Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

THẢO LUẬN DÂN SỰ 1 BUỔI THỨ BA: TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.49 KB, 17 trang )

Khoa Luật Thương mại
Lớp Luật Thương mại 44A.1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA

TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN
Bộ môn: Quy định chung, tài sản, thừa kế
Giảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải
Sinh viên: Nguyễn Thị Mỹ Duyên
MSSV: 1953801011042

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 03 năm 2020


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: KHÁI NIỆM TÀI SẢN
1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa
về một vài giấy tờ có giá.......................................................................................1
1.2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không?..................................................................................................2
1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định trên và Bản án số 39 có cho câu trả lời
không? Vì sao?......................................................................................................3
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái
niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài).......4
1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?.......................................................4
1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà.”........5


1.7. Bitcoin là gì? .................................................................................................5
1.8. Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?...............5
1.9. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu pháp luật mà
anh/chị biết. ..........................................................................................................6
1.10. Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan
hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.....................................................................7
1.11. Quyền tài sản là gì? .....................................................................................8
1.12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản không?........................................................................................................8
1.13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?.........................................................................8


1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản)?...................................................................................................................... 8
VẤN ĐỀ 2: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
1.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?..................................................................................9
1.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?...............................................................10
1.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?...............................................................10
1.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?...............................................................11
1.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là

chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định
này của Tòa án.....................................................................................................11
1.6 Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?..........12
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN
1.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.............................................................................................................13
1.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
........................................................................................................................... 13
1.3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời................................................................................................13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Minh Oanh, “Các loại tài sản trong Luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật
học số 1/2009, tr.14 và tiếp theo
2. Đỗ Thành Công, “Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề kiện
đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, in Đỗ Văn Đại (chủ biên)


1

VẤN ĐỀ 1: KHÁI NIỆM TÀI SẢN
Tóm tắt Quyết định số 06/2017/QĐ-PT “V/v đòi lại tài sản” của Tòa án nhân
dân tỉnh Khánh Hòa ngày 11/7/2017
Nguyên đơn là ông Phan Hai khởi kiện bị đơn là ông Phan Quốc Thái để yêu
cầu ông Thái trả lại “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Tòa sơ thẩm đình chỉ
giải quyết vụ án vì cho rằng “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” không phải là tài
sản, không thể xem đây là loại giấy tờ có giá nên không thuộc thẩm quyền giải

quyết của tòa nhưng ông Hai kháng cáo. Sau khi thụ lý, Tòa phúc thẩm quyết định
tiếp tục đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho ông Hai.

1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh
họa về một vài giấy tờ có giá.
Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) quy định: “Tài sản là vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
Theo khoản 9 Điều 3 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP có quy định: “Giấy tờ có
giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy
tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép
giao dịch”.1
Ví dụ về giấy tờ có giá:
+ Trái phiếu Chính phủ
+ Cổ phiếu
+ Chứng chỉ tiền gửi Techcombank
+ Trái phiếu Công ty

1 Nghị định của Chính phủ số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm.


2

1.2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39
có cho câu trả lời không?
Hiện nay, BLDS 2015 chưa định nghĩa cụ thể giấy tờ có giá là gì mà chỉ nêu
giấy tờ có giá là một loại tài sản. Theo quy định của pháp luật hiện hành, giấy tờ có
giá bao gồm các loại sau:
+ Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác. 2
+ Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu.3

+ Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh
nghĩa vụ trả nợ.4
+ Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ
phần,…; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài
chính quy định).5
+ Trái phiếu doanh nghiệp.6
Pháp luật chỉ công nhận những giấy tờ nêu trên là giấy tờ có giá. Vì thế, các
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không phải giấy
tờ có giá bởi bản thân tờ giấy đó không phải là tài sản. Tài sản thực sự chính là
quyền sở hữu đối với tài sản được nêu trong giấy.
Ở Quyết định số 06 thể hiện:
Theo Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về tài sản như sau: “1.
Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có
và tài sản hình thành trong tương lai”; Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015:
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối
2 Điều 1 của Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005
3 Điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh ngoại hối năm 2005
4 Điểm 16 Điều 3 của Luật quản lý nợ công năm 2009
5 Khoản 1 Điều 6 của Luật chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010)
6 Điều 2 của Nghị định số 52/2016/NĐ-CP ngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu doanh
nghiệp”


