Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

một số vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển nguồn nhân lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.53 KB, 59 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới hiện nay đang ở trong thời kỳ có những chuyển biến mới mẻ, mau lẹ, đột biến cả
về kinh tế, chính trị, văn hóa và khoa học kỹ thuật. Những nhân tố quan trọng nhất quyết
định sự phát triển chính là những thành tựu to lớn về khoa học công nghệ, tin học, công
nghệ sinh học, vật liệu mới… Những đóng góp to lớn của những thành tựu này trong mọi
lĩnh vực của đời sống đã hình thành nên nền sản xuất hiện đại, mà trong đó lao động cơ
bắp của con người chỉ chiến một phần nhỏ.
Nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu
đưa đất nước phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nghị
quyết trung ương Đảng khóa XI đã chỉ rõ: “ Thực sự coi giáo dục đào tạo, khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước thời kỳ công
nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Xây dựng con người phát triển toàn diện - nhân tố
phát triển của xã hội thế kỷ 21 là mục tiêu cao cả mà cách mạng nước ta hướng tới.”
Việt Nam sẽ sớm chuyển sang giai đoạn mới của công nghiệp hóa trong những năm tới
và đòi hỏi nhiều nguồn lực cho phát triển. Phát triển nguồn nhân lực tương xứng với yêu
cầu Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước đang là vấn đề trung tâm. Kinh nghiệm
thành công của các nước đang phát triển trong thế kỷ XX cho thấy vai trò thiết yếu của
việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực một cách chiến lược. Điều đó có nghĩa là nguồn
nhân lực trong nước phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của các công ty trong
nước và nước ngoài, của các ngành và nền kinh tế ở các mức độ phát triển khác nhau.
Bên cạnh đó, những thay đổi mạnh mẽ của môi trường kinh doanh thế giới đem lại những
bối cảnh phát triển mới cho những nước đang phát triển trong thể ký XXI với nhiều khó
khăn và thách thức hơn.
Con người, nguồn nhân lực đã trở thành mục tiêu của sự phát triển, là yếu tố cơ bản nhất
quyết định sự phát triển. Một câu hỏi đặt ra cho Việt Nam và các nước đang phát triển là:
“Làm thế nào để phát triển nguồn nhân lực và đầu tư bao nhiêu, đầu tư như thế nào cho
nguồn nhân lực là phù hợp?”.
Nhóm 15
1
Chương I
Một số vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển nguồn nhân lực


A – Lý luận chung về nhân lực
1. Một số khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh.
Trước hết, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ
dân cư có cơ thể phát triển bình thường ( không bị khiếm khuyết hay dị tật bẩm sinh).
Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tể xã hội là khả năng lao
động của xã hội. Hiểu theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là nhóm dân cư trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động. Theo cách hiểu này thì nguồn nhân lực chính là nguồn lao
động,
Theo nghĩa rộng, nguồn lực con người chính là tổng thể các yếu tố thể chất và tinh thần
được huy động vào quá trình lao động.
2 . Các chỉ tiêu đánh giá nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực ở đây thể hiện qua hai khía cạnh là quy mô nguồn nhân lực và chất
lượng nguồn nhân lực. Đây là cơ sở để đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư cho nhân lực.
2.1.Các chỉ tiêu đánh giá quy mô nguồn nhân lực.
Có nhiều yếu tố đánh giá quy mô nguồn nhân lực nhưng tập trung ở các chỉ tiêu sau :
- Tỉ lệ nguồn nhân lực trong dân số.
- Tỉ lệ lực lượng lao động trong dân số.
- Tỉ lệ tham gia lao động của người từ 15 tuổi trở lên.
- Tỉ lệ tham gia lao động của người lao động trong độ tuổi lao động.
- Tỉ lệ người từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong dân số.
- Tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động có việc làm trong dân số.
2.2.Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chủ
yếu sau:
Nhóm 15
2
2.2.1. Nhóm chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực.
Một người có sức khoẻ không đơn thuần là người đó không có bệnh tật. Sức khoẻ theo
định nghĩa chung nhất chính là trạng thái thoải mái về vật chất, tinh thần, là tổng hoà

nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần.
Chúng ta có thể đánh giá tình trạng sức khoẻ qua một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Tuổi thọ bình quân.
- Chiều cao và cân nặng trung bình của người lao động.
- Chỉ tiêu phân loại sức khoẻ.
- Chỉ tiêu dân số trong độ tuổi lao động không có khả năng lao động và suy giảm sức
khoẻ.
- Một số chỉ tiêu cơ bản về y tế, bệnh tật: tỉ suất chết, tỉ suất dân số trong độ tuổi bị mắc
HIV/AIDS…
2.2.2.Chỉ tiêu trình độ văn hoá của nguồn nhân lực.
Đây là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực,
và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hoá cao tạo
khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào
thực tiễn. Những chỉ tiêu đó là:
- Tỉ lệ người lớn biết chữ.
- Tỉ lệ đi học chung.
- Tỉ lệ đi học ở các cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.
2.2.3. Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kĩ thuật của nguồn nhân lực.
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào đó( nó biểu
hiện trình độ đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học), có khả
năng chỉ đạo quản lý một công việc chuyên môn nhất định. Do đó, trình độ chuyên môn
của nguồn nhân lực được đo bằng:
- Tỉ lệ cán bộ tổ chức.
- Tỉ lệ cán bộ cao đẳng, đại học
- Tỉ lệ cán bộ trên đại học.
Nhóm 15
3
2.2.4.Chỉ số phát triển con nguời HDI
HDI là thước đo tổng hợp về sự phát triển con người trên ba phương diện sức khoẻ, tri
thức và thu nhập. Ba chỉ tiêu thành phần phản ánh các khía cạnh sau:

- Một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh, được đo bằng tuổi thọ trung bình.
- Kiến thức được đo bằng tỉ lệ nguời lớn biết chữ ( với quyền số 2/3) và tỉ lệ nhập học các
cấp giáo dục tiểu học,trung học và đại học (với quyền số 1/3)
- Mức sống đo bằng GDP thực tế đầu người (tính theo sức mua tương đương PPP USD
Mỹ)
Chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế mà còn nhấn mạnh
đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng xã hội.
2.2.5.Một số chỉ tiêu khác.
Bên cạnh những chỉ tiêu có thể lượng hoá được như trên, người ta còn xem xét đến các
chỉ tiêu định tính thể hiện năng lực phẩm chất của người lao động. Chỉ tiêu này được thể
hiện qua các mặt:
-Truyền thống dân tộc bảo vệ Tổ Quốc.
- Truyền thống về văn hoá văn minh dân tộc.
- Phong tục tập quán, lối sống
3. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH – HĐH ở Việt Nam
3.1. Nguồn nhân lực là động lực của sự phát triển.
Phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia phải dựa trên nhiều nguồn lực: nhân lực, vật
lực, tài lực…. Song yếu tố chính vẫn là nguồn lực con người, vì chỉ có nguồn lực con
người mới tạo ra sự phát triển. Những nguồn lực khác muốn phát huy tác dụng phải thông
qua nguồn lực con người. Nguồn lực con người chính là động lực của mọi sự phát triển.
Từ xa xưa con người đã tự tạo ra những công cụ lao động thủ công để phục vụ cuộc sống
của mình. Khi sản xuất phát triển, phân công lao động ngày càng chi tiết làm cho năng
suất lao động đuợc cải thiện rõ rệt. Bên cạnh đó, sự thay thế của máy móc đã làm cho
tính chất lao động có phần thay đổi, từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và trí tuệ.
Và chúng ta không thể không nhắc tới vai trò của con người trong việc sáng tạo ra những
trang thiết bị hiện đại cũng như vận hành chúng hoạt động. Nguồn nhân lực của mỗi quốc
gia nếu biết khai thác hợp lý sẽ tạo nên một động lực to lớn cho sự phát triển, nhất là với
những quốc gia đang phát triển, có dân số đông và nguồn nhân lực dồi dào như nước ta
hiện nay.
Nhóm 15

