Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Pháp luật về ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại điện Bình Sơn”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.12 KB, 64 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Mua bán hàng hóa là hoạt động đặc trưng cơ bản của kinh doanh thương
mại. Hợp đồng mua bán hàng hóa chính là cách thức để hoạt động này được
diễn ra, nó thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên chủ thể trong quan hệ mua
bán. Hợp đồng được đảm bảo thực hiện nhờ vào nhiều yếu tố như sự chấp hành
của các bên đối với các điều khoản đã thỏa thuận hay hợp đồng đó có vi phạm
lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội hay không. Pháp luật với vai trò
là khung định ra những nguyên tắc cơ bản cho mọi hoạt động trong xã hội, cũng
điều chỉnh những vấn đề liên quan đến hoạt động thiết yếu này.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây,
nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới WTO, pháp luật thương mại nước ta nói chung và pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa nói riêng đã có sự thay đổi, hoàn thiện đáng kể. Sự ra
đời của Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 là minh chứng cụ thể cho
sự tiến bộ đó. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ của
Việt Nam, thì một hành lang pháp lý vững chắc về các hoạt động kinh doanh
thương mại, trong đó có hợp đồng mua bán hàng hóa, sẽ tạo cho các doanh
nghiệp nước ta một lợi thế vững chắc ngay tại “sân nhà”, cũng như tiến ra thị
trường quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng của các chế định về hợp đồng
mua bán hàng hóa, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về ký kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty trách nhiệm hữu hạn
sản xuất và thương mại điện Bình Sơn” để làm báo cáo thực tập.
Em xin gửi lời cảm ơn tới đội ngũ cán bộ Công ty TNHH sản xuất và
thương mại điện Bình Sơn, đã giúp đỡ, ủng hộ nhiệt tình trong thời gian em thực
tập tại Công ty và TS. Nguyễn Vũ Hoàng, người dã tận tình hướng dẫn, giúp em
có thể hoàn thành bản báo cáo này.
Em xin chân thành cảm ơn.

1
CHƯƠNG I
PHÁP LUẬT VỀ HƠP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA


I/Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa:
1.Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa:
1.1. Khái niệm:
Mua bán hàng hóa, theo Khoản 8 Điều 3 Luật thương mại 2005, được
định nghĩa là: “hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng,
chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán, bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa
thuận”. Đối tượng hàng hóa là tất cả các loại động sản, bao gồm cả động sản
hình thành trong tương lai, các vật, tài sản gắn liền với đất đai ( theo khoản 2
Điều 3 Luật thương mại).
Hợp đồng mua bán hàng hóa là cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hóa,
nhờ có hợp đồng mua bán hàng hóa mà quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập
và thực hiện.
Luật thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán
hàng hóa, tuy nhiên có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hóa trước hết là một
hợp đồng dân sự, do đó nó mang đầy đủ bản chất của hợp đồng dân sự, là sự
thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự ( Điều 388 Bộ luật dân sự 2005). Hợp đồng mua bán hàng hóa là một
dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản được định nghĩa theo Điều 428 Bộ
luật Dân sự 2005: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên
theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản cho bên
mua và nhận tiền bán hàng, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản mua và trả
tiền cho bên bán theo thời hạn, số lượng và phương thức các bên dã thỏa thuận”.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa:
2
1.2.1 Chủ thể:
Chủ thể chính của hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân, bao gồm
“các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại
một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” ( Điều 6 của Luật
thương mại 2005). Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, chủ thể của

hợp đồng mua bán tài sản còn là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, do
đó chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là cá nhân, pháp nhân, hộ gia
đình và tổ hợp tác.
1.2.2. Hình thức:
Hợp đồng mua bán có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói, bằng văn
bản hoặc hành vi cụ thể của các bên giao kết.
Điều 24 Luật thương mại 2005 quy định: “ Hợp đồng mua bán hàng hóa
được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
Đối với các loại hợp đồng mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản
thì phải tuân theo các quy định đó ”. Theo đó, các bên tham gia hợp đồng có thể
tự do lựa chọn hình thức hợp đồng phù hợp để thể hiện sự thỏa thuận mua bán
hàng hóa giữa các bên, trừ những trường hợp mà pháp luật quy định hợp đồng
phải được lập thành văn bản thì hợp đồng phải được thiết lập bằng hình thức văn
bản.
1.2.3. Đối tượng:
Theo khoản 2 Điều 3 Luật thương mại thì đối tượng của hợp đồng mua
bán hàng hóa là tất cả các loại động sản, bao gồm cả động sản hình thành trong
tương lai, các vật, tài sản gắn liền với đất đai. Còn theo Bộ luật dân sự thì đối
tượng của hợp đồng mua bán tài sản là các loại tài sản được phép giao dịch và
các loại quyền tài sản
Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định, hàng hóa là đối tượng mua bán phải
không thuộc danh mục hàng hóa cấm kinh doanh theo quy định của Nhà nước
(Nghị định 59/2006/NĐ- CP ngày 12/06/2006). Nếu hàng hóa đó thuộc danh
mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì phải tuân theo đầy đủ
các quy định của pháp luật về mua bán các loại hàng đó. Hàng hóa là đối tượng
3
của hợp đồng mua bán hàng hóa còn phải tuân theo các quy định về nhãn hàng
hóa (Nghị định số 89/2006/NĐ-CP) và về xuất xứ (Nghị định số 19/2006/NĐ-
CP)
1.2.4. Nội dung:

