Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn một số giải pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5 6 tuổi ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.43 KB, 16 trang )

I. TÊN SÁNG KIẾN:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ 5-6 TUỔI
Ở TRƯỜNG MẦM NON.
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MÔ TẢ NỘI DUNG:
1. Lý do chọn đề tài:
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”
Trẻ em, đặc biệt là trẻ lứa tuổi mầm non đang trong giai đoạn hình thành và
phát triển nhân cách, trẻ cịn non nớt về thể chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm và
thẩm mỹ. Trẻ phải học mọi điều từ cuộc sống sinh động, đa dạng ở xung quanh để
thích nghi và phát triển. Vì vậy giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi nhằm giúp trẻ
thích nghi, hịa nhập ứng phó với cuộc sống hằng ngày đồng thời giúp trẻ định hướng
đúng để phát triển nhân cách toàn diện là vấn đề phải được quan tâm hàng đầu. Trên
thực tế, đối với trẻ em, giáo dục kỹ năng tự phục vụ không phải là công việc quá to
tát mà chỉ là những thao tác đơn giản tự phục vụ khi còn nhỏ giúp trẻ chủ động, độc
lập trong mọi cơng việc sau này, qua đó tạo cơ hội cho trẻ sống, phát triển một cách
khỏe mạnh về nhận thức, thể chất.
Trẻ mầm non khi đi học sẽ được chuyển từ mơi trường gia đình sang tập thể.
Mơi trường mới địi hỏi các em phải có kỹ năng nhất định để hòa nhập. Tuy nhiên,
phần lớn trẻ đến trường đều thiếu thói quen và kỹ năng sống đúng. Giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ 5-6 tuổi không chỉ là nhiệm vụ của giáo viên mà còn là nhiệm vụ của các
bậc cha mẹ, người thân là những người gần gũi nhất với trẻ. Hãy để trẻ làm những
việc vừa sức, dạy trẻ cách chăm sóc bản thân và giúp đỡ những người xung quanh.
Khả năng tự phục vụ sẽ giúp trẻ trở thành người tự lập, tự chủ trong mọi tình huống
khác nhau đó cũng là cái đích mà người lớn chúng ta hướng tới và định hướng cho
trẻ.
Trẻ 5-6 tuổi những kỹ năng sống của trẻ chỉ được thực hiện theo khả năng
nhận thức theo lứa tuổi của bản thân, trẻ chưa có kỹ năng trong việc làm của mình
như khơng biết chú ý lắng nghe, khơng có khả năng chờ đến lượt và làm việc theo
nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những điều cơ giáo dạy. Vì



thế địi hỏi cần phải có sự hướng dẫn của người lớn, hàng ngày người mà trẻ tiếp xúc
nhiều nhất là cô giáo của trẻ. Hiểu được sự cần thiết của việc rèn luyện kỹ năng cho
trẻ là rất quan trọng cho nên tôi luôn suy nghĩ phải làm sao để trẻ lớp mình có thể
hình thành những kỹ năng sống được tốt nên tôi quyết định chọn đề tài: “Một số giải
pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non 3”.
2. Mô tả nội dung:
Rèn luyện những kỹ năng sống là giáo dục cho trẻ những kỹ năng mạnh dạn tự
tin, hợp tác, khám phá tìm tịi học hỏi, giao tiếp, tự phục vụ, tự bảo vệ, tự lập...
những thói quen được lặp đi lặp lại hằng ngày và trở thành những kỹ năng văn hóa vệ
sinh. Đó là những động tác thói quen như tự ăn, tự vệ sinh răng miệng, tự mặc quần
áo, tự thay đồ và gấp đồ và để đúng nơi qui định, tự buộc tóc, tự sắp xếp chăn gối khi
ngủ dậy, biết phân biệt và tránh xa những nơi nguy hiểm, biết xử lý khi bị ngã, biết
bảo vệ môi trường, biết bảo vệ cơ thể…
2.1. Khảo sát:
Đầu năm học 2019-2020 tôi được Ban lãnh đạo phân công dạy lớp Lá 1 với sỉ số
lớp là 41 cháu, qua một tháng (tháng 9) chăm sóc và dạy các cháu thì tơi rất lo lắng vì
kết quả đạt được sau các hoạt động của các cháu còn thấp và đều đặc biệt làm tôi suy
nghĩ là đa số các cháu chưa có kỹ năng sống vì sau mỗi giờ hoạt động nhiều trẻ mệt
mỏi, uể oải và khả năng tập trung không lâu và chưa cao. Từ những kết quả đó tơi đã
thống kê như sau:

