hàng.
- Đối với các Cơ quan quản lý vĩ mô
Lãi suất là một công cụ điều tiết vĩ mô hết sức nhạy cảm, có tác động lớn đến
nhiều đối tượng trong nền kinh tế, vì vậy, để đảm hiệu quả tối ưu khi sử dụng công cụ
này thì các nhà làm chính sách cần:
- Có lộ trình, giải pháp khuyến khích phát triển đồng bộ các thị trường tài chính, đa
dạng hóa các kênh huy động vốn trong nền kinh tế để nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
ngày càng tăng của DN, hạn chế tình trạng tín dụng đen, thị trường tài chính ngầm
phát triển tự do không có kiểm soát.
- Điều hành chính sách lãi suất một cách linh hoạt, kịp thời, duy trì mặt bằng lãi suất
ổn định, phù hợp cơ chế thị trường trên cơ sở xử lý tốt mối quan hệ về lợi ích của
người gửi tiền, các Ngân hàng và người vay tiền.
22
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
- Hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính trong điều hành lãi suất, làm biến dạng
sự vận động của lãi suất để đảm bảo lãi suất trong nền kinh tế vận động theo cơ chế
thị trường, giúp cho các chủ thể tham gia thị trường có thể dự báo, đưa ra các giải
pháp đối phó phù hợp.
- Tăng cường năng lực dự báo kinh tế và sớm đưa ra các giải pháp điều tiết mang tính
đón đầu để tránh các cú sốc về lãi suất, gây tổn thương cho các chủ thể trong nền

kinh tế.
- Trong bối cảnh suy giảm kinh tế hiện nay, cần thực hiện triệt để và kiên trì giải
pháp hỗ trợ lãi suất, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi DN có thể tiếp cận được sự hỗ
trợ của Chính phủ nhằm phát huy tốt nhất hiệu ứng từ gói kích cầu này đối với toàn
bộ nền kinh tế./.
Cải tiến và tăng cường tác động của chính sách tiền tệ hiện có, đặc biệt là điều
chỉnh linh hoạt khả năng tạo tiền của các NHTM bằng giới hạn sử dụng vốn và hạn
mức tái cấp vốn trong tái chiêt khấu khế ước nợ và tín dụng thế chấp đối với giây tờ
có giá đam bảo chất lượng.
Để NHNN công bố lãi suất cơ bản để nó đi vào cuộc sống thuận lợi thì phải giải
quyết các tồn đọng cũ của NHTM.Chính phủ cần phải thúc đẩy quá trình thành lập và
đưa vào hoạt đông có hiệu quả các công ty mua bán quá hạn.
Hiện nay, các công cụ từ thương phiếu và các giấy tờ có giá ngăn hạn khác để
thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu chưa được phổ biến.Do vây, phải sớm
đưa thương phiếu, hồi phiếu vào lưu thông để tực hiện lãi suất chiết khấu và tái chiết
khấu của NHTM và NHNN vì đó là công cụ tài chính phổ biến của nền kinh tế thị
trường.
Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa làm cơ sở cho sự ra đơi các hàng hóa trao đổi
trên thị trường chứng khoán tạo môi trường cạnh tranh hoàn hảo giữa các chủ thể liên
quan đến chu chuyển vốn trong nền kinh tế.
Nguồn vốn vay nươc ngoài để tái đầu tư của cac NHTM cần phải đặt trong sự
kiêm duyêt chặt chẽ của NHTM sao cho phù hợp với chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước.
Một số vấn đề quan trọng đối với nền kinh tế nước ta là phải từng bước xây dưng
những những điều kiện cân thiết để tiến tới từng bước tự do hóa lãi suất mà vẫn đảm
bảo được sư kiểm soát của NHNN đối với thi trường tiền tệ.
23
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Tự do hóa lãi suất có nhiều ưu điểm.Do lãi suất được tư do hóa, biến động theo
cung cầu về vốn nên có thể phân vốn tín dụng khan hiếm cho hàng ngàn người, đáp