Hợp đồng mua bán hàng hóa thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa. Nội dung của hợp đồng mua bán
hàng hóa là các điều khoản do các bên tự thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ hợp đồng.
2. Các chế định về hợp đồng mua bán hàng hóa qua các thời kỳ:
Hiện nay chế định hợp đồng đã được thể hiện và quy định rõ ràng trong Bộ
luật dân sự năm 2005. Trên thế giới, chế định hợp đồng đã có từ lâu, như ở châu
Âu, chế định hợp đồng đã có từ thời Cổ đại La mã vào những thế kỷ IV– V
trước Công nguyên, người La mã đã xây dựng được hệ thống thuật ngữ về phạm
trù pháp lý về bản chất của hợp đồng như là hợp đồng miệng, hợp đồng viết, sự
thể hiện ý chí trong giao dịch dân sự, giao dịch theo lương tâm, giao dịch theo
pháp luật; chế định hợp đồng đã bắt nguồn từ Luật La mã và được du nhập vào
Tây Âu từ thế kỷ XII – XIII và phát triển đến các quốc gia Pháp, Đức, Hà Lan;
và đến thế kỷ XVIII, XIX, XX với bề dày lịch sử cả ngàn năm, ngành khoa học
pháp lý, với sự phát triển kinh tế xã hội ngày càng được thiết kế hoàn chỉnh; và
quan hệ hợp đồng đã được pháp điển hoá ở các nước châu Âu khi xây dựng Bộ
luật Dân sự; và cũng từ đó cho đến nay vị trí, vai trò của chế định hợp đồng
ngày càng phát triển trong Bộ luật Dân sự của mỗi nước để điều chỉnh các quan
hệ xã hội; còn ở Việt Nam cho đến thế kỷ XIX vẫn chưa hình thành ở các triều
đại phong kiến, do còn hạn chế về điều kiện kinh tế, cũng như pháp luật dân sự
chưa được quan tâm của triều đại phong kiến lúc bấy giờ; ngay như Bộ Luật
Hồng Đức và Bộ Luật Gia Long cũng chưa có khái niệm nào về hợp đồng.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dưới sự bảo hộ của Pháp chế định khế ước
hay hợp đồng mới bắt đầu ghi nhận trong các văn bản pháp luật chính thức như
ở Nam kỳ có Bộ Dân luật giản yếu năm 1883; Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và
4
Bộ Luật Trung Kỳ năm 1936 do người Pháp khai thác thuộc địa và ban hành
những đạo luật phần lớn có lợi phục vụ cho nước Pháp; nhưng cũng từ đây cơ
cấu xã hội Việt Nam được biến đổi về các lãnh vực kinh tế, trong đó lãnh vực
pháp luật về dân sự được hình thành vào đầu thế kỷ XX; như vậy từ đầu thế kỷ

XX chế định hợp đồng hay khế ước được xuất hiện ở Việt Nam do 3 Bộ Luật
Dân sự điều chỉnh gồm có:
- Bộ Dân luật giản yếu áp dụng tại xứ Nam kỳ, nhưng trong bộ luật này chỉ nói
về nhân thân (nói về người) không có điều khoản nào qui định về chế định hợp
đồng hay khế ước, khi giải quyết các vụ án liên quan đến hợp đồng hay khế ước,
các Toà Nam án thường áp dụng các điều khoản của Dân luật của Pháp như lý
trí thành văn (raison écrite) liên quan đến hợp đồng nghĩa vụ và trách nhiệm dân
sự; các Toà án Pháp ở Nam Việt còn áp dụng các điều khoản Dân luật Bắc kỳ,
Dân luật Trung kỳ, có khi còn áp dụng cả Luật Hồng Đức và Luật Gia Long, nếu
liên quan đến thừa kế và tập tục cổ truyền của Việt Nam...
- Bộ Dân Luật Bắc kỳ gồm có 1.455 điều, chia làm một thiên sơ bộ và 4 quyển,
quyển thứ ba nói về khế ước và nghĩa vụ; và phạm vi áp dụng ớ các Toà án Bắc
phần mà thôi.
- Bộ Dân Luật Trung kỳ còn được gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật được
ban hành ngày 13/07/1936 gồm có 1.709 điều, thì có 57 điều nói về khế ước –
hợp đồng (từ điều 1216 – 1273); sở dĩ Dân luật Trung kỳ hơn Dân luật Bắc kỳ
254 điều, vì vấn đề khế ước – hợp đồng theo Dân luật của Pháp qui định kỹ hơn
Dân luật Bắc.
Sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, ngày
10/10/1945 Chủ tịch Chính Phủ lâm thời Hồ Chí Minh ban hành sắc luật số 47
cho phép áp dụng luật lệ hiện hành của chế độ cũ ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam,
nếu những luật lệ ấy không trái với nền độc lập của Việt Nam và chính thể dân
chủ cộng hoà, thì các quan hệ hợp đồng vẫn được điều chỉnh căn cứ vào các Bộ
Dân luật giản yếu Nam kỳ, Bộ dân Luật Trung Kỳ; và đến ngày 10/07/1959 theo
chỉ thị số 172-CT/TATC của Toà án nhân dân tối cáo đình chỉ áp dụng luật lệ
của đế quốc và phong kiến, chế định hợp đồng trong Bộ Dân luật bắc kỳ được
5
chấm dứt vào trung tuần tháng 7 năm 1959; năm 1960 ban hành Điều lệ tạm thời
về hợp đồng kinh tế; và Nghị định số 54/CP ngày 10/03/1975 của Chính phủ ban
hành điều lệ về chế độ hợp đồng.

Đến năm 1986 do điều kiện đổi mới kinh tế đất nước, và điều chỉnh nền
kinh tế thị trường có điều tiết; các văn bản pháp luật được ra đời để điều chỉnh
các quan hệ hợp đồng kinh tế và quan hệ hợp đồng dân sự, trong đó có Pháp
lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, và Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 để
điều chỉnh các quan hệ kinh tế, dân sự trong đời sống xã hội ngày càng phát
triển; cho đến khi có Hiến pháp năm 1992 được xác định mục tiêu xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; trong quá trình thực hiện
chính sách đổi mới được mở rộng có tầm xa hơn, từ đó chế định hợp đồng điều
chỉnh các quan hệ xã hội được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự
thoả thuận và tự chịu trách nhiệm giữa các chủ thể với nhau, kết quả là Bộ luật
Dân sự đầu tiên do Quốc Hội khoá IX kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28/10/1995,
có hiệu lực thi hành từ 01/07/1996, và các chế định hợp đồng được Bộ luật dân
sự công nhận.
Tuy vậy, mặc dù chế định hợp đồng được Bộ luật dân sự 1995 qui định,
vẫn chưa chấm dứt Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, nên vẫn còn hai chế
định hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương mại vẫn tồn tại, khiến cho các qui
định hợp đồng của Bộ luật Dân sự 1995 chưa được phát huy đúng mức của Bộ
luật Dân sự; các thẩm phán vẫn vận dụng giải quyết tranh chấp hợp đồng về
kinh tế, thương mại, ít khi các thẩm phán áp dụng các qui định trong Bộ luật dân
sự năm 1995, khác với các nước trên thế giới theo truyền thống Civil Law, mà
vai trò của Bộ luật Dân sự là nền tảng trong các quan hệ dân sự được chấp nhận.
Bộ luật Dân sự 2005 mới đã thể hiện được toàn diện về xã hội và địa vị
pháp lý được bình đẳng, chế định hợp đồng được thống nhất trên mọi lãnh vực
kinh tế và thương mại kể từ đây, không còn lẫn lộn như trước đây giữa hợp đồng
thương mại, hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự quy định trong Bộ luật dân sự
năm 1995.
6
II/Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng:
Theo Điều 389 Bộ luật dân sự, việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo

các nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội:
Nhà nước tạo điều kiện để các cá nhân có thể xác lập quan hệ với nhau theo
ý muốn chủ quan của mình bằng nhiều hình thức rất đa dạng, đồng thời trao cho
họ cơ hội sử dụng quyền tự do trong việc thực hiện những gì mà pháp luật
không cấm, nếu việc tự do đó không xâm hại đến quyền tự do của người khác.
Do đó, mỗi công dân đều được bảo đảm các quyền về sở hữu tài sản, về tự do tín
ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do đi lại cư trú, tự do tham gia vào đời sống công
cộng, quản lý xã hội, tự do kinh doanh và đương nhiên được bảo đảm tự do hợp
đồng.
Nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của hợp đồng.
Tự do ý chí có nghĩa là các bên chủ thể tự do lựa chọn hình thức thể hiện ý chí
thích hợp. Tuy nhiên, sự tự do thỏa thuận này không được trái với pháp luật, đạo
đức xã hội mà phải phù hợp với những gì mà pháp luật quy định, bảo vệ.
- Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng:
Theo nguyên tắc này các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng,
bảo đảm nội dung của quan hệ đó thể hiện được sự tương ứng về quyền, nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp cho các bên. Các bên khi tiến hành giao kết phải dựa trên
nguyên tắc tự nguyện, không được đe dọa, cưỡng ép bên kia giao kết hợp đồng
với mình mà không theo ý chí của họ. Sự bình đẳng trong nguyên tắc này là việc
các bên trong quan hệ hợp đồng bình đẳng về mặt pháp lý, bình đẳng trước pháp
luật.
2. Nội dung của hợp đồng:
7
Đó là những điều khoản mà các bên đã thỏa thuận sau khi đã thương lượng,
bàn bạc và nhất trí tiến tới việc giao kết hợp đồng. Điều 402 BLDS 2005 quy
định những điều khoản mà các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng : “ Tuỳ
theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây:
1. Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc

không được làm;
2. Số lượng, chất lượng;
3. Giá, phương thức thanh toán;
4. Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
5. Quyền, nghĩa vụ của các bên;
6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
7. Phạt vi phạm hợp đồng;
8. Các nội dung khác”.
Như vậy, Luật không bắt buộc phải có nội dung chủ yếu của hợp đồng mà
chỉ quy định những điều khoản này để cho các bên tham khảo và thỏa thuận đưa
vào trong hợp đồng.
3. Giao kết hợp đồng:
3.1. Phương thức giao kết:
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được giao kết bằng phương thức trực
tiếp hoặc phương thức gián tiếp.
Phương thức giao kết trực tiếp: phương thức này được thực hiện như sau:
các bên trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng để đi đến thống nhất về
nội dung của hợp đồng và cùng ký tên vào văn bản của hợp đồng (nếu hình thức
hợp đồng là văn bản). Hợp đồng được xác lập và phát sinh hiệu lực pháp lý kể từ
thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng.
Phương thức giao kết gián tiếp: các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn
bạc, thảo luận mà trao đổi với nhau thông qua các tài liệu giao dịch như: công
văn, điện báo, đơn đặt hàng, thông điệp dữ liệu điện tử khác…trong đó ghi rõ
nội dung công việc cần giao dịch.
3.2. Đề nghị giao kết hợp đồng:
8
Luật thương mại không quy định về các thủ tục giao kết hợp đồng, mà sẽ áp
dụng các quy định của Bộ luật dân sự
Đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, quy định tại khoản 1 Điều 390
Bộ luật dân sự, là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng mua bán và chịu sự

ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể
Đề nghị giao kết hợp đồng hay chào hàng, có bản chất là hành vi pháp lý đơn
phương của một chủ thể bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể khác theo
những điều kiện xác định. Khi đã đưa ra chào hàng với một bên xác định cụ thể
thì bên chào hàng phải chịu sự ràng buộc về đề nghị này, một khi đã dưa ra đề
nghị chào hàng thì bên đề nghị không được rút lại, trừ những trường hợp được
quy định tại Điều 392 Bộ luật dân sự như sau:
- Nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề
nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị;
- Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề
nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại khi điều kiện đó phát sinh
Hiệu lực của đề nghị thông thường do bên đề nghị ấn định. Nếu bên đề nghị
không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề
nghị nhận được đề nghị đó. Điều 391 Bộ luật dân sự quy định các trường hợp
sau đây được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng:
- Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được
chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân;
- Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị;
- Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các
phương thức khác.
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau:
- Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận;
- Hết thời hạn trả lời chấp nhận;
- Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực;
- Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực;
9
- Theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trong thời hạn
chờ bên được đề nghị trả lời
3.3. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận chào hàng là sự trả lời của bên nhận chào hàng với bên chào