3

với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản
khác.” Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là
chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu

nhà ở và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hợp pháp của người có
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn
liền với đất.” Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản
chứng đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền,
không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”
Ở Bản án số 39 thể hiện:
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất
hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm
chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật dân sự.”
Như vậy, ở cả Quyết định số 06 và Bản án 39 đều thể hiện Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin, không phải là giấy tờ có giá.
1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định trên và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không? Vì sao?
Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” không được xem là tài sản. Vì theo Điều 105 BLDS 2015 quy định:
“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.” Và căn cứ theo Khoản 16 Điều
3 Luật đất đai 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với
đất.” Như vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng Quyền
sử dụng đất.
Ở Quyết định số 06 thể hiện qua đoạn: “Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản
chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”



4

Ở Bản án số 39 thể hiện qua đoạn: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng
thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất”.
Ta có thể kết luận “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay giấy chứng nhận sở
hữu nhà” không là tài sản vì nó không phải là vật, tiền, giấy tờ có giá mà nó chỉ là
văn bản chứng quyền của các cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm bảo vệ quyền
về tài sản của chủ thể.
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn
từ khái niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước
ngoài).
Hướng giải quyết xét xử liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà” ở Quyết định số 06 là chưa thỏa đáng nếu nhìn từ khái
niệm tài sản vì:
Thứ nhất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới một hình thức vật
chất nhất định và có hình dạng cụ thể (là giấy), con người có khả năng chiếm hữu
chúng (thực hiện việc nắm giữ, quản lý, chiếm giữ đối với Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất), có giá trị và mục đích sử dụng (dùng để chứng minh quyền sử dụng
đất hợp pháp của chủ thể sử dụng đất). Việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không thể tham gia vào giao dịch trao đổi mua bán không làm mất đi bản chất tài
sản của nó.
Thứ hai, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến nay vẫn chưa được xem
là tài sản dẫn tới nhiều hệ quả không giải thích được về mặt lý luận và thực tế, đồng
thời điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người sử dụng đất. Cụ thể,
theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, quyền sở hữu và từng nội dung
riêng lẻ của quyền sở hữu gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
chỉ có thể thực hiện trên các đối tượng là tài sản. Việc coi Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất không phải là tài sản đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp

của người sử dụng đất đối với loại giấy tờ này. 7
1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà không phải là tài sản. Vì nó không vật, tiền, giấy tờ có giá đồng
thời cũng không phải là quyền tài sản mà nó chỉ là tờ giấy công chứng của các cơ
7 Đỗ Thành Công, “Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề kiện đòi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất”, in Đỗ Văn Đại (chủ biên)


5

quan có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền lợi về tài sản của chủ thể. Trường hợp nếu
chủ thể bị mất giấy chứng nhận thì có thể yêu cầu cấp lại. Vì nó không làm ảnh
hưởng gì đến quyền lợi của chủ sở hữu.
1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.
Hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” hợp lý và rõ ràng. Vì “Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không thuộc quyền tài sản mà chỉ
là giấy chứng nhận cho quyền tài sản và không thuộc giấy tờ có giá.
1.7. Bitcoin là gì?
Bitcoin là một loại tiền kỹ thuật số (tiền mã hóa, ký hiệu: BTC, XBT), được
phát minh bởi Satoshi Nakamoto dưới dạng phần mềm mã nguồn mở từ năm 2009.
Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà không cần
thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào. Do đó không cần có lệ phí giao dịch
và cũng không cần phải cung cấp tên thật.
Bitcoin không thể in như tiền mặt – chúng được tạo ra bởi một hệ thống máy
tính trên toàn cầu. Quy mô mạng lưới này ngày càng mở rộng với sức mạnh từ
những siêu máy tính tham gia. Người dùng mua Bitcoin bằng thẻ tín dụng, tiền mặt,

hoặc chuyển khoản, bỏ vào ví và bắt đâug thực hiện giao dịch, những giao dịch này
được xác nhận bằng cách được ghi vào blockchain (như một cuốn sổ cái). Không
thể gian lận giao dịch bitcoin vì blockchain là một kho dữ liệu công khai nên bất kì
ai cũng có thể theo dõi và thực hiện giao dịch.8

1.8. Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
Theo Tòa án, Bitcoin không được coi là tài sản theo pháp luật Việt Nam. Căn cứ
Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản.” và theo Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định: “Hàng hóa bao
gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật
gắn liền với đất đai.” Trong khi đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn không chấp
8 Theo taichinh.online, Bitcoin là gì và giá trị đích thực của nó.


