Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.68 KB, 36 trang )

Mục lục
Trang
Lời mở đầu 3
Phần I: Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trờng 4
I. Ưu thế và khuyết tật của thị trờng 4
1. Khái niệm cơ chế thị trờng 4
2. Ưu thế của thị trờng 5
3. Những khuyết tật của cơ chế thị trờng 6
II. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trờng 6
1. Mục tiêu của kinh tế vĩ mô 7
2. Chức năng kinh tế của chính phủ 7
3. Các công cụ điều tiết của chính phủ 12
Phần II: Vị trí kinh tế của chính phủ ở nớc CHXHCN Việt Nam trong giai
đoạn từng bớc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nớc 17
I. Vị trí kinh tế của chính phủ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ chế 17
II. Vị trí kinh tế của chính phủ Việt Nam trong giai đoạn từng bớc công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nớc 20
1. Công nghiệp hóa và hiện đạI hóa ở Việt Nam 20
2. Vai trò của chính phủ trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
ở nớc ta 22
3. Các chính sách kinh tế mà chính phủ áp dụng trong giai đoạn
công nghiệp hóa và hiện đại hóa 26
4. Những vấn đề chính phủ phải giải quyết trong giai đoạn
công nghiệp hóa và hiện đại hóa 31
Phần III: Thực trạng và giải pháp cho nền kinh tế Việt Nam và vai trò của
chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở nớc ta trong giai
đoạn hiện nay 33
I. Thực trạng nền kinh tế và vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền
kinh tế 33
1. Thực trạng của nền kinh tế 33
2. Thực trạng quản lý kinh tế của nhà nớc ta 34


II. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của chính phủ 35
Kết luận 37
Danh mục tài liệu tham khảo 38
1
lời mở đầu
Kinh tế thị trờng từng là động lực thúc đẩy nền kinh tế t bản phát triển vô cùng
nhanh chóng từ khi nó ra đời.Thực tế đã chứng minh cơ chế thị trờng làm cho nền kinh
tế trở nên năng động và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nền kinh tế thị trờng luôn là sự
cạnh tranh giữa các hãng sản suất với nhau do đó họ phải luôn tìm tòi,sáng tạo các ph-
ơng thức sản suất mới để mang lại lợi nhuận cao trong kinh doanh. Chính vì thế nó làm
cho nền kinh tế của đất nớc ngày càng phát triển và phồn thịnh.Tuy nhiên cơ chế thị tr-
ờng không phải là một hoạt động kinh tế hoàn hảo mà nó mang trên mình mặt trái của
nó nh:sự cạnh tranh không hoàn hảo; vấn đề ngoại ứng; sự phân hoá giàu nghèo...và các
vấn đề xã hội khác. Chính vì vậy, nhà nớc đã tham gia vào quá trình hoạt động của nền
kinh tế để giảm nhẹ hoặc khắc phục những hậu quả của nó. Nhng trên thực tế không thể
tồn tại một nền kinh tế chỉ đợc điều hành bằng mệnh lệnh và cũng không có nền kinh tế
nào hoạt động trên cơ sở tự nguyện mà không có sự điều tiết của nhà nớc. Chính phủ
ngày càng khẳng định đợc vai trò của mình trong quá trình hoạt động của nền kinh tế.
Đặc biệt là đối với Việt Nam-một nớc mới chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự điều tiết vĩ mô của nhà nớc nên còn có nhiều điều
mới mẻ và bỡ ngỡ nên chính phủ Việt Nam lại càng có vai trò to lớn trong việc hớng
nền kinh tế đi theo đúng mục tiêu đã chọn.Với hiểu biết của một sinh viên mới đợc hớng
dẫn học tập môn học này, em xin đợc trình bày những hiểu biết của mình về vai trò của
chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đồng thời liên hệ đến vị trí kinh tế của
chính phủ ở nớc Cộng hoà XHCN Việt Nam trong giai đoạn từng bớc công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nớc.
phần I : vai trò của chính phủ trong
nền kinh tế thị trờng
2
I.Ưu thế và khuyết tật của thị trờng:

Để hiểu rõ vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trờng, trớc hết ta phải hiểu
khái niệm về thị trờng và cơ chế thị trờng.
1.Khái niệm cơ chế thị trờng:
a.Thị trờng: Có rất nhiều khái niệm về thị trờng tuỳ theo mỗi quan điểm,mỗi góc
độ khác nhau song một khái niệm tơng đối khái quát nhất là: Thị trờng là một quá trình
trong đó ngời mua và ngời bán một thứ hàng tác động qua lại nhau để xác định giá cả và
số lợng hàng (Paul A.Samuelson).
Thị trờng là yếu tố cơ bản của môi trờng kinh doanh, là nơi hình thành các quan
hệ kinh tế. Các quan hệ kinh tế này là cơ sở quan trọng để hình thành cơ cấu kinh tế.
Thông qua thị trờng các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các khu vực kinh tế mới đợc
biểu hiên. Thị trờng có khả năng dự báo và hớng dẫn ngới sản suất và tiêu dùng trong
hành vi kinh tế. Nói một cách khác,trong nền kinh tế hàng hoá tất nhiên tồn tại một cơ
chế thị trờng.
b.Cơ chế thị trờng (Sự vận động của thị trờng ): Cơ chế thị trờng là một hình
thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân ngời tiêu dùng và các nhà doanh nghiệp tác động
lẫn nhau qua thị trờng để xác định 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế (Paul A.
Samuelson ). Ba vấn đề trung tâm đó là: sản xuất ra cái gì; sản xuất nh thế nào và sản
xuất cho ai.
Sản xuất cái gì: Nhằm thoả mãn nhu cầu của ngời tiêu dùng và còn do khả năng
kỹ thuật và chi phí sản xuất quyết định. Trong nền kinh tế thị trờng,việc sản xuất ra cái
gì khác so với nền kinh tế tự nhiên ở chỗ:trong nền kinh tế tự nhiên họ sản xuất ra
những gì mà họ cần để phục vụ cho mục đích tiêu dùng trực tiếp của mình, còn trong
nền kinh tế thị trờng các nhà doanh nghiệp sản xuất ra những mặt hàng mà thị trờng
cần. Cho nên giá cả chính là tín hiệu tập trung nhất mách bảo cho ngời ta sản xuất ra cái
gì. Ngời tiêu dùng sẽ bỏ phiếu bằng tiền cho những gì cần sản xuất
Sản xuất nh thế nào: Là do cạnh tranh giữa những ngời sản xuất quyết định. Để
có sự cạnh tranh về giá cả và lợi nhuận thì các nhà doanh nghiệp phải biết sử dụng hợp
lý nguồn lực mà mình có để tạo ra chi phí đầu vào thấp và chi phí đầu ra hợp lý mà thị
trờng chấp nhận đợc
Sản xuất cho ai: Trong nền kinh tế thị trờng, các hãng sản xuất ra những loại hàng

