Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

chế độ pháp lý về giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại công ty tnhh hỗ trợ kỹ thương lê và vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.95 KB, 79 trang )

Chuyên đề thực tập
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta sau nhiều năm chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh
tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã có nhiều thành tựu đáng
chú ý. Nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt buộc các doanh nghiệp luôn phải
nỗ lực không ngừng để tồn tại và đứng vững. Đặc biệt, sự kiện Việt Nam gia nhập
WTO đã mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới. Nhiều doanh nghiệp bắt kịp được
với cơ chế làm ăn phát đạt và khẳng định được vị trí của mình trên thương trường.
Tuy nhiên cũng có nhiều doanh nghiệp không thích ứng được với cơ chế này, sản
xuất kinh doanh thua lỗ và dẫn đến bị giải thể, phá sản.
Chính vì vậy, các công ty cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn
cho mình để tồn tại và phát triển. Sự sáng tạo và đổi mới trong cơ cấu tổ chức
doanh nghiệp và chiến lược kinh doanh là điều kiện vô cùng quan trọng trong quá
trình hội nhập và giao lưu quốc tế của mỗi doanh nghiệp. Nắm bắt được tình hình
thực tế đó, công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê & Vũ đã không ngừng cố gắng khắc
phục những tồn tại đang có để có thể phát triển hơn nữa. Sau 6 năm hoạt động,
công ty đã xây dựng được thương hiệu và tạo uy tín tốt trên thị trường.
Hoạt động mua bán hàng hoá trong nước đã trở thành lĩnh vực kinh doanh
chủ đạo và đem lại nguồn doanh thu lớn cho công ty. Tuy nhiên, để hoạt động mua
bán hàng hoá của công ty đi vào chiều sâu thì đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm hiểu,
tiếp cận và nhận thức đúng đắn các hoạt động thương mại theo đúng luật, nhằm hạn
chế những tổn hại kinh tế không đáng có.
Do tính chất có sẵn của tài liệu cũng như tầm quan trọng của hoạt động mua
bán hàng hoá đối với công ty, em đã chọn đề tài “Chế độ pháp lý về giao kết, thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH hỗ
trợ kỹ thương Lê và Vũ” để tìm hiểu và nghiên cứu. Qua việc lựa chọn đề tài này,
em muốn tập trung nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng
hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty. Từ đó, tìm ra những vấn đề còn tồn tại và đề
xuất các giải pháp nhằm góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa, đồng thời em cũng đưa ra một số đề xuất giúp Công ty nâng cao hiệu
quả trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Kết cấu đề


tài gồm có 3 chương :
Chương 1 : Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
1
Chuyên đề thực tập
Chương 2 : Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá tại
công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa và nâng cao hiệu quả ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
tại công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê và Vũ.
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Thủy và
các anh chị các phòng ban công ty TNHH hỗ trợ kỹ thương Lê & Vũ đã giúp đỡ tận
tình để em có thể hoàn thành bản chuyên đề này.
Do sự hạn chế về thời gian và trình độ kiến thức của tác giả nên bài viết
không thể tránh khỏi sai sót. Em kính mong nhận được sự đóng góp của thầy cô để
chuyên đề hoàn thiện hơn.
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
2
Chuyên đề thực tập
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
WTO : (World Trade Organization ) Tổ chức thương mại thế giới
VND : Việt Nam Đồng
VD : Ví dụ
LTM : Luật Thương mại
BLDS : Bộ luật Dân sự
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48

3
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG I :
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁNHÀNG HÓA
I.Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hoá
1.Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một phương tiện quan trọng phục vụ cho
nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất kinh doanh, trao đổi vật tư, sản phẩm giữa các
chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Hiện nay, hoạt động mua bán hàng hoá được điều chỉnh chủ yếu bởi hai văn
bản pháp luật quan trọng là Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005. Hoạt
động mua bán hàng hoá có thể được xem là một dạng cụ thể của hoạt động mua bán
tài sản. Theo quy định của Điều 428 BLDS 2005 về hợp đồng mua bán tài sản thì:
Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa
vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và
trả tiền cho bên bán. Theo điều 163 Bộ luật Dân sự thì tài sản bao gồm : vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Luật Thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng
hóa mà chỉ đưa ra khái niệm về hoạt động mua bán hàng hoá. Mua bán hàng hóa
được định nghĩa theo Khoản 8 Điều 3 Luật thương mại 2005 là hoạt động thương
mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho
bên mua và nhận thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận
hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Hàng hóa theo quy định của Luật
Thương mại 2005 có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong
tương lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông
thương mại. Từ hai định nghĩa trên có thể thấy hợp đồng mua bán hàng hóa theo
quy định của Luật Thương mại 2005 là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài
sản.
Căn cứ các điều khoản trên, có thể kết luận rằng “ Hợp đồng mua bán hàng
hoá là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa cho

SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
4
Chuyên đề thực tập
bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng vàtrả tiền cho bên bán
theo thời hạn, số lượng và phương thức thanh toán mà các bên đã thỏa thuận”.
2.Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hoá
Trong nền kinh tế thị trường hợp đồng mua bán hàng hoá có vai trò rất quan
trọng. Trước hết, loại hợp đồng này có vai trò điều tiết, điều chỉnh quá trình lưu
thông hàng hóa, tiền tệ. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện quyền tự định đoạt của các
bên chủ thể khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, ghi nhận sự thể hiện ý chí thống
nhất của các bên về những điều kiện của quan hệ hợp đồng. Khi hợp đồng đặt ra
các biện pháp bảo đảm thì nó có tác dụng nâng cao trách nhiệm của các bên trong
quan hệ nghĩa vụ, đồng thời ngăn ngừa và khắc phục hậu quả do việc không thực
hiện hay thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ gây ra.
Hợp đồng mua bán hàng hoá có bản chất chung của hợp đồng đó là sự thoả
thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua
bán. Có thể xem xét hợp đồng mua bán hàng hoá trong mối liên hệ với hợp đồng
mua bán tài sản trong dân sự theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng. Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hoá, hợp đồng
mua bán hàng hoá có những đặc điểm nhất định, xuất phát từ bản chất thương mại
của hàng hoá. Đó là :
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Theo Luật thương mại 2005, hàng
hóa được định nghĩa “bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành
trong tương lai; các vật gắn liền với đất đai” (khoản 2 điều 3 Luật thương mại
2005). Hàng hóa là đối tượng mua bán phải không thuộc danh mục hàng hóa cấm
kinh doanh theo quy định của Nhà nước (Nghị định 59/2006/NĐ- CP ngày
12/06/2006). Nếu hàng hóa đó thuộc danh mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh
doanh có điều kiện thì phải tuân theo đầy đủ các quy định của pháp luật về mua bán
các loại hàng đó.

