Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Buổi thảo luận dân sự thứ ba TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.54 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

Buổi thảo luận dân sự thứ ba
TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

GIẢNG VIÊN: LÊ THANH HÀ


\

Mục lục:
Bài tập 1: Khái niệm tài sản.............................................................................................
1.1/ Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh
hoạ về giấy tờ có giá.......................................................................................................
1.2/ Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá khơng? Quyết định số 06 và Bản án số 39
có cho câu trả lời không?................................................................................................
1.3/ Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định sô 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời khơng? Vì sao?...............................................................................................
1.4/ Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ
khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài).........
1.5/ Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản khơng? Vì sao?......................................................
1.6/ Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”..............................
1.7/ Bitcoin là gì?............................................................................................................
1.8/ Theo Tồ án, Bitcoin có là tài sản khơng? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà
anh/chị biết.....................................................................................................................


1.9/ Pháp luật nước ngồi có coi Bitcoin là tài sản khơng? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết................................................................................................
1.10/ Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Toà án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam......................................................................
1.11/ Quyền tài sản là gì?..............................................................................................
1.12/ Có quy định nào cho phép khẳng định tiền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản không?...............................................................................................................
1.13/ Đoạn nào của quyết định số 05 cho thấy Toà án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?................................................................................
1.14/ Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao trong
Quyết định sô 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản)?..............................................................................................................................
Bài tập 2: Căn cứ xác lập quyền sở hữu........................................................................
2.1/ Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Tòa án?.....................................................................................

1


2.2/ Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?..................................................................
2.3/ Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?........................................................................
2.4/ Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?..................................................................
2.5/ Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định cụ Hảo khơng cịn

là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án?....................................................................................................
2.6/ Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất
có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền khơng? Vì sao?..............
Bài tập 3: Chuyển rủi ro đối với tài sản.........................................................................
3.1/ Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời..................................................................................................................
3.2/ Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời..................................................................................................................................
3.3/ Bà Dung có phải thanh tốn tiền mua ghe xồi trên khơng? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời..........................................................................................................
Tài liệu tham khảo:
Văn bản pháp luật
1. Bộ luật dân sự 1995,
2. Bộ luật dân sự 2005,
3. Bộ luật dân sự 2015,
4. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010,
5. Nghị định 96/2014/NĐ-CP,
6. Luật Các công cụ chuyển nhượng 2005,
7. Nghị định số 90/2011/NĐ-CP của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh
nghiệp.
8. Quyết định số: 06/2017/QĐ-PT về” V/v giải quyết kháng cáo đối với quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án” của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
9. Bản án số 39/2018/DSST ngày 28 tháng 8 năm 2018 về “V/v đòi lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng” của Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long,
10.Bản án số: 22/2017/HC-ST ngày 21 tháng 9 năm 2017 về “V/v khiếu kiện Quyết
định truy thu thuế” của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.
Bài viết đăng trên báo tạp chí
1. Nguyễn Minh Oanh, “Các loại tài sản trong Luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí
Luật học số 1/2009, tr.14-15.

2. Đỗ Thành Cơng, “Vai trị của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề
2


kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, in Đỗ Văn Đại (chủ biên), tr. 3-6.

3


Bài tập 1: Khái niệm tài sản
*Tóm tắt Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 về “Giải quyết
việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án” của Tịa án
nhân dân tỉnh Khánh Hịa.
Ngun đơn: ơng Phan Hai, sinh năm 1939
Bị đơn: ông Phan Quốc Thái, sinh năm 1977
Tòa án ra quyết định:
Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
giữa ơng Phan Hai và ơng Phan Quốc Thái. Ơng Phan Hai yêu cầu công Phan Quốc
Thái trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành 0926009, số vào Sổ
01868QSDĐ/DS-DK cấp ngày 23/7/1999 của Ủy ban nhân dân huyện Diên Khánh
mang tên Lương Thị Xàm. Tòa sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án vì cho rằng “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản, khơng thể xem là giấy tờ có
giá nên khơng thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án. Tòa phúc thẩm quyết định không
chấp nhận kháng cáo của ông Phan Hai, tiếp tục đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại
đơn kiện cho ơng Hai.