4
3.2. Nguồn nhân lực là đối tượng mà sự phát triển kinh tế xã hội phải hướng vào
phục vụ
Phát triển kinh tế xã hội cũng chính là nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cho cuộc
sống của con người ngày càng tốt hơn. Con người vừa là lực lượng tiêu dùng của cải vật
chất tinh thần của xã hội, nhưng cũng chính nhu cầu tiêu dùng của con người lại tác động
mạnh mẽ tới sản xuất thông qua quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Nhu cầu của
con người là vô hạn và ngày càng phong phú, đa dạng. Chính vì vậy nó đã tác động
không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế và xã hội.
B - Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
1.Quan điểm về đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn hiện tại để tiến hành
các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới, vì
mục tiêu phát triển.
Tài sản mới bao gồm tài sản vật chất (Nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, trí
năng, chuyên môn nghiệp vụ…).
Đầu tư phát triển bao gồm:
- Đầu tư tài sản vật chất (Tài sản thực)
- Đầu tư phát triển tài sản vô hình.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội dung của đầu tư phát triển
những tài sản vô hình. Nó cũng là việc chi dùng vốn hiện tại, tiến hành các hoạt động làm
tăng quy mô và chất lượng nguồn nhân lực, vì mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của một
quốc gia.
2.Nội dung của đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng việc
phát triển mọi mặt kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia. Gia nhập WTO không lâu,
Việt Nam gặp nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít thách thức trên con đường phát triển.
Trong đó có việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực thế nào để đạt hiệu quả ? Chúng ta sẽ
nghiên cứu nội dung của vấn đề này để từ đó tìm ra những giải pháp và hướng đi đúng
đắn cho bài toán nan giải này. Về cơ bản, đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm

những nội dung sau:
- Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo ( chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn,
bồi dưỡng nghiệp vụ…)
- Đầu tư cho đội ngũ lao động.
Nhóm 15
5
- Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ.
- Đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động, trả lương đúng, đủ
cho người lao động….
2.1. Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo
2.1.1. Đầu tư cho chương trình giảng dạy
Chương trình giảng dạy là những nội dung, kiến thức sẽ được đưa vào nhà trường nhằm
nâng cao tri thức cho mỗi người tham gia khoá học. Vì vậy chương trình giảng dạy ở các
cấp cần đựợc coi trọng đúng mức.
Ở nứớc ta chương trình học ở các cấp phần lớn thể hiện trong sách giáo khoa (SGK). Đây
là loại sách cung cấp kiến thức chuẩn, phục vụ cho việc dạy và học.SGK được phân loại
theo đối tượng sử dụng hoặc chủ đề của sách. Kiến thức SGK là một kiến thức khoa học,
chính xác theo một trình tự logic chặt chẽ, được gia công kĩ lưỡng về mặt sư phạm, phù
hợp với trình độ học sinh và thời gian học tập.
Hệ thống SGK ở nước ta còn nhiều hạn chế. Trên thế giới có nhiều bộ SGK khác nhau
cùng biên soạn cho cùng một môn học, nhưng ở nước ta chỉ tồn tại một bộ sách duy nhất
cho một môn học. Nội dung mặc dù có sự nghiên cức kĩ lưỡng để phù hợp với trình độ
của học sinh nhưng chưa thật sự đáp ứng được với nhu cầu giảng dạy.
Để cải thiện tình hình nói trên Chính Phủ đã đầu tư rất nhiều cho công cuộc cải cách giáo
dục. Đáng lưu ý nhất là vấn đề cải cách sách giáokhoa. cải cách chương trình giảng dạy ở
tất cả các cấp: bỏ lối học thụ động ở cấp đại học, thay vào đó là đào tạo theo hình thức
mới ( hình thức tín chỉ), giúp sinh viên có thể chủ động hơn trong cách dạy và học.
Trường đại học Xây Dựng hay đại học Kinh Tế Quốc Dân là những ví dụ điển hình cho
hình thức đào tạo này.
2.1.2. Đầu tư cho việc đào tạo đội ngũ giáo viên và phương pháp dạy học.