- Hình thức của hợp đồng có thể bằng lời nói, bằng hành vi cụ thể hay bằng
văn bản do các bên thỏa thuận, do pháp luật quy định hay được xác lập bằng một
hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật qui định
phải được lập thành văn bàn thì phải tuân theo các qui định đó.
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
5
Chuyên đề thực tập
- Về nội dung, hợp đồng mua bán hàng hoá thể hiện quyền và nghĩa vụ của
các bên trong quan hệ mua bán. Bên bán thì có nghĩa vụ giao hàng và nhận tiền còn
bên mua thì có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền. Những điều khoản cơ bản của một
hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm: tên hàng, số lượng, chất lượng, giá cả,
phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng.
- Chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân.
Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng
có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Hoạt động của bên chủ
thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ
mua bán hàng hoá phải tuân theo Luật Thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp
dụng Luật Thương mại.
3.Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá
Ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến đã có các bộ luật như Bộ hình thư
(triều Lí), bộ Quốc triều thống chế (triều Trần), Bộ quốc triều hình luật (triều Lê),
Bộ Hoàng Việt luật lệ (triều Nguyễn). Tuy nhiên, pháp luật thương mại hầu như
không được biết đến trong các Bộ luật nước ta thời kỳ này. Điều đó có thể lý giải là
vì kinh doanh thương mại lúc bấy giờ còn yếu kém và chưa phát triển.
Sau đó, khi giành được chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
Nhà nước ta đã lần lượt ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình, đó là : Điều lệ
tạm thời “Hợp đồng kinh doanh”số 735/TTg năm 1956, Điều lệ tạm thời về chế độ
hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 04/TTg ngày 4/1/1960, Điều lệ về

chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 54/CP của Hội đồng chính
phủ ngày 10/3/1975. Tuy nhiên, do có sự hạn chế về nhận thức và điều kiện kinh tế
xã hội nên pháp luật hợp đồng kinh tế khi đó là công cụ pháp lý của việc thực hiện
kế hoạch của Nhà nước, hợp đồng kinh tế là hình thức pháp lý của các quan hệ
mang tính chất tổ chức, kế hoạch.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã không mang lại được hiệu quả kinh tế
cao, do vậy Đại hội VI tháng 12/1986 của Đảng đã quyết định chuyển nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung và bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
6
Chuyên đề thực tập
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội đồng nhà nước lần lượt thông qua các
văn bản pháp lý mới là: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày25/9/1989, Nghị định số
17/HĐBT ngày 16/1/1990, Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/1/1990 và nhiều văn
bản hướng dẫn khác. Sau đó, Quốc hội thông qua Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995 ,
Luật thương mại ngày 10/5/1997. Sự ra đời của các văn bản này một phần nào đó
đã giải quyết được những bức xúc trên tuy nhiên những qui định còn chồng chéo
mâu thuẫn, mập mờ, chất lượng văn bản còn chưa cao. Các văn bản này do được
ban hành ở những hoàn cảnh kinh tế - xã hội khác nhau, đã không thể có được sự
thống nhất về phương pháp tiếp cận cũng như nội dung quy phạm. Do đó đã gây ra
hậu quả bất lợi về nhiều mặt, cả thể chế, thiết chế và thực tiễn hoạt động của các cơ
quan Nhà nước có liên quan, làm kìm hãm, trì trệ các hoạt động kinh doanh của các
chủ thể. Những bất cập đó đã dẫn đến một yêu cầu cấp bách phải xây dựng lại các
quy định về hợp đồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Để giải quyết vấn đề này,
đồng thời để đáp ứng nhu cầu hội nhập WTO, Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương
mại 2005 ra đời với những quy định thống nhất đã đánh dấu bước phát triển mới
của hợp đồng. Hiện nay, các văn bản điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa chủ
yếu là hai văn bản này. Các quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động
mua bán hàng hoá bao gồm các văn bản sau:

- Bộ luật dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực
thực hiện ngày 01/01/2006.
- Bộ luật hàng hải số 40/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 14
tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực thực hiện ngày 01/01/2006.
- Luật Thương mại thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực thực hiện
ngày 01/01/2006.
- Luật Dầu khí số 20/1993/QH9 được Quốc hội thông qua ngày 06 tháng 7
năm 1993 ;Luật số 19/2000/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí
1993 được Quốc hội thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000; Luật số 19/2000/QH10
sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Dầu khí số 10/2008/QH12 được Quốc hội
thông qua ngày 03-06-2008.
- Luật Điện lực số 28/2004/QH11 được Quốc hội khóa 11 thông qua ngày
03 tháng 12 năm 2004 …
- Và hệ thống các văn bản khác có liên quan như:
+ Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 của Chính phủ quy định
chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh.
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
7
Chuyên đề thực tập
+ Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy định chi tiết Luật
thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa.
Về nguyên tắc áp dụng, theo quy định tại Điều 4 Luật Thương mại 2005 thì
nguyên tắc áp dụng quy định như sau: Hoạt động thương mại phải tuân theo LTM
và pháp luật có liên quan; hoạt động thương mại đặc thù được quy định trong luật
khác thì áp dụng quy định của luật đó; hoạt động thương mại không được quy định
trong LTM và trong các luật khác thì áp dụng quy định của BLDS.
II.Các quy định pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
1.Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
Việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của các bên nhằm thoả mãn những nhu