hàng về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của chào hàng. Trường hợp bên nhận
chào hàng sửa đổi, bổ sung nội dung chủ yếu của chào hàng thì coi như đó là từ
chối chào hàng và hình thành chào hàng mới và khi đó chào hàng chỉ được coi là
được chấp nhận nếu người nhận chào hàng (người chào hàng lúc đầu) chấp nhận
toàn bộ mọi sửa đổi, bổ sung do người chào hàng (người nhận chào hàng lúc
đầu) đưa ra.
Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được quy định tại Điều 397 Bộ
luật dân sự như sau:
- Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó. Nếu bên đề nghị giao kết hợp
đồng nhận được trả lời chấp nhận sau thời hạn đó thì chấp nhận này được coi là
đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao
kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết
về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu
lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của
bên được đề nghị.
- Khi các bên trực tiếp giao kết với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại
hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận
hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận về thời hạn trả lời
III/Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa:
1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng:
Sau khi hợp đồng được ký kết và có hiệu lực, các bên phải thực hiện
nghĩa vụ đã cam kết phát sinh từ hợp đồng. Khi thực hiện hợp đồng các bên phải
tuân theo nguyên tắc sau (quy định tại Điều 412 Bộ luật dân sự 2005):
- Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng
loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác;
10
- Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các
bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau;
- Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền,

lợi ích hợp pháp của người khác.
2. Các biện pháp đảm bảo thực hiện
Bộ luật dân sự có quy định 7 biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân
sự là cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp. Tuy nhiên,
đối với hợp đồng mua bán hàng hóa thì chỉ có 5 biện pháp đảm bảo thực hiện
hợp đồng là cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký quỹ, bảo lãnh bởi ký cược là hình thức
đảm bảo của hợp đồng thuê tài sản, còn tín chấp là biện pháp đảm bảo do Tổ
chức chính trị xã hội đứng ra thực hiện để cho hộ gia đình nghèo vay tiền tại
Ngân hàng hoặc Tổ chức tín dụng.
- Cầm cố: Được quy định từ Điều 326 đến Điều 341 Bộ luật dân sự, là
việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ dân sự. Việc cầm cố có thể được lập thành văn bản riêng
hoặc ghi vào trong hợp đồng chính. Người thực hiện việc giữ vật bị cầm cố phải
bảo đảm giữ nguyên giá trị của vật đó, không được chuyển dịch sở hữu vật cầm
cố cho người khác trong thời gian văn bản cầm cố có hiệu lực, nếu có thỏa thuận
thì bên nhận tài sản cầm cố có quyền khai thác, sử dụng tài sản cầm cố. Bên
nhận cầm cố tài sản được thanh toán chi phí hợp lý bảo quản tài sản khi trả lại
tài sản cho bên cầm cố.
Khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận thì tài sản cầm cố được xử lý theo
phương thức đã thỏa thuận hoặc bán đấu giá, bên nhận cầm cố được ưu tiên
thanh toán từ số tiền bán tài sản đó.
- Thế chấp: Được quy định từ Điều 342 đến Điều 357 Bộ luật dân sự, là
việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.
Thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản hay ghi trong hợp đồng chính, trong
11
trường hợp có quy định thì hợp đồng thế chấp phải được công chứng, chứng thực
hoặc đăng ký. Trong văn bản thế chấp phải ghi rõ tài sản thế chấp là tài sản nào,
giá trị của tài sản đó, tình trạng cũng như cách xử lý trong trường hợp nghĩa vụ

không được thực hiện. Trong thời hạn văn bản thế chấp có hiệu lực người thế
chấp tài sản có nghĩa vụ phải bảo đảm giữ nguyên giá trị của tài sản thế chấp;
không được chuyển dịch sở hữu hay tự động chuyển giao tài sản đó cho người
khác trong thời gian văn bản thế chấp đó có hiệu lực. Nếu bên nhận thế chấp giữ
giấy tờ về tài sản thế chấp thì sẽ phải trả lại giấy tờ về tài sản thế chấp đó cho bên
thế chấp khi chấm dứt thế chấp.
- Đặt cọc: Được định nghĩa tại Khoản 1 Điều 358 BLDS năm 2005, là
việc một bên trao cho bên kia một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc vật có
giá trị khác trong một thời hạn để đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân
sự. Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản. Khi hợp đồng được thực hiện thì
tài sản đặt cọc sẽ được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa
vụ trả tiền.
Nếu bên dặt cọc từ chối việc giao kết thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt
cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối giao kết, thực hiện
hợp đồng thì phải trả lại cho bên đặt cọc tài sản đã đặt cọc và một tiền tương ứng
với giá trị của tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Ký quỹ : Được quy định tại Điều 360 Bộ luật dân sự, là việc một bên có
nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá khác
vào tài khoản phong tỏa tại một ngân hàng để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ
dân sự. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ
thì ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán cho bên có quyền (sau khi trừ chi phí dịch
vụ ngân hàng).
- Bảo lãnh : Được quy định từ Điều 361 dến Điều 371 Bộ luật dân sự, là
việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
có nghĩa vụ nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ. Bảo lãnh phải được lập thành văn bản hay ghi
12
trong hợp đồng chính, trong trường hợp có quy định thì hợp đồng bảo lãnh phải
được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký.
Bên bảo lãnh có thể nhận bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho

bên được bảo lãnh, nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt,
tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa:
● Nghĩa vụ cơ bản của bên bán
- Nghĩa vụ giao hàng:
Giao hàng là nghĩa vụ cơ bản nhất của bên bán trong hợp đồng mua bán hàng
hóa. Việc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên bán đều có liên quan và nhằm
mục đích hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua. Theo quy định của
Luật thương mại thì bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp
đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định
khác trong hợp đồng. Trường hợp không có thỏa thuận cụ thể, bên bán có nghĩa
vụ giao hàng và chứng từ liên quan theo quy định của pháp luật.
+ Giao hàng đúng đối tượng và chất lượng
Bên bán phải thực hiện giao hàng đúng đối tượng và chất lượng theo thỏa
thuận và theo quy định của pháp luật. Trong giao nhận hàng hóa, vấn đề xác
định hàng hóa có phù hợp với hợp đồng hay không có ý nghĩa rất quan trọng. Để
xác định được điều đó cần phải căn cứ vào hợp đồng hoặc căn cứ vào những quy
định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 39 Luật thương mại, trường hợp căn
cứ vào hợp đồng không xác định được hàng hóa có phù hợp với hợp đồng hay
không thì hàng hóa được coi là không phù hợp với hợp đồng nếu thuộc các
trường hợp sau:
“ ▪ Không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các hàng hóa cùng
chủng loại;
▪ Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên
bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng;
▪ Không đảm bảo chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hóa mà bên bán
đã giao cho bên mua;
13
▪ Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường đối với loại
hàng hóa đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hóa trong

trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường”.
Khi hàng hóa được giao không phù hợp với hợp đồng, bên mua có quyền từ
chối nhận hàng. Trách nhiệm đối với hàng hóa không phù hợp với hợp đồng (trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác) được xác định như sau:
“▪ Bên bán không chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hóa
nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng bên mua đã biết hoặc phải biết về khiếm
khuyết đó;
▪ Trong thời hạn khiếu nại theo quy định (trừ trường hợp bên mua đã biết
hoặc buộc phải biết về những khiếm khuyết của hàng hóa), bên bán phải chịu
trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hóa đã có trước thời điểm
chuyển rủi ro cho bên mua. Kể cả trường hợp khiếm khuyết đó được phát hiện
sau thời điểm chuyển rủi ro;
▪ Bên bán phải chịu trách nhiệm về khiếm khuyết của hàng hóa phát sinh sau
thời điểm chuyển rủi ro nếu khiếm khuyết đó do bên bán vi phạm hợp đồng”.
Nếu hợp đồng chỉ quy định thời hạn giao hàng và không quy định thời điểm
giao hàng cụ thể mà bên bán giao hàng trước khi hết thời hạn giao hàng mà giao
thiếu hàng hoặc giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì bên bán vẫn có thể
giao phần còn thiếu hoặc khắc phục sự không phù hợp của hàng hóa trong thời
hạn còn lại. Khi bên bán thực hiện việc này mà gây bất lợi hoặc làm phát sinh
chi phí bất hợp lí cho bên mua thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán khắc phục
bất lợi hoặc chịu chi phí đó.
Người mua có quyền từ chối nhận phần hàng hóa giao thừa, người bán phải
nhận lại số hàng giao thừa và chịu mọi chi phí liên quan. Trường hợp người mua
nhận số hàng thừa thì phải thanh toán số hàng này theo giá do các bên thỏa
thuận.
+ Giao chứng từ kèm theo hàng hóa
Khi hợp đồng có thỏa thuận phải có chứng từ kèm theo hàng hóa như chứng
nhận chất lượng, chứng nhận xuất xứ hàng hóa, vận đơn…thì phải giao chứng từ
14
này. Theo Luật thương mại, trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì

bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ kèm theo hàng hóa cho bên mua trong thời
hạn, tại địa điểm và theo phương thức đã thỏa thuận; trường hợp không có thỏa
thuận về thời hạn, địa điểm giao hàng, chứng từ liên quan đến hàng hóa thì bên
bán phải giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua trong thời hạn và
địa điểm hợp lý để bên mua có thể nhận hàng; Trường hợp bên bán đã giao
chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua trước thời hạn thỏa thuận thì bên
bán vẫn có thể khắc phục những thiếu sót của chứng từ này trong thời hạn còn
lại; khi bên bán thực hiện việc khắc phục những thiếu sót của chứng từ mà gây
bất lợi hoặc làm phát sinh chi phí bất hợp lý cho bên mua thì bên mua có quyền
yêu cầu bên bán khắc phục bất lợi hoặc chịu chi phí đó (Điều 42 Luật thương
mại).
+ Giao hàng đúng thời hạn, địa điểm và theo phương thức đã thỏa thuận
Các điều khoản như thời gian, địa điểm và phương thức giao hàng được các
bên thỏa thuận phù hợp với đặc điểm của hàng hóa và nhu cầu của mỗi bên.
Trường hợp các bên không thỏa thuận trong hợp đồng thì theo quy định của
pháp luật hoặc theo tập quán thương mại. Theo khoản 2, khoản 3 Điều 37 Luật
thương mại, “trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác
định thời điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất cứ thời
điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua; trường hợp
không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một
thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng”
Bên bán phải giao hàng đúng địa điểm đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu
không có thỏa thuận thì địa điểm giao hàng được xác định theo khoản 2 Điều 35
như sau:
“▪ Trường hợp hàng hóa là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao
hàng tại nơi có hàng hóa đó;
▪ Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hóa thì bên
bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên;
15
▪ Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hóa,

nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng,
địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hóa thì bên bán phải giao
hàng tại địa điểm đó;
▪ Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh
doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi
cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán”.
Về phương thức giao hàng, các bên có thể thỏa thuận giao hàng một lần hoặc
giao thành từng đợt. Luật không quy định cụ thể các bên phải giao hàng theo
phương thức nào.
+ Kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng
Việc kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng là nhằm ngăn ngừa những sai sót
trong việc giao hàng, tăng khả năng thực hiện hiệu quả việc mua bán, tránh
những tranh chấp có thể xảy ra khi có sai sót hàng hóa được giao. Theo Điều 44
Luật thương mại, trường hợp có thỏa thuận về việc kiểm tra hàng hóa trước khi
giao hàng của bên mua thì bên bán phải tạo điều kiện cho bên mua kiểm tra
hàng hóa trong một thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép. Nếu bên
mua không thực hiện kiểm tra hàng hóa theo thỏa thuận thì bên bán có quyền
giao hàng theo hợp đồng. Sau khi kiểm tra hàng nếu phát hiện hàng hóa không
phù hợp với hợp đồng, bên mua phải thông báo cho bên bán trong một thời gian
hợp lý. Nếu bên mua không thực hiện việc thông báo này, bên bán sẽ không phải
chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hóa, trừ trường hợp các
khiếm khuyết của hàng hóa không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra
bằng biện pháp thông thường và bên bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm
khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua.
+ Chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua
Bên bán trước hết phải đảm bảo quyền sở hữu đối với hàng hóa được chuyển
giao cho bên mua, phải đảm bảo tính hợp pháp về quyền sở hữu và việc chuyển
giao quyền sở hữu đối với hàng hóa giao cho bên mua; đảm bảo hàng hóa đó
không bị tranh chấp bởi bên thứ ba. Trong trường hợp có tranh chấp với bên thứ
16