Thực trạng
TT

Nội dung khảo sát

Số trẻ

Tỷ lệ


1

Trẻ có kỹ năng mạnh dạn tự tin

15/41

36,58%

2

Trẻ có kỹ năng hợp tác nhóm

18/41

43,90%

3

Trẻ có kỹ năng thích khám phá tìm tịi học

17/41

41,46%

4

hỏi
Trẻ có kỹ năng giao tiếp

22/41


53,65%


5

Trẻ có kỹ năng tự phục vụ

21/41

51,21%

6

Trẻ có kỹ năng tự bảo vệ

15/41

36,58%

7

Trẻ có kỹ năng tự lập

13/41

31,70%

2.2. Nguyên nhân thực trạng:
- Khi chọn đề tài này tôi gặp không ít những thuận lợi và khó khăn như sau:

+ Thuận lợi:
- Được sự chỉ đạọ sâu sắc về chuyên môn của Phòng giáo dục và Ban giám
hiệu nhà trường cùng với sự quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất đầy đủ, tạo
được môi trường hoạt động ở lớp tương đối phong phú.
- Trẻ ở cùng một độ tuổi nên mức độ nhận thức tương đối đồng đều chính vì
vậy việc dạy trẻ cũng gặp nhiều thuận lợi. Trường lớp rộng rãi, thống mát có đủ đồ
dùng, dụng cụ phục vụ cho vệ sinh.
- Bản thân được đào tạo và đã trải qua nhiều năm kinh nghiệm thực tế, hàng
năm được học chun mơn do Phịng tổ chức, Ban giám hiệu thường xuyên bồi
dưỡng chuyên môn của trường, của các trường bạn nên cũng đã học được một số kinh
nghiệm .
- Được sự tín nhiệm và tin cậy của phụ huynh.
+ Khó khăn:
- Một số cháu do lần đầu tiên đi học như Thành Phú, Khánh Vy, Trúc Quỳnh
chưa quen với nề nếp của lớp, đi học còn hay khóc địi ba mẹ.
- Một số cháu được cha mẹ cưng chiều quá mức, muốn gì được nấy, một số trẻ
sống trong môi trường không lành mạnh từ gia đình, thường cho con nghỉ học tuỳ
tiện nên ít nhiều cũng làm ảnh hưởng đến việc học tập của cháu.
- Đa số phụ huynh đều đi làm, lo kinh tế gia đình, chưa hiểu biết và quan tâm
đúng mức đến việc giáo dục kỹ năng sống cho con em mình. Nhiều bậc cha mẹ ln
nóng vội trong việc dạy con, đồng thời lại chiều chuộng con cái khiến trẻ không có


kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng sống cần thiết, và trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu
cầu trẻ cần mà không cần dùng lời để yêu cầu hoặc xin phép, đây cũng là một trong
những nguyên nhân của việc phát triển kỹ năng sống cho trẻ chưa cao.
- Điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế, diện tích nhà trường q hẹp, khơng đủ
điều kiện để xây nhà ăn, khu vui chơi, môi trường cho trẻ hoạt động còn chưa đa
dạng chưa phong phú, trẻ chưa thực sự khai thác được sâu những vấn đề, những điều
mà trẻ cần biết và cần khám phá.

