Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế nói chung và cụ thể ở Việt Nam nói riêng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.44 KB, 41 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
lời mở đầu

Kinh tế thị trờng từng là động lực thúc đẩy nền kinh tế t bản phát triển
vô cùng nhanh chóng từ khi nó ra đời.Thực tế đã chứng minh cơ chế thị tr-
ờng làm cho nền kinh tế trở nên năng động và mang lại hiệu quả kinh tế
cao.Nền kinh tế thị trờng luôn là sự cạnh tranh giã các hãng sản xuất với
nhau, do đó họ phải luôn tìm tòi, sáng tạo các phơng thức sản xuất mới để
mang lại lợi nhuận cao trong kinh doanh.Chính vì thế nó làm cho nền kinh
tế của đất nớc ngày càng phát triển và phồn thịnh. Tuy nhiên cơ chế thị tr-
ờng không phải là một hoạt động kinh tế hoàn hảo mà nó mang trên mình
mặt trái của nó nh: sự cạnh tranh không hoàn hảo, vấn đề ngoại ứng, sự
phân hoá giaù nghèo và các vấn đề xã hội khác. Chính vì vậy, Nhà n ớc đã
tham gia vào quá trình hoạt động của nền kinh tế để giảm nhẹ hoặc khắc
phục những hậu quả của nó.Nhng trên thực tế không thể tồn tại một nền
kinh tế chỉ đợc điều hành bằng mệnh lệnh và cũng không có nền kinh tế nào
hoạt động trên cơ sở tự nguyện.Chính phủ ngày càng khẳng định đợc vai trò
của mình trong quá trình hoạt động của nền kinh tế. Đặc biệt là đối với Việt
Nam- một nớc mới chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trờng có sự đIều tiết vĩ mô của Nhà nớc nên còn có nhiều
mới mẻ và bỡ ngỡ nên chónh phủ Việt Nam lại càng có vai trò to lớn trong
việc hơng nền kinh tế đi theo đúng mục tiêu đã chọn. Với hiểu biết của một
sinh viên mới đợc hớng dẫn học tập môn này, em xin đợc trình bày những
hiểu biết của mình về vai trò và các chức năng cơ bản chính phủ trong điều
tiết vĩ mô nền kinh tế đồng thơì liên hệ đến vị trí kinh tế của chính phủ ở n-
ớc Cộng hoà XHCN Việt Nam trong giai đoạn từng bớc công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nớc.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I
vai trò và các chức năng cơ bản của chính phủ trong


điều tiết vĩ mô nền kinh tế
1.Mục tiêu của kinh tế vĩ mô:
Các quốc gia đều luôn luôn hớng về mục tiêu chính là: sản lợng cao, công ăn
việc làm đầy đủ, ổn định giá cả và cán cân ngoại thơng
Mục tiêu thứ 1: là sản lợng cao cả trên thực tế lẫn tiềm năng. Ngày nay, thớc đo
cuối cùng để đánh giá thành công kinh tế, là khả năng của một nớc để tạo ra sản lợng
cao và tăng nhanh đợc sản lợng hàng hoá và dịch vụ kinh tế <Paul Samuelson>. Có
nghĩa là tốc độ tăng trởng kinh tế ở mức cao.
Mục tiêu thứ 2: là công ăn việc làm ở mức cao và thất nghiệp thấp ở mức thất
nghiệp tự nhiên. Bởi vì một quốc gia càng tạo ra đợc nhiều công ăn việc làm thì nền
kinh tế đó đang ở trong thời kỳ phát triển cao.
Mục tiêu thứ 3: là ổn định giá cả và tỷ lệ lạm phát thấp. Ôn định giá cả là làm cho
sự biến động của giá cả là không lớnvà không đột ngột để giới kinh doanh có thể
đoán đợc nhằm định hớng đầu t cho mình. Khi giá cả của tất cả hàng hoá đồng loạt
tăng lên thì ngời ta gọi là lạm phát. Các quốc gia luôn muố duy trì tỷ lệ lạm phát ở
mức một con số hoặc hai con số ở mức thấp có thể chấp nhận đợc, các chính phủ tìm
mọi cách để giữ tỷ lệ lạm phát dao động quanh tỷ lệ lạm phát nói trên.
Mục tiêu thứ 4: Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn địn tỷ giá hối đoái. Hầu
hết nền kinh tế của các nớc đều là nền kinh tế mở cửa, buôn bán với nớc ngoài do đó
luôn tồn tại việc xuất-nhập khẩu hàng hoá hoặc vay mợn giữa các nớc... Cân bằng
cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá hối đoái nhằm làm cho cán cân hơng mại không
có những cú sốc lớn .
2. Các chức năng kinh tế cơ bản của chính phủ:
Khi thảo luận vai trò của chính phủ, chúng ta thờng đơng chấp nhận rằng
chính phủ là ngời đề ra luật lệ đi đờng. Để khẳng định vai trò của mình chính phủ
thực hiện các chức năng của mình.
a- Hiệu quả: Thực tế ở các nớc có nền kinh tế thị trờng trên đôi khi cũng chịu
thất bại thị trờng. Ơ hệ thống kinh tế cạnh tranh, nhiều nhà sản xuất đơn giản không
biết kỹ thuật sản xuất rẻ nhất, và chi phí sản xuất không hạ xuống mức tối thiểu đợc.
Trên thị trờng thực tế, một doanh nghiệp có thể có lãi bằng cách giữ giá cao cũng