cầu về vật chất, văn hoá tinh thần của mỗi bên và phải hướng tới lợi ích chung của
toàn xã hội. Ngoài ra các bên còn phải thể hiện việc chấp hành pháp luật, thể hiện
tinh thần tôn trọng truyền thống đạo đức xã hội của trong quá trình thực hiện các
giao dịch dân sự. Khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên có liên quan
phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản khi giao kết hợp đồng dân sự và những
nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại.
1.1.Theo Điều 389_ Bộ luật dân sự 2005, việc giao kết hợp đồng phải tuân theo các
nguyên tắc sau:
a.Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của hợp đồng. Theo nguyên
tắc này thì các bên đủ tư cách chủ thể có quyền tự do quyết định việc giao kết hợp
đồng theo ý muốn chủ quan và vì lợi ích của chính họ. Các bên chủ thể có quyền tự
do lựa chọn việc giao kết với ai, với nội dung như thế nào, hình thức ra sao. Mọi
cam kết thoả thuận hợp pháp đều được nhà nước bảo hộ,và khi không có sự tự
nguyện của các bên có thể bị tuyên bố vô hiệu. Tuy nhiên, sự tự do đó không được
trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Khi đó thì hợp đồng giao kết mới được pháp
luật thừa nhận và bảo vệ.
Đạo đức xã hội là những trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục hình
thành từ một cơ sở kinh tế nhất định và đã được cộng đồng thừa nhận. Với cơ sở
kinh tế và chế độ chính trị hiện nay của Việt Nam thì hành vi được xem là không
trái đạo đức xã hội nếu nó luôn đảm bảo được rằng “giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn
trọng và phát huy phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương
thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo
đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” (Điều 8
BLDS).
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
8
Chuyên đề thực tập
Tôn trọng pháp luật có nghĩa là chủ thể tham gia hợp đồng ngoài việc phải

tôn trọng nghĩa vụ đã cam kết trong lĩnh vực pháp lý đó còn phải tôn trọng và tuân
thủ những qui định chung của pháp luật. Tuy rằng quan hệ hợp đồng xác lập trên cơ
sở tự nguyện nhưng các bên không thể tiến hành tuỳ tiện mà phải thực hiện trong
một khuôn khổ một giới hạn nhất định, luôn luôn phải “ Tôn trọng lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (Điều 10
BLDS).
b.Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
Theo nguyên tắc này các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp
đồng và bảo đảm nội dung của quan hệ đó. Hợp đồng phải thể hiện được sự tương
ứng về quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các bên. Các bên khi giao kết
không được đe dọa, cưỡng ép bên kia giao kết hợp đồng với mình mà không theo ý
chí của họ. Nếu phát hiện hợp đồng được giao kết mà bị đe dọa, cưỡng ép, lừa dối
để giao kết thì hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu.
Bên cạnh đó, trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng các bên phải
thể hiện rõ thái độ trung thực và ngay thẳng. Trung thực và ngay thẳng có nghĩa là
các phải nói rõ cho nhau biết về tình trạng và đặc tính của đối tượng, không được
lừa dối nhau, nếu che dấu khuyết tật của đối tượng hợp đồng nhằm mục đích tư lợi
mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường.
Ngoài ra, các bên phải có tinh thần hợp tác lẫn nhau. Trong quá trình thực
hiện hợp đồng, các bên tương trợ, giúp đỡ và thông tin cho nhau để đáp ứng nhu
cầu và bảo đảm lợi ích cho các bên. Theo nguyên tắc này, các bên phải luôn quan
tâm đến nhau, tạo điều kiện giúp nhau khắc phục khó khăn trong quá trình thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng. Hơn nữa, nguyên tắc này đòi hỏi cả hai bên phải cùng
nhau tìm và thực hiện mọi biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế khi có thiệt hại
xảy ra. Nếu bên nào có điều kiện mà không thực hiện các biện pháp ngăn chặn sẽ bị
coi là có lỗi và phải gánh chịu thiệt hại.
1.2.Luật thương mại 2005 qui định các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương
mại từ Điều 10 đến Điều 15
a.Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các bên khi tham gia giao kết hợp
đồng (Điều 10)

SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
9
Chuyên đề thực tập
Quyền bình đẳng thể hiện ở chỗ mọi cá nhân, pháp nhân, tổ chức đều được
hoạt động thương mại trong khuôn khổ pháp lý chung và được Nhà nước bảo
hộ, không có sự phân biệt đối xử giữa các chủ thể khác nhau.
b.Nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
(Điều 11)
Trong quá trình giao kết hợp đồng các bên cần hoàn toàn tự nguyện, không
bên nào thực hiện hành vi áp đặt cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Nguyên tắc
này được tuân thủ theo tinh thần chung của BLDS.
Các cá nhân, cơ quan, tổ chức được tự do lựa chọn đối tác, hình thức, xác
lập quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như việc tự thoả thuận cơ quan có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp phát sinh. Việc thoả thuận này luôn được pháp luật bảo
đảm nếu nó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội.
c.Nguyên tắc áp dụng thói quen trong thương mại(Điều 12)
Thói quen là qui tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành được hình
thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên, được các bên
thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch.
Các bên được mặc nhiên áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại
được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng không trái
với qui định của pháp luật, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
d.Nguyên tắc áp dụng tập quán trong thương mại (Điều 13)
Các bên trong hợp đồng có quyền áp dụng tập quán thương mại nếu tập
quán đó không trái với các nguyên tắc của Luật thương mại và Bộ luật dân sự 2005.
Việc áp dụng tập quán thương mại có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động
thương mại, đặc biệt trường hợp các bên trong giao dịch hợp đồng không có thoả
thuận hoặc thoả thuận không đầy đủ các điều khoản cụ thể của hợp đồng, pháp luật
không có qui định và giữa các bên không có thói quen đã được thiết lập.

e.Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng (Điều 14)
Nguyên tắc này quy định rằng khi thương nhân thực hiện hoạt động thương
mại có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho người tiêu dùng về hàng hoá và
dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các
thông tin đó đồng thời thương nhân thực hiện hoạt động thương mại phải chịu trách
nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh.
Như vậy nguyên tắc này nhằm nâng cao nghĩa vụ, trách nhiệm và tính trung thực,
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
10
Chuyên đề thực tập
ngay thẳng của người bán trong hoạt động kinh doanh; bảo vệ quyền lợi chính đáng
của người tiêu dùng; làm trong sáng môi trường kinh doanh.
f.Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu (Điều 15)
Theo khoản 5 điều 3 Luật thương mại 2005 thì thông điệp dữ liệu là thông
tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử. Các thông điệp dữ
liệu được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương như một văn bản nếu đáp ứng
được các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo qui định của pháp luật. Như vậy
nguyên tắc này có ý nghĩa pháp lý quan trọng trong việc thiết lập các qui định về
hình thức của hợp đồng thương mại, đáp ứng yêu cầu thực tiễn về các giao dịch
thương mại.
2.Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hoá được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là
thương nhân, ngoài ra nó còn được thiết lập giữa thương nhân và các tổ chức, cá
nhân không phải là thương nhân. Ta có thể phân chủ thể tham gia hợp đồng mua
bán hàng hoá thành các loại sau:
2.1.Chủ thể là thương nhân
Theo Điều 1 khoản 6 Luật thương mại 2005 thì “Thương nhân bao gồm tổ
chức, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh”. Thương nhân gồm có thương nhân Việt Nam và thương nhân nước