2.3. Đề ra giải pháp:
Qua khảo sát thực trạng của lớp, tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ làm thế nào để
giáo dục, uốn nắn cho trẻ mình có những hành vi đúng, cách cư xử lịch sự, văn
minh… từ đó tơi càng mạnh dạn hơn để chọn đề tài “Một số giải pháp dạy kỹ năng
sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non 3” và lựa chọn những giải pháp như sau:
- Giải pháp 1: Giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ kiến thức và lựa chọn phương pháp
trước khi dạy trẻ.
- Giải pháp 2: Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản .
- Giải pháp 3: Rèn luyện cho trẻ các kỹ năng sống một cách thường xuyên, mọi lúc
mọi nơi,
thông qua các môi trường lớp học.
- Giải pháp 4: Sử dụng linh hoạt công nghệ thông tin và tạo điều kiện vật chất tối
thiểu cần thiết để trẻ được thường xuyên thực hiện được những kỹ năng sống.
- Giải pháp 5: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
2.4. Những nội dung cần đạt:
Sau khi áp dụng “Một số giải pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường
mầm non 3” thì bản thân tơi mong muốn một chỉ tiêu để trẻ đạt ở cuối năm là:
- Trẻ có kỹ năng mạnh dạn tự tin đạt: 97,56%
- Trẻ có kỹ năng hợp tác đạt: 100%
- Trẻ có kỹ năng thích khám phá tìm tịi học hỏi: 97,56%
- Trẻ có kỹ năng giao tiếp: 95,12%


- Trẻ có kỹ năng tự phục vụ: 97,56%
- Trẻ có kỹ năng tự bảo vệ: 100%
- Trẻ có kỹ năng tự lập: 100%
NỘI DUNG

KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
SỐ TRẺ ĐẠT


TỶ LỆ

Trẻ có kỹ năng mạnh dạn tự tin

40 trẻ

97,56%

Trẻ có kỹ năng hợp tác nhóm

41 trẻ

100%

Trẻ có kỹ năng thích khám phá tìm tịi học hỏi

40 trẻ

97,56%

Trẻ có kỹ năng giao tiếp

39 trẻ

95,12%

Trẻ có kỹ năng tự phục vụ

40 trẻ


97.56%

Trẻ có kỹ năng tự bảo vệ

41 trẻ

100%

Trẻ có kỹ năng tự lập

41 trẻ

100%

III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Giải pháp 1: Giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ kiến thức và lựa chọn phương
pháp trước khi dạy trẻ.
Trước khi muốn thực hiện dạy trẻ một kỹ năng nào đó bản thân giáo viên phải
luôn chuẩn bị kiến thức sẵn sàng phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ để trẻ có thể
dễ dàng tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên. Khi chuẩn bị kiến thức chính xác phù
hợp với độ tuổi, có sự chuẩn bị trước hoạt động dạy trẻ sẽ giúp giáo viên dạy trẻ một
cách tự tin và trẻ sẽ nắm được kiến thức một cách nhanh nhẹn và thực hiện các thao
tác một cách dễ dàng.
Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự
chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu,
tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục
trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
Thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một cách thích
hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: Thể chất,



ngơn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ,
giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng
vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn
khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách ứng xử, biết lắng
nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau,
giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới
việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh,
cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn
bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để
chúng ta khơng phải xấu hổ vì những hành vi khơng đẹp của trẻ.
Tùy vào độ tuổi và trình độ nhận thức của trẻ lớp mình mà giáo viên có thể
hướng dẫn và dạy trẻ các kỹ năng sống một cách phù hợp để trẻ có thể tiếp thu và
thực hiện các kỹ năng ấy.
Giải pháp 2: Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản .
- Trẻ có kỹ năng mạnh dạn tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo
viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giáo viên
thường xuyên trò chuyện, cùng chơi, cùng học với trẻ để phát triển sự tự tin ở trẻ, trẻ
cần được yêu thương và tôn trọng. Qua đó, giúp cháu biết mạnh dạn, khơng sợ nói
trước đơng người, trẻ cảm thấy tự tin trong mọi tình huống, dám làm điều mình nghĩ
và biết bày tỏ cảm xúc của mình với người khác mà khơng e ngại. Biết giới thiệu về
bản thân và gia đình mình trước đám đơng, biết mình đang học lớp nào, thích cái gì
và điạ chỉ nhà.
+ Ví dụ: Trẻ tự giới thiệu về bản thân mình trước bạn bè hoặc múa hát, biểu
diễn văn nghệ.
- Trẻ có kỹ năng hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp
trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa
tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.