nh bằng cách giữ mức sản xuất cao. Trong nhiều lĩnh vực khác có rất nhiều tác động
bên ngoài, vì ô nhiễm độc hại hoặc vì kiến thức quí giá, đối với các nhà doanh nghiệp
khác hoặc ngời tiêu dùng. Trong mỗi một trờng hợp này, một thất bại thị trờng dẫn
đến sản xuất không hiệu quả hoặc tiêu dùng không hiệu quả, và ở đây, chính phủ có
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thể đóng vai trò chữa bệnh. Nhng trong khi đánh giá vai trò của chính phủ chữa bệnh
kinh tế, chúng ta cũng phải cảnh giác với những thất bại của chính phủ - đó là tình
huống chính phủ gây thêm bệnh hoặc làm cho bệnh trầm trọng thêm.
Cạnh tranh không hoàn hảo. Một sai lệch nghiêm trọng của cạnh tranh hoàn
hảo là cạnh tranh không hoàn hảo hoặc nhân tố độc quyền.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ định nghĩa chinnhs xác của nhà kinh tế về ngời
cạnh tranh hoàn hảo . Mới chỉ có một vài địch thủ cha đủ có cạnh tranh hoàn hảo.
Định nghĩa kinh tế về cạnh tranh hoàn hảo trên một thị trờng là có đủ một số lợng
doanh nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh đến mức không có một doanh nghiệp nào có
thể ảnh hởng đến giá cả của hàng hoá đó. Một ngời cạnh tranh không hoàn hảo là
một ngời mà hành động có thể ảnh hởng đến giá của một mặt hàng. Thực tế, điều này
có nghĩa là hầu hết các ông chủ doanh nghiệp, có lẽ trừ số hàng triệu nhà nông mà
từng ngời một sản xuất ra một phần không đáng kể trong toàn bộ thu hoạch, đều là
những ngời cạnh tranh không hoàn hảo. Ơ đầu cực cạnh tranh không hoàn hảo là
nhà độc quyền, ngời duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể.
Toàn bộ sinh hoạt kinh tế là sự kết hợp giữa các nhân tố độc quyền và cạnh
tranh. Cạnh tranh không hoàn hảo chứ không phải cạnh tranh hoàn hảo là hình thái
chính. Nhng nói rằng, Một doanh nghiệp có thể tác động tới giá cả sản phẩm của
mình không có nghĩa là độc tài . Phần sau chúng ta sẽ thấy rõ, một doanh nghiệp
không thể định giá hàng hoàn toàn theo ý muốn riêng mà vẫn có lãi. Doanh nghiệp
đó phải tính đến giá của các hàng có thể thay thế cho hàng của mình. Thậm chí nếu
doanh nghiệp đó sản xuất ra một loại dầu đốt đã có mác với những đặc tính độc đáo,
họ vẫn phải tính đến giá của các loại dầu đốt khác cũng nh giá của củi, khí đốt và
chất cách nhiệt. Nh vậy, sức mạnh kinh tế của những ngời cạnh tranh không hoàn

hảo luôn bị kiềm chế phần nào.
Các ông chủ doanh nghiệp và công nhân vừa a vừa ghét cạnh tranh khi nó giúp
chúng ta mở rộng thị trờng. Nhng chúng ta gọi nó là có tính chất đục đẽo, không
công bằng hoặc tai hại khi đối thủ cạnh tranh của ta làm chúng ta chúnh ta mất
lợi nhuận. Những công nhân sống phụ thuộc vào giá bán sức lao động của mình trên
thị trờng có thể là những ngời đầu tiên la ó khi cạnh tranh nớc ngoài đe doạ tiền lơng
của họ ở trong nớc.
Khi sức mạnh độc quyền- tức là khi một doanh nghiệp lớn có khả năng tác
động đến giá cả ở một thị trờng nào đó- thực sự trở thành quan trọng về kinh tế,
chúng ta sẽ thấy giá cả cao hơn mức hiệu quả, kiểu mẫu méo mó về cầu và sản xuất,
và lợi nhuận siêu thờng. Những lợi nhuận này có thể bị biến thành điều quảng cáo
lừa dối hoặc là thậm chí có thể mua ảnh hởng và sự bảo hộ của ngành lập pháp.
Chính phủ không coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu. Từ những năm
1890 chính phủ Liên bang đã ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để tăng
hiệu lực của hệ thống thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo của chúng ta.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tác động bên ngoài. Một cách thứ hai để cơ chế thị trờng không bị kiềm chế
có thể dẫn đến kết quả không có hiệu quả xuất khẩu khi có nhân tố tác động bên
ngoài.
Nhng trên thực tế, nhiều tác động qua lại diễn ra bên ngoài các thị trờng.
Doanh nghiệp sử dụng tài nguyên hiếm nh không khí hoặc nớc sạch mà không trả
tiền cho những ngời phải sống trong bầu không khí bị ô nhiễm hoặc nớc bị bẩn.
Doanh nghiệpB, đóng ở giữa một khu vực dân c thuê một ngời bảo vệ mặt mũi dữ tợn
canh giữ nhà máy của mình;nh vậy làm cho bọn lu manh vì sợ cũng tránh hành nghề
ở các nhà dân lân cận. Trong những trờng hợp đó, một cái xấu về kinh tế và một cái
tốt về kinh tế đã đợc chuyển giao tới những đối tợng bên ngoài các thị trờng. Tác
động bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con ngời tạo ra chi phí lợi ích cho
doanh nghiệp khác hoặc nguời khác mà những doanh nghiệp hoặc con ngời nào
không đợc nhận đúng số tiền cần đợc trả hoặc không phải trả đúng số chi phí phải

trả.
Vì xã hội chúng ta đã trở nên đông dân hơn xa, vì sản xuất ngày càng dựa trên
những quy trình sử dụng chất độc tác động bên ngoài đã từ những phiền toái nhỏ mà
trở thành những mối đe doạ lớn. Kết quả là chính phủ đã sử dụnh đến luật lệ điều tiết
hành vi kinh tế nh là một cách để ngăn chặn những tác động tiêu cực bên ngoài nh ô
nhiễm nớc và không khí, khai thác đến cạn khoáng sản, chất thải-gây nguy hiểm thức
ăn, uống thiếu an toàn và các chất phóng xạ...
Những ngời phê phán việc quy định luật lệ than phiền rằng hoạt động kinh tế
của chính phủ có tính chất cỡng bức không cần thiết. Chính phủ giống nh cha
mẹ, luôn nói không đợc: Không đợc bán thiếu cân, không đợc sử dụng lao động trẻ
em, không đợc để ống khói nhà máy nhả khói ra bầu trời, không đợc bán hoặc hút
Cocaine.v.v...
Mặt khác, khi kinh doanh, các nhà sản xuất luôn muốn thu đợc lợi nhuận cao
nhất, nguồn vốn quay vòng nhanh... Do đó, một số loại hàng hoá quan trọng cho việc
phát triển kinh tế, cho sự bảo đảm an ninh trật tự cho nền kinh tế lại không đợc đầu t
vì nó không mang lại lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít. Vì thế chính phủ pnải đầu t vào
các loại hàng hoá này. Sự can thiệp của chính phủ vào thị trờng để nâng cao hiệu
quả của nền kinh tế chứng tỏ những việc làm nh thế không phải do ý thích .(Paul
A.Samuel).
b- Công bằng: Cho đến nay chúng ta đã tập trung vào các thiếu sót trong vai trò
chỉ đạo của bàn tay vô hình-những sự thiếu hoàn hảo có lẽ có thể sửa chữa đợc bằng
sự can thiệp đúng đắn. Nhng hãy tạm cho rằng nền kinh tế hoạt động hoàn toàn có
hiệu quả-luôn ở trên ranh giới khả năng sản xuất và không bao giờ ở bên trong ranh
giới này cả, luôn chọn đúng số lợng hàng hoá công cộng so với hàng hoá t nhân.v.v...
Nhng thậm chí nếu hệ thống thị trờng hoạt động hoàn hảo nh vừa mô tả thì nhiều ng-
ời vẫn không cho nó là lý tởng. Tại sao vậy?
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ nhất, hàng hoá đi theo số phiếu bằng đồng đô la chứ không phải là theo nhu
cầu lớn nhất. Một con mèo của ngời giàu có thể đợc nhận số sữa mà một đứa trẻ