ứng đúng thị hiếu của người vay va có hiệu quả nhất.
Bên cạnh những thuận lơi do tự do hóa mang lại cũng còn tồn tại rất nhiều do tự
do hóa không thực hiện tốt vai trò của mình.Để tự do hóa và lãi suát làm tròn chức
năng của mình,thị trường tài chính cần được củng cố và phát triển.Nhưng trong nền
kinh tế, thi trường tín dụng không phải lúc nào cũng điều chỉnh đủ nhanh để cân bằng
giữa cung cầu khi điều kiện thay đổi và tình trạng mất cân bằng vẫn đặc trưng của bất
kỳ một nền kinh tế đang phát triển nào.
Do vậy để phát huy những ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm của tự do hóa
lãi suất,cần những điều kiện sau:môi trường kinh tế vĩ mô phải ổn định và khá chắc
chắn,hành lang pháp lý phải tương đối ổn định và hoàn chỉnh, hệ thống ngân hàng ổn
định và và hoạt động hữu hiệu, thị trường tài chính đã hình thành và vận hành có hiệu
quả, các nguồn lực trong và ngoài nước.
Quan điểm của Đảng ta về việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo đinh hương XHCN là
quan điểm cơ bản xuyên suôt trong cơ chế quản lý kinh tế -tài chính của chúng ta.
Đồng thời với chính sách mở cửa nền kinh tế,xu hướng toàn cầu hóa trở nên cần thiết
để chúng ta đẩy nhanh tốc độ phát triển nền kinh tế-xã hội.
Khi các điều kiện đã hội đủ, chúng ta sẽ chuyển sang cơ chế tự do hóa lãi suất
nhưng phải cơ chế tự do hóa hoàn toàn,NHNN với tư cách là người điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia sẽ sử dụng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn để tham
gia điều chỉnh gián tiếp các mức lãi suất trên thị trường nhằm phát huy vai trò lãi suất
đối với sự phát triển của kinh tế-xã hội.
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN
24
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan chặt chẽ đến một số phạm
trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một đòn bẩy kinh tế cực kỳ nhạy bén trong
mỗi doanh nghiệp và đời sống cá nhân, có ảnh hưởng trực tiếp đến chính các hoạt
động của các doanh nghiệp và cá nhân, và hơn cả là một công cụ quan trọng trong
chính sách tiền tệ quốc gia.

Để vận dụng lãi suất thị trường, yếu tố chung cho cải cách ở mỗi quốc gia là phải
phát triển được thị trường,. Trên cơ sở thị trường lãi suất được hình thành và tác động
vào các biến số kinh tế vĩ mô khác. các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của ngân
hàng trung ương cũng phải được chuyển từt rực tiếp sang các công cụ gián tiếp mang
tính thị trường. Muốn có một thị trường phát triển, có các công cụ thịtrường hữu hiệu
phải có sự chuẩn bị kĩ càng về cơ sở vật chất và con người. Hệthống ngân hàng cần
được tiếp tục cải tổ, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng
nhằm làm giảm chi phí và tăng hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, nền kinh tế mới chuyển đổi của nước ta đang
đứng trước nhiều cơ hội và nhiều khó khăn thách thức của nhu cầu mở cửa và hội
nhập. Duy trì chính sách lãi suất bị kiểm soát thời gian qua ngày càng tỏra kém hiệu
quả : vốn ứ đọng trong các ngân hàng, các biện pháp kích cầu qua lãi suất không đạt
hiệu quả mong muốn. Hơn mười năm sau đổi mới, những cải cách mạnh mẽ trong hệ
thống ngân hàng, trong điều hành chính sách tiền tệ và thu chi ngân sách đã tạo ra
những tiền đề vững chắc cho quá trình tự do hoá lãi suất
25

×