+ Ví dụ: Trẻ cùng nhau vẽ một bức tranh hoặc trẻ cùng tham gia chơi ở góc
xây dựng.
- Trẻ có kỹ năng thích khám phá tìm tịi học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là
một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát
khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu
gợi tính khám phá tìm tịi tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu
chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não
nhiều hơn là những thứ có thể đốn trước được.
+ Ví dụ: Khi kể chuyện “Cây khế ” giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở như:
Nếu con là người em khi con bị người anh tham lam độc ác đối xử với con như thế
con sẽ làm gì? gợi mở tính tị mị cho trẻ, đặt tên khác cho câu chuyện v,v….
Giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như những
giờ hoạt động góc ở một nhóm nhỏ, hoặc đọc sách trẻ nghe trong giờ trưa đối với
những trẻ khó ngủ. Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn
luyện đạo đức cho trẻ, giúp trẻ hồn thiện mình, dạy trẻ u thương bạn bè, yêu
thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa
tuổi, gợi mở tính khám phá tìm tịi, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Trong gia đình, cha mẹ luân phiên cùng anh chị lớn đọc sách cho trẻ nghe,
hoặc thống nhất giờ đọc sách của gia đình, vào giờ đó các thành viên trong gia đình
đều đọc sách, báo hoặc đọc một thứ gì đó của mình. Khi còn nhỏ cha mẹ cần dành ra
15 phút / ngày để trò chuyện, đọc sách cho trẻ nghe các loại sách phù hợp với lứa
tuổi. Khi trẻ có thể tự đọc được lúc đó việc đọc sách trở thành là niềm vui có giá trị
và có ý nghĩa hơn giúp trẻ phát triển sự ham hiểu biết, tìm tịi phát triển nhân cách
của trẻ.
- Trẻ có kỹ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn
đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức
của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng
đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như làm quen

với việc đọc sách,làm quen với toán và khám phá khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải
mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ


sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn
sàng học mọi thứ.
+ Ví dụ: Góc phân vai- xây dựng-nghệ thuật. Đây là góc dễ dàng tạo sự hứng
thú cho trẻ. Khi rèn kĩ năng giao tiếp cho trẻ, tôi hướng trẻ chơi các vai chơi như Bác
sĩ khám bệnh, cô giáo, hướng dẫn viên du lịch…Với mỗi vai chơi, tôi thường nhắc
nhở trẻ: Bác sĩ muốn khám bệnh tốt cần lắng nghe bệnh nhân trò chuyện và miêu tả
biểu hiện, qua đó mới chẩn đốn được bệnh. Và bệnh nhân, muốn nhanh khỏi bệnh
thì cần chú ý lắng nghe xem bác sĩ dặn dị mình những gì, uống thuốc khi nào….
- Trẻ có kỹ năng tự phục vụ bản thân: Trẻ tự vệ sinh cá nhân như rửa mặt, đánh
răng, tự sắp xếp chăn gối khi ngủ dậy, tự ăn, tự mặc quần áo, tự gấp đồ và để đúng
nơi qui định,…
+ Ví dụ: Trẻ biết tự xúc cơm ăn, biết tự chải răng, tự mặc áo quần..trong giờ ăn
ngủ, vệ sinh của trẻ.
- Trẻ có kỹ năng tự bảo vệ bản thân: Trẻ biết phân biệt và tránh xa những nơi
nguy hiểm, biết xử lý khi bị ngã, biết bảo vệ môi trường, biết vệ sinh răng miệng, biết
bảo vệ cơ thể…
+ Ví dụ: Chủ đề “Bản thân”tơi lồng ghép trẻ nhận biết các bộ phận trên cơ thể
bé, giáo dục trẻ những bộ phận không được đụng đến ngồi bố mẹ, bà, dì, và y tá hay
bác sĩ khám bệnh cho trẻ khi có ba mẹ ở đấy.
- Trẻ có kỹ năng tự lập: Người lớn cần giúp trẻ biết tự lập càng sớm càng tốt,
không để trẻ quá phụ thuộc vào người lớn hoặc bạn bè. Trẻ biết làm mọi việc theo
khả năng riêng của mình, có thể lựa chọn cân nhắc và tự mình quyết định cơng việc
cần phải làm và làm như thế nào.
+ Ví dụ: Trẻ tự cất đồ dùng cá nhân vào đúng ngăn tủ có kí hiệu của mình khi
trẻ đến lớp.
Ngồi ra, ở trường mầm non giáo viên cần dạy trẻ hành vi văn minh lịch sự

trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự
rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng,
vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai
nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm


ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa … hoặc biết giúp người lớn
dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. Không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
Bên cạnh đó cơ dạy các cháu bỏ rác vào sọt (thùng rác), không vứt rác bừa bãi, khơng
vứt rác ra ao, hồ, sơng, suối, ra ngồi đường đi...Thấy rác là tự giác nhặt.
Giải pháp 3: Rèn luyện cho trẻ các kỹ năng sống một cách thường xuyên,
mọi lúc mọi nơi, thông qua các môi trường lớp học.
- Các cháu học bán trú nên thời gian ở lớp rất dài, nếu cô sắp xếp lớp học gọn
gàng, sạch sẽ mọi sinh hoạt của lớp sẻ trở nên có nề nếp làm cho lớp học vui tươi
đầm ấm sạch sẻ thống mát. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành
kỹ năng sống cho trẻ.
- Nếu hàng ngày cô thực hiện nghiêm túc thời gian biểu cháu sẽ thực hiện đúng
giờ nào việc đó. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói
quen tốt. Ngay cả trong việc ăn uống cũng phải cần có kỹ năng: việc ăn uống không
những nhằm đáp ứng nhu cầu sinh lý của cơ thể, mà cịn có khía cạnh đạo đức, thẩm
mỹ. Hành vi trên bàn ăn thể hiện sự tôn trọng mọi người xung quanh và người phục
vụ.
- Sự gương mẫu của cô và những người xung quanh. Đặc điểm của trẻ là hay
bắt chước, có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai, cái
xấu. Vì vậy cơ giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân thủ
những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đơi với việc
làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo.
- Bên cạnh đó trẻ cần phải có thói quen giao tiếp có văn hố: Trẻ biết chào hỏi
mọi người khi gặp gỡ hoặc chia tay, biết thể hiện sự đề nghị khi có nhu cầu, biết thể
hiện sự quan tâm khi người khác cần và đáp lại sự quan tâm của người khác, biết thể

hiện sự biết lỗi khi có lỗi và cư xử đúng mức khi người khác có lỗi với mình, biết
thực hiện các yêu cầu khi tham gia, thể hiện lịng tin đối với mọi người.
+ Ví dụ: Qua những ngày sau khi dạy trẻ, trẻ nào có những biểu hiện tốt thì cơ
khen trẻ, tun dương trẻ để trẻ biết được mình đã làm đúng mà ln duy trì các bạn
khác noi theo.