nghèo cần có để đợc khoẻ mạnh. Có phsải là do cung cầu hoạt động kém không?
Hoàn toàn không vì cơ chế thị trờng đang làm đúng chức năng-nó đặt hàng vào tay
ngời có thể trả tiền nhiều nhất, ngời có nhiều phiếu bằng tiền nhất. Những ngời bảo
vệ cơ chế giá cả và những ngời phê phán nó cần thừa nhận rằng một hệ thống thị tr-
ờng có hiệu quả có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. Nếu một nớc chi tiêu về thức ăn
cho súc vật làm cảnh nuôi trong nhà nhiều hơn là về giáo dục đại học cho ngời nghèo
thì đó là một khuyết điểm của việc phân phối thu nhập, chứ không phải là của thị tr-
ờng. Nhng, một kết quả nh vậy có thể không chấp nhận đợc về mặt chính trị hoặc đạo
lý. Một xã hội không cần chấp nhận kết quả của những thị trờng có tính cạnh tranh-
sự sống còn của những kẻ sống sót-coi đó là quyền thiêng liêng hoặc công lý trên
đời. Bàn tay vô hình có thể dẫn chúng ta đến giới hạn bên ngoài của ranh giới khả
năng sản xuất nhng không nhất thiết nó phân phối sản lợng đó một cách có thể chấp
nhận đợc. Và một khi xã hội dân chủ không thích sự phân phối phiếu đô-la trong
mức hệ thống thị trờng thả lỏng thì nó có biện pháp thay đổi kết quả thông qua
những chính sách phân phối lại.
Thứ hai, do tỉ suất thuế thấp không thể giúp gì cho những ngời hoàn toàn không
có thu nhập.trong những thập kỷ gần đây chính phủ đã xây dựng một hệ thống hỗ trợ
thu nhập: Giúp đỡ cho ngời già, ngời mù, ngời bị tàn tật, cũng nh bảo hiểm thất
nghiệp cho những ngời không có công ăn việc làm. Hệ thống trả tiền chuyển dịch
này tạo ra một mạng lới an toàn bảo vệ những ngời không may khỏi bị huỷ hoại về
kinh tế. Cuối cùng, chính phủ đôi khi trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu nhập
thấp. Nhờ quá trình tăng trởng kinh tế và những chơng trình phúc lợi tạo ra mức sống
tối thiểu, phần lớn cảnh túng quẫn ghê gớm và dễ nhìn thấy của chủ nghĩa t bản thế
kỷ 19 đã bị xoá bỏ, một kiểu nghèo đói dai dẳng hơn của thế kỷ 20 còn tồn tại .
c- ổn định. Ngoài vai trò thúc đẩy hiệu quả và công bằng, chính phủ cũng tham
gia vào chức năng kinh tế vĩ mô là thúc đẩy sự ổn định kinh tế. Từ khi ra đời, chủ
nghĩa t bản đã từng gặp phải những thăng trầm chu kỳ của lạm phát (giá cả lên) và
suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tợng này rất dữ dội, nh thời
kỳ siêu lạm phát ở Đức trong những năm 1920, đến mức tiếp sau đó là rối loạn xã
hội, cách mạng và chiến tranh. Đôi lúc, nh thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ trong những

năm 1930, khó khăn gian khó kéo dài một thập kỷ vì các nhà lãnh đạo chính trị
không có đủ hiểu biết kinh tế để có biện pháp phục hồi kinh tế. Gần đây hơn, đầu
những năm 1980, chính phủ Mỹ và các nớc khác đã có biện pháp nhằm giảm tỷ lệ
lạm phát cao. Những biện pháp này đã dẫn đến thất nghiệp cao và lạm phát thì giảm.
Nhng trong thành công lại có hạt giống của thất bại. Bằng cách bảo đảm một thời kỳ
nhiều công ăn việc làm và tăng trởng nhanh, nhiều nớc đã vô tình nuôi dỡng một nền
kinh tế trong đó nhân dân bắt đầu cho rằng phồn vinh là lẽ đơng nhiên. Nhiều nớc
đảm bảo cho công nhân và ngời hởng thu nhập định kỳ mức sống trong điều kiện
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thời tiết xấu nh mức sống chỉ có thể có đợc với thời tiết tốt. Trong các hệ thống giá
cả, tiền lơng và hỗ trợ thu nhập có những điểm cứng nhắc. Khi những rối loạn của
những năm 1970 xảy ra sau hai lần tăng mạnh giá dầu lửa, mất mùa ngô, trục trặc
trong hệ thống tài chính quốc tế-ngời ta đã không giữ đợc lời hứa. Trong sự phát triển
của mỗi quốc gia, không có một nền kinh tế ở quốc gia nào đều luôn ổn định mà nó
luôn có sự biến động. Có những thời kỳ nền kinh tế cực kỳ phồn thịnh nhng cũng có
lúc nền kinh tế nằm trong vùng đại suy thoái do nhiều nguyên nhân: do lạm phát cao,
những thay đổi của nền kinh tế thế giới... Do đó chính phủ góp phần làm cho nền
kinh tế dần dần ổn định bằng cách đa ra những chính sách hợp lý. Các mục tiêu của
đời sống kinh tế vĩ mô không phải là vấn đề để bàn cãi gay gắt nữa. Nhng các nớc có
thể đạt đợc các mục tiêu đó một tốt nhất nh thế nào? Một nớc muốn cải tiến thành
tựu của mình có thể có những sự lựa chọn gì? Trả lời cho câu hỏi này nằm một phần
trong các công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô .
Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm hai nhóm yếu tố: Cơ chế thị trờng-nhóm yếu tố
chịu sự chi phối của bàn tay vô hình tức các quy luật kinh tế thị trờng . Nhóm yếu
tố này mang tính chất tự điều chỉnh. Nhóm hai là sự quản lý của chính phủ ở tầm vĩ
mô, nhóm này gắn liền với bàn tay hữu hình , tức các công cụ quản lý của nhà nớc
nh: pháp luật, chính sách, kế hoạch... Nh vậy không thể điều tiết sự vận động của nền
kinh tế thị trờng khi chỉ có một trong hai yếu tố trên, điều đó giống nh ngời ta định
vỗ tay bằng một tay