hoá và dịch vụ cho những ngời có nhu cầu và có khả năng thanh toán cho những nhu
cầu đó. Đối với ngời tiêu dùng, giá cả quyết định quy mô tiêu dùng và do đó quyết định
mức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ trong xã hội.
Tóm lại, cơ chế thị trờng là một loại cơ chế kinh tế lấy sự vận động của thị trờng
để biểu hiện, mà sự vận động của thị trờng lại cực kỳ phức tạp, nó bị chi phối, ảnh hởng,
3
tác động qua lại của vô vàn yếu tố. Cơ chế thị trờng có những u thế và khuyết tật của nó
mà ta phải nắm đợc để có biện pháp phát huy những u điểm của nó đồng thời khắc phục
những khuyết tật đó .
2.Ưu thế của thị trờng:
Nền kinh tế thị trờng ra đời là một tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi quốc
gia. Nó mang trên mình những u thế mà không một nền kinh tế nào sánh đợc với nó.
Thứ 1:Đó là sự tự do về các hoạt động kinh tế. Có nghĩa là có sự đa dạng hoá các
thành phần kinh tế để phát huy đợc hết năng lực tìm tòi và sáng tạo của mỗi doanh
nghiệp nhằm tạo ra đợc lợi nhuận cao nhất góp phần làm đất nớc giàu mạnh.
Thứ 2:Trong nền kinh tế thị trờng thì kinh tế t nhân chiếm u thế bởi vì đại đa số các
loại hình hoạt động kinh tế t nhân có quy mô nhỏ với khả năng thích ứng nhanh, nhạy
trớc những thay đổi của thực tế. Mặt khác, họ không phải chi trả lơng cho bộ máy viên
chức cồng kềnh nh trong quản lý kinh tế quốc doanh, vì thế thu đợc lợi nhuận lớn hơn.
Thứ 3:Phi tập trung hoá các quyền lực kinh tế có nghĩa là sự vận động của nền kinh
tế thị trờng gắn liền với việc tồn tại các loại hình sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất, với
quy luật canh tranh đã làm phân tán quyền lực về mặt kinh tế trong từng ngành cũng nh
trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua cạnh tranh thị trờng dẫn dắt ngời sản xuất-kinh
doanh vào nơi đầu t có lợi nhất. Điều này làm cho cơ cấu sản xuất xã hội,ngành cũng có
sự thay đổi theo yêu cầu của thị trờng.
Thứ 4:Lợi nhuận là động lực cao nhất để thúc đẩy quá trình sản xuất. Từ đó nó trả lời
các câu hỏi sản suất ra cái gì,sản suất nh thế nào và sản xuất cho ai. Nó biết kết hợp các
nguồn lực một cách hợp lýnhất để sản xuất ra một khối lợng sản phẩm lớn nhất với chi
phí thấp nhất,từ đó tối đa hoá đợc lợi nhuận. Nền kinh tế thị trờng vận dụng đợc năng
lực tối đa của nền kinh tế về vốn, kinh nghiệm lao động.

Thứ 5:Trong nền kinh tế thị trờng, tất cả các ngành thuộc các lĩnh vực khác nhau thì
yếu tố chung duy nhất tác động đến doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận. Các doanh nghiệp
chỉ khác nhau ở hình thái quy mô tổ chức. Nhng chúng có điểm giống nhau là hoạt động
trực tiếp với thị trờng. Do đó họ là những ngời dám chịu trách nhiệm trớc các quyết định
của mình, từ đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có trình độ,năng lực tổ chức kinh doanh.
3.Những khuyết tật của cơ chế thị trờng :
Bên cạnh những u điểm có thể nói là tuyệt vời của nền kinh tế thị trờng thì trong
quá trình vận động thì nó nảy sinh các nhợc điểm sau:
Thứ 1:Sự tác động, điều khiển của bàn tay vô hình mang tính chất tự phát, mù quáng
vì không ai biết trớc đợc cung cầu của xã hội.
Thứ 2:Thị trờng mang trên mình những thông tin không đầy đủ nên dễ dẫn đến mất
cân đối trong nền kinh tế.
4
Thứ 3:Sự vận động của cơ chế thị trờng dẫn đến sự phân hóa sâu sắc giữa giàu và
nghèo bởi trên thơng trờng chỉ tồn tại những kẻ mạnh ,từ đó có sự mất bình đẳng về
kinh tế-xã hội.
Thứ 4:Thị trờng phát triển dẫn đến độc quyền do đó làm giảm động lực phát triển.
Thứ 5:Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nó gây ra những tệ nạn xã hội nh:
hàng giả, buôn lậu, tham nhũng, hối lộ ...
Thứ 6:Thị trờng trong nhiều trờng hợp là kìm hãm chứ không phải là thúc đẩy tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Thứ 7:Hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trờng tàn phá môi sinh một cách ghê gớm,
tình trạng ô nhiễm môi trờng đang ở mức báo động ở nhiều quốc gia.
Chính những khiếm khuyết đó đã gây ra sự lãng phí của cải xã hội, do sự nhận
thức nhu của cầu thị trờng của từng đơn vị là độc lập, là riêng lẻ dẫn đến đầu t trùng lặp,
gây lãng phí. Đồng thời do sự cạnh tranh giành giật lợi nhuận dẫn đến việc chi phí cho
quảng cáo là quá mức cần thiết. Mặt khác, các lĩnh vực thu đợc ít lợi nhuận hoặc không
có lợi nhuận lại không đợc các doanh nghiệp chú ý, mà chính những hàng hoá đó lại là
những cơ sở, tiền đề cho nền kinh tế phát triển, đó chính là cơ sở hạ tầng của xã hội,
mạng lới giao thông,môi trờng sinh thái... Chính vì vậy, phải có sự can thiệp hữu hiệu