ngoài. Theo Điều 16 khoản 1 Luật thương mại 2005 “Thương nhân nước ngoài là
thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nước
ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận”. Thương nhân có quyền hoạt
động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo
các phương thức mà pháp luật không cấm. Thương nhân có thể là cá nhân, pháp
nhân hoặc chủ thể khác.
a.Thương nhân là cá nhân
Hợp đồng mua bán hàng hoá được thiết lập chủ yếu giữa các chủ thể là
thương nhân. Thương nhân là cá nhân sẽ bao gồm: Cá nhân kinh doanh; doanh
nghiệp tư nhân. Trong quá trình tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, các
cá nhân tự mình tham gia vào hoạt động này do đó họ sẽ phải chịu mọi trách nhiệm
về hành vi thương mại của mình, vì vậy những người dưới đây không được công
nhận là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá :
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
11
Chuyên đề thực tập
- Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Pháp luật qui định những
người này không được công nhận là chủ thể hợp pháp của hợp đồng mua bán hàng
hoá vì họ không đủ khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình để tham
gia vào những giao dịch thương mại.
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang phải chấp hành
hình phạt tù.
- Người đang trong thời gian bị toà án tước quyền hành nghề vì các tội buôn
lậu, đầu cơ, buôn bán hàng cấm, làm hàng giả, buôn bán hàng hoá, kinh doanh trái
phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội theo qui định của pháp luật.
b.Thương nhân là tổ chức
Không phải tất cả những tổ chức là pháp nhân đều có thể trở thành thương
nhân mà chỉ có những pháp nhân nào là tổ chức kinh tế được thành lập để hoạt

động thương mại mới trở thành thương nhân. Có thể hiểu tổ chức kinh tế trước hết
phải là tổ chức có tư cách pháp nhân trong quá trình hoạt động thương mại và hoạt
động một cách thường xuyên và độc lập. Theo Điều 84_ Bộ luật dân sự 2005 thì
một tổ chức kinh tế được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: Được
thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ
chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia vào
quan hệ pháp luật một cách độc lập. Do đó, các thương nhân là tổ chức có thể là
công ty cổ phần; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty hợp danh; doanh nghiệp nhà
nước; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức kinh tế khác có đủ
điều kiện theo qui định của pháp luật.
2.2.Chủ thể không phải là thương nhân
Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương
nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá khi họ giao kết
với thương nhân. Nghĩa là một bên của hợp đồng là cá nhân tổ chức hoạt động
thương mại độc lập thường xuyên còn bên kia là các chủ thể không cần các điều
kiện nói trên. Khác với bên là thương nhân, bên không phải là thương nhân có thể
là mọi chủ thể có đủ năng lực hành vi để tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hoá theo qui định của pháp luật. Đó có thể là cá nhân, cơ quan, tổ
chức có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, cũng có thể là hộ gia
đình, tổ hợp tác và không hoạt động thương mại thường xuyên như một nghề. Và
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
12
Chuyên đề thực tập
hoạt động của bên chủ thể này phải tuân theo Luật thương mại khi chủ thể này lựa
chọn áp dụng luật thương mại (Điều 1 khoản 3_ Luật thương mại 2005).
3.Nội dung và hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa
3.1.Nội dung của hợp đồng
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá là tất cả các điều khoản do hai
bên thoả thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng

theo qui định của pháp luật. Bởi vì trong Luật thương mại 2005 không có điều
khoản nào qui định về nội dung bắt buộc cần có trong hợp đồng mua bán hàng hoá
nên ta xem xét theo Điều 402 Bộ luật Dân sự 2005 quy định, tuỳ theo từng loại hợp
đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây:
a.Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá
Hợp đồng mua bán sẽ không thể hình thành được nếu thiếu điều khoản về
đối tượng của hợp đồng. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá được xác định
thông qua tên gọi của hàng hoá. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên có thể
ghi rõ tên hàng bằng tên thông thường, tên thương mại, tên khoa học… để tránh có
sự sai lệch về đối tượng của hợp đồng.
b.Số lượng, chất lượng hàng hóa
Điều khoản về số lượng hàng hoá xác định về mặt lượng đối với đối tượng
của hợp đồng. Việc giao đúng số lượng là nghĩa vụ của bên bán. Do vậy nếu bên
bán không giao đúng số lượng thì bên mua có quyền áp dụng các biện pháp bảo
đảm để hợp đồng có thể được thực hiện.
Điều khoản về chất lượng hàng hoá xác định chất lượng đối với đối tượng
của hợp đồng. Chất lượng của hàng hoá giúp xác định chính xác đối tượng của hợp
đồng, như tác dụng, công suất hiệu quả, qui cách, tính năng, kích thước…
c.Giá, phương thức thanh toán
Giá cả được các bên thoả thuận và ghi rõ trong hợp đồng. Nếu không ghi cụ
thể giá thì phải xác định rõ phương thức xác định giá để bên mua thuận lợi trong
việc thanh toán.
Phương thức thanh toán là cách thức mà bên mua và bên bán thoả thuận,
theo đó bên mua phải thanh toán cho bên bán tiền hàng đã mua theo một phương
thức nhất định.
d.Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
13
Chuyên đề thực tập