Tóm lại, chính phủ có vai trò thúc đẩy nền kinh tế hớng tới sự công bằng, hiệu
quả và ổn định. Tuy nhiên chính phủ không thể hô hào nhân dân là phải làm thế này
hay thế kia thì mới đạt đợc hiệu quả mà chính phủ phải sử dụng các công cụ của kinh
tế vĩ mô đang có trong tay một cách hữu hiệu nhất để thực hiện vai trò không thể
thiếu đợc đối với nền kinh tế đất nớc .
3.Các công cụ điều tiết của chính phủ :
Trong nhiều trờng hợp chính phủ không thể ngồi chờ cơ chế tự ổn định của
kinh tế thị trờng đợc mà phải nhanh chóng, trực tiếp sử dụng các cộng cụ của kinh tế
vĩ mô để điều tiết nền kinh tế. Một công cụ chính sách là một biến số kinh tế chịu sự
quản lý trực tiếp hay gián tiếp của chính phủ , thay đổi công cụ chính sách này sẽ có
tác động đến một hoặc nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô .
a.Hệ thống luật pháp :
Nó là hành lang an toàn cho các hoạt động kinh tế, đến mọi thành phần kinh
tế ...nhằm tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu t đồng thời đảm bảo trật tự kinh tế cũng
nh đảm bảo trật tự xã hội để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh. Bằng cách đa
ra các đạo luật, chính phủ đã buộc mọi ngời dân hay mọi tổ chức kinh tế phải tuân
theo. Hệ thống luật pháp xuyên suốt quá trình phát triển của xã hội và trong các hoạt
động kinh tế. Nó đa xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng vào khuôn khổ theo ý
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
muốn chủ quan của chính phủ. Hệ thống luật pháp ở mỗi nớc là có thể khác nhau và
có thể sửa đổi, bổ sung ở mọi thời điểm để phù hợp với từng giai đoạn của mỗi nớc.
b. Chính sách tài khoá:
Chính sách tài khoá bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế.
. Chi tiêu của chính phủ:
Các chính phủ không thể không chi tiêu bởi vì để tạo hiệu quả cho nền kinh tế thì
chính phủ phải bỏ tiền ra để xây dựng đờng xá, các ngành công nghiệp quan trọng
nh điện..., đồng thời phải chi trả lơng cho cán bộ viên chức, quân đội. cảnh sát, trợ
cấp... Chi tiêu của chính phủ cũng tơng tự nh việc đầu t của các doanh nhgiệp nhng
khác ở chỗ là chính phủ không thu đợc lợi nhuận trong cuộc đầu t này. Nhng bù lại

nó nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, làm cho xã hội có sự công bằng hơn. Bởi vì chi
tiêu của chính phủ là một bộ phận của tổng cầu do đó nó làm cho tổng sản phẩm
quốc dân thay đổi. Trong trờng hợp sản lợng của nền kinh tế còn dới mức sản lợnh
tiềm năng thì chính phủ tăng cờng chi tiêu đẻ làm tăng tổnh cầu từ đó làm cho sản l-
ợng tiến gần sản lợng tiềm năng. Trong trờng hợp ngợc lại, sản lợng vợt qua sản lợng
tiềm năng hay trong thời kì lạm phát cao, chính phủ cắt giảm chi tiêu của mình để
cùng với các công cụ vĩ mô khác làm giảm lạm phát. Điều đó chứng tỏ chính phủ
không thể chi tiêu một cách lãng phí nguồn ngân sách mà vấn đề là chi tiêu thế nào
cho hợp lí trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, chính phủ cần phải kiểm soát chặt chẽ
nhu cầu chi tiêu của mình để hạn chế tối đa việc thâm hụt ngân sách. Trong trờng
hợp thiếu hụt ngân sách chính phủ phải vay tiền dân chúng hoặc vay nớc ngoài để bù
đắp ngân sách.
Tóm lại, tất cả các chính phủ ở các quốc gia đều phải chi tiêu nhng không phải tự
nhiên có tiền để chi tiêu mà phải có nguồn thu. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách
nhà nớc là thuế, còn các nguồn thu khác là không đáng kể.
.Thuế khoá :
Thuế khoá là khoản đóng góp mang tính pháp lệnh mà nhà nớc bắt buộc mỗi công
dân và các tổ chức kinh tế phải nộp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Tất cả
các quốc gia đều quy định mức thuế suất với mỗi loại thuế và buộc mọi ngời phải
tuân theo. Các loại thuế đều làm giảm thu nhập của ngời dân dẫn tới mức chi tiêu cho
tiêu dùng của các hộ gia đình giảm. Thuế còn ảnh hởng đến việc đầu t của mỗi doanh
nghiệp, nếu thuế cao sẽ không khuyến khích đầu t, việc giảm các sắc thuế đánh vào
các khoản bổ sung cho đầu t hoặc kinh doanh máy móc thiết bị mới sẽ kích thích đầu
t ở nhiều ngành từ đó làm tăng nguồn vốn của nền kinh tế dẫn đến GDP sẽ tăng lên
trong tơng lai. Ngoài ra, thuế còn ảnh hởng đến việc xuất-nhập khẩu ở mỗi nớc. Nếu
các sắc thuế đánh vào các mặt hàng nhập khẩu cao thì sẽ hạn chế đợc việc nhập khẩu
các mặt hàng đó, tơng tự đối với xuất khẩu, từ đó chính phủ điều tiết đợc lợng hàng
hoá nội địa và nhập ngoại. Nh vậy, khi chính phủ muốn bảo hộ một loại mặt hàng
nào đó ở trong nớc thì chỉ cần tăng thuế xuất-nhập khẩu của mặt hàng đó lên cao đến
mức các doanh nghiệp không muốn nhập khẩu loại mặt hàng đó nữa.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nh vậy, để ổn định sản lợng gần với sản lợng tiềm năng thì chính phủ có thể sử
dụng chính sách tài khoá bằng cách: Nếu các bộ phận của tổng cầu hạ thấp một
cách không bình thờng thì chính phủ phải kích thích nhu cầu bằng cách giảm thuế
hoặc tăng chi tiêu hoặc là kết hợp cả hai cách. Trong trờng hợp các bộ phận của tổng
cầu cao hơn mức bình thờng thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc
kết hợp cả hai cách.
c. Chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là một cônh cụ kinh tế vĩ mô đợc dùng tơng đối phổ biến của
chính phủ. Chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến đầu t t nhân, hớng nền kinh tế
vào mức sản lợng và việc làm mong muốn.
Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lợng cung về tiền và lãi suất. Thực
chất của chính sách tiền tệ là chính phủ thông qua ngân hàng trung ơng kiểm soát
việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Ngân hàng trung ơng kiểm soát bằng cách tăng
hoặc giảm lợng cung ứng tiền trong lu thông thông qua lãi suất hoặc chứng khoán...
Thông thờng trong những thời kỳ lạm phát cao, ngân hàng trung ơng nâng lãi suất
lên cao (chính sách thắt chặt tiền tệ)để thu hút một khối lợng lớn tiền vào ngân hàng
làm cholợng tiền trong lu thông giảm. Hay trong thời kỳ nới lỏng tiền tệ,ngân hàng
trung ơng giảm lãi suất hay mua chứng khoán của dân chúng để tăng khối lợng tiền
trong lu thông. Nh vậy, bằng cách thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ sẽ làm ảnh hởng đến
đầu t,từ đó sẽ ảnh hởng đến toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, tuy chính sách tiền tệ có tác
động quan trọng đến tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thực tế về mặt ngắn hạn. Song
do tác động đến đầu t, nên nó cũng có ảnh hởng lớn đến tổng sản phẩm quốc dân
tiềm năng về mặt dài hạn.
d. Chính sách thu nhập:
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các công cụ mà chính phủ sử dụng nhằm
tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả... để kìm chế lạm pháp.
Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp cứng rắn nh:đồng lơng,đồng giá; những
quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá-lơng-tiền..., đến các biện pháp linh hoạt

