Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn một số giải pháp giúp trẻ 5 6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm quen với văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.89 KB, 16 trang )

I. TÊN SÁNG KIẾN:
Một số giải pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm
quen với văn học
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MÔ TẢ NỘI DUNG
1. Lý do chọn đề tài:
Trong hệ thống giáo dục quốc dân giáo viên mầm non là người thầy đầu tiên đặt
nền tảng cho việc đào tạo nhân cách con người. Tuy nhiên, tuỳ theo mỗi thời đại mà
giáo dục sẽ được tổ chức kiểu này hay kiểu khác, tuỳ theo mỗi độ tuổi mà phương
pháp giáo dục sẽ khác nhau. Tuổi mẫu giáo trẻ mới bắt đầu trong q trình học nói.
Chính vì vậy hoạt động làm quen với văn học giúp trẻ hình thành và phát triển ngơn
ngữ tốt hơn, tìm hiểu về thế giới xung quanh, góp phần khơng nhỏ vào việc giáo dục
tồn diện cho trẻ. Bên cạnh đó, được sự quan tâm của Ban lãnh đạo nhà trường, đã
đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị đầy đủ. Bản thân được tham gia học các lớp bồi
dưỡng chuyên môn, dự chuyên đề, các hội thi đồ dùng đồ chơi, được các bạn đồng
nghiệp hỗ trợ và góp ý nhiệt tình sẽ tạo thuận lợi cho việc giáo dục trẻ. Tuy nhiên trẻ
em ngày nay ngơn ngữ cịn hạn chế, do trẻ chủ yếu chỉ được tiếp xúc và phát triển
vốn từ qua ti vi, phim ảnh…chưa được sự chỉ bảo, uốn nắn của người lớn. Hiện nay
trẻ ở lứa tuổi mầm non nói ngọng, nói đớt, phát âm chưa đúng, nói lắp rất nhiều, vốn
từ nghèo nàn, hạn chế, không diễn đạt được bằng lời suy nghĩ của mình một cách
mạch lạc. Điều đó đối với tơi khơng quan trọng nhưng quan trọng là trẻ rất hạn chế về
ngôn ngữ.
Cho nên, bản thân là giáo viên trực tiếp gần gũi chăm sóc, giáo dục và nuôi
dưỡng trẻ hàng ngày tại lớp, tôi thấy rằng việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đang là
vấn đề cấp bách và cần được quan tâm và rèn luyện thường xuyên. Đối với trẻ ở lứa
tuổi này rất dễ nhớ nhưng cũng rất mau quên, tư duy của trẻ còn hạn chế, vốn kinh
nghiệm chưa cao, sự hiểu biết về cuộc sống chưa có kinh nghiệm.


Xuất phát từ những lý do trên mà tôi đã chọn nghiên cứu và thực hiện sáng kiến
kinh nghiệm “Một số giải pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua
hoạt động làm quen với văn học”


2. Mô tả nội dung:
Phát triển ngơn ngữ đóng vai trị quan trọng trong quá trình giao tiếp của trẻ,
nhất là trẻ ở tuổi mầm non. Năm học 2019 - 2020, lớp tơi có nhiều trẻ cịn hạn chế về
giao tiếp: trẻ ít nói, nhút nhát, nói ngọng, nói đớt, nói lắp, vốn từ ít,...Chính vì đặc
điểm tình hình của lớp như thế, nên tôi đã suy nghĩ và lựa chọn nhiều nội dung,
phương pháp để rèn và giúp trẻ khắc phục những hạn chế về ngôn ngữ cũng như tác
động đến trẻ với mong muốn giúp trẻ sẽ trở nên mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp, diễn
đạt trịn câu, nói và trả lời rõ ràng, mạch lạc ý muốn thể hiện ở các hoạt động khi trẻ
tham gia, đặc biệt là thông qua hoạt động làm quen với văn học để giúp trẻ phát triển
tốt lĩnh vực ngôn ngữ. Tôi mong rằng với những kiến thức sẵn có, cùng với sự tìm tịi
học hỏi tơi sẽ thực hiện tốt đề tài này và được áp dụng cho lớp mình với nhiều hình
thức mới lạ...trẻ lớp tơi sẽ phát triển và hồn thiện tốt về ngơn ngữ nhiều hơn.
2.1 Khảo sát đầu năm:
Tôi đã thực hiện quan sát và khảo sát thực tế trẻ của lớp lá 3 mà tôi đang giảng dạy
như sau:

STT
01
02
03
04

05
06

NỘI DUNG

SỐ TRẺ

TỶ LỆ


Trẻ nói trịn câu, mạch lạc.

15/35

42.85%

Trẻ nói câu cụt, câu thiếu chủ ngữ, thiếu vị

21/35

60%

Trẻ mạnh dạn, tự tin giao tiếp với cô và bạn.