*Tóm tắt Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 về “Đòi lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng” của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh
Long.
Nguyên đơn: ông Võ Văn B, bà Bùi Thị H, sinh năm 1954

Bị đơn: bà Nguyễn Thị Thuỷ T, sinh năm 1979
Ông Võ Văn B bị mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên lên Ủy ban nhân
huyện Long Hồ để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng trong
quá trình làm lại bị bà Nguyễn Thị Thuỷ T tranh chấp vì bà đưa ra được Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mà ông B báo mất. Ông B yêu cầu bà T trả lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AM 090902 thửa đất 1595 diện tích 489,1mo. Bà T u
cầu ơng trả 120.000.000 đồng thì mới trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
trên. Tuy nhiên sau đó bà T rút lại yêu cầu đòi nợ nhưng vẫn giữ giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ơng B. Tịa án đã chấp nhận yêu cầu của ông B và buộc bà T
phải giao trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho ơng B và bà H.

*Tóm tắt Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 về “Việc khiếu kiện
Quyết định truy thu thuế” của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.
Nguyên đơn: ông Nguyễn Việt Cường, sinh nằm 1984
Bị đơn: Chi cục trưởng Chi cục thuế thành phố Bến Tre, Chi trưởng Cục thuế tỉnh
Bến Tre
4


Ông Nguyễn Việt Cường kiện Chi cục trưởng chi cục thuế Bến Tre vì đã truy thu
thuế về việc ơng mua bán tiền điện tử. Thực tế, hiện nay chưa có văn bản quy phạm
pháp luật nào xác định tiền kỹ thuật số, tiền ảo là hàng hóa và đồng thời cũng chưa
có quy định nào về việc mua bán tiền ảo là kinh doanh hàng hóa được pháp luật cho
phép và phải chịu thuế. Tòa án đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Cường, hủy
quyết định số 714/QĐ-CCT ngày 12/5/2016 của Chi cục trưởng Chi cục thuế Bến
Tre đã áp dụng với ơng Cường.

*Tóm tắt Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 về “Vụ án
Tranh chấp chia tài sản chung về việc mua hóa giá nhà” của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Loan.
Nguyên nhân vụ án:
Đầu năm 1976, cụ T được Quân đội cấp căn nhà số 63 đường B do là người có công
với cách mạng. Ngày 27/8/1995, cụ T chết, không để lại di chúc, có lập giấy ủy
quyền cho bà L là con riêng của cụ T4 trọn quyền giải quyết những việc có liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với căn nhà trên. Bà L đã mua hóa
giá căn nhà trên sau khi có sự đồng ý của toàn bộ các con cụ T, tuy nhiên sau đó bà
L đã chiếm đoạt căn nhà và cho cơng ty THNN NV thuê mà không bàn bạc với con
cụ T là bà H và ông T1. Ngày 29/8/2008, Bà H khởi kiện yêu cầu chia ngôi nhà số
63 đường B cho các thừa kế của cụ T. Ngày 17/11/2014, bà H có đơn yêu cầu chia
tài sản chung là ngôi nhà số 63 đường B trên biên bản thỏa thuận của Thanh tra Bộ
Quốc phòng. Tòa án nhân dân tối cao đã hủy toàn bộ bản án phúc thẩm số
125/2015/DS-PT và sơ thẩm số 186/2014/DS-PT, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân TPHCM xét xử sơ thẩm lại.

1.1/ Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ
minh hoạ về giấy tờ có giá.

Giấy tờ có giá được quy định là tài sản theo quy định tại khoản 1 điều 105 BLDS
2015 như sau: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.”
Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Khoản 1 Điều 3
Thông tư 04/2016/TT-NHNN quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận
nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có
giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác.”
Theo khoản 1 Điều 4 Thông tư số 46/VBHN-NHNN thì giấy tờ có giá gồm: Tín
phiếu Ngân hàng Nhà nước, Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh thanh toán 100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn, các loại giấy tờ có giá khác do
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định trong từng thời kỳ.
Các giấy tờ khác chỉ được coi là “giấy tờ có giá” nếu có đủ các điều kiện sau: Trị

giá được thành tiền, được phép giao dịch, được pháp luật quy định rõ nó là “giấy tờ
có giá”
5


Ví dụ có giấy tờ có giá:  Tín phiếu, kỳ phiếu, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ,
séc, trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ,…

1.2/ Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá khơng? Quyết định số 06 và
Bản án số 39 có cho câu trả lời khơng?