nh: việc hớng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập...
Chính sách thu nhập chỉ đặc biệt có ý nghĩa trong thời kỳ lạm phát cao. Thực chất
của chính sách thu nhập là chính sách về giá-lơng-tiền. Trong thời kỳ lạm phát cao
chính phủ thực hiện chính sách đônh giá và đông tiền lơng, tức là cố định giá cả và
tiền công trong một thời gian nhất định nhằm giảm bớt lợng tiền.
e. Chính sách kinh tế đối ngoại:
Trong nền kinh tế mở cửa thì không thể không có chính sách kinh tế đối ngoại để
sự trao đổi mua bán giữa các nớc đợc thuận lợi. Chính sách kinh tế đối ngoại bao
gồm nhiều loại công cụ nh: quản lý tỷ giá hối đoái, chính sách ngoại thơng, trợ giá,
hàng rào thuế quan, hạn nghạch. Việc tác động đến hàng hoá xuất-nhập khẩu vào giá
cả hàng hoá đó đều thông qua các công cụ này.Chẳng hạn nh để khuyến khích xuất
khẩu thì chính phủ có thể tác động đến tỷ giá bằng cách hạ thấp tỷ giá xuống làm
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cho giá ngoại tệ giảm,điều đó là rất thuận lợi cho xuất khẩu, hoặc có thể tác động
bằng cách hạ thuế suất các mặt hàng xuất khẩu, hoặc trợ giá... làm cho chi phí xuất
khẩu hạ xuống từ đó làm giá thành hạ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh với
các hãng sản xuất cùng loại mặt hàng ở các nớc khác. Nh vậy, những biện pháp này
nhằm duy trì sự cân bằng trên thị trờng ngoại hối và giữ cho xuất-nhập khẩu theo nh
mong muốn của chính phủ .
Tóm lại, đây là các công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của chính phủ, ngoài ra còn
có các công cụ khác nh các kế hoạch, các chơng trình phát triển...Việc sử dụng các
công cụ kinh tế vĩ mô này trong từng thời kỳ hay ở mỗi quốc gia là không giống
nhau. Vì vậy, khi sử dụng chúng cần phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở
quốc gia mình .
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần II
Cụ thể hoá vị trí kinh tế của Chính phủ ở nớc Cộng hoà
x hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn công nghiệpã

hoá, hiện đại hoá đất nớc.
I- vị trí của Chính phủ Việt Nam trong cơ chế quản lý
quốc gia.
1. Nhà nớc.
Hệ thống chính trị của Việt Nam thay đổi đáng kể nhằm hỗ trợ cho chế độ
pháp quyền cũng nh tăng cờng tính đại diện và trách nhiệm giải trình. Về
nguyên tắc, Việt Nam có một cơ cấu quản lý quốc gia mang tính thống nhất
trong đó quyền lực chính trị tập trung vào Quốc hội và một hệ thống chính trị
một đảng. Hiến pháp năm 1992 chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lợng
lãnh đạo Nhà nớc xã hội (điều 4). Hiến pháp năm 1992 cũng quy định Quốc
hội là cơ quan quyền lực cao nhất đại diện cho nhân dân. Quốc hội cũng là cơ
quan lập pháp cao nhất và thực hiện quyền kiểm soát tối cao đối với tất cả
mọi hoạt động của Nhà nớc. Tất cả các cơ quan Nhà nớc nh Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đều chịu trách nhiệm trớc
Quốc hội và đợc Quốc hội uỷ quyền. Chính phủ là cơ quan hành pháp của Quốc
hội và cũng là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nớc.
Hiện nay vẫn còn tồn tại những thách thức tơng đối lớn trên con đờng tiến
tới cơ chế thị trờng ở mức độ cao hơn trên phơng diện tạo ra sự nhất trí rõ ràng
hơn về hớng đi và tốc độ của cải cách cũng nh năng lực của các cơ quan Chính
phủ và của cán bộ để thực hiện có hiệu quả cải cách. Chính phủ đang cố gắng
bảo đảm sự cân bằng giữa lý tởng xã hội chủ nghĩa về một sự công bằng cho tất
cả mọi ngời mà điều đó cần sự can thiệp nhiều hơn của Nhà nớc với t cách là
ngời bảo vệ quyền lợi của nhân dân với nhng đòi hỏi mang tính thực dụng của
nền kinh tế hớng theo thị trờng mà ở đó các quy luật thị trờng sẽ điều hành
nền kinh tế còn Nhà nớc có xu hớng chỉ tập trung vào khuôn khổ chính sách,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các chiến lợc chung, bảo đảm thuận lợi cho phát triển và làm nhiệm vụ giám
sát. Hiện vẫn còn cha có sự phân biệt rõ ràng giữa chức năng cầm lái (can
thiệp thông qua chính sách) và chức năng chèo thuyền (can thiệp trực tiếp