Đại hội Đảng cũng đã nhấn mạnh: “Coi đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Vấn
đề là làm thế nào để có chất lượng giáo dục tốt đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Trước hết phải có một đội ngũ giáo viên nhiệt tình, giàu kinh nghiệm và có chuyên môn
sư phạm cao. Họ là những người hướng dẫn và truyền đạt kiến thức cơ bản cho mỗi học
viên tham gia khoá học. Nhà nước cần chú trọng hơn nữa trong việc nâng cao chuyên
môn nghiệp vụ của đội ngũ này, đặc biệt là đội ngũ giáo viên mới ra trường.
Phuơng pháp giáo dục hay còn gọi là phương pháp giảng dạy là cách thức sử dụng các
nguồn lực trong giáo dục như: giáo viên, trường lớp, dụng cụ học tập, các phương tiện
vật chất để truyền đạt kiến thức cho người học.
Ở nước ta hiện nay đã hình thành và phát triển nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau
như
Nhóm 15
6
- Phương pháp giáo dục truyền thống: Giáo viên độc thoại, chủ động truyền đạt kĩ năng
còn người học tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Giáo viên đọc, học sinh chép và hầu
như chỉ học lượng kiến thức mà giáo viên cho ghi, hoàn toàn không có sự sáng tạo.
- Phương pháp giáo dục hiện đại: Giáo viên là người thiết kế tổ chức còn bản thân học
sinh là người tự tìm hiểu kiến thức. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn còn học viên phải
tự học hỏi, tự tìm tòi qua sách báo và các phương tiện khác. Theo phương pháp này thì
học sinh chủ động hơn trong cách học, vì vậy tăng khả năng sáng tạo, tìm tòi của học
sinh, sinh viên.
Tuy nhiên ở nước ta thì phương pháp giáo dục truyền thống vẫn phổ biến hơn cả. Chúng
ta đã đang và dần dần thay chuyển đổi sang phương pháp học mới nhưng còn gặp nhiều
khó khăn và tồn tại không ít những bất cập. Phương pháp giảng dạy kiểu mới có nhiều ưu
điểm nhưng đòi hỏi sự hoàn thiện về cơ sở vật chất nên rất cần sự đầu tư nhiều hơn nữa
của chính phủ vào công tác này.
Đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy là hai yếu tố không nhỏ ảnh hưởng đến chất
lượng giáo dục. Đây là một trong những điều kiện quyết định để nâng cao chất lượng đào
tạo đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Ý thức được điều này, Nhà nước rất quan tâm
đến việc bồi dưỡng, cập nhật và vận dụng các phương pháp giảng dạy trong nhà trường

cũng như nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ giảng dạy.
2.1.3. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng giáo dục.
Cơ sở hạ tầng giáo dục là những điều kiện vật chất, phương tiện giảng dạy đáp ứng nhu
cầu giáo dục. Nhà nước đã đầu tư rất nhiều ngân sách cho việc xây dựng nhà trường, đầu
tư trang thiết bị nâng cao chất lượng dạy và học, mua sắm bàn ghế mới, đầu tư cho
phương pháp giảng dạy mới như giảng dạy bằng slide, trình chiếu power-point…
Theo luật giáo dục của Việt nam năm 2005 thì hệ thống giáo dục quốc dân của Việt nam
bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Các cấp học và trình độ đào tạo
của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
- Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo.
- Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.
- Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
- Giáo dục đại học và sau đại học (trong Luật gọi chung là giáo dục đại học), đào tạo
trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
Ngoài ra, bên cạnh hệ thống giáo dục quốc dân của Việt nam thì còn có các cơ sở giáo
dục khác đóng góp vào phát triển nguồn nhân lực. Các cơ sở giáo dụckhác bao gồm:
- Nhóm trẻ, nhà trẻ.
Nhóm 15
7
- Các lớp độc lập: lớp mẫu giáo, lớp xoá mù chữ, lớp ngoại ngữ, lớp tin học, lớp dành cho
trẻ em vì hoàn cảnh khó khăn không được đi học ở nhà trường, lớp dành cho trẻ tàn tật,
khuyết tật, lớp dạy nghề và lớp trung cấp chuyên nghiệp được tổ chức tại các cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục
thường xuyên; trung tâm học tập cộng đồng.
- Viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với
trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ.
Đầu tư cho giáo dục tại Việt Nam tăng dần hàng năm. Ngân sách dành cho giáo dục
chiếm một phần lớn trong tổng đầu tư của quốc gia. Điều đáng chú ý là ngân sách nhà
nước dành cho phát triển hệ thống trường đào tạo nghề tăng lên rõ rệt. Việt Nam ngày