16/35

45.71%

Trẻ sử dụng được câu đơn, câu ghép, câu

15/35

42.85%

13/35

37.14%

17/35


48.57%

ngữ

khẳng định, câu phủ định..
Trẻ trả lời đủ ý, rõ ràng mạch lạc câu hỏi của
người đối thoại.
Trẻ mạnh dạn, tự tin đặt và trả lời các câu hỏi


07

Trẻ kể lại trình tự sự việc hiện tượng giúp

10/35

28.57%

người nghe hiểu được

2.2 Nguyên nhân thực trạng:
a. Thuận lợi
Luôn được sự quan tâm, hướng dẫn và chỉ đạo sâu sát về chun mơn của các
cấp lãnh đạo phịng và nhà trường.
Cơ sở vật chất trường lớp khang trang; thiết bị đồ dùng, đồ chơi được bổ sung
thường xuyên và tương đối đầy đủ.
Lớp được phân chia đúng độ tuổi, không vượt quá số trẻ trên lớp theo quy định.
Đa số trẻ là dân thành thị nên điều kiện học tập, sinh hoạt và vui chơi của trẻ
luôn được phụ huynh đáp ứng.

Được sự tín nhiệm, phối hợp và hỗ trợ nhiệt tình của quý phụ huynh trong cơng
tác chăm sóc giáo dục trẻ.
b. Khó khăn:
Đa số các cháu mới đi học, chưa qua các lớp nên còn chưa quen với cơ và các
bạn; chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp.
Một số trẻ là con một, con cưng nên rất có cá tính, rất hiếu động và thích làm
theo sở thích của bản thân, được phụ huynh cưng chiều trẻ trở nên lười vận động, ít
chịu tham gia hợp tác chia sẻ cùng bạn.
Có nhiều trẻ ngơn ngữ chậm phát triển, nói chưa trịn câu, cịn nói lắp, nói ngọng
khơng dám giao tiếp với các bạn và cô ( Bảo Trân, Kim Ngân, Duy anh, Quốc Hùng )
một số cháu phát âm chưa chuẩn (Quốc Bảo, Quốc Hùng, Phước Sang, Minh Phúc..)
do thường xuyên được tiếp xúc với máy tính, ti vi, điện thoại nên trẻ ít có cơ hội vui
chơi, trị chuyện với mọi người xung quanh.


Một số phụ huynh làm nghề buôn bán tự do hay bởi tính chất cơng việc ln
chiếm nhiều thời gian, q bận rộn nên ít quan tâm trị chuyện với trẻ, chưa thường
xuyên vui chơi, trao đổi, chia sẻ cùng trẻ.
Giáo viên đôi khi chưa thực sự quan tâm đến việc dạy, rèn và tạo nhiều cơ hội
phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Với mong muốn trẻ ở lớp tôi phụ trách, càng ngày sẽ phát triển về mọi mặt đặc biệt
là lĩnh vực ngơn ngữ, do đó tơi đã mạnh dạn đề xuất và thực hiện các giải pháp mà tơi
đã nghiên cứu trên trẻ của lớp mình, nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạnh dạn tự
tin giao tiếp, nói trịn câu đủ ý với mọi người.
2.3 Đề ra giải pháp:
Trước những thực tế của trẻ tại lớp tôi, tơi đã tích cực tìm tịi suy nghĩ, nghiên cứu để
tìm ra một số giải pháp nhằm giúp trẻ mở rộng vốn từ, mạnh dạn tự tin, chịu khó giao
tiếp cùng cô và các bạn:
- Tự bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng dạy trẻ mở rộng vốn từ và phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.

- Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động học:
-Thông qua hoạt động vui chơi giúp trẻ phát triển vốn từ, tự tin, mạnh dạn:
- Phát triển ngôn ngữ ở hoạt động mọi lúc mọi nơi:
- Làm quen văn học thông qua các ngày hội, ngày lễ
2.4 Những nội dung cần đạt được:
- 95% trẻ phát âm đúng, bớt nọi ngọng, nói lắp,...trẻ nói trịn câu, mạch lạc
- Khoảng 90% trẻ khơng nói câu cụt, câu thiếu chủ ngữ, thiếu vị ngữ
- 100% Trẻ mạnh dạn, tự tin giao tiếp với cô và bạn
- Có từ 95% trẻ sử dụng được câu đơn, câu ghép, câu khẳng định, câu phủ
định..
- Có từ 95% trẻ trả lời đủ ý, rõ ràng mạch lạc câu hỏi của người đối thoại..


- Có 70% trẻ sử dụng được câu đơn, câu ghép, câu khẳng định, câu phủ định..
- 95% trẻ mạnh dạn, tự tin đặt và trả lời các câu hỏi
- Từ 95% trở lên, trẻ tự tin đặt và trả lời các câu hỏi, kể lại trình tự sự việc hiện
tượng giúp người nghe hiểu được
- Có từ 95% phụ huynh trở lên sẽ tham gia phối kết hợp tốt cùng giáo viên để
rèn, giúp trẻ mở rộng vốn từ và phát triển tốt ngôn ngữ.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1.Tự bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng dạy trẻ mở rộng vốn từ và phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
Giáo viên cần phải nắm vững đặc điểm phát triển ngơn ngữ của trẻ, vì thế muốn
phát triển ngơn ngữ cho trẻ tốt, phải dựa vào:
- Cơ sở ngôn ngữ: Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo: Ở lứa tuổi
này, trẻ có nhu cầu giao tiếp với mọi người, trẻ thích tìm hiểu những điều mới lạ
trong cuộc sống xung quanh. Những từ các cháu được sử dụng hầu hết là những từ
chỉ tên gọi, những gì gần gũi xung quanh mà hàng ngày trẻ tiếp xúc. Ngồi ra, trẻ
cũng nói được một số câu chỉ hành động, chỉ những công việc của bản thân và mọi
người xung quanh, chỉ hành động của những con vật mà trẻ biết.