bằng hành động) trong vai trò của Nhà nớc. Tuy nhiên, để các lực lợng sản xuất
đợc huy động tốt hơn và việc phân bổ các nguồn lực hợp lý hơn, điều quan
trọng là vai trò can thiệp trực tiếp của Nhà nớc vào nền kinh tế phải tiếp tục
giảm bớt và tăng cờng hơn nữa vai trò hoạch định chính sách và xây dựng
khuôn khổ pháp lý của Nhà nớc . Mặc dụ đã liên tục đạt đợc tiến bộ trong việc
sửa đổi các bộ luật cũ và soạn thảo các bộ luật mới, song Việt Nam vẫn cần
phải xây dựng một khuôn khổ pháp lý toàn diện hơn, rõ ràng và thuận lợi nhằm
tạo cơ sở cho sự ra đời và phát triển của một khu vực t nhân và một xã hội dân
sự lành mạnh để cuối cùng có thể chia sẻ trách nhiệm với Chính phủ, ở mức độ
tiin cậy cao, đối với sự nghiệp phát triển của đất nớc.
Chính phủ đã nhận thức đợc các vấn đề nh tham nhũng, lạm dụng chức
quyền và nhu cầu tôn trọng cácc quyền công dân và đòi hỏi giải quyết các vấn
đề này một cách toàn diện trong khuôn khổ của quá trình cải cách. Tham
nhũng phần nào đó là kết quả của việc trả lơng cha gắn với kết quả làm việc
cũng nh của việc bố trí công tác. Chính phủ đã bắt tay vào giải quyết các vấn đề
này. Ngoài ra còn có một số thách thức khác nh tăng cờng tính công khai minh
bạch và nâng cao nhận thức của quần chúng về công tác chính trị cũng nh
khuyến khích họ tham gia vào công tác này.
Mặc dù có nhiều bộ luật đã đợc ban hành song trong nhiều trờng hợp việc
thực hiện có hiệu quả và nhất quán vẫn còn hạn chế. Có những vấn đề nảy sinh
trong quá trình xây dựng các quy định thi hành luật cũng nh trong quá trình
triển khai thi hành trên thực tế. Việc khuyến khích tăng cờng tham khảo các cơ
quan có liên quan ở bên ngoài trong quá trình phân tích chính sách và luật pháp
có thể nâng cao tính công khai minh bạch của quá trình này cũng nh đảm bảo
sự tham gia đóng góp của nhiều đối tợng hơn. Điều đó còn tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện và chấp hành tốt những bộ luật sau khi ban hành.
Để tăng cờng tính công khai minh bạch và khả năng tiếp cận của luật
pháp. Chính phủ đã thể hiện mong muốn đẩy mạnh hơn nữa công tác phổ biến
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

và tuyên truyền về hệ thống pháp lý cũng nh khuyến khích sự tham gia của
quần chúng. Để thực hiện điều đó, các kỳ hợp Quốc hội giờ đây đã đợc truyền
hình hai chỉ thị về phổ biến luật pháp và Luật Khiếu nại Tố cáo đã đợc ban hành
năm 1998; và các chơng trình hỗ trợ pháp lý ở cấp cộng đồng đã đợc xây dựng.
Tuy nhiên, vẫn cần phải tăng cờng mạng lới thông tin và hệ thống tuyên truyền
phổ biến về pháp luật cũng nh đảm bảo mở rộng các mạng lới và hệ thống này
tới những nơi xa xôi nhất.
Việc chia sẽ những thông tin tin cậy, dễ hiểu và hữu dụng trong các tầng
lớp xã hội là đặc biệt quan trọng đối với sự tham gia tích cực của nhân dân.
Việc này không chỉ giới hạn trong việc phổ biến và tuyên truyền pháp luật mà
còn cần mở rộng sang các lĩnh vực thông tin khác. Việc công bố ngân sách năm
1999 là một bớc quan trọng hớng tới sự chia sẽ thông tin. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều việc phải làm. Tăng cờng và huấn luyện ngời dân tham gia sẽ làm cho các
cuộc thảo luận chính sách trở nên có ý nghĩa hơn. Đến lợt mình, việc thảo luận
chính sách đợc cải thiện sẽ làm cho quá trình ra quyết định và bản thân quyết
định tốt hơn. Nh vậy tăng cờng chất lợng chia sẻ thông tin sẽ đẩy mạnh hơn nữa
tính công khai minh bạch, cho phép mọi tác nhân trở nên có trách nhiệm và
trách nhiệm giải trình cao hơn trong công tác quản lý Nhà nớc và quản lý phát
triển ở Việt Nam. Trong quá trình chia sẻ thông tin, các phơng tiện thông tin đại
chúng phải đảm bảo rằng họ vơn tới đợc những bộ phận dân c xa xôi nhất. Họ
phải thực sự là kênh truyền thông tin qua lại một cách hiệu quả giữa công dân
và các cơ qua Nhà nớc.
Chính quyền địa phơng không thể thực hiện bất cứ một chức năng quản lý
hành chính nào nếu những trách nhiệm đó không đợc quy định cụ thể rõ ràng
trong luật pháp quốc gia. Trên tinh thần đó, tiếp theo những qui định của hiến
pháp năm 1992, Luật tổ chức hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân (năm
1994) và Pháp lệnh về Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Hội đồng Nhân dân
và Uỷ ban Nhân dân các cấp (1996) đã đợc ban hành nhằm tạo ra khuôn khổ
pháp lý cơ bản cho tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phơng. Luật Ngân
sách (1996, 1998) đã chính thức phân cấp quản lý tài chính giữa các cấp chính