của nhà nớc để đảm bảo sự công bằng, hiệu quả và ổn định cho nền kinh tế, xã hội .
II.Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trờng:
Ta đã xem xét những u, nhợc điểm của cơ chế thị trờng. Tuy cơ chế thị trờng vẫn
tồn tại tính hai mặt nhng hiện nay vẫn đợc tất cả các quốc gia trên thế giới tiến hành. Tại
sao vậy? Bởi vì không một quốc gia nàolà không có sự điều tiết của chính phủ đối với
nền kinh tế. Chính sự điều tiết đó đã làm giảm bớt hoặc khắc phục những hậu quả của
cơ chế thị trờng làm cho cơ chế thị trờng u việt hơn hẳn so với các cơ chế kinh tế khác
và chính phủ dễ dàng hơn trong việc hớng nền kinh tế đi đúng mục tiêu mà mình đã đề
ra.
1.Mục tiêu của kinh tế vĩ mô:
Các quốc gia đều luôn luôn hớng về mục tiêu chính là: sản lợng cao, công ăn việc
làm đầy đủ, ổn định giá cả và cán cân ngoại thơng
Mục tiêu thứ 1:là sản lợng cao cả trên thực tế lẫn tiềm năng. Ngày nay, thớc đo cuối
cùng để đánh giá thành công kinh tế, là khả năng của một nớc để tạo ra sản lợng cao và
tăng nhanh đợc sản lợng hàng hoá và dịch vụ kinh tế <Paul Samuelson>.Có nghĩa là
tốc độ tăng trởng kinh tế ở mức cao.
Mục tiêu thứ 2:là công ăn việc làm ở mức cao và thất nghiệp thấp ở mức thất nghiệp
tự nhiên. Bởi vì một quốc gia càng tạo ra đợc nhiều công ăn việc làm thì nền kinh tế đó
đang ở trong thời kỳ phát triển cao.
5
Mục tiêu thứ 3:là ổn định giá cả và tỷ lệ lạm phát thấp. Ôn định giá cả là làm cho sự
biến động của giá cả là không lớnvà không đột ngột để giới kinh doanh có thể đoán đợc
nhằm định hớng đầu t cho mình. Khi giá cả của tất cả hàng hoá đồng loạt tăng lên thì
ngời ta gọi là lạm phát. Các quốc gia luôn muố duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức một con số
hoặc hai con số ở mức thấp có thể chấp nhận đợc, các chính phủ tìm mọi cách để giữ tỷ
lệ lạm phát dao động quanh tỷ lệ lạm phát nói trên.
Mục tiêu thứ 4: Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn địn tỷ giá hối đoái. Hầu hết
nền kinh tế của các nớc đều là nền kinh tế mở cửa, buôn bán với nớc ngoài do đó luôn
tồn tại việc xuất-nhập khẩu hàng hoá hoặc vay mợn giữa các nớc... Cân bằng cán cân
thanh toán và ổn định tỷ giá hối đoái nhằm làm cho cán cân hơng mại không có những

cú sốc lớn .
2.Chức năng kinh tế của chính phủ:
Khi thảo luận vai trò của chính phủ, chúng ta thờng đơng chấp nhận rằng chính
phủ là ngời đề ra luật lệ đi đờng. Để khẳng định vai trò của mình chính phủ thực hiện
các chức năng của mình.
Hiệu quả,nh đã nói ở trên, các nền kinh tế trên thực tế đôi khi chịu thất bại thị tr-
ờng. Ơ hệ thống kinh tế cạnh tranh, nhiều nhà sản xuất đơn giản không biết kỹ thuật sản
xuất rẻ nhất, và chi phí sản xuất không hạ xuống mức tối thiểu đợc. Trên thị trờng thực
tế, một doanh nghiệp có thể có lãi bằng cách giữ giá cao cũng nh bằng cách giữ mức
sản xuất cao. Trong nhiều lĩnh vực khác có rất nhiều tác động bên ngoài, vì ô nhiễm độc
hại hoặc vì kiến thức quí giá, đối với các nhà doanh nghiệp khác hoặc ngời tiêu dùng.
Trong mỗi một trờng hợp này, một thất bại thị trờng dẫn đến sản xuất không hiệu quả
hoặc tiêu dùng không hiệu quả, và ở đây, chính phủ có thể đóng vai trò chữa bệnh. Nh-
ng trong khi đánh giá vai trò của chính phủ chữa bệnh kinh tế, chúng ta cũng phải cảnh
giác với những thất bại của chính phủ - đó là tình huống chính phủ gây thêm bệnh
hoặc làm cho bệnh trầm trọng thêm.
Cạnh tranh không hoàn hảo. Một sai lệch nghiêm trọng của cạnh tranh hoàn hảo
là cạnh tranh không hoàn hảo hoặc nhân tố độc quyền.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ định nghĩa chinnhs xác của nhà kinh tế về ngời
cạnh tranh hoàn hảo . Mới chỉ có một vài địch thủ cha đủ hco cạnh tranh hoàn hảo.
Định nghĩa kinh tế về cạnh tranh hoàn hảo trên một thị trờng là có đủ một số lợng doanh
nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh đến mức không có một doanh nghiệp nào có thể ảnh h-
ởng đến giá cả của hàng hoá đó. Một ngời cạnh tranh không hoàn hảo là một ngời
mà hành động có thể ảnh hởng đến giá của một mặt hàng. Thực tế, điều này có nghĩa là
hầu hết các ông chủ doanh nghiệp, có lẽ trừ số hàng triệu nhà nông mà từng ngời một
sản xuất ra một phần không đáng kể trong toàn bộ thu hoạch, đều là những ngời cạnh
6
tranh không hoàn hảo. Ơ đầu cực cạnh tranh không hoàn hảo là nhà độc quyền, ngời
duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể.
Toàn bộ sinh hoạt kinh tế là sự kết hợp giữa các nhân tố độc quyền và cạnh tranh.