6

nhận tiền ảo là tiền tệ, phương tiện thanh toán hợp pháp, đồng thời Nghị định số
96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính Phủ quy định chế tài sử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương tiện thanh toán
không hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự.
1.9. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu pháp
luật mà anh/chị biết.
Bitcoin ra đời vào năm 2009 và được dự đoán như một loại tiền tệ tiềm năng có
khả năng thay thế tiền giấy. Đa số thị trường đã ủng hộ chấp nhận và lưu hành
Bitcoin, một số nước khác không ủng hộ nhưng không cấm và một số ít cho rằng
giao dịch Bitcoin là phạm pháp.
+ Nước đầu tiên hoàn toàn chấp nhận Bitcoin đó là Nhật Bản. Bắt đầu từ ngày
1/4/2017, Bitcoin được coi là tài sản và là một phương thức thanh toán hợp
pháp, được quản lý bởi Cơ quan Dịch vụ Tài Chính Nhật Bản (JFSA). Một số tổ
chức lớn tại đây đã công nhận Bitcoin như một loại tiền tệ.

+ Mặc dù không chính thức hợp pháp tại Mỹ, CFTC đã phân loại tiền điện tử
như một mặt hàng trong khi Bộ Tài Chính Mỹ coi đây là một doanh nghiệp dịch
vụ tiền tệ (MSB). Chính phủ Mỹ đã cởi mở và tích cực hơn về Bitcoin so với
nhiều quốc gia khác. Dù không một nhà quản lý tài chính nào coi nó như một
loại tiền tệ, Bitcoin vẫn được báo cáo trong các bản khai thuế. Bitcoin cũng đã
có mặt trên thị trường tài chính phái sinh của Mỹ.
+ Chính phủ Ấn Độ cho biết họ không công nhận Bitcoin và không cho phép
người dân nước này sử dụng Bitcoin như một hình thức thanh toán nhằm hạn
chế những hoạt động giao dịch tài chính trái phép. Đồng thời Ngân hàng Trung
Uơng của Ấn Độ mới đây cũng thông báo rằng việc các tổ chức tài chính và
ngân hàng mua bán tiền điện tử sẽ bị coi là trái pháp luật.
+ Trung Quốc đã và đang thực hiện các hoạt động ngày càng gia tăng để hạn
chế tiền điện tử. Bắt đầu bằng cách không chấp nhận các ICO, Trung Quốc đã
ra lệnh đóng băng các tài khoản ngân hàng liên quan đến việc trao đổi, khởi
động các thợ mỏ bitcoin và thiết lập lệnh cấm truy cập internet và di động trên
toàn quốc cho tất cả mọi thứ liên quan đến giao dịch tiền điện tử.


7

+ 7 quốc gia là Algeria, Bolivia, Ecuador, Bangladesh, Nepal, Macedonia và
Nga. Trong đó, Nga hiện tại là quốc gia lớn nhất gần đây chính thức xem
Bitcoin là loại tiền điện tử bất hợp pháp.
Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới hiện vẫn đang cân nhắc kỹ lưỡng về
tính hợp pháp của Bitcoin.9
1.10. Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
Theo tôi, quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản ở Việt Nam là hợp lý.
Vì hiện tại chưa có bất kì quy định pháp lý nào quản lý việc giao dịch Bitcoin

từ Chính phủ Việt Nam. Tháng 2/2014, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra thông cáo
báo chí, trong đó ghi rằng việc sử dụng Bitcoin làm phương tiện thanh toán không
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Khi không công nhận Bitcoin là tiền tệ hay
phương tiện thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phủ nhận thẩm quyền
của mình đối với Bitcoin. Ngoài ra, Bộ Công Thương hiện tại vẫn chưa công nhận
Bitcoin là hàng hóa hay dịch vụ, phủ nhận thẩm quyền của mình đối với Bitcoin.
Việc này cũng bãi bỏ cơ sở để thu thuế Bitcoin vì không thể đưa Bitcoin vào danh
mục hàng hóa hay dịch vụ để thu thuế. Ngày 21/8/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký
phê duyệt hoàn thiện đề án khung pháp lý để quản lý các loại tài sản ảo, tiền điện tử,
tiền ảo, trong đó có Bitcoin. Đây là tín hiệu trực tiếp từ phía Chính phủ rằng các
giao dịch Bitcoin sẽ được hợp pháp hóa vào tháng 8/2018 với khả năng phân loại
Bitcoin vào danh mục tài sản ảo.
Như vậy, việc sở hữu, giao dịch Bitcoin tại Việt Nam không phải là vi phạm
pháp luật mà là chưa có luật điều chỉnh. Việc thanh toán, sử dụng Bitcoin cũng
không vi phạm pháp luật. Bởi khi không công nhận Bitcoin là phương tiện thanh
toán thì cũng đồng nghĩa với việc trao đổi hàng hóa với Bitcoin không phải là thanh
toán theo đúng định nghĩa của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Hiện tại, ở Việt Nam đã có 2 sàn giao dịch Bitcoin được đăng kí chính thức
dưới danh nghĩa doanh nghiệp đã hoạt động từ tháng 3/2014 cho đến nay và vẫn
không bị hạn chế giao dịch dân sự.
9 />

8

1.11. Quyền tài sản là gì?
Điều 115 BLDS 2015 ghi nhận: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền,
bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
các quyền tài sản khác”.
1.12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?