ba thì bên bán phải bảo vệ quyền lợi của bên mua, bên mua có quyền hủy hợp
đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu người thứ ba có một phần hoặc toàn bộ
quyền sở hữu. Ngoài ra bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ. Bên bán phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp liên
quan đến quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa đã bán. Trường hợp bên mua
yêu cầu bên bán phải tuân theo bản vẽ kỹ thuật, thiết kế, công thức, hoặc những
số liệu chi tiết do bên mua cung cấp thì bên mua phải chịu trách nhiệm về các
khiếu nại liên quan đến những vi phạm quyền sở hữu trí tuệ phát sinh từ việc
bên bán đã tuân thủ những yêu cầu của bên mua (Điều 46 Luật thương mại)
Bên bán phải chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua. Địa điểm và
thời điểm chuyển giao quyền sở hữu do các bên thỏa thuận. Theo Luật thương
mại quy định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa
thuận khác, quyền sở hữu hàng hóa được chuyển giao từ bên bán sang bên mua
khi người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Đối với hàng hóa là tài sản gắn
liền với đất đai, việc giao nhận hàng hóa được thực hiện thông qua việc giao
nhận chứng từ về hàng hóa thì quyền sở hữu hàng hóa được chuyển giao cho
người mua khi hoàn tất việc chuyển giao chứng từ về hàng hóa. Đối với hàng
hóa mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu hàng
hóa được chuyển giao cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký
quyền sở hữu đối với hàng hóa đó. Trường hợp hàng hóa không dịch chuyển khi
giao nhận và cũng không có chứng từ về hàng hóa, quyền sở hữu hàng hóa được
gọi là chuyển giao tại địa điểm và thời gian hợp đồng có hiệu lực. Trường hợp
mua bán hàng hóa theo phương thức mua sau khi sử dụng thì trong thời hạn
dùng thử, hàng hóa vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bán. Tuy nhiên trong thời
gian dùng thử, quyền sở hữu của bên bán bị hạn chế; bên bán không được bán,
tặng cho, cho thuê, trao đổi, thế chấp, cầm cố hàng hóa khi bên mua chưa trả lời.
Trường hợp mua bán theo phương thức trả chậm, trả dần thì bên bán được bảo
lưu quyền sở hữu của mình đối với hàng hóa đã giao cho đến khi bên mua trả đủ
tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
17

Việc xác định thời điểm chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hóa có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa,
giúp xác định ai là người phải gánh chịu rủi ro khi hàng hóa bị hư hỏng, mất
mát…Việc xác định trách nhiệm chịu rủi ro đối với hàng hóa trước hết phải căn
cứ vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Trường hợp các bên không có
thỏa thuận thì áp dụng quy định của pháp luật. Điều 57 đến Điều 61 Luật thương
mại quy định như sau:
“▪ Chuyển rủi ro trong trường hợp có địa điểm giao hàng xác định: Nếu bên
bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua tại một địa điểm nhất định thì rủi ro về
mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua khi hàng hóa được
giao cho bên mua hoặc người được bên mua ủy quyền đã nhận hàng tại địa điểm
đó, kể cả trong trường hợp bên bán được ủy quyền giữ lại các chứng từ xác lập
quyền sở hữu đối với hàng hóa.
▪ Chuyển rủi ro trong trường hợp không có địa điểm giao hàng xác định: Nếu
hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hóa và bên bán không có nghĩa vụ
giao hàng tại một địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng
hóa được chuyển cho bên mua khi hàng hóa đã được giao cho người vận chuyển
đầu tiên.
▪ Chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng để giao mà
không phải là người vận chuyển (ví dụ giao cho người làm dịch vụ logistics): Nếu
hàng hóa đang được người nhận hàng để giao nắm giữ mà không phải là người
vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển giao cho
bên mua thuộc một trong các trường hợp sau đây: (i) khi bên mua nhận được
chứng từ sở hữu hàng hóa; (ii) khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền
chiếm hữu hàng hóa của bên mua.
▪ Chuyển rủi ro trong trường hợp mua bán hàng hóa đang trên đường vận
chuyển: Nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hóa đang trên đường vận chuyển
thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua kể từ thời
điểm giao kết hợp đồng.
18

Ngoài ra nếu không thuộc các trường hợp trên thì rủi ro về mất mát hoặc hư
hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền
định đoạt của bên mua và bên mua vi phạm hợp đồng do không nhận hàng. Tuy
nhiên nếu hàng hóa không được xác định rõ ràng bằng việc ký mã hiệu, chứng từ
vận tải, không được thông báo cho bên mua hoặc không được xác định bằng bất
kỳ cách thức nào khác thì bên mua không phải chịu rủi ro về mất mát hoặc hư
hỏng hàng hóa đó”.
+ Bảo hành hàng hóa
Bảo hành là việc bên bán, trong một thời hạn nhất định, phải chịu trách
nhiệm về hàng hóa sau khi đã giao hàng hóa cho bên mua. Việc bảo hành được
tiến hành theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên nghĩa vụ
này chỉ có trong trường hợp hợp đồng đó có thỏa thuận về mua bán hàng hóa có
bảo hành. Luật thương mại quy định như sau: Trường hợp hàng hóa mua bán có
bảo hành thì bên bán phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung
và thời hạn đã thỏa thuận. Bên bán phải thực hiện nghĩa vụ bảo hành trong thời
gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép. Bên bán phải chịu các chi phí về
bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 49 Luật thương mại).
Các vấn đề khác như quyền yêu cầu bảo hành, phương thức thực hiện nghĩa
vụ bảo hành, bồi thường thiệt hại trong thời hạn bảo hành… Luật thương mại
không quy định cụ thể, nếu các bên không thỏa thuận thì áp dụng quy định của
Bộ luật dân sự (từ Điều 446 đến Điều 448).
● Nghĩa vụ cơ bản của bên mua: Đó là nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán
tiền.
Đây là nghĩa vụ cơ bản nhất của bên mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Nhận hàng là việc bên mua tiếp nhận thực tế hàng hóa từ bên bán. Tùy theo thỏa
thuận của các bên mà bên mua sẽ phải thực hiện những công việc gì để tiếp nhận
hàng hóa (ví dụ như các thủ tục giao hàng, hướng dẫn về các phương thức vận
chuyển, hay tạo điều kiện để bốc dỡ hàng hóa). Tuy nhiên việc nhận hàng không
có nghĩa là bên mua đã chấp nhận về hàng hóa được giao. Luật thương mại quy
định: sau khi hoàn thành việc giao nhận, bên bán vẫn phải chịu những khiếm