Thời hạn thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian mà bên bán phải hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng cho bên mua theo đúng đối tượng, đúng địa điểm đã thoả
thuận trong hợp đồng.
Địa điểm giao hàng là nơi các bên tiến hành giao nhận hàng hoá.
e.Quyền, nghĩa vụ của các bên
Do hợp đồng mua bán hàng hoá là hợp đồng song vụ nên quyền và nghĩa
vụ của các bên là tương ứng với nhau, thường được các bên thoả thuận phù hợp với
nguyên tắc của Luật thương mại 2005 và Bộ luật dân sự 2005. Theo đó, bên bán có
các nghĩa vụ chính là : Đảm bảo quyền sở hữu hàng hoá, giao hàng đúng thời hạn,
giao hàng đúng địa điểm, kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng, giao hàng đúng
đối tượng, số lượng và chất lượng, giao hàng kèm theo chứng từ (nếu có), bảo hành
hàng hoá (nếu có). Các nghĩa vụ này tương ứng với quyền cơ bản của bên mua.
Nghĩa vụ cơ bản của bên mua là : Nhận hàng, thanh toán tiền hàng, tương ứng với
quyền cơ bản của bên bán.
f.Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
Là các biện pháp chế tài mà cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc
bên bị vi phạm áp dụng đối với bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng
hoá bao gồm : Buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt
hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng; huỷ bỏ hợp đồng;
các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và tập quán
thương mại quốc tế.
g.Phạt vi phạm hợp đồng
Điều khoản này thỏa thuận về vấn đề bên mua và bên bán có những quyền
và nghĩa vụ gì khi có sự vi phạm hợp đồng; trong trường hợp đó thì mức phạt và
bồi thường hợp đồng sẽ thực hiện như thế nào; khi xảy ra tranh chấp thì sẽ được
giải quyết ở đâu.
h.Các nội dung khác
Các điều khoản khác thường là các điều khoản về bảo đảm thực hiện hợp
đồng, các cam kết thực hiện hợp đồng.

Việc đưa vào trong hợp đồng các điều khoản này là rất cần thiết. Nó sẽ giúp
cho việc giao kết và thực hiện nhanh chóng, hiệu quả và hạn chế được tranh chấp
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
14
Chuyên đề thực tập
xảy ra vì hợp đồng là cơ sở cho các bên căn cứ vào đó để thực hiện và nó cũng là
công cụ pháp lý để các bên dẫn chiếu nếu có tranh chấp xảy ra.
Tuy nhiên, pháp luật không bắt buộc phải có nội dung chủ yếu của hợp đồng
mà chỉ quy định những điều khoản này để cho các bên tham khảo và thỏa thuận đưa
vào trong hợp đồng. Quy định này nhằm tôn trọng ý chí, sự tự nguyện của đôi bên
trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng.
3.2. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hình thức của hợp đồng mua bán là căn cứ để xác định người bán và người
mua đã tham gia vào hợp đồng mua bán, từ đó xác định quyền và nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng; xác định trách nhiệm dân sự của bên vi phạm. Theo điều 24
của Luật Thương mại thì hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng
lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
a.Hình thức bằng lời nói
Đây là hình thức theo đó các bên giao kết hợp đồng chỉ thỏa thuận với nhau
bằng lời nói về nội dung cơ bản của hợp đồng. Hình thức này có thuận lợi ở điểm là
việc giao kết hợp đồng nhanh chóng. Tuy nhiên nó lại có điểm bất lợi là khi xảy ra
tranh chấp thì các bên sẽ khó khăn trong việc tìm chứng cứ thể hiện những thỏa
thuận trong hợp đồng với nhau. Do đó, hình thức này thường được áp dụng trong
trường hợp các bên có sự tin tưởng lẫn nhau, hợp đồng được thực hiện và chấm dứt
ngay sau đó hoặc giá trị hợp đồng không lớn.
b.Hình thức bằng văn bản
Trong văn bản này các bên ghi đầy đủ nội dung cơ bản của hợp đồng và sau
khi được soạn thảo thì các bên cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Khi xảy ra tranh
chấp, hình thức hợp đồng bằng văn bản sẽ tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn

so với hình thức lời nói. Do đó, hình thức văn bản thường được sử dụng rộng rãi
hơn.
c.Hình thức giao kết bằng hành vi cụ thể
Hình thức giao kết bằng hành vi cụ thể là hình thức mà các bên thể hiện sự
thỏa thuận của mình bằng việc thực hiện một hành vi cụ thể theo qui ước định
trước. Đó là việc bên bán giao hàng, bên mua thanh toán mà không cần một văn
bản nào hay một thỏa thuận bằng miệng nào. Đây là hình thức đơn giản nhất trong
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
15
Chuyên đề thực tập
giao dịch hợp đồng. Hợp đồng có thể được xác lập thông qua hình thức này mà
không nhất thiết phải có sự hiện diện đồng thời của tất cả các bên tại nơi giao kết.
4.Phương thức và trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
4.1.Phương thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được giao kết bằng phương thức trực
tiếp hoặc phương thức gián tiếp.
a.Phương thức giao kết trực tiếp
Phương thức giao kết này được thực hiện như sau: các bên trực tiếp gặp
nhau, cùng bàn bạc, thương lượng để đi đến thống nhất về nội dung của hợp đồng
và cùng ký tên vào văn bản của hợp đồng (nếu hình thức hợp đồng là văn bản).
b.Phương thức giao kết gián tiếp
Theo phương thức này thì các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc, thảo
luận mà trao đổi với nhau thông qua các tài liệu giao dịch như: công văn, điện báo,
đơn đặt hàng, fax, thông điệp dữ liệu điện tử khác…trong đó ghi rõ nội dung công
việc cần giao dịch.
4.2. Trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá
a. Đề nghị giao kết hợp đồng
Trong hợp đồng mua bán hàng hoá, đề nghị giao kết hợp đồng chính là
chào hàng. Điều 390 quy định “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định

giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên
đã được xác định cụ thể”. Như vậy, một đề nghị giao kết hợp đồng là văn bản có
nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá, được chuyển cho một hoặc
nhiều nguời nhất định, có giá trị trong một thời gian nhất định. Những nội dung của
đề nghị giao kết hợp đồng gồm đối tượng, giá cả, phương thức thanh toán…và phải
rõ ràng để bên được đề nghị giao kết hợp đồng có thể hiểu được mong muốn giao
kết hợp đồng của bên đề nghị giao kết hợp đồng. Khi đó bên đề nghị giao kết hợp
đồng phải chịu sự ràng buộc bởi những nội dung đã đề nghị và không được thay đổi
nội dung đó nếu bên được đề nghị đã đồng ý. Như vậy, trách nhiệm của bên đề nghị
bắt đầu từ thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng được chuyển đi cho bên được đề
nghị đến hết thời hạn ghi trong đề nghị giao kết hợp đồng.
b. Chấp nhận giao kết hợp đồng
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
16
Chuyên đề thực tập
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị
chuyển cho bên đề nghị về việc chấp thuận tất cả các nội dung đã nêu trong đề nghị
giao kết hợp đồng. Như vậy, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chỉ có giá trị khi
đó là hành vi mang tính tích cực của đối tác trong giao dịch mua bán hàng hoá.
Trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được thông báo chấp nhận
đề nghị sau khi hết thời hạn chờ trả lời thì đó được coi như là đề nghị mới của bên
chậm trả lời. Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì
lý do khách quan, mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì
thông báo chấp nhận giao kết này vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả
lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị giao kết hợp đồng.
Trong trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng
có điều kiện sửa đổi, bổ sung một trong những nội dung của đề nghị thì hành vi đó
được coi là từ chối đề nghị và hình thành một đề nghị giao kết hợp đồng mới. Nội
dung của đề nghị giao kết hợp đồng được sửa đổi, bổ sung có thể là điều kiện về