quyền, giao những trách nhiệm quan trọng về quản lý ngân sách cho chính
quyền địa phơng, đặc biệt là cấp tỉnh.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quan hệ giữa các cấp chính quyền mang tính phức tạp ở nhiều khía cạnh.
Thứ nhất, Hội đồng Nhân dân ở tất cả các cấp chịu sự giám sát và chỉ đạo của
Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội và Chính phủ . Thứ hai, Uỷ ban Nhân dân chịu trách
nhiệm trớc Hội đồng Nhân dân cùng cấp cũng nh trớc cơ quan hành pháp ở cấp
cao hơn (có thể là Uỷ ban Nhân dân cấp cao hơn hoặc Chính phủ, tuỳ theo cấp
của Uỷ ban Nhân dân đó). Thứ ba, một số Bộ có cơ quan chi nhánh đặt ở mỗi
địa phơng. Những cơ quan này vừa chịu sự quản lý hành chính của Uỷ ban nhân
dân địa phơng lại vừa chịu sự quản lý về chức năng chuyên môn của cơ quan
cấp cao hơn trực thuộc Bộ chủ quản. Thứ t, hầu hết các nguồn thu từ thuế thuộc
quyền quản lý của Chính phủ Trung ơng. Chính quyền địa phơng, về lý thuyết,
đợc phân bổ các nguồn thu theo chỉ tiêu do Trung ơng quy định. Tuy nhiên, trên
thực tế, việc phân bổ các nguồn thu và các khoản chi ở địa phơng không phải đ-
ợc quyết định một cách nghiêm ngặt từ trung ơng mà thờng đợc quyết định sau
một loạt cuộc đàm phán giữa các cấp chính quyền.
Cải cách hành chính.
Trên tinh thần thể chế hoá công tác quản lý quốc gia nhằm đảm bảo tính
giải trình trong các chi tiêu công cộng, cải cách hành chính là cần thiết nhằm
cải thiện việc cung cấp các dịch vụ công cộng của các cơ quan Nhà nớc thuộc
tất cả các cấp chính quyền. Cải cách hành chính bao gồm tổ chức lại quá trình
làm việc, nâng cao năng lực công chức để có tính chuyên môn cao hơn, các dịch
vụ công cộng có tính hớng đích cao hơn với qui trình làm việc đơn giản hơn và
minh bạch hơn; hiệu quả hơn về chi phí và mang tính phục vụ cao hơn. Chơng
trình cải cách hành chính của Chính phủ đợc công bố vào tháng 3 năm 1995 và
tập trung vào 3 lĩnh vực: cải cách về thể chế, cải cách bộ máy Nhà nớc và cải
cách ngành công chức. Báo cáo mới đây của Chính phủ về công tác cải cách
hành chính có đoạn viết: Nhiệm vụ cần đợc u tiên trong công tác cải cách

hành chính là tập trung lại tất cả mọi nhiệm vụ xây dựng quy chế và phân cấp
quyết định về các lĩnh vực kinh tế, xã hội cho chính quyền địa phơng (Ban
TCCB Chính phủ, 1998). Cải cách hành chính đã đợc đa lên hàng đầu trong ch-
ơng trình cải cách của Chính phủ và tất cả các Bộ cũng nh các tỉnh đã thành lập
Ban Cải cách hành chính của riêng mình. Vào cuối năm 1998, Ban chỉ đạo cải
cách hành chính của Chính phủ, do Thủ tớng Chính phủ làm Trởng ban, đợc
thiết lập để hớng dẫn và giám sát các hoạt động trong lĩnh vực này. Ban tổ chức
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cán bộ Chính phủ đóng vai trò Uỷ viên thờng trực của Ban Chỉ đạo và đợc phân
công là cơ quan đầu mối về cải cách hành chính của Chính phủ. Hội nghị lần
thứ 7 Ban chấp hành Trung ơng Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 8 năm 1999 đã
kết luận về nhu cầu cấp bách xem xét và thay đổi chức năng, nhiệm vụ và cơ
cấu của các cơ quan Chính phủ, các ban ngành cấp tỉnh, xoá bỏ một cách
hợp lý một số cấp trong Chính phủ .
Công tác cải cách hành chính đã đạt đợc những tiến bộ đáng lu ý. Nhiều
bộ luật cũng nh pháp lệnh đã đợc Quốc hội thông qua và triển khai thực hiện.
Các văn bản pháp quy đã đợc rà soát lại và điều chỉnh sao cho dễ hiểu và đảm
bảo tính nhất quán. Các thủ tục hành chính đã đợc hợp lý hoá, đơn giản hoá và
phổ biến. Cơ chế một cửa, một con dấu đã đợc áp dụng ở một số tỉnh và thành
phố. Chính phủ đã yêu cầu quần chúng nhân dân và giới kinh doanh đóng góp ý
kiến để tiếp tục cải tiến về mặt hành chính. Toà án hành chính đã đợc thiết lập.
Năm 1995, các Bộ đã giảm từ 27 xuống còn 22 và hiện nay có kế hoạch tiếp tục
giảm nữa. Việc giảm nhẹ bộ máy hành chính cũng nh đợc thực hiện ở cấp địa
phơng. Ngoài ra, một số tổng công ty đã đợc thiết lập để đảm nhận hầu hết
nhiệm vụ quản lý những doanh nghiệp Nhà nớc chủ chốt mà trớc đây là trách
nhiệm của các Bộ chủ quản để các Bộ này có thể tập trung thực hiện chức năng
quản lý về mặt chính sách của mình. Tuy nhiên, sức mạnh độc quyền tiềm tàng
và tính kém hiệu quả của các doanh nghiệp đang tạo ra những vấn đề cho chính
họ. Nhà nớc đã ban hành quy chế về Công chức, hiện đang tiến hành hiện đại