càng coi đào tạo nghề là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực và lực lượng lao động
xã hội. Điều này cũng phản ánh qua chiến lược Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa là phải
đẩy mạnh giáo dục đào tạo, trong đó có đào tạo kỹ thuật và dạy nghề. Các dự án ODA
trong giáo dục đào tạo cũng đã dành phần lớn cho giáo dục cơ bản, giáo dục đại học và
đang được triển khai với vốn vay từ các tổ chức tính dụng quốc tế như Ngân hàng thế
giới (World Bank), ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) để mở rộng và nâng cao chất
lượng của hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam. Điển hình là các dự án tài trợ của
ADB cho hệ thống giáo dục cơ bản. Việt Nam đang tiến hành một dự án đặc biệt "Dự án
giáo dục tiểu học cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn" với khoản kinh phí lớn nhằm tạo mọi
cơ hội, điều kiện cho những trẻ có hoàn cảnh khó khăn được đi học.
2.2. Đầu tư cho công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ.
Chăm sóc sức khoẻ là một ngành dịch vụ trong đó người cung ứng và người sử dụng
quan hệ với nhau thông qua giá dịch vụ. Tuy nhiên khác với một số ngành dịch vụ khác,
chăm sóc sức khoẻ có nhiều đặc điểm riêng:
- Chúng ta không thể lường trước được các chi phí y tế phải trả vì chúng ta không thể dự
đoán được thời kì mắc bệnh, đặc biệt thể trạng của mỗi người là khác nhau, do đó nguy
cơ mắc bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cũng khác nhau.
- Dịch vụ y tế là loại hàng hoá mà người sử dụng thường không tự mình lựa chọn được
mà chủ yếu do các cơ sở y tế quy định.
- Dịch vụ y tế là loại hàng hoá gắn liền với sức khoẻ, tính mạng con người nên không
giống với các nhu cầu khác, khi có bệnh, mặc dù tài chính eo hẹp nhưng người ta vẫn
phải đến các cơ sở y tế để khám chữa bệnh.
Có ba loại dịch vụ y tế :
- Dịch vụ y tế công cộng : là các dịch vụ mà lợi ích của nó không chỉ giới hạn ở việc cung
ứng trực tiếp các dịch vụ khám chữa bệnh cho người sử dụng mà còn cung ứng gián tiếp
Nhóm 15
8
cho cộng đồng như các dịch vụ phòng bệnh, giáo dục y tế.
- Dịch vụ y tế cho các đối tượng cần được chăm sóc ưu tiên: là các dịch vụ giành cho các
đối tượng đặc biệt như người nghèo, bà mẹ-trẻ em, người có công với cách mạng….