Các loại giấy tờ khơng thuộc các loại giấy tờ có giá được quy định trong Luật Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, không phải là bằng chứng để chứng minh nghĩa vụ trả nợ
thì khơng được coi là giấy tờ có giá. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” chỉ được coi là các loại giấy tờ
chứng minh cho quyền sử dụng/sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản đấy nên
không được coi là giấy tờ có giá trị.
Trong quyết định phúc thẩm số 06/2017/QĐ-PT” có đoạn: “Như vậy, Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất,
là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có
giá”. Và trong Bản án số 39/2018/DSST có đoạn: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng
là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở,
tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng cho đất, cho thấy
nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi
điều chỉnh của pháp luật dân sự”
Như vậy, cả hai văn bản trên đều xác nhận rằng “giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” chỉ là giấy tờ pháp lý ghi nhận quyền của chủ sở
hữu tài sản, chủ sở hữu quyền sử dụng. Tuy nhiên Quyết định số 06 thì ghi rất rõ là
“khơng thể xem là loại giấy tờ có giá” còn Bản án số 39 tuy ghi nhận chỉ “là chứng

thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất” nhưng lại khơng
trả lời câu hỏi “đây có phải là giấy tờ có giá hay khơng”.

1.3/ Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản khơng? Quyết định sơ 06 và Bản án
số 39 có cho câu trả lời khơng? Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử, cụ thể là ở quyết định số 06 và bản án số 39 cho thấy rằng:

 Quyết định số 06 cho rằng “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản
chứa đựng thông tin về quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không
phải là tài sản và khơng thể xem là loại giấy tờ có giá”. Ta thấy rằng trong
quyết định này ghi nhận rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà khơng phải là tài sản.
 Cịn bản án số 39, tòa chỉ lập luận rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
“hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luật dân sự” chứ không xác định rằng giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất có phải là tài sản hay không.
Như vậy, bản án số 39 không nêu rõ rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản hay khơng, chỉ có quyết định số 06 cho ra câu
6


trả lời rõ ràng là “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà
không phải là tài sản.”

1.4/ Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên
quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với
pháp luật nước ngồi)

Nhìn từ khái niệm tài sản, hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” theo tôi là chưa
thuyết phục vì:

 Tịa án lập luận rằng :”Theo điều 105 BLDS 2015 quy định về tài sản như
sau: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”...Như vậy, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền
sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và khơng thể
xem là loại giấy tờ có giá”. Từ việc đưa ra các lập luận theo theo điều 105 và
115 BLDS 2015 để cho rằng đây không phải là loại giấy tờ có giá, cũng như
khơng phải là quyền tài sản khác thì tịa đã khẳng định ngay đây khơng phải
là tài sản.
 Trong khi đó, tại điều 105 mà tịa đã trích dẫn, tịa án gián tiếp phủ nhận các
dạng tồn tại khác của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (như dạng vật),
điều này chưa phù hợp với quy định của bộ luật hiện hành vì theo khoản 1
điều 105, BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản.”. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khơng phải là giấy tờ có giá, tuy
nhiên hồn tồn có thể xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vật bởi nó
tồn tại dưới hình dạng vật chất nhất định, có thể được nắm, giữ và có giá trị
sử dụng.
Như vậy, kết luận này đã đồng nhất hai khái niệm “tài sản” và “giấy tờ có giá”, dẫn
tới nhiều hệ quả khơng giải thích được về mặt thực tế. Cụ thể theo điều 115 BLDS
2015 quy định rằng “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền
tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài
sản khác.” Việc xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản đã
tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất đối với loại
giấy tờ này, từ đó dẫn tới việc một khi có tranh chấp, tịa án sẽ khơng có cơ sở để
thừa nhận việc bảo hộ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp đối với giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, gây ra những hậu quả tranh chấp khơng đáng có sau này. 1


1.5/ Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản khơng? Vì sao?