19
khuyết của hàng hóa đã được giao, nếu các khiếm khuyết của hàng hóa không
thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên
bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho
bên mua.
Nếu bên bán đã chuẩn bị các điều kiện để giao hàng mà khi đến hạn bên mua
không nhận hàng thì coi như bên mua vi phạm hợp đồng và phải chịu các chế tài
phạt vi phạm hợp đồng theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Bên mua phải thanh toán tiền cho bên bán. Thời hạn, địa điểm thanh toán,
đồng tiền thanh toán, phương thức, trình tự, thủ tục thanh toán do các bên thỏa
thuận trong hợp đồng. Trường hợp các bên không thỏa thuận những nội dung
này trong hợp đồng thì áp dụng quy định của pháp luật. Theo quy định của Luật
thương mại, các điều khoản này được điều chỉnh như sau:
Về địa điểm thanh toán: Trường hợp không có địa điểm thanh toán cụ thể thì
bên mua phải thanh toán cho bên bán tại một trong các địa điểm sau đây: (i) Địa
điểm kinh doanh của bên bán được xác định vào thời điểm giao kết hợp đồng,
nếu không có địa điểm kinh doanh thì tại nơi cư trú của bên bán; (ii) Địa điểm
giao hàng hoặc chứng từ nếu việc thanh toán được tiến hành đồng thời với việc
giao hàng hoặc chứng từ.
Về thời hạn thanh toán: Trường hợp các bên không có thỏa thuận, thời hạn
thanh toán được xác định như sau: (i) Bên mua phải thanh toán cho bên bán vào
thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hóa; (ii)
Bên mua không có nghĩa vụ thanh toán cho đến khi có thể kiểm tra xong hàng
hóa trong trường hợp có thỏa thuận về việc bên mua có quyền kiểm tra hàng hóa
trước khi giao.
Bên mua vẫn phải thanh toán tiền cho bên bán trong trường hợp hàng hóa bị
mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua,
trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra (Điều 50 Luật
thương mại)
Về xác định giá bán: Trường hợp không có thỏa thuận về giá hàng hóa,

không có thỏa thuận về phương pháp xác định giá và cũng không có bất kỳ chỉ
20
dẫn nào khác về giá thì giá của hàng hóa được xác định theo giá của loại hàng
hóa đó trong các điều kiện tương tự về phương thức giao hàng, thời điểm mua
bán hàng hóa, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có
ảnh hưởng đến giá (Điều 52 Luật thương mại)
Về xử lý vi phạm khi bên mua chậm thanh toán: Khi bên mua chậm thực
hiện nghĩa vụ thanh toán và các chi phí hợp lý khác thì bên bán có quyền yêu
cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên
thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (Điều 306 Luật thương
mại). Luật thương mại cũng có quy định về việc ngừng thanh toán. Trừ trường
hợp có thỏa thuận khác, việc ngừng thanh toán tiền mua hàng của bên mua được
xác định theo Điều 51 Luật thương mại như sau:
“ Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng
việc thanh toán;
▪ Bên mua có bằng chứng về hàng hóa đang là đối tượng của tranh chấp thì
có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết;
▪ Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với
hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán khắc phục sự
không phù hợp đó;
▪ Trường hợp tạm ngừng thanh toán vì hàng hóa là đối tượng của tranh chấp
hoặc hàng hóa giao không phù hợp với hợp đồng mà bằng chứng đó do bên mua
đưa ra không xác thực, gây thiệt hại cho bên bán thì bên mua phải bồi thường
thiệt hại đó và chịu các chế tài khác theo quy định của pháp luật”.
● Quyền của bên bán:
Theo Điều 306 Luật thương mại, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên
bán có quyền nhận tiền hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng. Khi bên mua chậm
thanh toán thì bên bán có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo
lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng

với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác. Đồng thời, nếu bên bán chậm nhận được hoặc không nhận được tiền
21
bán hàng do lỗi của bên mua thì bên bán có quyền ngừng giao hàng hoặc yêu
cầu bên mua bồi thường thiệt hại, ngoài ra bên bán còn có thể áp dụng các hình
thức chế tài khác như: buộc thực hiện hợp đồng, phạt vi phạm, hủy bỏ hợp đồng.
● Quyền của bên mua: Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng song vụ
điển hình, trong đó, quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và
ngược lại. Do đó, quyền của bên mua chính là những điều khoản mà bên bán có
nghĩa vụ thực hiện như đã đề cập ở phần nghĩa vụ của bên bán. Ngoài ra, theo
quy định tại Điều 51 Luật thương mại thì bên mua có quyền ngừng thanh toán
tiền hàng trong các trường hợp:
“ ▪ Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối;
▪ Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh
chấp thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được
giải quyết;
▪ Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp
với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc
phục sự không phù hợp đó”.
4. Sửa đổi, chấm dứt và hủy bỏ hợp đồng:
- Sửa đổi hợp đồng: Khi hợp đồng đã giao kết hợp pháp thì hợp đồng đó có
hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên trong một số trường hợp, hợp đồng khi đã có hiệu
lực thực hiện vẫn có thể sửa đổi, bổ sung nếu các bên có thỏa thuận về việc sửa
đổi, bổ sung đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi sửa đổi hợp
đồng mua bán hàng hóa, nếu hợp đồng đã và đang được thực hiện thì các bên
phải giải quyết hậu quả của việc sửa đổi đó. Trước khi sửa đổi, hợp đồng đã
được tiến hành, do đó có thể sẽ có các khoản chi phí phát sinh để thực hiện phần
công việc hoặc thực hiện phần nghĩa vụ của hợp đồng và những khoản chi phí
khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, các bên còn phải trả
khoản tiền bồi thường thiệt hại phát sinh do việc sửa đổi hợp đồng. Khi sửa đổi