Cạnh tranh không hoàn hảo chứ không phải cạnh tranh hoàn hảo là hình thái chính. Nh-
ng nói rằng, Một doanh nghiệp có thể tác động tới giá cả sản phẩm của mình không có
nghĩa là độc tài . Phần sau chúng ta sẽ thấy rõ, một doanh nghiệp không thể định giá
hàng hoàn toàn theo ý muốn riêng mà vẫn có lãi. Doanh nghiệp đó phải tính đến giá của
các hàng có thể thay thế cho hàng của mình. Thậm chí nếu doanh nghiệp đó sản xuất ra
một loại dầu đốt đã có mác với những đặc tính độc đáo, họ vẫn phải tính đến giá của các
loại dầu đốt khác cũng nh giá của củi, khí đốt và chất cách nhiệt. Nh vậy, sức mạnh kinh
tế của những ngời cạnh tranh không hoàn hảo luôn bị kiềm chế phần nào.
Các ông chủ doanh nghiệp và công nhân vừa a vừa ghét cạnh tranh khi nó giúp
chúng ta mở rộng thị trờng. Nhng chúng ta gọi nó là có tính chất đục đẽo, không
công bằng hoặc tai hại khi đối thủ cạnh tranh của ta làm chúng ta chúnh ta mất lợi
nhuận. Những công nhân sống phụ thuộc vào giá bán sức lao động của mình trên thị tr-
ờng có thể là những ngời đầu tiên la ó khi cạnh tranh nớc ngoài đe doạ tiền lơng của họ
ở trong nớc.
Khi sức mạnh độc quyền- tức là khi một doanh nghiệp lớn có khả năng tác động
đến giá cả ở một thị trờng nào đó- thực sự trở thành quan trọng về kinh tế, chúng ta sẽ
thấy giá cả cao hơn mức hiệu quả, kiểu mẫu méo mó về cầu và sản xuất, và lợi nhuận
siêu thờng. Những lợi nhuận này có thể bị biến thành điều quảng cáo lừa dối hoặc là
thậm chí có thể mua ảnh hởng và sự bảo hộ của ngành lập pháp.
Chính phủ không coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu. Từ những năm
1890 chính phủ Liên bang đã ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để tăng hiệu
lực của hệ thống thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo của chúng ta.
Tác động bên ngoài. Một cách thứ hai để cơ chế thị trờng không bị kiềm chế có
thể dẫn đến kết quả không có hiệu quả xuất khẩu khi có nhân tố tác động bên ngoài.
Nhng trên thực tế, nhiều tác động qua lại diễn ra bên ngoài các thị trờng. Doanh
nghiệp sử dụng tài nguyên hiếm nh không khí hoặc nớc sạch mà không trả tiền cho
những ngời phải sống trong bầu không khí bị ô nhiễm hoặc nớc bị bẩn. Doanh nghiệpB,
đóng ở giữa một khu vực dân c thuê một ngời bảo vệ mặt mũi dữ tợn canh giữ nhà máy
của mình;nh vậy làm cho bọn lu manh vì sợ cũng tránh hành nghề ở các nhà dân lân
cận. Trong những trờng hợp đó, một cái xấu về kinh tế và một cái tốt về kinh tế đã đợc

chuyển giao tới những đối tợng bên ngoài các thị trờng. Tác động bên ngoài xảy ra khi
doanh nghiệp hoặc con ngời tạo ra chi phí lợi ích cho doanh nghiệp khác hoặc nguời
khác mà những doanh nghiệp hoặc con ngời nào không đợc nhận đúng số tiền cần đợc
trả hoặc không phải trả đúng số chi phí phải trả.
7
Vì xã hội chúng ta đã trở nên đông dân hơn xa, vì sản xuất ngày càng dựa trên
những quy trình sử dụng chất độc tác động bên ngoài đã từ những phiền toái nhỏ mà trở
thành những mối đe doạ lớn. Kết quả là chính phủ đã sử dụnh đến luật lệ điều tiết hành
vi kinh tế nh là một cách để ngăn chặn những tác động tiêu cực bên ngoài nh ô nhiễm n-
ớc và không khí, khai thác đến cạn khoáng sản, chất thải-gây nguy hiểm thức ăn, uống
thiếu an toàn và các chất phóng xạ...
Những ngời phê phán việc quy định luật lệ than phiền rằng hoạt động kinh tế của
chính phủ có tính chất cỡng bức không cần thiết. Chính phủ giống nh cha
mẹ, luôn nói không đợc: Không đợc bán thiếu cân, không đợc sử dụng lao động trẻ em,
không đợc để ống khói nhà máy nhả khói ra bầu trời, không đợc bán hoặc hút
Cocaine.v.v...
Mặt khác, khi kinh doanh, các nhà sản xuất luôn muốn thu đợc lợi nhuận cao
nhất, nguồn vốn quay vòng nhanh... Do đó, một số loại hàng hoá quan trọng cho việc
phát triển kinh tế, cho sự bảo đảm an ninh trật tự cho nền kinh tế lại không đợc đầu t vì
nó không mang lại lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít. Vì thế chính phủ pnải đầu t vào các
loại hàng hoá này. Sự can thiệp của chính phủ vào thị trờng để nâng cao hiệu quả của
nền kinh tế chứng tỏ những việc làm nh thế không phải do ý thích .(Paul A.Samuel).
Công bằng. Cho đến nay chúng ta đã tập trung vào các thiếu sót trong vai trò chỉ
đạo của bàn tay vô hình-những sự thiếu hoàn hảo có lẽ có thể sửa chữa đợc bằng sự can
thiệp đúng đắn. Nhng hãy tạm cho rằng nền kinh tế hoạt động hoàn toàn có hiệu quả-
luôn ở trên ranh giới khả năng sản xuất và không bao giờ ở bên trong ranh giới này cả,
luôn chọn đúng số lợng hàng hoá công cộng so với hàng hoá t nhân.v.v... Nhng thậm chí
nếu hệ thống thị trờng hoạt động hoàn hảo nh vừa mô tả thì nhiều ngời vẫn không cho
nó là lý tởng. Tại sao vậy?
Thứ nhất, hàng hoá đi theo số phiếu bằng đồng đô la chứ không phải là theo nhu cầu