- Dịch vụ y tế cá nhân : là các dịch vụ chỉ cung cấp cho người sử dụng dịch vụ.
Trong thị trường dịch vụ y tế giá dịch vụ do bên cung ứng quyết định. Do vậy, thị trường
dịch vụ y tế cũng tồn tại nhiều “ Thất bại thị trường ” không thể tránh khỏi:
- Thị trường dịch vụ y tế không có sự cạnh tranh hoàn hảo. Muốn cung ứng một dịch vụ y
tế cần được cấp giấy phép hành nghề và cần đảm bảo những điều kiện nhất định về nhu
cầu vật chất.
- Thông tin không hoàn hảo. Có sự bất đối xứng thông tin giữa bên cung cấp dịch vụ và
bên sử dụng dịch vụ. Bệnh nhân hoàn toàn dựa vào các quyết định cùa thầy thuốc trong
việc lựa chọn các dịch vụ y tế. Vấn đề này không được kiểm soát tốt sẽ dẫn tới các tình
trạng lạm dụng dịch vụ từ phía cung ứng, đẩy cao chi phí y tế
- Dịch vụ y tế cũng là loại hàng hoá công cộng, vì thế việc cung ứng dịch vụ sẽ trở nên
khó khăn đối với các dịch vụ y tế mang tính công cộng. Do đó cần có sự can thiệp của
nhà nước trong việc cung ứng đối với loại hang hoá dịch vụ này.
Chính vì những đặc điểm trên của ngành y tế mà việc đầu tư phát triển y tế chăm sóc sức
khoẻ phải được quan tâm một cách đặc biệt để phát triển nguồn nhân lực một cách hiệu
quả.
Đầu tư cho công tác y tế chăm sóc sức khỏe bao gồm các nội dung:
2.2.1. Đầu tư xây dựng bệnh viện ở các tuyến.
Bệnh viện là hệ thống không thể thiếu được trong nhu cầu khám chữa bệnh và chăm sóc
sức khoẻ. Nhà nước trích một số tiền lớn nhằm xây dựng và nâng cấp hệ thống bệnh viện
một cách hợp lý, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, từng vùng
lãnh thổ, thực hiện mục tiêu công bằng, chất lượng, hiệu quả trong công tác chăm sóc và
bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Mục tiêu chung là:
- Đảm bảo cho mọi người dân được tiếp cận một cách thuận lợi với các dịch vụ chăm sóc
chất lượng tại các bệnh viện.
- Đảm bảo tính hệ thống và liên tục trong điều trị chuyên môn, từ cấp cơ sở đến cấp TW,
phát triển cân đối hợp lý giữa bệnh viện đa khoa va chuyên khoa theo hướng chuyên sâu.
- Nâng cấp chất lượng dịch vụ, đầu tư vào các trang thiết bị mới, đáp ứng nhu cầu khám
chữa bệnh của người dân.
Nhóm 15

9
Theo vùng lãnh thổ hệ thống bệnh viện được phân bổ rộng rãi trên cả nước, bao gồm các
bệnh viện công lập, tư nhân. Nhà nước ngày càng khuyến khích việc hình thành và phát
triển các bệnh viện theo hướng đa dạng hoá các loại hình khám chữa bệnh, khuyến khích
thành lập các bệnh viện bán công, dân lập, tư nhân có vốn đầu tư nước ngoài nhưng bệnh
viện công lập vẫn giữ vai trò chủ đao.
2.2.2. Đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế chăm sóc sức khoẻ.
Trang thiết bị y tế là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả và chất
lượng của công tác y tế, do vậy cần được tăng cường cả về số lượng và chất lượng của
các thiết bị này; bao gồm các loại thiết bị, dụng cụ, vật tư, phương tiện vận chuyển
chuyên dụng cho các hoạt động chăm sóc bảo vệ sức khoẻ.
Việc đầu tư vào lĩnh vực này cần chú ý đến những nội dung sau:
- Trang thiết bị y tế là lĩnh vực chuyên dụng và rất đắt tiền đòi hỏi yêu cầu khắt khe về kĩ
thuật, vì vậy cần có kinh phí lớn thì mới có được sự đầu tư hiệu quả.
- Đầu tư phải trọng tâm trọng điểm nhằm đạt được hiệu quả, khoa học và kinh tế. Xây
dựng kế hoạch đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ sản xuất trang thiết bị y tế trong
nước có ưu thế.
- Tạo môi trường hấp dẫn cho các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu khoa học và công
nghệ thuộc các ngành, các địa phương tham gia sản xuất trang thiết bị y tế. Khuyến khích
dung sản phẩm trong nước, giảm dần nhập khẩu.
- Có chính sách khuyến khích ưu tiên đối với việc cử cán bộ đi đào tạo về nghiên cứu sản
xuất trang thiết bị trong nước.
Bộ Y tế thành lập cơ sở nghiên cứu với sự tham gia của các cơ sở trực thuộc nhằm nghiên
cứu khả năng ứng dụng của các trang thiết bị y tế, các phương pháp chẩn đoán điều trị
mới trên thế giới để có thể áp dụng vào Việt Nam .
2.2.3. Đầu tư cho đội ngũ cán bộ y tế.
Việc đầu tư cho cán bộ y tế là cần thiết vì các trang thiết bị chỉ là những phương tiện hỗ
trợ cho việc khám chữa và chẩn đoán bệnh tật cho người bệnh, còn lực lượng chủ chốt
trong ngành vẫn là đôi ngũ cán bộ y tế.
Cần tiến hành đầu tư cho hệ thống giáo dục đào tạo ngay từ trong nhà trường. Việc đào