hoá công nghệ thông tin ở các cơ quan Nhà nớc cũng nh đã tiến hành các hoạt
động đào tạo nhằm xây dựng năng lực.
Mặc dù đã đạt đợc kết quả đáng kể về một số lĩnh vực trong công tác cải
cách hành chính, song một trong những khó khăn chính cản trở việc thực hiện
trọn vẹn công cuộc cải cách này là cho đến nay vẫn cha có một cách nhìn toàn
diện và một chiến lợc cải cách hành chính tổng thể xác định rõ các bớc cần tiến
hành để đổi mới vài trò của Chính phủ trong nền kinh tế hớng hơn về thị trờng.
Hậu quả là tạo ra khoảng cách giữa công tác xây dựng chính sách và thực hiện
chính sách về cải cách hành chính. Vấn đề này đã trở nên tồi tệ hơn bởi năng
lực thực hiện còn yếu kém. Chính vì cha có một chiến lợc cải cách hành chính
rõ ràng nên mức độ nhất trí và quyết tâm thực hiện cong cuộc cải cách này còn
thấp và đã taọ điều kiện thuận lợi để cho những cơ chế không chính thức tồn tại
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
song song với những cơ chế chính thức gây ảnh hởng xấu tới việc thực hiện mục
tiêu cải cách.
Một khó khăn nữa là trong nhiều trờng hợp các cán bộ công chức còn
thiếu những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết cho việc thực hiện cải cách
hành chính một cách hiệu quả. Thiếu động cơ và hiệu quả trong công việc; thiếu
tinh thần thái độ phục vụ cũng là những vấn đề tồn tại. Những vấn đề này cùng
với việc không thực hiện nghiêm chỉnh những chính sách đổi mới một phần
xuất phát từ lý do thu nhập và lợi ích thấp. Chính phủ đã coi việc trả lơng theo
kết quả công tác nh một công cụ quản lý tốt, tuy nhiên việc đa công cụ đó vào
trong kế hoạch quản lý nguồn nhân lực sẽ là một phần trong cuộc thảo luận của
Chính phủ tiếp theo Hội nghị TƯ 7 bàn về cơ cấu tiền lơng và chính sách công
chức.
2. Khu vực t nhân.
Không có nớc nào trên thế giới có thể phát triển thành công mà không cần
đến một khu vực t nhân khoẻ khoắn và năng động nh là động lực chính tạo ra
công ăn việc làm, thu nhập, tiết kiệm trong nớc, đầu t và tăng trởng. Khu vực t

nhân, bao gồm cả nông nghiệp, chiếm khoảng 60% GDP, chủ yếu tập trung vào
các khu vực tạo ra giá trị gia tăng thấp với thu nhập thấp. Kết quả là GDP chung
của Việt Nam thấp với giá trị khoảng 352 đô la Mỹ trên đầu ngời một năm.
(Thậm chí nếu dùng cách tính thu nhập bằng đồng đô la ngang bằng sức mua
thì Việt Nam vẫn xếp thứ 133 trong 174 nớc về thu nhập bình quân đầu ngời).
Xuất phát từ những tiến bộ trong những năm gần đây cho thấy việc tạo điều
kiện để khu vực t nhân tham gia nhiều hơn vào quá trình phát triển mở ra một
số triển vọng rất lớn cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững. Hiện đã có một
khu vực t nhân trong nớc làm về chế tạo tuy còn nhỏ nhng đang lớn dần lên.
Tuy nhiên, khu vực này đang bị hạn chế vì không tiếp cận đợc với nguồn vốn cả
trong lẫn ngoài nớc, vì một môi trờng pháp lý cha phát triển và nhiều biến động,
vì rủi ro cao và không ổn định của môi trờng đầu t. Những thay đổi về chính
sách và thể chế kể từ khi công cuộc đổi mới đợc phát động vào năm 1986 và sự
tăng trởng mạnh của nền kinh tế và đi kèm với nó là thu nhập vào những năm
90 đã dần dần cải thiện phạm vi phát triển của khu vực t nhân vào lĩnh vực xuất
khẩu có giá trị gia tăng cao. Khu vực t nhân đã chiếm 98% giá trị gia tăng trong
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nông nghiệp và khoảng 70% giá trị gia tăng trong ngành dịch vụ (không kể các
dịch vụ quản lý hành chính, y tế và giáo dục). Mặc dù khu vực Nhà nớc tiếp tục
đóng vai trò chủ đạo trong sản xuất công nghiệp, chiếm khoảng một nửa giá trị
gia tăng của ngành này, song khu vực t nhân trong nớc đã đóng vai trò quan
trnjg trong một số ngành công nghiệp nhẹ hiện đang phát triển nhanh chóng.
Hơn nữa, các công ty do nớc ngoài đầu t hiện chiếm tỷ trọng lớn nhất về gia trị
gia tăng trong một số ngành nh dầu khí và lắp ráp ô tô.
Những bớc cải cách gần đây đã phản ánh quyết tâm ngày càng cao của
Chính phủ trong việc phát triển khu vực t nhân trong nớc. Bộ luật Doanh nghiệp
mới, đợc Quốc hội thông qua tháng 5 năm 1999, là một bớc tiến quan trọng
theo hớng tạo ra sân chơi bình đẳng cho tất cả mọi doanh nghiệp. Bộ luật này
không những thay thế cho hầu hết các văn bản luật quy định riêng cho các loại

hình kinh doanh khác nhau mà còn đề nghị cho phép hình thành các mối quan
hệ đối tác, cho phép các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nớc hoạt động nh công
ty. Bộ luật mới gửi tới khu vực t nhân một thông điệp quan trọng, đó là Chính
phủ thực sự khuyến khích đầu t của khu vực t nhân. Thực hiện luật này một
cách hiệu quả là điều rất quan trọng. Tuy nhiên, trớc mắt các doanh nghiệp
Nhà nớc, trong đó có những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, vẫn giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế và nh vậy làm chậm lại quá trình cải cách.
Nếu Chính phủ muốn chuyển một cách hiệu quả sang một nền kinh tế h-
ớng về thị trờng nhiều hơn, ngay cả khi các doanh nghiệp Nhà nớc vẫn giữ vai
trò chủ đạo trong một số lĩnh vực nhất định, thì khuôn khổ pháp lý cần đợc tiếp
tục tăng cờng hơn nữa để cho phép khu vực t nhân gánh vác trách nhiệm của nó
và trở thành động lực tăng trởng của đất nớc. Một khu vực t nhân thịnh vợng có
thể là lối thoát và con đờng để thu nhận những công chức d thừa vào các hoạt
động kinh tế. Bằng cách đó nó hỗ trợ cho công cuộc cải cách hành chính và tinh
giản bộ máy Nhà nớc. Chuyển giao cho khu vực t nhân một số chức năng hiện
đang đợc đảm nhiệm bởi Chính phủ với chi phí cao không những tạo động lực
cho khu vực t nhân mà còn tiết kiệm và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn kinh
phí công cộng.
Thách thức chủ yế đối với Chính phủ trong việc khuyến khích khu vực t
nhân là làm sao đảm bảo đối xử công bằng giữa khu vực này với khu vực Nhà
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×