lớn nhất. Một con mèo của ngời giàu có thể đợc nhận số sữa mà một đứa trẻ nghèo cần
có để đợc khoẻ mạnh. Có phsải là do cung cầu hoạt động kém không? Hoàn toàn không
vì cơ chế thị trờng đang làm đúng chức năng-nó đặt hàng vào tay ngời có thể trả tiền
nhiều nhất, ngời có nhiều phiếu bằng tiền nhất. Những ngời bảo vệ cơ chế giá cả và
những ngời phê phán nó cần thừa nhận rằng một hệ thống thị trờng có hiệu quả có thể
gây ra sự bất bình đẳng lớn. Nếu một nớc chi tiêu về thức ăn cho súc vật làm cảnh nuôi
trong nhà nhiều hơn là về giáo dục đại học cho ngời nghèo thì đó là một khuyết điểm
của việc phân phối thu nhập, chứ không phải là của thị trờng. Nhng, một kết quả nh vậy
có thể không chấp nhận đợc về mặt chính trị hoặc đạo lý. Một xã hội không cần chấp
nhận kết quả của những thị trờng có tính cạnh tranh-sự sống còn của những kẻ sống sót-
coi đó là quyền thiêng liêng hoặc công lý trên đời. Bàn tay vô hình có thể dẫn chúng ta
đến giới hạn bên ngoài của ranh giới khả năng sản xuất nhng không nhất thiết nó phân
phối sản lợng đó một cách có thể chấp nhận đợc. Và một khi xã hội dân chủ không thích
8
sự phân phối phiếu đô-la trong mức hệ thống thị trờng thả lỏng thì nó có biện pháp
thay đổi kết quả thông qua những chính sách phân phối lại.
Thứ hai, do tỉ suất thuế thấp không thể giúp gì cho những ngời hoàn toàn không có
thu nhập.trong những thập kỷ gần đây chính phủ đã xây dựng một hệ thống hỗ trợ thu
nhập: Giúp đỡ cho ngời già, ngời mù, ngời bị tàn tật, cũng nh bảo hiểm thất nghiệp cho
những ngời không có công ăn việc làm. Hệ thống trả tiền chuyển dịch này tạo ra một
mạng lới an toàn bảo vệ những ngời không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế. Cuối
cùng, chính phủ đôi khi trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu nhập thấp. Nhờ quá
trình tăng trởng kinh tế và những chơng trình phúc lợi tạo ra mức sống tối thiểu, phần
lớn cảnh túng quẫn ghê gớm và dễ nhìn thấy của chủ nghĩa t bản thế kỷ 19 đã bị xoá bỏ,
một kiểu nghèo đói dai dẳng hơn của thế kỷ 20 còn tồn tại .
Ôn định. Ngoài vai trò thúc đẩy hiệu quả và công bằng, chính phủ cũng tham gia
vào chức năng kinh tế vĩ mô là thúc đẩy sự ổn định kinh tế. Từ khi ra đời, chủ nghĩa t
bản đã từng gặp phải những thăng trầm chu kỳ của lạm phát (giá cả lên) và suy thoái
(nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tợng này rất dữ dội, nh thời kỳ siêu lạm
phát ở Đức trong những năm 1920, đến mức tiếp sau đó là rối loạn xã hội, cách mạng và

chiến tranh. Đôi lúc, nh thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ trong những năm 1930, khó khăn
gian khó kéo dài một thập kỷ vì các nhà lãnh đạo chính trị không có đủ hiểu biết kinh tế
để có biện pháp phục hồi kinh tế. Gần đây hơn, đầu những năm 1980, chính phủ Mỹ và
các nớc khác đã có biện pháp nhằm giảm tỷ lệ lạm phát cao. Những biện pháp này đã
dẫn đến thất nghiệp cao và lạm phát thì giảm. Nhng trong thành công lại có hạt giống
của thất bại. Bằng cách bảo đảm một thời kỳ nhiều công ăn việc làm và tăng trởng
nhanh, nhiều nớc đã vô tình nuôi dỡng một nền kinh tế trong đó nhân dân bắt đầu cho
rằng phồn vinh là lẽ đơng nhiên. Nhiều nớc đảm bảo cho công nhân và ngời hởng thu
nhập định kỳ mức sống trong điều kiện thời tiết xấu nh mức sống chỉ có thể có đợc với
thời tiết tốt. Trong các hệ thống giá cả, tiền lơng và hỗ trợ thu nhập có những điểm cứng
nhắc. Khi những rối loạn của những năm 1970 xảy ra sau hai lần tăng mạnh giá dầu lửa,
mất mùa ngô, trục trặc trong hệ thống tài chính quốc tế-ngời ta đã không giữ đợc lời
hứa. Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, không có một nền kinh tế ở quốc gia nào đều
luôn ổn định mà nó luôn có sự biến động. Có những thời kỳ nền kinh tế cực kỳ phồn
thịnh nhng cũng có lúc nền kinh tế nằm trong vùng đại suy thoái do nhiều nguyên nhân:
do lạm phát cao, những thay đổi của nền kinh tế thế giới... Do đó chính phủ góp phần
làm cho nền kinh tế dần dần ổn định bằng cách đa ra những chính sách hợp lý. Các mục
tiêu của đời sống kinh tế vĩ mô không phải là vấn đề để bàn cãi gay gắt nữa. Nhng các
nớc có thể đạt đợc các mục tiêu đó một tốt nhất nh thế nào? Một nớc muốn cải tiến
thành tựu của mình có thể có những sự lựa chọn gì? Trả lời cho câu hỏi này nằm một
phần trong các công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô .
9
Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm hai nhóm yếu tố: Cơ chế thị trờng-nhóm yếu tố chịu
sự chi phối của bàn tay vô hình tức các quy luật kinh tế thị trờng . Nhóm yếu tố này
mang tính chất tự điều chỉnh. Nhóm hai là sự quản lý của chính phủ ở tầm vĩ mô, nhóm
này gắn liền với bàn tay hữu hình , tức các công cụ quản lý của nhà nớc nh: pháp luật,
chính sách, kế hoạch... Nh vậy không thể điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trờng
khi chỉ có một trong hai yếu tố trên, điều đó giống nh ngời ta định vỗ tay bằng một tay