Ví dụ: Máy bay bay trên trời, tàu hoả chạy trên đường ray, con cá lội dưới nước, bố đi
làm ở cơng ty, mẹ đi dạy ở trường,....
Vì thế, để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt, giúp trẻ nói mạch lạc, diễn đạt trơi
chảy, rõ nội dung của sự vật, sự việc người giáo viên cần phải cung cấp, mở rộng vốn
từ cho trẻ trong tất cả các hoạt động, vào mọi lúc mọi nơi... khi có cơ hội và điều
kiện; thường xuyên khuyến khích và động viên trẻ gợi mở để trẻ thể hiện mong muốn
của bản thân bằng lời nói, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với cô với bạn và
mọi người xung quanh.
- Cơ sở tâm lý:


+ Tư duy của trẻ mẫu giáo là tư duy trực quan. Thời kỳ này, khả năng tri giác về
các sự vật hiện tượng bắt đầu được hoàn thiện, trẻ hay bắt chước những cử chỉ, và lời
nói của người khác, do vậy ngôn ngữ của cô giáo phải trong sáng dễ hiểu và chính
xác để trẻ nói theo.
+ Vốn từ của trẻ tuy phát triển nhưng còn hạn chế, bộ máy phát âm của trẻ đang
hoàn thiện nên khi nói trẻ hay nói chậm, hay kéo dài giọng, đơi khi cịn ậm ừ, ê, a,
khơng mạch lạc. Do đó, cơ giáo phải nói to, rõ ràng, rành mạch, dễ nghe và khuyến
khích trẻ nói chậm, nói rõ, nói trịn câu, tránh cà lăm, lặp đi lặp lại dễ trở thành thói
quen, lâu dần sẽ trở nên nhút nhát, khơng mạnh dạn, không tự tin khi giao tiếp.
- Cơ sở giáo dục:
+ Ngơn ngữ của trẻ chỉ được hình thành và phát triển qua giao tiếp với con
người và sự vật hiện tượng xung quanh: Để thực hiện điều đó phải thông qua nhiều
phương tiện khác nhau như: Hoạt động học, hoạt động vui chơi và sinh hoạt hàng
ngày. Rèn luyện và phát triển vốn từ cho trẻ, tập cho trẻ biết chú ý lắng nghe, hiểu và
phát âm chính xác các âm của tiếng mẹ đẻ, hướng dẫn trẻ biết cách diễn đạt ý muốn
của mình cho người khác hiểu. Vì vậy khi cho trẻ tiếp xúc với các sự vật hiện tượng
thì phải cho trẻ biết gọi tên, đặc điểm của đối tượng. Không những thế, giáo viên dạy
trẻ biết nói câu đầy đủ, rõ nghĩa, dạy trẻ phát âm đúng các âm chuẩn của tiếng việt,
đảm bảo các nguyên tắc của giáo dục theo tính khoa học, tính hệ thống, tính vừa

sức, ...
+ Dựa vào những cơ sở lý luận trên, đối chiếu với tình hình thực tế, tôi nhận thấy
sự chênh lệch về ngôn ngữ của trẻ ở cùng một độ tuổi trong lớp là khá lớn. Qua q
trình tìm hiểu, tơi nhận thấy ngơn ngữ của trẻ không phụ thuộc vào điều kiện vật chất
của gia đình mà trước hết liên quan rất nhiều đến thời gian trị chuyện với trẻ hay
khơng? Cơ và cha mẹ có lắng nghe bé kể chuyện về những hoạt động sinh hoạt ở lớp,
ở nhà, về bạn bè hay khơng? Có thường xun kể chuyện cho bé nghe và hướng dẫn
bé kể lại khơng? Ngày nghỉ có đưa con đi chơi cơng viên hay khơng?…Tất cả những
điều đó khơng chỉ làm tăng số lượng vốn từ của trẻ, sự hiểu biết nghĩa của từ, cách
dùng từ của trẻ mà còn làm phong phú hiểu biết và xúc cảm của trẻ.