Dựa vào khoản 1 điều 105, BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản”. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tuy khơng phải tiền hoặc giấy
tờ có giá tuy nhiên nó lại được thể hiện dưới dạng vật chất, có hình dạng cụ thể (là
1

Đỗ Thành Cơng, “Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề kiện đòi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất”, in Đỗ Văn Đại (chủ biên), Giao dịch và giải quyết tranh chấp giao dịch về quyền sử
dụng đất, Nxb. Lao động 2012, tr.96, 97

7


tờ giấy), nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có thể thực hiện việc quản
lý). Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không
được coi là tài sản, mà chỉ là văn bằng để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở của chủ sở hữu đối với đất, nhà ở đó.
Nếu áp dụng BLDS năm 2015 thì chưa thể xác nhận rằng giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà có phải là tài sản hay khơng mà cịn cần căn
cứ vào thực tiễn đời sống với từng trường hợp khác nhau để đưa ra những lập luận,
phán quyết có tính logic, phù hợp với bản chất từng sự việc và đúng đắn trong xét
xử.

1.6/ Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên
quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà”.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận sở hữu nhà là một trong

những căn cứ cho phép xác định quyền bảo hộ của các cơ quan nhà nước trong việc
giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất và nhà ở. Vì vậy nó là một loại giấy
tờ có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện thẩm quyền của nhà nước đối với người
sử dụng, sở hữu đất hợp pháp.
Trong bản án số 39, tuy Bộ luật tố tụng dân sự không quy định rõ thẩm quyền giải
quyết tranh chấp “Đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng”. Tuy nhiên Tòa nhận
định rằng “về nguyên tắc Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ án dân sự vì lí do
chưa có điều luật áp dụng.…Căn cứ Khoản 2 Điều 4, Khoản 14 Điều 26 Bộ luật tố
tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định yêu cầu đòi trả giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông B và bà H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”. Điều này cho
thấy sự linh hoạt của Tòa án trong hướng giải quyết vụ việc, khơng gị bó trong bất
kì 1 điều luật nào, đồng thời bảo vệ được 1 phần quyền lợi của chủ sở hữu đất, nhà
ở.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà ở là văn bằng xác
nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện Long Hồ cấp ngày 29/02/2008
cho hộ ông B và bà H. Vì vậy việc bà T chiếm giữ các loại giấy tờ nêu trên là trái
pháp luật theo trong bản án, căn cứ theo quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai
2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.”.
Như vậy, hướng giải quyết của Toà án yêu cầu bà T trả lại giấy tờ cho ông B là hợp
lý, phù hợp với tình cảnh và tính chất vụ việc, đồng thời đã bảo hộ quyền sử dụng
hợp pháp cho chủ sở hữu đất là ông B.

1.7/ Bitcoin là gì?

Bitcoin (ký hiệu: BTC, XBT) là một loại tiền mã hóa, được phát minh bởi Satoshi
Nakamoto dưới dạng phần mềm mã nguồn mở từ năm 2009. Bitcoin có thể được
8



trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà khơng cần thơng qua một tổ chức
tài chính trung gian nào.
Bitcoin là loại tiền mã hố điển hình nhất, ra đời đầu tiên, và được sử dụng rộng rãi
nhất trong thương mại điện tử. Đến tháng 2 năm 2021, lượng tiền cơ sở của Bitcoin
được định giá hơn 1.2 nghìn tỷ đơ la Mỹ - là loại tiền mã hóa có giá trị thị trường
lớn nhất. Những biến động lớn trong giá trị của mỗi bitcoin đã tạo nên những tranh
cãi về tính phù hợp kinh tế của Bitcoin như là một loại tiền tệ. 2

1.8/ Theo Toà án, Bitcoin có là tài sản khơng? Nếu có, nêu hệ thống pháp
luật mà anh/chị biết.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ, phương tiện
thanh toán hợp pháp. Theo Điều 4, Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012
(được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016) và Văn
bản hợp nhất 10/VBHN-NHNN 2019 đã có quy định rất rõ các phương tiện thanh
tốn khơng dùng tiền mặt, cụ thể như sau:
"Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán,
bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các
phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”.
Đồng thời, tại các văn bản trên cũng cấm sử dụng các phương tiện thanh tốn khơng
hợp pháp tại Việt Nam. Xét về khía cạnh này, Bitcoin là một phương tiện thanh
tốn cịn q mới ở Việt Nam, chưa được pháp luật Việt Nam cho phép thực hiện
các hoạt động thanh tốn.