Tóm lại, chính phủ có vai trò thúc đẩy nền kinh tế hớng tới sự công bằng, hiệu quả và

ổn định. Tuy nhiên chính phủ không thể hô hào nhân dân là phải làm thế này hay thế kia
thì mới đạt đợc hiệu quả mà chính phủ phải sử dụng các công cụ của kinh tế vĩ mô đang
có trong tay một cách hữu hiệu nhất để thực hiện vai trò không thể thiếu đợc đối với nền
kinh tế đất nớc .
3.Các công cụ điều tiết của chính phủ :
Trong nhiều trờng hợp chính phủ không thể ngồi chờ cơ chế tự ổn định của kinh
tế thị trờng đợc mà phải nhanh chóng, trực tiếp sử dụng các cộng cụ của kinh tế vĩ mô
để điều tiết nền kinh tế. Một công cụ chính sách là một biến số kinh tế chịu sự quản lý
trực tiếp hay gián tiếp của chính phủ , thay đổi công cụ chính sách này sẽ có tác động
đến một hoặc nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô .
a.Hệ thống luật pháp :
Nó là hành lang an toàn cho các hoạt động kinh tế, đến mọi thành phần kinh tế
...nhằm tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu t đồng thời đảm bảo trật tự kinh tế cũng nh
đảm bảo trật tự xã hội để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh. Bằng cách đa ra
các đạo luật, chính phủ đã buộc mọi ngời dân hay mọi tổ chức kinh tế phải tuân theo.
Hệ thống luật pháp xuyên suốt quá trình phát triển của xã hội và trong các hoạt động
kinh tế. Nó đa xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng vào khuôn khổ theo ý muốn
chủ quan của chính phủ. Hệ thống luật pháp ở mỗi nớc là có thể khác nhau và có thể sửa
đổi, bổ sung ở mọi thời điểm để phù hợp với từng giai đoạn của mỗi nớc.
b.Chính sách tài khoá:
Chính sách tài khoá bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế.
.Chi tiêu của chính phủ:
Các chính phủ không thể không chi tiêu bởi vì để tạo hiệu quả cho nền kinh tế thì
chính phủ phải bỏ tiền ra để xây dựng đờng xá, các ngành công nghiệp quan trọng nh
điện..., đồng thời phải chi trả lơng cho cán bộ viên chức, quân đội. cảnh sát, trợ cấp...
Chi tiêu của chính phủ cũng tơng tự nh việc đầu t của các doanh nhgiệp nhng khác ở chỗ
là chính phủ không thu đợc lợi nhuận trong cuộc đầu t này. Nhng bù lại nó nâng cao
hiệu quả của nền kinh tế, làm cho xã hội có sự công bằng hơn. Bởi vì chi tiêu của chính
phủ là một bộ phận của tổng cầu do đó nó làm cho tổng sản phẩm quốc dân thay đổi.
10

Trong trờng hợp sản lợng của nền kinh tế còn dới mức sản lợnh tiềm năng thì chính phủ
tăng cờng chi tiêu đẻ làm tăng tổnh cầu từ đó làm cho sản lợng tiến gần sản lợng tiềm
năng. Trong trờng hợp ngợc lại, sản lợng vợt qua sản lợng tiềm năng hay trong thời kì
lạm phát cao, chính phủ cắt giảm chi tiêu của mình để cùng với các công cụ vĩ mô khác
làm giảm lạm phát. Điều đó chứng tỏ chính phủ không thể chi tiêu một cách lãng phí
nguồn ngân sách mà vấn đề là chi tiêu thế nào cho hợp lí trong từng thời kỳ. Bên cạnh
đó, chính phủ cần phải kiểm soát chặt chẽ nhu cầu chi tiêu của mình để hạn chế tối đa
việc thâm hụt ngân sách. Trong trờng hợp thiếu hụt ngân sách chính phủ phải vay tiền
dân chúng hoặc vay nớc ngoài để bù đắp ngân sách.
Tóm lại, tất cả các chính phủ ở các quốc gia đều phải chi tiêu nhng không phải tự
nhiên có tiền để chi tiêu mà phải có nguồn thu. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà n-
ớc là thuế, còn các nguồn thu khác là không đáng kể.
.Thuế khoá :
Thuế khoá là khoản đóng góp mang tính pháp lệnh mà nhà nớc bắt buộc mỗi công dân
và các tổ chức kinh tế phải nộp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Tất cả các
quốc gia đều quy định mức thuế suất với mỗi loại thuế và buộc mọi ngời phải tuân theo.
Các loại thuế đều làm giảm thu nhập của ngời dân dẫn tới mức chi tiêu cho tiêu dùng
của các hộ gia đình giảm. Thuế còn ảnh hởng đến việc đầu t của mỗi doanh nghiệp, nếu
thuế cao sẽ không khuyến khích đầu t, việc giảm các sắc thuế đánh vào các khoản bổ
sung cho đầu t hoặc kinh doanh máy móc thiết bị mới sẽ kích thích đầu t ở nhiều ngành
từ đó làm tăng nguồn vốn của nền kinh tế dẫn đến GDP sẽ tăng lên trong tơng lai. Ngoài
ra, thuế còn ảnh hởng đến việc xuất-nhập khẩu ở mỗi nớc. Nếu các sắc thuế đánh vào
các mặt hàng nhập khẩu cao thì sẽ hạn chế đợc việc nhập khẩu các mặt hàng đó, tơng tự
đối với xuất khẩu, từ đó chính phủ điều tiết đợc lợng hàng hoá nội địa và nhập ngoại.
Nh vậy, khi chính phủ muốn bảo hộ một loại mặt hàng nào đó ở trong nớc thì chỉ cần
tăng thuế xuất-nhập khẩu của mặt hàng đó lên cao đến mức các doanh nghiệp không
muốn nhập khẩu loại mặt hàng đó nữa.
Nh vậy, để ổn định sản lợng gần với sản lợng tiềm năng thì chính phủ có thể sử dụng
chính sách tài khoá bằng cách: Nếu các bộ phận của tổng cầu hạ thấp một cách
không bình thờng thì chính phủ phải kích thích nhu cầu bằng cách giảm thuế hoặc tăng