giá, thanh toán, chất lượng, số lượng, địa điểm thời gian giao hàng…
c. Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Thời điểm giao kết hợp đồng mua bán được quy định khác nhau phụ thuộc
vào cách thức giao kết và hình thức của hợp đồng. Dựa theo quy định của Bộ luật
dân sự 2005, tại Điều 404, có thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa theo các trường hợp sau:
- Nếu hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản thì thời điểm giao kết
hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
- Hợp đồng giao kết gián tiếp bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng
là khi bên chào hàng nhận được trả lời chấp nhận chào hàng vô điều kiện.
- Nếu hợp đồng được giao kết bằng lời nói thì thời điểm giao kết hợp đồng
là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 404 Bộ luật dân sự 2005 còn quy định sự im lặng
của bên nhận chào hàng cho đến khi hết thời hạn trả lời cũng có thể được coi là căn
cứ xác định hợp đồng được giao kết nếu như có thỏa thuận im lặng là sự chấp nhận
giao kết hợp đồng.
III. Một số vấn đề pháp lý về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
1.Khái niệm thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Sau khi hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết và đáp ứng đầy đủ các
điều kiện pháp luật quy định thì hợp đồng phải được thực hiện và các điều khoản
của hợp đồng có hiệu lực bắt buộc đối với các bên.
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
17
Chuyên đề thực tập
Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá là việc bên bán và bên mua tiến hành
các nghĩa vụ mà mỗi bên tham gia hợp đồng phải thực hiện nhằm đáp ứng các
quyền tương ứng của bên kia theo như nội dung đã thỏa thuận cam kết trong hợp
đồng.
2.Nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá

2.1.Nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng
Ý nghĩa của nguyên tắc này là các bên phải thực hiện đầy đủ, đúng các
nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng về đối tượng, thời hạn, địa điểm, các phương
thức giao nhận và thanh toán . Nếu thực hiện không đúng, đủ làm ảnh hưởng đến
bên cùng cam kết thì phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Nguyên tắc này giúp nâng cao trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện những
nghĩa vụ đã cam kết. Do vậy, nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo hiệu
quả cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục, thông suốt nhất là
trong điều kiện kinh tế thị trường.
2.2.Nguyên tắc thực hiện hợp đồng một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và
có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau
Nguyên tắc này xuyên suốt quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng, cũng
như giải quyết những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Theo đó, các bên có nghĩa
vụ hợp tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi, giúp đỡ lẫn nhau để thực hiện đầy đủ
và nghiêm chỉnh các cam kết trong hợp đồng. Các bên có trách nhiệm cùng nhau
khắc phục tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng
như luôn thông tin cho nhau về tiến độ thực hiện , những khó khăn, vướng mắc
trong quá trình thực hiện. Và ngay cả khi giải quyết tranh chấp cũng phải bàn bạc
để có thể ngăn chặn và giảm bớt thiệt hại có thểxảy ra cho các bên, từ đó tìm ra
hướng giải quyết tối ưu nhất, có lợi nhất cho các bên.
2.3.Nguyên tắc thực hiện hợp đồng không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi
ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác
Các bên khi giao kết và thực hiện hợp đồng vì lợi ích riêng các bên nhưng
cũng phải hướng tới lợi ích của Nhà nước và lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội nói
chung. Chính vì thế, trật tự pháp luật sẽ luôn được củng cố và lợi ích của các bên
được bảo vệ và không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người khác.
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
18
Chuyên đề thực tập

Ngoài ra, đôi bên khi thực hiện hợp đồng không được xâm phạm lợi ích hợp
pháp của người khác tức là lợi ích hợp pháp của bên thứ ba. Nguyên tắc này thể
hiện ở chỗ bên bán có nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu tài sản của bên bán cho bên
mua là không bị người thứ ba tranh chấp.
3.Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng
Việc xác lập và thực hiện các hợp đồng trước hết là dựa vào sự tự giác của
các bên nhưng trong thực tế, không phải bất cứ ai khi tham gia giao dịch đều có
thiện chí trong việc thực hiện hợp đồng một cách nghiêm chỉnh. Do vậy trong hợp
đồng thường có điều khoản thỏa thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng để
đảm bảo độ tin cậy cho các bên đồng thời giúp các bên có trách nhiệm thực hiện
các nghĩa vụ của hợp đồng. Theo Điều 318 BLDS, các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự bao gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký
quỹ, bảo lãnh, tín chấp. Tuy nhiên, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, không áp
dụng biện pháp bảo đảm bằng ký cược hay biện pháp bảo đảm bằng tín chấp. Bởi vì
ký cược là biện pháp để bảo đảm trả lại tài sản thuê trong hợp đồng cho thuê tài
sản, còn tín chấp là biện pháp mà do Tổ chức chính trị xã hội đứng ra bảo đảm cho
hộ gia đình nghèo vay tiền tại Ngân hàng hoặc Tổ chức tín dụng.
3.1.Cầm cố tài sản
Theo quy định tại Điều 326 BLDS năm 2005 thì cầm cố tài sản là việc trao
động sản thuộc quyền sở hữu của mình cho phía bên kia trong quan hệ hợp đồng,
để giữ gìn làm tin và bảo đảm tài sản trong trường hợp vi phạm hợp đồng đã được
ký kết. Việc cầm cố phải được lập thành văn bản riêng, có xác nhận của cơ quan
công chứng hay cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trong trường hợp mà
không có cơ quan công chứng). Người thực hiện việc giữ vật bị cầm cố phải bảo
đảm giữ nguyên giá trị của vật đó, không được chuyển dịch sở hữu vật cầm cố cho
người khác trong thời gian văn bản cầm cố có hiệu lực.
3.2.Thế chấp tài sản
Thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
bảo đảm tài sản cho việc thực hiện hợp đồng đã ký kết.Tài sản có thể là động sản,
bất động sản hay giá trị tài sản khác. Hình thức thế chấp tài sản phải được lập thành