1.9/ Pháp luật nước ngồi có coi Bitcoin là tài sản khơng? Nếu có, nêu hệ
thống pháp luật mà anh/chị biết.
Mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về cách quản lý tiền ảo. Tình trạng pháp
lý của bitcoin giữa các quốc gia trong nhiều trường hợp được thay đổi liên tục và

tính hợp pháp của bitcoin dưới dạng tiền tệ hay hàng hóa đều rất đa dạng với các
hàm ý pháp lý khác nhau. Một số quốc gia đã và đang tiến tới việc thiết lập các quy
định pháp luật nhằm quản lý các đồng tiền kỹ thuật số như:

Nhật Bản là đất nước đi tiên phong trong việc chấp nhận thanh toán bằng Bitcoin,
cho phép người dân thanh toán bằng Bitcoin một cách hợp pháp. Từ năm 2016,
Chính phủ Nhật Bản cũng đã cơng nhận tiền kỹ thuật số là một cơng cụ tài chính và
cho phép thành lập các sàn giao dịch tiền điện tử, đồng thời, xây dựng khung pháp
lý về tiền kỹ thuật số. 3
Năm 2013, Bộ Tài chính Hoa Kỳ phân loại bitcoin như là một loại tiền ảo phi tập
trung có thể chuyển đổi. Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai (CFTC) đã phân
loại bitcoin là một loại hàng hóa vào tháng 9/2015 và cho phép các chứng khoán
2

/> />3

9


phái sinh tiền ảo được giao dịch công khai. Sở Thuế vụ Mỹ quy định đánh thuế
Bitcoin dưới danh một dạng tài sản ảo thay vì một loại tiền tệ chính thống và bất kỳ
giao dịch nào sử dụng Bitcoin sẽ bị đánh thuế dựa theo quy tắc tính thuế áp dụng
với tài sản. Điều này đồng nghĩa với việc các giao dịch liên quan đến Bitcoin phải
được báo cáo đầy đủ về Sở thuế vụ để phục vụ công tác quản lý thuế. 
Tuy nhiên cũng có những quốc gia cịn tỏ ra thận trọng với loại tiền này như
Bangladesh, Nepal, Pakistan, Algeria … Các quốc gia này cấm bất kì tổ chức, cá
nhân nào thực hiện giao dịch mua bán, sử dụng Bitcoin cũng như các loại tiền ảo
khác trên lãnh thổ quốc gia.4

1.10/ Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Toà án đối với Bitcoin trong

mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.

Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở
Việt Nam khi không coi Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt Nam là hợp lý. Do sự
phát triển q nhanh và khó kiểm sốt của tiền ảo, pháp luật chưa có quy định cụ
thể nào về việc sử dụng đồng tiền Bitcoin và theo như Điều 4, Nghị định số
101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số
80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016) “Phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt sử
dụng trong giao dịch thanh toán, bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy
nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước”, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng không chấp nhận các
loại tiền ảo như một đồng tiền sử dụng.
Với cơ chế hoạt động khơng có sự kiểm sốt, Bitcoin nằm ngoài thẩm quyền quản
lý của Ngân hàng Nhà nước. Vì thế chúng ta khó kiểm sốt được các giao dịch
ngầm của tội phạm như rửa tiền, trốn thuế, chuyển tiền bất hợp pháp, … gây ảnh
hưởng đến hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Chính vì thế nên pháp luật nước ta
đã và đang xây dựng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy
phạm pháp luật về tiền điện tử.
Tuy nhiên mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 942/QĐ-TTg phê
duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn
2021 – 2025, định hướng đến năm 2030. Trong đó, Thủ tướng Chính phủ giao cho
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì nghiên cứu, xây dựng và thí điểm sử dụng
tiền ảo dựa trên công nghệ chuỗi khối giai đoạn 2021 – 2023 cho thấy định hướng
phát triển của Chính phủ đối với tiền ảo, bắt đầu thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối
với loại tiền này. Đây là một sự phát triển phù hợp với xu hướng của thế giới, đẩy
mạnh đầu tư cơng nghệ số trong thời kì 4.0. 3

1.11/ Quyền tài sản là gì?

Quyền tài sản được quy định trong điều 115 BLDS 2015 như sau: “Quyền tài sản

là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
4

/>
10


1.12/ Có quy định nào cho phép khẳng định tiền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?
Hiện nay, chưa có bất kì quy định nào khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản. Tuy nhiên vẫn có trường hợp ngoại lệ. Theo nội dung Án lệ số
31/2020/AL về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước theo
Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ là quyền tài sản ghi nhận rằng
”Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê,
mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển
giao cho các thừa kế của cụ T.”