chi tiêu hoặc là kết hợp cả hai cách. Trong trờng hợp các bộ phận của tổng cầu cao hơn
mức bình thờng thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả hai
cách.
c.Chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là một cônh cụ kinh tế vĩ mô đợc dùng tơng đối phổ biến của
chính phủ. Chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến đầu t t nhân, hớng nền kinh tế vào
mức sản lợng và việc làm mong muốn.
11
Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lợng cung về tiền và lãi suất. Thực chất
của chính sách tiền tệ là chính phủ thông qua ngân hàng trung ơng kiểm soát việc cung
ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Ngân hàng trung ơng kiểm soát bằng cách tăng hoặc giảm l-
ợng cung ứng tiền trong lu thông thông qua lãi suất hoặc chứng khoán... Thông thờng
trong những thời kỳ lạm phát cao, ngân hàng trung ơng nâng lãi suất lên cao(chính sách
thắt chặt tiền tệ)để thu hút một khối lợng lớn tiền vào ngân hàng làm cholợng tiền trong
lu thông giảm. Hay trong thời kỳ nới lỏng tiền tệ,ngân hàng trung ơng giảm lãi suất hay
mua chứng khoán của dân chúng để tăng khối lợng tiền trong lu thông. Nh vậy, bằng
cách thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ sẽ làm ảnh hởng đến đầu t,từ đó sẽ ảnh hởng đến
toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, tuy chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tổng sản
phẩm quốc dân (GNP) thực tế về mặt ngắn hạn. Song do tác động đến đầu t, nên nó
cũng có ảnh hởng lớn đến tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng về mặt dài hạn.
d.Chính sách thu nhập:
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các công cụ mà chính phủ sử dụng nhằm tác
động trực tiếp đến tiền công, giá cả... để kìm chế lạm pháp.
Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp cứng rắn nh:đồng lơng,đồng giá; những
quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá-lơng-tiền..., đến các biện pháp linh hoạt nh-
:việc hớng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập...
Chính sách thu nhập chỉ đặc biệt có ý nghĩa trong thời kỳ lạm phát cao. Thực chất
của chính sách thu nhập là chính sách về giá-lơng-tiền. Trong thời kỳ lạm phát cao
chính phủ thực hiện chính sách đônh giá và đông tiền lơng, tức là cố định giá cả và tiền
công trong một thời gian nhất định nhằm giảm bớt lợng tiền.

e.Chính sách kinh tế đối ngoại:
Trong nền kinh tế mở cửa thì không thể không có chính sách kinh tế đối ngoại để sự
trao đổi mua bán giữa các nớc đợc thuận lợi. Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm
nhiều loại công cụ nh: quản lý tỷ giá hối đoái, chính sách ngoại thơng, trợ giá, hàng rào
thuế quan, hạn nghạch. Việc tác động đến hàng hoá xuất-nhập khẩu vào giá cả hàng hoá
đó đều thông qua các công cụ này.Chẳng hạn nh để khuyến khích xuất khẩu thì chính
phủ có thể tác động đến tỷ giá bằng cách hạ thấp tỷ giá xuống làm cho giá ngoại tệ
giảm,điều đó là rất thuận lợi cho xuất khẩu, hoặc có thể tác động bằng cách hạ thuế suất
các mặt hàng xuất khẩu, hoặc trợ giá... làm cho chi phí xuất khẩu hạ xuống từ đó làm
giá thành hạ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh với các hãng sản xuất cùng loại
mặt hàng ở các nớc khác. Nh vậy, những biện pháp này nhằm duy trì sự cân bằng trên
thị trờng ngoại hối và giữ cho xuất-nhập khẩu theo nh mong muốn của chính phủ .
Tóm lại, đây là các công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của chính phủ, ngoài ra còn có
các công cụ khác nh các kế hoạch, các chơng trình phát triển...Việc sử dụng các công cụ
kinh tế vĩ mô này trong từng thời kỳ hay ở mỗi quốc gia là không giống nhau. Vì vậy,
khi sử dụng chúng cần phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở quốc gia mình .
12
Sự khác biệt giữa điều tiết của nhà nớc trongnền kinh tế chỉ huy và nền kinh tế thị
trờng ở chỗ :
Nền kinh tế là nền kinh tế mà chính phủ ở nớc đó trực tiếp giải quyết ba vấn đề cơ bản
của nền kinh tế. Còn trong nền kinh tế thị trờng có sự điều tiết của nhà nớc (nền kinh tế
hỗn hợp)thì cả chính phủ và thị trờng đều tham gia giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền
kinh tế, có ngiã là kết hợp cả hai yếu tố là sự dung hoà của nhà nớc và thị trờng. Cách
giải quyết đó là :
Sản xuất ra cái gì: Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nớc trực tiếp phân bố các nguồn lực
(đất đai, lao động, vốn, kỹ thuật...)cho các ngành, các địa phơng, các đơn vị kinh tế (các
xí nghiệp, các công ty...), chính phủ quyết định cho công ty này sản xuất ra cái gì và bao
nhiêu. Còn trong nền kinh tế thị trờng, chính phủ để tự các doanh nghiệp sản xuất ra
những mặt hàng gì mang lại lợi nhuận cho họ, chính phủ tham gia sản xuất ra những
hàng công cộng hay còn gọi là xây dựng hạ tầng cơ sở để phục vụ cho nền kinh tế, đồng