văn bản hay ghi trong hợp đồng chính, phải có xác nhận của cơ quan công chứng
hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn văn bản thế chấp
có hiệu lực người thế chấp tài sản có nghĩa vụ phải bảo đảm giữ nguyên giá trị của
tài sản thế chấp; không được chuyển dịch sở hữu hay tự động chuyển giao tài sản
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
19
Chuyên đề thực tập
đó cho người khác trong thời gian văn bản thế chấp đó có hiệu lực. Bên cạnh đó,
nếu bên nhận thế chấp giữ giấy tờ về tài sản thế chấp thì sẽ phải trả lại giấy tờ về tài
sản thế chấp đó cho bên thế chấp khi chấm dứt thế chấp.
3.3.Đặt cọc
Đặt cọc là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, được
định nghĩa tại Điều 358 BLDS năm 2005 ‘Ðặt cọc là việc một bên giao cho bên kia
một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài
sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân
sự”. Khi tiến hành đặt cọc thì phải lập thành văn bản ghi rõ các vấn đề như đối
tượng, giá trị bằng tiền hay tài sản đặt cọc, thời hạn đặt cọc trong văn bản. Trong
trường hợp, hợp đồng dân sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại
cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ
chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận
đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì
phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài
sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3.4.Ký quỹ
Theo khoản 1 Điều 360 BLDS thì ký quỹ cũng là một biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ đối với các bên, nó được thực hiện thông qua ngân hàng – nơi
nhận tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho một bên trong hợp đồng. Ngân
hàng sẽ được bên có quyền yêu cầu thanh toán hay bồi thường thiệt hại (sau khi đã
trừ đi chi phí dịch vụ ngân hàng) do bên có nghĩa vụ gây ra khi không thực hiện hay

thực hiện không đúng nghĩa vụ.
3.5.Bảo lãnh
Bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên
nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh),
nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ. Tài sản bảo lãnh phải ngang bằng hoặc lớn hơn giá trị phần nghĩa vụ
được cam kết thực hiện. Ngoài sự xác nhận của cơ quan công chứng nhà nước thì
phải có thêm sự chứng thực của cơ quan ngân hàng, nơi người bảo lãnh mở tài
khoản hay thực hiện các giao dịch khác chứng nhận về mức giá trị tài sản, hay về
khoản tiền có trong tài khoản đưa ra bảo lãnh mới chính thức công nhận có sự bảo
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
20
Chuyên đề thực tập
lãnh tài sản cho người có nghĩa vụ tài sản trong hợp đồng. Việc xử lý, hủy bỏ hay
chấm dứt việc bảo lãnh được quy định tại các Điều 369, 370 và 371 BLDS 2005.
4.Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng vô hiệu, biện pháp xử lý
4.1.Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Điều 405 BLDS quy định hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu
lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác. Như vậy, trong nhiều trường hợp thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
không trùng hợp với thời điểm giao kết hợp đồng.
Để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực thì phải có đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng được giao kết đảm bảo các nguyên tắc của hợp đồng
theo quy định của pháp luật. Hợp đồng được giao kết phải đảm bảo sự thỏa thuận
của các bên phù hợp với ý chí của họ, hướng đến những lợi ích chính đáng của các
bên đồng thời không xâm hại những lợi ích hợp pháp của các bên khác được pháp
luật bảo vệ.
Thứ hai, chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa phải có năng lực chủ
thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Ngoài ra, các bên tham gia ký kết còn

phải có thẩm quyền ký kết. Đại diện của các bên ký kết phải là đại diện hợp pháp.
Có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.
Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng không bị
cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Theo Điều 24 LTM năm 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời
nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mà pháp luật
quy định phải được thiết lập bằng văn bản thì phải. Khi không tuân thủ các điều
kiện trên thì hợp đồng mua bán hàng hóa bị vô hiệu.
4.2.Hợp đồng vô hiệu và biện pháp xử lý
Những hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu khi nó trái với quy định của pháp luật
hoặc không đủ những điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Hợp đồng bị vô hiệu theo
hai loại là hợp đồng vô hiệu toàn bộ, hợp đồng vô hiệu từng phần.
a.Hợp đồng vô hiệu toàn bộ
Một hợp đồng mua bán hàng hoá bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường
hợp sau : Khi vi phạm vào các điều cám của pháp luật, trái với đạo đức xã hội ; khi
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
21
Chuyên đề thực tập
hợp đồng được giao kết một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc
nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba; khi hình thức của hợp đồng không
tuân thủ theo các quy định bắt buộc của pháp luật.
b.Hợp đồng vô hiệu từng phần
Hợp đồng vô hiệu từng phần trong các trường hợp sau : Khi hợp đồng được
ký kết bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự; khi hợp đồng được ký kết do bị nhầm lẫn ; khi một
bên chủ thể tham gia xác lập hợp đồng do bị lừa dối, đe doạ ; khi người xác lập hợp
đồng đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập vào thời điểm không nhận thức

được hành vi của mình.
Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không
hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải
bồi thường.
5.Trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng
5.1. Khái niệm vi phạm hợp đồng
Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là hành vi mà các bên vi phạm những
điều quy định đã được thỏa thuận và những quy định pháp luật theo điều 320 của
Luật Thương mại năm 2005.
Chế định trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng có vai trò bảo đảm, củng cố kỷ
luật hợp đồng, phòng ngừa vi phạm pháp luật về hợp đồng, tăng cường ý thức trách
nhiệm của các bên trong việc thực hiện cam kết: Khi các bên tự nguyện giao kết
hợp đồng thì họ sẽ bị ràng buộc bởi chính những cam kết đó, ngay cả khi một bên
không có lợi ích phát sinh; những hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ hợp đồng đều bị đe dọa phải gánh chịu các biện pháp trách nhiệm
hợp đồng; việc áp dụng trách nhiệm hợp đồng với các chế tài như buộc thực hiện
hợp đồng, phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại… chính là những biện pháp bảo hộ
pháp lý đảm bảo , củng cố kỷ luật hợp đồng.
5.2.Căn cứ áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá
a.Có hành vi vi phạm hợp đồng
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
22
Chuyên đề thực tập
Hành vi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá là việc các chủ thể trong hợp
đồng thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán
hàng hoá nói riêng và qui định trong hợp đồng nói chung.
Trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên không chỉ phải thực