1.13/ Đoạn nào của quyết định số 05 cho thấy Toà án nhân dân tối cao
theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?

Ở Quyết định số 05, trong đoạn đầu phần nhận định của tòa án nhân dân tối cao đã
cho thấy quyền thuê, quyền mua được giải quyết theo hướng là tài sản: “…Theo
quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa
giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho
các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua
hóa giá nhà của cụ T.”

1.14/ Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối
cao trong Quyết định sô 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ

với khái niệm tài sản)?
Theo tơi, hướng giải quyết của Tịa như vậy là hợp lý. Tịa án đã trích dẫn các quy
định tại Điều 188 và Điều 634 BLDS 1995 để làm căn cứ xác định rằng quyền thuê,
quyền mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản là hoàn toàn thuyết phục, phù hợp
với các quy định của pháp luật dân sự, giúp tạo tiền lệ cho các Toà án cấp dưới xét
xử các vụ việc có nội dung tương tự như quyết định này.

Nếu khơng xác định như thế thì khi cụ T chết đi, cụ T không làm thủ tục mua hóa
giá nhà theo quy định của pháp luật thì theo Nghị định số 61/CP “Nhà ở thuộc sở
hữu Nhà nước do các cơ quan hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, đồn thể
nhân dân, tổ chức chính trị, xã hội, các doanh nghiệp Nhà nước hiện đang quản lý
mà thuộc diện được bán thì phải lập phương án chuyển giao cho bên bán theo đúng
thủ tục do pháp luật qui định.”. Theo đó căn nhà sẽ thành tài sản riêng của vợ
chồng bà L do bà L đã đứng tên mua hóa giá trước và điều này sẽ gây bất lợi cho bà
H và các thừa kế của cụ T. Tuy nhiên, với hướng giải quyết rằng “quyền mua,
quyền thuê nhà hóa giá của cụ T là tài sản” thì lúc này quyền mua, quyền th nhà
đó sẽ được giao cho các thừa kế của cụ T, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho các bên
đương sự.

Bài tập 2: Căn cứ xác lập quyền sở hữu
*Tóm tắt Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 về: Vụ án
“Đòi nhà” của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
11


Nguyên đơn: Cụ Dư Thị Hảo, sinh năm 1910, mất ngày 28/1/2007
Bị đơn: Chị Nhữ Thị Vân, sinh năm 1973
Nôi dung bản án:
Tài sản riêng của cụ Hảo là nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà
Nội. Năm 1954, cụ Hảo vào Sài Gòn nên giao nhà cho vợ chồng con trai là ơng

Nguyễn Đắc Chính, bà Nguyễn Thị Châu quản lý. Năm 1968, vợ chồng ông Chính
đi cơng tác tại Thái Ngun nên cho ơng Nhữ Duy Hải thuê. Gia đình chị Nhữ Thị
Vân thuê ở nhà trên từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị ở, sau này tới bố chị và chị
Vân tiếp tục ở. Sau năm 1975, gia đình cụ Hảo có địi lại nhà nhưng khơng có văn
bằng chứng minh rằng đã cho gia đình chị Vân thuê nhà. Năm 18/1/2001, chị Vân
bán nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng chị Lan. Năm 2004, cụ Hảo khởi kiện yêu cầu
chị Vân trả nhà số 2. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của cụ
Hảo. Tuy nhiên, Tịa án nhân dân tối cao đã hủy tồn bộ bản án dân sự phúc thẩm
90/2011/DSPT và sơ thẩm 49/2010/DS-ST và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại.

2.1/ Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

Trong quyết định của Tịa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà
đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng
Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị th nhà của cụ
Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền
Nam sinh sống từ năm 1954, ơng Chính khơng xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy
quyền cho ơng Chính quản lý căn nhà.Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị ở tại
căn nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị ở, sau này là bố chị Vân
và chị Vân tiếp tục ở.”
Theo tôi, khẳng định của Tịa án là chưa hợp lí vì nhà số 2 Hàng Bút của cụ Hảo có
bằng khốn điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày
04/11/1946, cho thấy rằng đây là tài sản riêng của cụ Hảo. Ngoài ra, bên ngun
đơn ngồi biên bản hịa giải tại ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001 thì
khơng có bất kì 1 loại giấy tờ nào chứng minh cho việc gia đình chị Vân th nhà.
Nếu khơng có văn bản nào của cơ quan nhà nước thì khơng thể gọi là nhà có đất
tranh chấp được.