thời nhà nớc kiểm soát một tỷ phần đáng kể của sản lợng thông qua việc đánh thuế,
tham gia vào việc định giá..., chính phủ cũng tham gia vào việc sản xuất ra hàng t nhân:
sắt, thép ...
Sản xuất nh thế nào: Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nớc quy định công nghệ, kỹ thuật
sản xuất, quyết định mô hình và cách thức sản xuất. Việc thay đổi cũng phải đợc sự
đồng ý của nhà nớc. Trong nền kinh tế thị trờng chính phủ vì lợi ích chung của toàn xã
hội mà sẵn sàng nhập những công nghệ tốt và can thiệp những tổ chức, những công ty...
nhập những công nghệ có hại cho cộng đồng.
Sản xuất cho ai: Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nớc quyết định phân chia tổng sản
phẩm quốc dân cho từng ngành, từng gia đìnhvà từng cá nhân. Có nghĩa là các đơn vị
sản xuất giao nộp hàng hoá đã sản xuất cho chính phủ, từ đó chính phủ phân phối đều
các mặt hàn đến các ngành, các gia đình thông qua tem phiếu. Trong nền kinh tế thị tr-
ờng thì cả nhà nớc và thị trờng tham gia vào việc phân phối. Nhà nớc thực hiện chế độ
trợ cấp cho những ngời nghèo, ngời về hu..., trợ cấp cho những vùng bị thiên tai. Đối với
một số hàng hoá nhà nớc khuyến khích bằng cách giảm thuế, trợ cấp theo giá cả (trợ
giá) .
Qua đây ta thấy, nền kinh tế chỉ huy hoạt động kém hiệu quả hơn hẳn so với nền
kinh tế thị trờng có sự điều tiết của chính phủ do chỉ đợc điều hành bằng mệnh lệnh, sản
xuất không thông qua cung- cầu trên thị trờng, bên cạnh đó hệ thống cơ quan nhà nớc
rất đồ sộ làm cho nhà nớc phải có chi phí quá lớn vào hẹe thống này. Trên thực tế cơ chế
kinh tế chỉ huy này đã đợc áp dụng ở các nớc XHCN trớc đây và nó đã bị tan rã .
Tuy nhiên, sự điều tiết của chính phủ trong nền kinh tế thị trờng không phải là
không có mặt trái của nó. Chẳng hạn nh: Đối với thuế quan, nó có tác động làm giảm l-
ợng hàng nhập khẩu và chính phủ thu đợc một khoản tiền từ loại thuế này, tăng lợng
hàng sản xuất trong nớc. Tuy nhiên, nó sinh ra chi phí ròng mà xã hội phải chịu để bù
13
đắp cho doanh nghiệp sản xuất thêm đồng thời ngời tiêu dùng phải cắt giảm tiêu dùng
khi có thuế quan hay nói cách khác nó là phần thiệt hại do ngời tiêu dùng phải cắt giảm
tiêu dùng. Hơn nữa, chính phủ dùng thuế quan để bảo vệ một số ngành trong nớcbằng
cách định mức thuế xuất-nhập khẩu hàng hoá nào đó cao đến mức chấm dứt việc nhập

khẩu hàng hoá đó, do vậy ngành sản xuất loại hàng hoá tơng tự ở nội địa đợc bảo hộ.
Điều này làm cho ngành đó không có tính cạnh tranh, không tìm kiếm những phơng
thức sản xuất mới để giảm chi phí dẫn đến hiệu quả sản xuất giảm .
Về hạn ngạch (quota) là giới hạn số lợng hàng nhập khẩu quota do chính phủ cấp và
tuỳ từng tình hình mà chính phủ cho phép nhập khẩu từng loại hàng hoá là bao nhiêu.
Tác động của quota cũng giống nh của thuế quan nhng khác một điều là phần thuộc về
chính phủ khi có thuế quan thì bây giờ lại thuộc về những ngời có quota. Do vậy có sự
tranh giành nhau để có quota nhập khẩu dẫn đến xuất hiện các tệ nạn xã hội nh tham
nhũng, hối lộ...
Về chính sách tiền tệ có tỷ giá hối đoái thả nổi: Khi chính phủ thực hiện chính sách
thắt chặt tiền tệ (để chống lạm phát) làm cho lãi suất tăng lên, do đó việc đầu t vào nớc
này là rất hấp dẫn dẫn đến mức cầu về đồng tiền đó tăng, nên làm cho xuất khẩu giảm,
hàng nhập khẩu rẻ hơn (do giá trị đồng tiền nớc đó cao), làm cho xuất khẩu ròng giảm
từ đó tổng cầu (AD) giảm nên công ăn việc làm giảm, cán cân thơng mại bị thâm hụt.
Việc định giá đồng tiền quá cao cùng với tỷ giá hối đoái thả nổi làm ảnh hởng lớn đến
nền kinh tế. (Điều này thực tế đã xảy ra ở Mỹ và Nhật đầu những năm 80). Chính phủ
quy định mức lơng tối thiểu cao hơn mức lơng bình quân nhằm bảo vệ lợi ích của ngời
lao động, hạn chế sự bóc lột của ngời thuê công nhân. Mức lơng tối thiểu có thể đảm
bảo lợi ích trớc mắt cho một bộ phận công nhân nhng xét về mặt dài hạn nó làm thệt hại
đến lợi ích của toàn bộ lực lợng lao động ở chỗ làm tăng đội quân thất nghiệp. Nh thế nó
đã ảnh hởng không tốt đến việc sử dụng một nguồn lực quan trọng của xã hội. Tơng tự,
trên thị trờng hàng hóa, việc quy định mức giá tối thiểu cao hơn giá trị cân bằng của thị
trờng có thể đảm bảo lợi ích trớc mắt cho ngời bán nhbg trong dài hạn giá tối thiểu
không khuyến khích đổi mới kỹ thuật và hạ thấp chi phí do đó sẽ gây thiệt hại cho toàn
bộ nền kinh tế. Chính phủ quy định chính sách giá tối đa tức là bằng cách ban hành đạo
luật quy định một mức giá thấp hơn giá trị cân bằng của thị trờng buộc ngời mua phải
thanh toán theo giá đó. Nó đợc sử dụng khi ở trên thị trờng nào đó hàng hoá trở nên
khan hiếm và có xu hớng tăng giá mạnh ảnh hởng xấu đến lợi ích kinh tế của những ng-
ời tiêu dùng. Việc quy định giá hàng hoá đó thấp hơn giá trị cân bằng của thị trờng sẽ
dẫn đến việc giảm sản lợng của các doanh nghiệp trong nớc và ngợc lại làm tăng cầu

của ngời tiêu dùng. Tình trạng khan hiếm hàng hóa đó xuất hiện và ngời mua sẽ phải
cạnh tranh một cách quyết liệt với nhau để mua đợc một lợng hàng hạn chế với mức giá
thấp. Chính phủ có thể dùng biện pháp tem phiếu để cung cấp lợng hàng hóa có hạn với
mức giá mà chính phủ mong muốn. Việc phát hành tem phiếu này lại gắn liền với việc
14

×