Rèn luyện cho trẻ các kỹ năng mọi lúc mọi nơi.
- Các kỹ năng sẽ được trẻ thực hiện như thói quen nếu như trẻ được thực hiện
thường xuyên và xem đó là nhiệm vụ cần thiết của bản thân. Vì thế nên hằng ngày
mọi lúc mọi nơi khi nào có cơ hội là tơi ln giáo dục cho cháu các kỹ năng sống.
+ Ví dụ: Cháu Quang Vinh sau khi ăn xong nếu cháu không đánh răng cháu
thấy rất khó chịu và khơng chịu đi ngủ.
Hoặc là đặt tình huống cho trẻ như “nếu sau khi ngủ dậy không chải tóc gọn
gàng thì đầu tóc các con sẻ trở nên như thế nào? Từ tình huống ấy cơ sẽ nhắc lại cho
trẻ cách chải tóc phải như thế này: cầm lược chải tóc sng, rẽ đơi và chải sang hai
bên hoặc chải hất từ trước ra sau, từ trên xuống dưới. Các cháu thực hiện được theo
cơ.
Ngồi ra thơng qua các hoạt động mọi lúc mọi nơi cô quan sát những hành vi,
thói quen của trẻ xem đã thực hiện tốt chưa để có kế hoạch rèn luyện phù hợp
+ Ví dụ: Trẻ có thực hiện được các thói quen vệ sinh như tự rửa mặt, rửa tay
trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, chải đầu, đánh răng….
- Có ý thức giữ vệ sinh nơi cơng cộng, tơn trọng người khác như: không nhổ
bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch cũng được cô
dạy cháu ở mọi lúc, mọi nơi: giờ chơi hoạt động ngồi trời, lồng ghép vào các mơn
học, giờ hoạt động góc. Khi trong lớp có rác cơ cho cháu nhặt rác bỏ vào thùng rác và
nói cho trẻ biết sử dụng nước sạch để đảm bảo được sức khoẻ, cơ thể mới khoẻ mạnh.
Rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ thông qua các môi trường lớp học.
Kết hợp với giáo viên cùng lớp ngay từ đầu năm học tơi đã kết hợp với cơ
Loan trang trí các hình ảnh ở bảng chủ đề, ở các góc lớp những hình ảnh đẹp về kỹ

năng sống mà trẻ cần thực hiện để nhằm giúp trẻ khắc sâu và bắt chước các kỹ năng
ấy:
+ Ví dụ: Lúc đón trẻ vào lớp phải chào cô, cô hướng dẫn trẻ xếp cặp lên kệ
mũ, dép để lên kệ ngay ngắn.


- Giờ học vẽ: dạy trẻ biết nhắc bàn, ghế và ngồi đúng tư thế khơng nói chuyện.
Qua tranh ảnh trẻ nhận ra được các hành vi văn minh, các thói quen vệ sinh tốt và học
tập theo.
- Chơi hoạt động ở các góc: Biết nhường nhịn bạn khi chơi và cùng chơi không
đánh cãi nhau gây gổ bắt nạt bạn yếu.
- Chơi ngoài trời: Biết yêu quý bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên, không hái hoa
ngắt lá, bẻ cành cây ở trường, lớp vườn hoa. Chăm tưới cây, nhổ cỏ, dọn vệ sinh.
- Giờ ăn trưa: Dạy trẻ rửa tay lau mặt, mời cô, các bạn, cầm muỗng đúng tay.
Ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoằm và nuốt vội. Không ngậm thức ăn lâu trong
miệng – không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại lung tung. Không xúc qua
đầu, không bỏ dở suất ăn, biết nhặt cơm rơi vào đĩa riêng – ăn xong lau miệng. Uống
nước từ từ, không làm đỗ, không làm vỡ cốc, khơng rót nước q đầy, thị tay vào
bình nước, không uống nước lã.
- Vệ sinh thay đồ: Trang phục quần áo gọn gàng sạch sẽ - không mặc quần áo
bẩn, rách, đứt cúc, không ngồi lê trên sàn đất hoặc bôi bẩn vào quần áo – thường
xuyên tắm rửa thay quần áo.
- Giờ ngủ: Qua giờ ngủ, cháu biết nằm ngủ ngay ngắn, khơng nói chuyện,
khơng làm ồn ào hoặc không chọc phá bạn.
Giải pháp 4: Sử dụng linh hoạt công nghệ thông tin và tạo điều kiện vật
chất tối thiểu cần thiết để trẻ được thường xuyên thực hiện được những kỹ năng
sống.
Hiện nay công nghệ thông tin đã được áp dụng rộng rãi vào chương trình học
của ngành mầm non và để thu hút trẻ tham gia học cơ có thể cho trẻ xem trình chiếu
những hình ảnh có liên quan đến nội dung bài dạy trên máy để thu hút trẻ qua những

hình ảnh dí dỏm và vui nhộn.
+ Ví dụ: Dạy trẻ tập quét nhà cô cho trẻ xem video về bé Xuân Mai đang quét
nhà với bài hát “Bé quét nhà” và hình ảnh minh họa rất dễ thương qua đó trẻ rất thích
thú và giờ dạy rất vui và hiệu quả.