2.2/ Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và
cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

Trong quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay
tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này
trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại Khoản 1,
Điều 247, Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm
12


hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
cơng khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động
sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 điều này.”
Theo tơi, khẳng định của Tịa như vậy là chưa hợp lý, vì qua lời ơng nội kể rằng
mình th nhà của cụ Hảo, chị Vân đã biết được nhà này vốn là nhà được thuê từ cụ
Hảo. Mặc dù chị không biết cụ Hảo những vẫn biết rằng nhà mình thường xun
phải đóng tiền th nhà cho con của cụ Hảo là ơng Chính cho đến năm 1995, khi
ơng nội của chị chết. Theo điều 189 của BLDS 2005: ”Việc chiếm hữu tài sản
không phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ luật này là chiếm hữu khơng có
căn cứ pháp luật. Người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay
tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó
là khơng có căn cứ pháp luật”

2.3/ Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho
biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?


Trong quyết định của tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên
tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là :” Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này
trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, cơng khai theo quy định tại khoản 1
Điều 247 Bộ luật dân sự...”
Khẳng định này của Tòa là hợp lý. Bỏi lẽ, theo điều 190 BLDS 2005, chiếm hữu
liên tục được quy định là “Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện trong một khoảng
thời gian mà khơng có tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài
sản được giao cho người khác chiếm hữu.”. Hơn hết, dù khơng xác định được gia
đình chị Vân th nhà của cụ Hảo từ năm 1954 hay từ năm 1968 nhưng trong suốt
khoảng thời gian đó, gia đình chị đã ở đây hơn 30 năm qua 3 thế hệ là ông nội, bố
và chị Vân.

2.4/ Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định gia đình
chị Vân đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và
cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tịa án?
Đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu cơng khai nhà đất có tranh chấp
trên 30 năm như sau:

“Sau khi ông nội chết (năm 1995) thì gia đình chị Vân khơng đóng tiền th nhà
cho ơng Chính nữa. Sau đó bố chị (ơng Nhữ Duy Sơn) và chị tiếp tục quản lý. Năm
1997, bố chị chết và chị tiếp tục ở tại nhà số 2 Hàng Bút (tầng 1), chị không trả tiền
thuê nhà cho ai, q trình ở thì bố chị có nâng cao nền nhà, thay cửa, cịn chị khơng
sửa chữa gì thêm. Ngày 18/02/2001 chị bán tầng 1 nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng
anh Nguyễn Hồng Sơn và chị Dương Thị Ngọc Lan, giá 80 lượng vàng tương
đương 384.000.000 đồng. Giấy bán nhà có chữ ký của 3 anh em (là chị và anh Nhữ
Duy Lâm, anh Nhữ Duy Lân) nhưng chị là người trực tiếp mua bán nhà và nhận tiền
với chị Lan anh Sơn,còn hai anh em là anh Lâm và anh Lân do chị yêu cầu nên có
13



kí vào giấy…nếu hợp đồng mua bán nhà giữa anh chị với chị Vân khơng đúng thì
anh chị u cầu chị Vân thanh toán tiền nhà cho anh chị theo giá thị trường”.
Theo em, khẳng định của Tòa như vậy là thuyết phục vì theo Điều 191 BLDS 2005
:”Việc chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách
minh bạch, không giấu diếm, tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng,
cơng dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của mình”.Ở
đây, gia đình chị đã thực hiện việc mua bán nhà với vợ chồng chị Lan cơng khai và
minh bạch, đồng thời trong q trình sử dụng nhà thì gia đình chị có sửa chữa, bảo
quản, giữ gìn nhà như tài sản của mình.

2.5/ Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo
khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn của Quyết định trên cho thấy Tịa án khẳng định cụ Hảo khơng cịn là chủ sở
hữu nhà đất có tranh chấp là :“Mặc dù phía ngun đơn khai có địi nhà đối với gia
đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng khơng có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản
hịa giải tịa Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001), đến năm 2004 cụ Hảo
mới có đơn khởi kiện ra Tịa án u cầu chị Vân trả nhà là khơng có căn cứ vì thực
tế cụ Hảo khơng cịn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên”.