Không có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản.
1.13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Ở phần Nhận định của Tòa án trong Quyết định số 05: “Theo quy định tại Điều
188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T
là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của
cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của
cụ T”.
1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao
trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái
niệm tài sản)?
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền
thuê, quyền mua là hoàn toàn thỏa đáng. Tài sản mà hai bên tranh chấp là căn nhà
do Bộ tư lệnh Quân khu 7 tiếp quản và cấp Giấy phép quyền sở hữu sử dụng cho cụ
Nguyễn Thanh T. và khi cụ T mất thì vẫn chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với
căn nhà nêu trên. Tòa án đã căn cứ theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 BLDS
1995, quyền thuê, ua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản vì trị giá được bằng tiền
và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Vì vậy, quyền thuê, quyền mua ở
trường hợp này theo nhận định của Tòa án có là quyền tài sản.

VẤN ĐỀ 2: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU
Tóm tắt Quyết định số 111/2013/DS-GĐT về “V/v đòi nhà” ngày 09/9/2013 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao


9

Nguyên đơn là cụ Dư Thị Hảo khởi kiện bị đơn là chị Nhữ Thị Vân.
Nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội là tài sản riêng của cụ

Dư Thị Hảo. Năm 1954, cụ Hảo giao nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng con trai quản
lý. Năm 1968, vợ chồng ông Chính, bà Châu đi công tác nên cho ông nội của chị
Vân là ông Nhữ Duy Hải thuê. Đến năm 2004, cụ Hảo mới làm đơn khởi kiện Tòa
án yêu cầu chị Vân trả nhà. Tại bản án dân sự sơ thẩm, Toà án đã chấp nhận yêu cầu
đòi nhà của cụ Hảo với bị đơn. Buộc phải trả nhà cho cụ Hảo. Sau khi xét xử sơ
thẩm thì bị đơn và chị Dương Thị Ngọc Lan có đơn kháng cáo.
Tại bản án dân sự phúc thẩm, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định
huỷ bán án dân sự sơ thẩm. Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm giải
quyết lại. Sau khi xét xử phúc thẩm, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có kháng cáo. Cuối cùng, Tòa án quyết định hủy cả bản án dân sự sơ thẩm và phúc
thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết.
2.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án.
Đoạn: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ”,
“Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm
1954”, “nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975”,
“đến năm 2004 cụ Hảo mới kiện ra toà” “Ngày 18/02/2001 chị bán tầng 1 nhà số 2
Hàng Bút cho vợ chồng anh Nguyễn Hồng Sơn và chị Dương Thị Ngọc Lan”
Căn cứ Khoản 1 Điều 179 BLDS năm 2015: “1. Chiếm hữu là việc chủ thể nắm
giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với
tài sản.”
Vì gia đình chị Vân đã ở nhà số 2 Hàng Bút nhiều thế hệ cộng với khoản thời
gian bắt đầu ở từ năm 1954 đến khi cụ Hảo kiện ra toà năm 2004 là tầm 50 năm, chị
Vân bán tầng 1 nhà số 2 hàng Bút cho vợ chồng anh Sơn chị Lan  chị Vân nắm giữ
và chi phối trực tiếp đối với tài sản nhà đất đang tranh chấp  Khẳng định của Toà
án hoàn toàn hợp lý