Muốn thực hiện được những quy định về vệ sinh thì phải có phương tiện thực
hiện.
+ Ví dụ: Cơ dạy các cháu bỏ rác vào sọt rác thì lớp phải có giỏ rác cho các
cháu bỏ, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cháu
sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cơ cùng gia đình kết hợp dạy
trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh
và hành vi văn minh cho trẻ.
Giải pháp 5: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
- Muốn trẻ hình thành được các kỹ năng thì nhà trường và gia đình phải thống
nhất yêu cầu giáo dục kỹ năng đối với trẻ. Nhà trường và giáo viên thông báo, yêu
cầu biện pháp giáo dục kỹ năng cho phụ huynh biết, yêu cầu phụ huynh cần theo dõi
giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn luyện
cho trẻ.
- Cơ giáo cần hồ nhã trao đổi với phụ huynh với những trẻ thường xuyên nghỉ
học, cháu hiếu động, thụ động để cùng nhau đưa ra biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ.
Đối với những trẻ nhút nhát ít trị chuyện cùng cơ, cơ quan tâm trẻ nhiều hơn để tạo
cảm giác gần gủi với trẻ từ đó tạo cho trẻ có thói quen mạnh dạn khi giao tiếp với
những người xung quanh. Trẻ tự tin khi tham gia phát biểu ý kiến nói lên những gì trẻ
chưa biết, đã biết để cô cung cấp thêm kiến thức cho trẻ để trẻ vững vàng hơn khi tiếp
nhận những kiến thức mới trong những năm học tiếp theo.
- Giờ trả trẻ: Cô nhắc nhở phụ huynh cùng với cô, giáo dục các cháu theo chủ
đề yêu cầu của lớp học mà giáo viên đã dán ở bảng
- Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho
rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo

viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải
quyết các vấn đề quan trọng, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi
với nhau. Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh thức


sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ ln nghĩ về bản thân mình một cách tích
cực và đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
- Trong gia đình, việc dạy trẻ những hành vi văn minh lịch sự trong ăn uống rất
cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính
xác, thuần thục và khéo léo, khơng chỉ địi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà
còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu
hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những
người xung quanh trẻ.
Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi
với phụ huyng những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc
cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
IV. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC TỪ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Qua các giải pháp: “Một số giải pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở
trường mầm non 3” từ đầu năm học đến giờ tơi thấy trẻ có thói quen lao động tự
phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động thô,
vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của trẻ, phát triển
óc sáng tạo, tính tự tin thơng qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục Aerobic.
- Tự rửa mặt, rửa tay chải đầu, thay gấp quần áo sử dụng thành thạo dụng cụ
vệ sinh, biết giữ nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi sạch sẽ, biết bỏ rác vào giỏ, không xả rác
bừa bãi, biết đi tiêu tiểu đúng nơi quy định, trẻ không ăn quả xanh, uống nước lã, khi
ăn cơm trẻ không làm rơi vãi, các cháu đã thể hiện được nếp sống văn minh lịch sự,
biết đi thưa về trình, khi gặp người lớn biết lễ phép để chào hỏi và biết nhường nhịn
bạn giúp đỡ lẫn nhau.
- Biết giữ vệ sinh lịch sự nơi công cộng, thông khạc nhổ bừa bãi, khi ho ngáp

hắt hơi, xì mũi, phải lấy tay che miệng, biết tôn trọng và quý mến mọi người, biết yêu
quý bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên, biết yêu quý, bảo vệ vật nuôi cây trồng.
- Đa số trẻ mạnh dạn tự tin, có kỹ năng giao tiếp tốt, Vui vẻ hòa nhã với bạn,
biết tự bảo vệ mình và có khả năng tự lập.