Khẳng định trên của Tòa án là khơng hợp lý vì nhà số 2 Hàng Bút, quận Hồn
Kiếm, thành phố Hà Nội có bằng khốn điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng ký
trước bạ tại Hà Nội ngày 4/11/1946, là tài sản riêng của cụ Dư Thị Hảo. Dù cụ Hảo
vào miền Nam sinh sống nhưng cụ chỉ giao lại quyền quản lý nhà cho vợ chồng ơng
Chính chứ khơng từ bỏ quyền sở hữu căn nhà. Do đó, cụ Hảo vẫn là chủ sở hữu căn
nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

2.6/ Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với
nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền
khơng? Vì sao?

Quy định về việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu tại khoản 1 Điều 247 BLDS
2005 nói rằng: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản khơng có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động
sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ
thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này…”.

Tuy có cơ sở cho thấy gia đình chị Vân chiếm hữu liên tục và cơng khai ngơi nhà
trong suốt 30 năm nhưng gia đình chị không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà
đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền vì chị Vân khơng
ngay tình.
Theo như lời khai của chị tại Tòa, chị biết rõ nhà số 2 Hàng Bút do ơng nội mình
th lại của cụ Hảo, nhà cũng được đứng tên là tài sản của cụ Dư Thị Hảo do có
bằng khốn điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày
4/11/1946. Không những thế, sau khi có u cầu trả lại nhà chị vẫn cố tình chiếm
14


hữu căn nhà đó mặc dù biết đó thực chất khơng phải là tài sản của mình cho thấy sự
khơng ngay tình ở chị Vân.

Bài tập 3: Chuyển rủi ro đối với tài sản

Tình huống: Bà Dung có mua của bà Thủy 01 ghe xoài trị giá 16.476.250 đồng. Tuy
nhiên ghe xoài này đã bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận hàng và bà Dung từ
chối thanh toán tiền mua với lý do đây là việc rủi ro.

3.1/ Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Đối tượng chịu rủi ro đối với tài sản được quy định tại Khoản 1 Điều 162 Bộ luật
dân sự 2015: “Chủ sở hữu phải chịu rủi ro đối với tài sản thuộc sở hữu của mình,

trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật dân sự 2015, luật khác có liên
quan quy định khác”

Như vậy, bà Dung là người phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS
vì bà Dung là chủ sở hữu tài sản sau khi hoàn tất mua bán ghe xoài với bà Thủy

3.2/ Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Theo điều 161 BLDS 2015 quy định về thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản như sau:
“Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện theo quy
định của Bộ luật này, luật khác có liên quan, trường hợp luật khơng có quy định thì
thực hiện theo thỏa thuận của các bên, trường hợp luật không quy định và các bên
khơng có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
là thời điểm tài sản được chuyển giao.
Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện
hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản”.
Trong tình huống trên, thời điểm xác lập quyền sở hữu số xồi giữa bà Dung và bà
Thủy sẽ tính từ ngày bà Thủy chuyển giao toàn bộ xoài cho bà Dung do giữa 2 bà
khơng có thỏa thuận về ngày chuyển giao số xoài trên. Ngoài ra, sau khi bà Dung đã
nhận số xoài từ bà Thủy mới xảy ra cháy chợ nên bà Dung là chủ sở hữu của tịa bộ
số xồi tại thời điểm cháy.

3.3/ Bà Dung có phải thanh tốn tiền mua ghe xồi trên khơng? Vì sao?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Bà Dung phải trả toàn bộ số tiền 16.476.250 đồng cho ghe xoài trên cho bà Thúy.
Vì dựa vào Khoản 1 Điều 441 BLDS 2015 quy định về thời điểm chịu rủi ro: “Bên
bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua

chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác”, nghĩa là người chịu rủi ro về tài sản sẽ
15


được xác định dựa vào thời điểm rủi ro xảy ra trước hay sau khi người mua giao cho
người bán.
Trong tình huống trên, thời điểm cháy chợ xảy ra sau khi bà Dung đã nhận ghe xoài
từ bà Thủy nên người phải chịu rủi ro đối với ghe xoài sẽ là bà Dung. Do đó bà
Dung phải có nghĩa vụ thanh tốn tiền mua ghe xồi trên cho bà Thủy theo đúng
quy định về thời điểm chịu rủi ro.

16



×