10


2.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn: “...Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay
tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS về xác lập quyền
sở hữu theo thời hiệu...” đã khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm.
Khẳng định trên của Tòa án nhân dân tối cao là có thỏa đáng nhưng chưa rõ
ràng. Bởi từ quyết định giám đốc thẩm này ta vẫn chưa xác minh được ông Hải thuê
nhà của cụ Hảo từ năm 1954 hay là thuê nhà của ông Chính từ năm 1968. Trong khi
đó, ông Chính lại không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính
quản lý căn nhà. Có thể nhận ra quyền chiếm hữu, sở hữu nhà đất này cũng như thời
điểm xác lập giao dịch cho thuê chưa thực sự rõ ràng. Vì thế, bị đơn là chị Nhữ Thị
Vân - người không trực tiếp giao dịch để thuê nhà đất, cũng như không nắm rõ giao
dịch thuê nhà đất này có thể không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó
là không có căn cứ pháp luật (thỏa mãn điều 189 BLDS 2005) nhưng chị Vân lại
khai có biết về việc thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính. Vậy
thì chị Vân có thực sự biết hay không biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có
căn cứ pháp luật của mình? Theo cảm nhận cá nhân, tôi cảm thấy quyết định của
Tòa án có phần nóng vôi, chưa hợp tình với chị Vân.
2.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy
nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án.
Đoạn “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ”, tuy
có tranh chấp “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân
từ năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh”.
Căn cứ Điều 182 BLDS năm 2015: “1. Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu
được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về quyền đối
với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu. 2. Việc chiếm hữu


11

không liên tục không được coi là căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của
người chiếm hữu được quy định tại Điều 184 của Bộ luật này.”
Dựa vào những căn cứ trên, cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp là hoàn toàn hợp lý.
2.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị
Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết
suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Đoạn: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay
tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân sự về xác
lập quyền sở hữu theo thời hiệu: Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không
có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối
với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ
thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này…”
Và việc gia đình chị Vân ở đây là không hề giấy diếm, chiếm hữu ngay tình,
liên tục, công khai nhà đất và còn nâng cao nền nhà, thay cửa. Như vậy, Tòa án
khẳng định gia đình chị Vân chiếm hữu công khai là hoàn toàn hợp lý.
2.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình cụ
Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp qua
đoạn: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình nhà chị Vân từ
sau năn 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy
ban nhân dân phường Hàng Bố năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi
kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không

còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên”.
Khẳng định này của Tòa án là hợp lý, đảm bảo được lợi ích của các bên liên
quan. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 247 BLDS: “Người chiếm hữu, người được
lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong
thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở
hữu tài sản đó kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu”.


12

 Do vậy, chị Vân đã chứng minh được là đã chiếm hữu, sử dụng thửa đất đó
ngay tình, liên tục, công khai từ 30 năm trở lên nên chị Vân trở thành chủ sở hữu tài
sản kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu. Mặt khác, theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự, người kiện đòi tài sản phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu đòi tài sản của mình là có căn cứ và hợp pháp. Do vậy, kể cả trường hợp gia
đình chị Vân không chứng minh được là đã chiếm hữu, sử dụng thửa đất đó ngay
tình, liên tục, công khai từ 30 năm trở lên thì điều đó cũng không có nghĩa là gia
đình chị Vân phải trả lại thửa đất cho người khởi kiện.
2.6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà
đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì
sao?
Theo em, gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền bởi vì: Cụ Hảo là chủ sở
hữu căn nhà, khi cụ chết thì căn nhà thuộc về những người thừa kế chứ căn nhà
không phải là nhà vắng chủ, không thể áp dụng quy định về thời hiệu hưởng quyền.

VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN


13


Tình huống sau:
Bà Dung có mua của bà Thủy 01 ghe xoài trị giá 16.476.250 đồng. Tuy nhiên
ghe xoài này đã bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận hàng và bà Dung từ chối
thanh toán tiền mua với lý do đây là việc rủi ro.
3.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Theo quy định của BLDS thì chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu
của mình.
Căn cứ pháp lý là theo Khoản 1 Điều 162 BLDS 2015 về chịu rủi ro về tài sản:
“1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
3.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Tại thời điểm cháy chợ, bà Dung đã nhận hàng thì chính bà Dung chính là chủ
sở hữu số xoài. Cơ sở pháp lý theo Điều 441 BLDS 2015 về thời điểm chịu rủi ro
“Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua. Bên
mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác.” Thời điểm cháy chợ xảy ra sau khi bà
Dung nhận ghe xoài cho nên bà Dung chính là chủ sở hữu số xoài.
3.3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý?
Bà Dung phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên vì tại thời điểm cháy chợ, bà
Dung đã là chủ sở hữu của ghe xoài. Như vậy giao dịch mua bán giữa bà Dung và
bà Thủy đã hoàn tất, nên bà Dung phải trả số tiền ghe xoài cho bà Thủy.
Cơ sở pháp lý theo Khoản 1 Điều 441 BLDS 2015 về thời điểm chịu rủi ro:
“Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro
đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định.




×