Từ những biện pháp khắc phục khó khăn trên tơi thấy kết quả đã đạt được so
vơi đầu năm học như sau:
TT

Nội dung khảo sát

Đầu năm

Cuối năm

Tỷ lệ
Tăng/Giả
m

1
2

Trẻ có kỹ năng mạnh dạn 15/41
tự tin
Trẻ có kỹ năng hợp tác 18/41

36,58% 40 trẻ 97,56%

60,98%


43,90% 41 trẻ 100%

56,10%

4

nhóm
Trẻ có kỹ năng thích 17/41 41,46%
khám phá tìm tịi học hỏi
Trẻ có kỹ năng giao tiếp
22/41 53,65%

5

Trẻ có kỹ năng tự phục 21/41

51,21% 40 trẻ 97.56%

46,35%

6

vụ
Trẻ có kỹ năng tự bảo vệ

15/41

36,58%


41 trẻ 100%

63,42%

7

Trẻ có kỹ năng tự lập

13/41

31,70%

41 trẻ 100%

68,30%

3

40 trẻ 97,56%

56,10%

39 trẻ 95,12%

41,47%

V. PHẠM VI ỨNG DỤNG VÀ KHẢ NĂNG NHÂN RỘNG.
1. Phạm vi ứng dụng:
Với đề tài: “Một số giải pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm
non 3”của tôi đã được áp dụng rỗng rãi cho lớp Lá 1, Lá 2 và Lá 3 ở trường, các lớp

áp dụng tùy theo tình hình khả năng trẻ và tình hình của mỗi lớp mà giáo viên có thể
chọn lựa cho mình các biện pháp khả thi.
2. Khả năng nhân rộng:
Ngồi ra cịn áp dụng được cho các trường bạn. Kinh nghiệm này theo tôi nghĩ
chỉ là một phần rất nhỏ bé trong những kinh nghiệm khác, nhưng tôi cũng hy vọng
được các chị em đồng nghiệp trong trường cùng nghiên cứu tham khảo thêm và gọt
dũa cho những biện pháp trên thực sự mang lại hiệu quả hơn nữa.
VI. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT:


1. Kết luận:
Việc rèn luyện các kỹ năng sống cho trẻ mầm non là vô cùng quan trọng. Song
công việc ấy thật không đơn giản cần phải được rèn luyện và sự đầu tư của giáo viên.
Muốn trẻ hình thành tốt các kỹ năng cho trẻ giáo viên cần:
- Chuẩn bị đầy đủ kiến thức và lựa chọn phương pháp trước khi dạy trẻ.
- Cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản .
- Rèn luyện cho trẻ các kỹ năng sống một cách thường xuyên, mọi lúc mọi nơi,
thông qua các môi trường lớp học.
- Sử dụng linh hoạt công nghệ thông tin và tạo điều kiện vật chất tối thiểu cần
thiết để trẻ được thường xuyên thực hiện được những kỹ năng sống.
- Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
2. Đề xuất:
Đề nghị các cấp lãnh đạo cấp trên và Ban Giám Hiệu trường xem xét và tạo điều
kiện cho trường chúng tơi có thêm diện tích đất lớn hơn để tạo mơi trường cho cơ và
trẻ cùng hoạt động phong phú, đa dạng hơn và việc áp dụng SKKN này vào một môi
trường đầy đủ và hấp dẫn thì kết quả sẽ đạt được tốt hơn..
Bản thân tôi rất mong Các cấp lãnh đạo, Ban giám hiệu thường xuyên tạo điều
kiện cho giáo viên được giao lưu, tham quan học tập ở các trường bạn trong và ngoài
tỉnh nhiều hơn nữa để giáo viên học hỏi kinh nghiệm khi có đổi mới phương pháp,
hình thức tổ chức giáo dục mới nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.

Bổ sung tài liệu để giáo viên tham khảo để cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ được
tốt hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhằm dạy trẻ “Một số giải pháp dạy kỹ năng
sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non 3”. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện
sáng kiến kinh nghiệm này chắc khơng thể tránh khỏi phần thiêu sót, rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp, Ban giám hiệu trường và các cấp lãnh
đạo Phịng - Sở Tơi thành thật cảm ơn !




×