Nhờ nắm vững đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ, mà tôi đã áp dụng hiểu biết
để giúp trẻ lớp tôi phát triển ngôn ngữ và thấy trẻ tiến bộ rất nhiều.
2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động học:
Trẻ mầm non "Học bằng chơi, chơi mà học" và giáo dục trẻ theo hướng lấy trẻ làm
trung tâm” mà hoạt động làm quen với văn học giúp trẻ một cách tồn diện về phát
triển ngơn ngữ từ việc nghe hiểu đến cảm nhận và tích lũy vốn từ cho bản thân.
Vào đầu giờ học cơ trị chuyện với trẻ theo nội dung chủ đề hoặc cho trẻ đi tham
quan mơ hình, tranh ảnh đờng thời trị chuyện theo nội dung bức tranh để dẫn dắt trẻ
đến đề tài tác phẩm cần hướng dẫn. Khi trò chuyện cơ cần sử dụng từ tượng thanh,
tượng hình, các từ láy hoặc có thể gợi hỏi để trẻ nói cảm xúc của mình qua bài thơ,
câu chuyện. Có thể tích hợp qua một số môn học khác: Giáo dục âm nhạc...Một cách
nhẹ nhàng thoáng qua để giờ học sinh động phong phú, sau đó cơ giới thiệu bài thơ
hoặc câu chuyện sắp học.
Ví dụ: dạy bài thơ “Thương ơng” cơ có thể mở đầu bằng bài hát “có ơng bà có ba
má” cho cả lớp cùng hát theo.
Cơ đọc hoặc kể diễn cảm câu chuyện bài thơ một hai lần, giúp trẻ cảm nhận âm
điệu, nội dung bài thơ câu chuyện. Sau đó giảng nội dung bài thơ cho trẻ hiểu rời cơ
kể trích dẫn làm rõ những ý chính trong bài thơ, câu chuyện, giảng một vài từ khó

trong bài thơ câu chuyện, giúp trẻ hiểu nghĩa của từ và cung cấp vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: bài thơ “Thương ơng” giúp trẻ hiểu tình cảm của trẻ dành cho người ơng thân
u của mình và trẻ làm gì để thể hiện tình u mà trẻ dành cho ơng bà, cha mẹ của
mình.
Tiếp đến đàm thoại theo nội dung bài thơ, câu chuyện giúp trẻ hiểu nội dung và nhớ
trình tự nội dung, phân biệt các nhân vật trong chuyện nhớ lại trình tự chuyện đặc
biệt là để trẻ tự do giao lưu với cô hoặc thảo luận với nhau về các nhân vật trong
chuyện.
Ví dụ: Truyện “Dê Trắng và Dê Đen” Dê Trắng nhút nhát, lời nói run sợ, cịn Dê Đen
giọng nói to khỏe, hiên ngang.. con sói với giọng nói khàn, hành động lén lút…


Bây giờ cô mới cho trẻ đọc thơ cùng cô hoặc kể chuyện khi trẻ đọc thơ cô cần chú
ý sửa sai khi trẻ phát âm cách ngắt nhịp thơ cho trẻ thi đua với nhau nhằm giúp trẻ thi
đua học tốt. Sau đó cho trẻ đọc thơ hoặc kể chuyện theo tranh có thể cơ viết nội dung
bài thơ câu chuyện dưới bức tranh để trẻ có thể kể theo ngôn ngữ của trẻ để trẻ khắc
sâu qua tranh vẽ.
Có câu chuyện cơ cho trẻ đóng kịch theo nội dung chuyện trẻ tự phân các vai đóng
kịch. Nhằm giúp trẻ nhớ lại trình tự chuyện có thể trẻ thể hiện bằng ngơn ngữ vì đóng
kịch là một hình thức để phát triển ngơn ngữ, phát triển trí nhớ và giáo dục tinh thần
tập thể cho trẻ.
Ví dụ: Truyện “Dê Trắng và Dê Đen” với các vai: Dê Trắng, Dê Đen, Sói Sám.., giáo
viên chuẩn bị mũ mão nhân vật cho trẻ, bên cạnh đó giáo viên nên giúp trẻ nhớ lời
thoại tính cách của từng nhân vật.
Qua đóng kịch trẻ truyền lại được nội dung chuyện làm sống lại tâm trạng hành động
ngôn ngữ của các nhân vật trong chuyện đờng thời thể hiện tình cảm và sự đánh giá
của trẻ đối với các nhân vật.
Kết thúc giờ học cho trẻ chơi một trị chơi nhẹ có nội dung phù hợp với nội dung bài
thơ, câu chuyện đang học: trẻ làm tranh chuyện, cắt dán tranh để trẻ nhớ lại trình tự
nội dung câu chuyện.

Trong mọi giờ học khác đều có thể tích hợp mơn làm quen văn học có thể là những
bài thơ, đờng dao, câu chuyện đã học hoặc chưa được học.
Ví dụ: Khám phá xã hội chủ đề gia đình "Gia đình của bé". Cơ trị chuyện với trẻ về
gia đình, gia đình con có những ai, có bao nhiêu người, thuộc gia đình đơng con hay
ít con, gia đình lớn hay gia đình nhỏ. Trong giờ học cô nên giáo dục trẻ thương yêu
những người trong gia đình, giúp đỡ bố mẹ, ơng bà. Cho trẻ đọc thơ "Thương ơng,
giúp mẹ” .Có thể tích hợp vào văn học cung cấp vốn từ cho trẻ qua việc cơ trị chuyện
với trẻ về tình cảm của con đối với người thân trong gia đình qua bài thơ “ Thương
ông”. Bên cạnh việc cung cấp vốn từ cho trẻ cịn giúp trẻ tìm hiểu về xung quanh.
Hình thành cho trẻ tình cảm đối với con người, cuộc sống, giúp cho các giờ học sinh
động, hấp dẫn tránh sự nhàm chán vào giờ học giúp trẻ lĩnh hội kiến thức dễ dàng.