hiện nghĩa vụ thoả thuận trong hợp đồng, mà còn phải thực hiện những nghĩa vụ
theo qui định của pháp luật. Vì vậy khi xem xét có hành vi vi phạm hợp đồng hay
không, cần phải căn cứ vào hợp đồng và các qui định của pháp luật.
b.Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra
Thiệt hại thực tế là những thiệt hại có thể tính được thành tiền mà bên bị vi
phạm phải gánh chịu như hàng hoá mất mát, hư hỏng…Thiệt hại vật chất thực tế do
vi phạm hợp đồng mua bán gây ra là căn cứ bắt buộc phải có khi áp dụng chế tài
bồi thường thiệt hại.
c. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế
được xác định khihành vi vi phạm và thiệt hại thực tế có mối quan hệ nội tại tất
yếu; hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại và thiệt hại xảy ra là
kết quả tất yếu của hành vi vi phạm hợp đồng. Trên thực tế, một hành vi vi phạm
hợp đồng có thể gây ra nhiều khoản thiệt hại và một khoản thiệt hại cũng có thể
được sinh ra do nhiều hành vi vi phạm hợp đồng.
d. Có lỗi của bên vi phạm
Lỗi của bên vi phạm hợp đồng là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng đối
với tất cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Lỗi được hiểu là trạng thái
tâm lý và mức độ nhận thức của một người đối với hành vi của họ và hậu quả của
hành vi đó.
5.3. Các chế tài pháp lý áp dụng khi vi phạm hợp đồng
a. Buộc thực hiện hợp đồng
Buộc thực hiện hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực
hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và
bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Bên vi phạm có thể gia hạn một thời gian
hợp lý để bến vi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
b.Phạt vi phạm
Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền
phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp
miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 Luật Thương mại 2005 . Phạt vi phạm chỉ

SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
23
Chuyên đề thực tập
xảy ra nếu có thỏa thuận về vấn đề này trong hợp đồng. Mức phạt đối với vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận
trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm,
trừ trường hợp quy định tại Điều 266 Luật Thương mại 2005 là do kết quả giám
định sai.
c.Buộc bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành
vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm, nhằm khôi phục, bù đắp những lợi
ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp đồng mua bán. Nó chỉ được áp dụng nếu
có những căn cứ theo qui định tại Điều 303 Lụât thương mại 2005:Có hành vi vi
phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực
tiếp gây ra thiệt hại.
Về nguyên tắc, bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật
chất cho bên bị vi phạm; tuy nhiên các khoản thiệt hại đòi bồi thường phải nằm
trong phạm vi được pháp luật qui định.
d.Tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là chế tài được quy định tại Điều 308 LTM
2005 ‘tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm
ngừng thực hiện hợp đồng.
- Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Hậu quả pháp lý của việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng (Điều 309 LTM
2005) là việc bên vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và khi hợp đồng bị
tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng (Điều 310 LTM 2005) xét về bản chất,

đó là hành vi đơn phương chấm dứt quan hệ hợp đồng của một bên khi bên kia vi
phạm hợp đồng. Điều kiện để một bên có quyền áp dụng chế tài đình chỉ hợp đồng là
khi một bên đã vi phạm hợp đồng. Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng
bị chấm dứt hiệu lực từ thời điểm bên vi phạm nhận được thông báo đình chỉ của bên
bị vi phạm. Do vậy, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; bên đã
thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên bị vi phạm bồi thường thiệt hại.
Các bên trong quan hệ hợp đồng có quyền ký kết, quyền hủy bỏ hợp đồng
mà họ đã ký kết. Theo pháp luật quy định tại Điều 388 BLDS 2005 thì thỏa thuận
hủy bỏ hợp đồng cũng là hợp đồng. Đó là sự thỏa thuận của các bên về việc chấm
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
24
Chuyên đề thực tập
dứt quyền, nghĩa vụ. Như vậy, hủy bỏ hợp đồng đòi hỏi một phần của hợp đồng
cũng là quyền của bên bị vi phạm khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa
thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng hay một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp
đồng.
5.4. Các trường hợp miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
Khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa, có nhiều trường hợp không phải
chịu các hình thức chế tài mà pháp luật quy định. Đó là khi thuộc một trong các
trường hợp các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Theo Điều 294
LTM 2005, ngoài các trường hợp miễn trách mà các bên thỏa thuận trong hợp
đồng, bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán còn được miễn trách trong các
trường hợp sau: Khi xảy ra sự kiện bất khả kháng; Hành vi vi phạm của một bên
hoàn toàn do lỗi của bên kia; Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm
giao kết hợp đồng.
6. Giải quyết tranh chấp và hình thức xử lý
6.1.Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng
Khi xảy ra tranh chấp, phương thức đầu tiên mà các bên thường hay lựa

chọn nhất là thương lượng. Phương thức này thể hiện được bản chất của giao kết
hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên. Nó cũng là phương thức nhanh gọn và đảm
bảo lợi ích của các bên được hài hòa hơn. Thương lượng có thể được tiến hành độc
lập hoặc tiến hành cùng với quá trình tố tụng tại Trung tâm trọng tài hoặc Tòa án.
Đối với thương lượng độc lập: Nghĩa vụ của các bên phải tiến hành trong
quá trình thương lượng được quy định trong điều khoản về giải quyết tranh chấp.
Do đó các bên phải tiến hành như là một điều khoản trong hợp đồng. Kết quả
thương lượng được coi như một thỏa thuận mới về vấn đề tranh chấp, các bên phải
đảm bảo được sự tự nguyện trong thỏa thuận theo quy định của pháp luật. Tuy
nhiên đối với phương thức này thì kết quả thỏa thuận khó được thi hành trong thực
tế nên không có lợi cho bên thắng kiện.
Đối với thương lượng được tiến hành theo thủ tục trọng tài hoặc Tòa án thì
theo yêu cầu của các bên, trọng tài viên, thẩm phán có thể ra văn bản công nhận kết
quả thỏa thuận của các bên sau quá trình thương lượng. Văn bản này có giá trị như
một quyết định của Trọng tài hay Tòa án.
SV: Bùi Huyền Ngọc
Lớp: Luật Kinh doanh 48
25

×