hợp đồng cũng phải phù hợp theo hình thức của hợp đồng đã giao kết. “Trong
trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản, được công chứng, chứng thực,
đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức
22
đó” (Điều 423 Bộ luật dân sự). Còn đối với những hợp đồng không cần phải
tuân thủ các quy định về hình thức thì các bên có thể thỏa thuận để ghi nhận sự
sửa đổi hợp đồng bằng hình thức nào.
- Chấm dứt hợp đồng:
Điều 424 Bộ luật dân sự 2005 có quy định các trường hợp mà hợp đồng
chấm dứt. Đó là:
+ Khi hợp đồng đã hoàn thành: Hợp đồng hoàn thành, tức là khi đó các bên
tham gia hợp đồng đã thực hiện toàn bộ nội dung của hợp đồng và mỗi bên đều đã
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, cũng như đã được đảm bảo quyền dân sự của mình,
lúc đó hợp đồng sẽ chấm dứt.
+ Hợp đồng chấm dứt theo thỏa thuận của các bên: Khi bên có nghĩa vụ
không có khả năng để thực hiện hợp đồng do gặp khó khăn hoặc việc thực hiện
hợp đồng không mang lại lợi ích gì mà có thể còn gây tổn thất về vật chất cho một
hoặc cả hai bên thì các bên có thể thỏa thuận để chấm dứt hợp đồng. Hợp đồng đã
giao kết được coi là chấm dứt tại thời điểm các bên đạt được thỏa thuận nói trên.
+ Hợp đồng chấm dứt do cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc
chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ
thể đó thực hiện: Căn cứ này cần được hiểu là chỉ những hợp đồng nào mà do tính
chất của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó hoặc do các bên đã thỏa thuận trước là
người có nghĩa vụ phải trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đó hoặc chỉ người có quyền
mới được hưởng lợi ích phát sinh từ hợp đồng thì khi họ chết, hợp đồng mới
chấm dứt.
+ Hợp đồng chấm dứt khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng: Đơn phương chấm dứt hợp đồng được quy định riêng tại Điều 426 Bộ luật
dân sự.
Khi một bên vi phạm hợp đồng thì bên kia có quyền đơn phương chấm

dứt thực hiện hợp đồng. Khi đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thì phần
chưa thực hiện sẽ chấm dứt, nghĩa là hợp đồng được coi là chấm dứt tại thời
điểm bên vi phạm nhận được thông báo về việc chấm dứt hợp đồng từ bên bị vi
23
phạm. Khi hợp đồng bị chấm dứt, bên có nghĩa vụ không phải thực hiện còn lại,
nhưng các bên phải thanh toán cho nhau phần hợp đồng đã được thực hiện.
+ Hợp đồng chấm dứt khi mà nó không thể thực hiện được do đối tượng
của hợp đồng không còn và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng khác
hoặc bồi thường thiệt hại: Đối với những trường hợp mà đối tượng của hợp đồng
là vật đặc định hoặc là vật duy nhất thì khi vật đó không còn hợp đồng sẽ chấm
dứt. Tuy nhiên, các bên có thể thỏa thuận thay thế bằng vật khác và hợp đồng
vẫn được duy trì.
Ngoài ra, hợp đồng có thể bị chấm dứt do các trường hợp khác mà pháp
luật quy định.
- Hủy bỏ hợp đồng:
Theo quy định tại Điều 425 Bộ luật dân sự, một bên có quyền huỷ bỏ hợp
đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều
kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Như vậy,
trong trường hợp một bên vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền hủy bỏ
hợp đồng và yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường. Khi hợp đồng bị hủy bỏ, thì
hợp đồng đó không có hiệu lực ngay từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn
trả cho nhau những tài sản đã nhận, nếu không trả được bằng vật thì trả bằng
tiền với giá trị tương ứng.
Luật thương mại 2005 cũng có quy định về vấn đề hủy bỏ hợp đồng tại
các Điều 312, Điều 314. Theo quy định tại Điều 312 thì hủy bỏ hợp đồng bao
gồm: hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng. Hủy bỏ toàn bộ
hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng
đối với toàn bộ hợp đồng. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện
một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
Hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong trường hợp: Xảy ra hành vi vi phạm

mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; hoặc một bên vi
phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng được hiểu
là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho
bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
24
IV/Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng:
1. Các căn cứ áp dụng:
Để áp dụng trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa phải dựa
vào các căn cứ sau đây:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng
Vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là xử sự của một bên chủ thể của hợp
đồng không phù hợp với hợp đồng đã giao kết. Đó là việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Tuy nhiên khi
thực hiện không những phải thực hiện các nghĩa vụ đã ký trong hợp đồng mà
còn phải thực hiện theo những quy định của pháp luật do đó nếu căn cứ để áp
dụng trách nhiệm cần phải căn cứ vào hợp đồng và có xem xét quy định của
pháp luật
- Bên vi phạm có lỗi
Để áp dụng trách nhiệm thì nhất thiết bên vi phạm phải có lỗi. Đối với chủ
thể là tổ chức thì khi xác định lỗi để áp dụng trách nhiệm vi phạm hợp đồng,
phải căn cứ vào lỗi của người đại diện tổ chức đã giao kết và thực hiện hợp
đồng. Mọi hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng đều bị
coi là có lỗi (trừ trường hợp bên vi phạm chứng minh được là mình không có
lỗi). Do đó khi có tranh chấp xảy ra, bên bị vi phạm cũng như cơ quan tài phán
không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên vi phạm, mà bên vi phạm muốn
không bị áp dụng các chế tài thì phải chứng minh được rằng mình không có lỗi
khi thực hiện không đúng hoặc không thực hiện hợp đồng.
- Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra
Thiệt hại vật chất thực tế là những thiệt hại có thể tính được thành tiền mà
bên bị vi phạm hợp đồng phải gánh chịu. Thiệt hại có hai loại là thiệt hại trực

tiếp và thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại đã xảy ra trên
thực tế, có thể tính một cách dễ dàng và chính xác, như là tài sản bị mất mát, hư
hỏng, chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra.
Thiệt hại gián tiếp là những thiệt hại không thể thấy ngay, mà thường là những
hậu quả “kéo theo” xảy ra do hành vi vi phạm của bên có lỗi, như thu nhập thực
25

×