Qua việc dạy trẻ tôi nhận thấy muốn cho trẻ cảm thụ tốt âm điệu, nhịp điệu bài
thơ khi đọc mẫu cho trẻ nghe cô nên đọc thật êm dịu, nhẹ nhàng, chú ý ngắt nhịp, đọc
nhấn mạnh vào các từ mang tính nhịp điệu hoặc khi kể chuyện trẻ nghe cơ kể phải
diễn cảm, thể hiện giọng nói điệu bộ,cử chỉ từng nhân vật trong truyện, cần thay đổi
các hình thức giới thiệu, cơ kể chuyện hoặc đọc thơ hay, kết thúc cho trẻ chơi một trị
chơi nhẹ có nội dung phù hợp, trong một tiết học được tổ chức thực hiện như trẻ
được chơi với cô, được gần gũi trị chuyện cùng cơ để trẻ thoải mái khơng gị bó trẻ.
Về đội hình khơng cứng nhắc mà thay đổi nhiều đội hình khác nhau trong một giờ
học để trẻ thoải mái, nhanh nhẹn. Cô nên tuyên dương lớp kip thời những trẻ đọc thơ,
kể chuyện hay, đóng kịch tốt để khuyến khích trẻ học tốt hơn. Tuyệt đối không chê
trẻ, nhẹ nhàng sửa sai đối vơi những trẻ thực hiện chưa đúng. Ngoài ra việc chuẩn bị
ban đầu của giáo viên chiếm vị trí khơng nhỏ trong thành công của buổi học: giáo
viên phải thuộc bài thơ câu chuyện, có tranh minh họa hoặc con rối. Trẻ hiểu nội
dung các bài dạy không chỉ đôn thuần là một nội dung cần dạy cho trẻ, mà còn là một
phương tiện giáo dục. Vì vậy tơi ln quan sát và nhận xét xem trong q trình học
tập trẻ có có hoạt động khơng? Tìm hiểu ngun nhân vì sao trẻ khơng hồ đờng cùng
với bạm để có hướng tìm cách đưa trẻ hồ nhập với bạm bè.

3. Thơng qua hoạt động vui chơi giúp trẻ phát triển vốn từ, tự tin, mạnh dạn:
Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể thuộc được câu chuyện hoặc
thuộc bài thơ, vì ở lứa tuổi này trẻ rất dể nhớ mà mau quên. Ta cần cho trẻ làm quen
văn học ở hoạt động ngồi trời và hoạt động góc.
Gìờ hoạt động góc trẻ được tham gia chơi rất hờn nhiên mạnh dạn, có thể chơi trị
chơi: "cơ giáo" ở góc phân vai, một cháu làm cô giáo dạy cháu đọc thơ hoặc kể
chuyện giúp trẻ nhớ lại trình tự chuyện hoặc cũng cố những bài thơ đã được học.
Ví dụ: Chơi về chủ đề: "Trường Mầm non" thì trẻ chơi đóng vai cơ giáo dạy cháu đọc
thơ: "Cô giáo của em", "Trường em"...
Với chủ đề ngành nghề thì trẻ đóng vai bác sĩ( bác sĩ hỏi: cơ đau ở đâu, khó chịu chỗ
nào.., rồi khám và dặn bệnh nhân về uống thuốc như thế nào..), cô chú cảnh sát giao
thông: sẽ hướng dẫn mọi người đi cho đúng đường…


Hoặc trẻ được chơi ở góc học tập xem sách, truyện tranh chơi tìm chữ.., tạo cho trẻ
cảm giác là trẻ có thể đọc được quyển truyện đó hoặc trẻ có thể biết rằng quyển
truyện đó nói về cái gì? Trẻ có thể dựa vào tranh để khám phá ra các nhân vật, khám
phá nghĩa của từ của câu, hoặc trẻ có thể tự vẽ, cắt dán tập làm sách, làm album,
truyện tranh theo chủ đề.
Trẻ cùng các bạn cùng nhau quan sát quanh sân trường, cùng nhau hợp tác hồn
thành nhiệm vụ cơ giao: chăm sóc cây, chăm sóc hoa, làm đất gieo hạt giống.., chơi
các trò chơi mang tính tập thể, ví dụ: trị chơi dân gian trong lúc chơi cô cho trẻ đọc
các bài đồng dao “kéo cưa lừa xẻ, nu na nu nống, chi chi chành chành, dung dăng
dung dẻ..”
Nhờ vui chơi trẻ mạnh dạn, thích giao tiếp và phát triển nhiều vốn từ, củng cố lại
những kiến thức đã học. Đặc biệt là trẻ rất thích tự thể hiện bàn thân thơng qua các
trị chơi: tự làm sách truyện tranh, phấn khởi và rất thích tham gia chơi tập thể.
4. Phát triển ngôn ngữ ở hoạt động mọi lúc mọi nơi:
Vào buổi sáng đón trẻ, ngồi cơng việc nhắc trẻ chào ba mẹ, giữ vệ sinh tơi
thường hay trị chuyện với trẻ theo chủ đề nhánh của tuần.

Ví dụ: Chủ đề một số ngành nghề. Tơi trị chuyện với trẻ về gia đình có bao nhiêu
người bố mẹ con làm nghề gì, anh chị làm nghề gì, làm ở đâu, làm ra những sản
phẩm gì, hoặc trị chuyện với trẻ về cơng việc của một số ngành nghề trong xã hội,
ích lợi của cơng việc đó, nghề đó làm ra những sản phẩm gì, con lớn lên thích làm
nghề gì...Tơi cảm thấy có tác dụng rất lớn đối với trẻ. Trong lúc trị chuyện cơ đã
cung cấp cho trẻ nhiều vốn từ giúp trẻ hiểu nghĩa của câu, nói trọn câu, diễn đạt mạch
lạc. Khơng những trẻ cịn tìm hiểu về thế giới xung quanh làm quen với kiến thức
mới, giúp trẻ bước vào tiết học một cách dễ dàng. Vì vậy trong lúc trị chuyện với trẻ
cơ phải nói rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, đủ nghĩa giúp trẻ học nói tốt hơn.
Trong giờ ăn ngủ của trẻ, tơi thường trị chuyện với trẻ về tên gọi của các món ăn
trong bữa, gởi mở để trẻ trả lời nóm ăn đó làm từ nguyên liệu gì, chế biến bằng cách
nào. Sau giờ ăn nhắc trẻ đánh răng tôi lại hỏi các bước của qui trình đánh răng.. các


bước rửa tay với xà phòng. Trước khi vào giấc ngủ tôi mở những bản nhạc ru nhẹ
nhàng giúp trẻ vào giấc ngủ tốt hơn.
Trong lớp tơi có làm một góc gọi là góc phát triển ngơn ngữ. Vào buổi chiều tơi dành
thời gian tơi đưa trẻ chơi ở góc này, cô đọc tranh truyện, thơ cho trẻ nghe, trước khi
đọc tôi trao đổi với trẻ về nội dung quyển truyện tranh, thơ, gợi ý nội dung qua trang
bìa nói tên truyện, tên bài thơ, miêu tả hình ảnh của từng trang, tơi nói về tranh minh
hoạ về nội dung câu chuyện bài thơ được thể hiện trong tranh như thế nào. Sau đó
đàm thoại với trẻ về nội dung câu chuyện và giúp trẻ hiểu rõ về câu chuyện bài thơ
đó.
Qua việc thực hiện hoạt động ở mọi lúc mọi nơi tơi thấy trẻ có thói quen rất
thích tham gia chơi cùng cơ, thích trị chuyện cùng cơ bất kì lúc, từ đó trẻ mạnh dạn
hờn nhiên rất thích trị chuyện với người lớn. Đặc biệt có một vốn từ rất đáng kể.
5. Làm quen văn học thông qua các ngày hội, ngày lễ
Qua các buổi sinh hoạt ngày hội, ngày lễ cũng cần cho trẻ Làm quen với văn học,
trong đó có hát múa đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch, có chuẩn bị mũ các con vật, hoa
văn nghệ... Nhận thấy trẻ rất thích đến buổi chiều cuối tuần, giống như trẻ được chơi

thoải mái, được nghỉ sau một tuần học, thế nào trẻ vẫn có học, củng cố lại kiến thức
đã học, học dưới hình thức biểu diễn văn nghệ. Cứ vài tháng tôi lại tổ chức hội thi
"Bé kể chuyện, đọc thơ hay" có nhận xét và có quà cho những cháu đạt giải, tổ chức
thành nhóm tham gia biểu diễn văn nghệ cho trường và địa phương: mừng ngày khai
giảng, trung thu, tết nguyên đán, tết thiếu nhi…Trong đó có sự hỗ trợ tích cực của
phụ huynh trong lớp.
Nhận thấy nhiều phụ huynh rất phấn khởi về những kết quả của con mình, có tác
dụng rất lớn đến việc đưa con tới lớp Mẫu giáo. Để phụ huynh có hướng phát huy
năng khiếu ở trẻ, trong cuộc thi trẻ rất hào hứng, mạnh dạn, tự tin tham gia vào hoạt
động, thích được biểu diễn và say mê khi biểu diễn. Trong các ngày hội, ngày lễ tôi
hay bàn bạc với nhà trường nên dành nhiều thời gian cho các cháu được tham gia kể
chuyện, đọc thơ, đóng kịch, trẻ rất thích được khen sẽ giúp trẻ phát triển về trí tuệ,
nhanh nhẹn, mạnh dạn trước mọi người.


Qua việc áp dụng giải pháp ngồi giờ học, tơi thấy về ngơn ngữ của trẻ có cải tiến rõ
dệt. Các cháu rất thích tham gia các phong trào, thích hỏi cơ, mạnh dạn khi giao tiếp,
thích trị chuyện cùng người lớn đặc biệt rất thích tham gia vào hoạt động khơng chỉ
có làm quen văn học.
VI. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC:
Sau khi thực hiện một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi tại lớp tôi
nhận thấy trẻ thích giao tiếp với cơ, thích thể hiện bản thân mình qua các câu chuyện
kể, bài thơ, bài hát..Trẻ tự tin, nói trịn câu, trả lời câu hỏi trịn ý, cải thiện nói ngọng,
nói đớt ở trẻ. Phụ huynh cũng nhiệt tình hỗ trợ cơ trong việc rèn phát âm cho trẻ tại
nhà, giao tiếp nhiều hơn với các con.
+ Đối với giáo viên:
Giáo viên đã hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, từ
đó có kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong kế hoạch giảng dạy.
Giáo viên muốn dạy tốt phải thuộc truyện và bài thơ, hiểu nội dung, đọc diễn
cảm câu chuyện và bài thơ đó. Chuẩn bị tranh ảnh minh họa minh họa cho câu

chuyện và bài thơ, ngoài ra để thu hút trẻ giáo viên có thể sử dụng hình ảnh động trên
máy chiếu, múa rối để kích thích trẻ.
Giáo viên thường xun trị chuyện với trẻ, khơi gợi trẻ đặt tên cho nội dung vừa
trị chuyện hoặc tóm tắt ngắn gọn những điều vừa trò chuyện. Mở rộng vốn từ cho trẻ
và khuyến khích trẻ sử dụng vốn từ trẻ học được trong các hoạt động khác nhau, đặc
biệt qua các trò chơi phát triển ngơn ngữ, trị chuyện giữa cơ và trẻ, trẻ với trẻ.
Giáo viên tạo cơ hội cho trẻ hoạt động vui chơi tìm tịi khám phá. Trẻ hoạt động
khơng bị áp đặt để phát huy năng lực bản thân, được trao đổi, được nhận xét nên trẻ
trở nên năng động hơn. Qua các tiết học trẻ rất hứng thú tham gia vào các hoạt động
học tập, ngôn ngữ của trẻ trở nên mạch lạc hơn so với trước đây.
+ Đối với trẻ:
Có 97% trẻ thích được nghe kể chuyện và nghe đọc thơ, khoảng 75% trẻ có thể
kể lại truyện đã được nghe cơ kể. Trẻ thích tham gia đóng kịch, vào vai các nhân vật


trong truyện. Trẻ nghe, hiểu và thực hiện được yêu cầu của người đối thoại. Trẻ biết
diễn đạt được ý tưởng, suy nghĩ của bản thân bằng lời nói đủ ý, rõ ràng mạch lạc. Trẻ
tự tin đặt và trả lời các câu hỏi, kể lại trình tự sự việc rõ ý, giúp người nghe hiểu được
nội dung cần trao đổi.
Đặc biệt là trẻ đã mạnh dạn giao tiếp với các bạn và cô ( Bảo Trân, Kim Ngân,
Duy anh, Quốc Hùng ) một số cháu đã có tiến bộ rất lớn trong vần đề phát âm, chỉ
cịn gặp khó ở những từ khó (Quốc Bảo, Quốc Hùng, Phước Sang, Minh Phúc..)
Trẻ đã hạn chế được việc cứ về nhà là xem điện thoại, xem ti vi... mà thay vào đó là
trẻ xem sách có hình, sưu tầm chữ trong tạp chí sách báo cắt làm album vào khoe với
các bạn trong lớp.
Vào lớp trẻ thích được kể cho cơ và các bạn nghe hơm qua mình làm gì, được ba mẹ
đưa đi đâu chơi,...và được chơi những trò chơi gì.
+ Đối với phụ huynh:
Khoảng 90% phụ huynh trong lớp đã quan tâm đến vấn đề phát triển ngôn ngữ
của trẻ, cùng hợp tác với giáo viên trong việc dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua

việc thường xuyên kể chuyện cho trẻ nghe khi trẻ ở nhà.
Bên cạnh việc trao đổi với phụ huynh tầm quan trọng của phát triển ngơn ngữ cho trẻ
cịn kích thích phụ huynh mua sách, truyện và đọc cho trẻ nghe. Nhằm chuẩn bị tâm
thế cho trẻ sẵn sàng vào môi trường học mới là lớp 1
Qua thực hiện một số giải pháp về phát triển ngôn ngữ ở trường lớp tôi từ đầu
năm đến thời điểm hiện tại tháng 6 năm 2020 đã thu được những kết quả như sau:
STT

NỘI DUNG

ĐẦU NĂM

CUỐI NĂM

SỐ

SỐ

TỶ LỆ

TRẺ
01
02

Trẻ nói trịn câu, mạch

15/35

TỶ LỆ


TRẺ
42.85%

lạc.
Trẻ nói câu cụt, câu thiếu 21/35

KẾT QUẢ

60%

33/35
34/35

94,28

Tăng

%

51,43%

97,14

Tăng


chủ ngữ, thiếu vị ngữ
03

Trẻ mạnh dạn, tự tin giao 20/35


57,14%

tiếp với cô và bạn.
Trẻ sử dụng được câu

04

%

18/35

35/35

100%

37,14%
Tăng
42,86%

51,42%

đơn, câu ghép, câu

32/35

khẳng định, câu phủ

91,42
%


Tăng 40%

định..
Trẻ trả lời đủ ý, rõ ràng
05

15/35

42,85%

mạch lạc câu hỏi của

32/35

người đối thoại.
06

Trẻ mạnh dạn, tự tin đặt

17/35

và trả lời các câu hỏi
Trẻ kể lại trình tự sự việc 15/35

07

48.57%

hiện tượng giúp người


34/35

42,85%
32/35

nghe hiểu được

91,42

Tăng

%

48,57%

97,14

Tăng

%

48,57%

91,42

Tăng

%


48,57%

V. PHẠM VI ỨNG DỤNG VÀ KHẢ NĂNG NHÂN RỘNG
Sáng kiến này đã tổ chức và triển khai thực hiện trong năm học 2019 - 2020 với
sự hợp tác của 2 giáo viên của lớp lá 3 để thực hiện, bằng cách: thực hiện theo kế
hoạch đã lên, phối hợp với phụ huynh, dạy mẫu, dự giờ, đánh giá góp ý rút kinh
nghiệm của các giáo viên trong tổ.
Đồng thời tôi đem kinh nghiệm này trao đổi với các bạn trong khối của mình, được
các bạn trong khối áp dụng và đạt hiệu quả. Sau đó tơi trao đổi với tất cả các đồng
nghiệp trong trường, các bạn áp dụng đạt kết quả rất cao.
Tôi mong muốn rằng những bài học mà tôi đúc kết trong thời gian qua sẽ được các
bạn đồng nghiệp, các tổ trưởng chuyên môn, Ban giám hiệu của đơn vị mình tham
khảo và góp ý cho tơi thực hiện tốt hơn nữa. Nếu được góp ý, tôi tin rằng kinh
nghiệm này sẽ được áp dụng rộng rãi và thực hiện tốt ở các trường Mầm non, nhằm
góp phần chăm sóc và giáo dục các cháu ngày càng tốt hơn trong thời đại mới.


VI. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:
Đúng vậy giáo dục Mầm non giữ một vị trí quan trọng trong sự phát triển của
xã hội, trong quá trình hình thành nhân cách con người. Do vậy công tác giáo dục
Mầm Non phải được tiến hành một cách khoa học có mục đích có hệ thống nhằm tạo
dựng những nền tảng ban đầu vững chắc đúng đắn cho quá trình phát triển sau này
của mỗi cá nhân trẻ là chủ nhân tương lai của xã hội. Nhận thức được điều đó tơi đã
khơng ngừng học hỏi nghiên cứu để chăm sóc giáo dục các cháu ở tất cả các hoạt
động nhằm tạo điều kiện cho trẻ phát triển ngôn ngữ trong giao tiếp được tốt hơn. Để
làm được điều này khi lên tiết giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học, xây
dựng môi trường giáo dục phong phú thu hút trẻ, tạo điều kiện cho trẻ trải nghiệm,
hóa thân vào nhân vật trong truyện, phát huy năng khiếu ở trẻ, gởi mở để trẻ được nói
nhiểu hơn. Góp phần đào tạo cho thế hệ tương lai những con người phát triển tồn

diện. Vì trẻ em hơm nay thế giới ngày mai.
2. Đề xuất
Trong phạm vi nhà trường tạo điều kiện cho các cháu học tốt hơn như: Môi
trường hoạt động phải có sân chơi, bóng mát ...một số giờ hoạt động cho trẻ hoạt
động ngoài trời sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Đối với tổ khối hàng tháng khi sinh hoạt chuyên môn nên chia sẻ thảo luận
phương pháp giúp trẻ phát triển tốt hơn về ngôn ngữ.
Nhà trường lên thường xuyên tổ chức các chuyên đề về phát triển ngôn ngữ tạo
điều kiện cho giáo viên tham dự có cơ hội học hỏi lẫn nhau trao đổi, chia sẻ kinh
nghiệm. Bồi dưỡng cho giáo viên về phương pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ ngày
càng tốt và hiệu quả hơn.
Nhà trường và các cấp lãnh đạo nên tạo điều kiện cho giáo viên được tham quan
học tập các trường bạn trong và ngoài thành phố Vĩnh Long.
Trên đây là một số giải pháp mà tôi đã áp dụng trong việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ, tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của ban giám hiệu và các bạn bè đồng


nghiệp để đề tài của tơi được hồn thiện hơn nhằm giúp tơi ngày càng có kinh nghiệm
dạy các cháu tốt hơn.



×