tạo phải được kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, đầu tư trang bị các công cụ phục vụ
cho công tác học tập và giảng dạy. Liên quan đến tính mạng con người nên chuyên môn
của đội ngũ này có vai trò cực kì quan trọng.
Có những chính sách khuyến khích như cấp học bổng, tổ chức các chương trình du học
cho các sinh viên y khoa có thành tích học tập tốt, nhằm nâng cao chuyên môn và kinh
Nhóm 15
10
nghiệm.
Bên cạnh yếu tố chuyên môn nghiệp vụ thì phẩm chất người bác sĩ cũng là yếu tố quan
trọng không kém. “Lương y như từ mẫu”, đôi ngũ cán bộ y tế phải là những người hết
lòng và tận tâm chăm sóc người bệnh. Để làm đươc điều này thì đội ngũ y tế phải được
chi trả và phụ cấp đúng với trình độ của họ, giúp họ chi trả những chi tiêu thiết yếu trong
cuộc sống.
2.2.4. Đầu tư cho công tác tuyên truyền giáo dục phổ biến kiến thức sức khoẻ.
Đây là công tác quan trọng nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về bệnh tật cho người
dân.Công tác này cần chú trọng ngay từ cấp cơ sở thông qua các chương trình mục tiêu
quốc gia về y tế; thông qua cán bộ y tế ở cáp cơ sở cũng như các phương tiện truyền
thông đại chúng người dân có thể cập nhật kịp thời những loại bệnh có nguy cơ lây nhiễm
cao cũng như nguy hiểm cho toàn xã hội, để từ đó có những biện pháp phòng và chống
kịp thời.
2.3. Đầu tư cải thiện môi trường làm việc cho người lao động
Môi trường lao động là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất của người lao động.
Nghiên cứu vấn đề này chúng ta sẽ đề cập đến các nội dung cơ bản sau:
2.3.1. Đầu tư cải thiện điều kiện lao động.
Điều kiện lao động là tổng thể các yếu tố tự nhiên, xã hội và kinh tế được biểu hiện thông
qua các công cụ và phương tiện lao động, đối tượng lao động, quá trình công nghệ, môi
trường lao động và sự sắp xếp bố trí chúng trong không gian và thời gian xác định. Sự tác
động qua lại giữa chúng trong mối quan hệ với người lao động tại chỗ làm việc tạo nên
một điều kiện nhất định cho con người trong quá trình lao động.
Trong phần này chúng ta sẽ đề cập tới 3 vấn đề, đó là bảo hộ lao động, tai nạn lao động

và bệnh nghề nghiệp.
- Bảo hộ lao động: là tổng hợp tất cả các hoạt động trên mặt luật pháp,kinh tế xã hội…
nhằm mục đích cải thiện điều kiện lao động, ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, đảm bảo an toàn sức khoẻ cho người lao động.
Nội dung chủ yếu của bảo hộ lao động là an toàn lao động, vệ sinh lao động và cả những
vấn đề về chính sách đối với người lao động ( vấn đề lao đông nghỉ ngơi, vấn đề lao động
nữ, vấn đề bồi dưỡng độc hại). Biết được điều này chúng ta cần có chính sách đầu tư
đúng đắn nhằm nâng cao công tác bảo hộ cho người lao động.
- Tai nạn lao động: là tai nạn xảy ra trong quá trình lao động do kết quả của sự tác động
từ bên ngoài của các yếu tố nguy hiểm gây chết người hoặc làm tổn thương chức năng
hoạt động của một bộ phận nào đó trên cơ thể.
Nhóm 15
11
Tai nạn lao động không chỉ ảnh hưởng đên điều kiện vật chất mà còn ảnh hưởng đến tinh
thần của người lao động, gián tiếp ảnh hưởng đến năng suất của doanh nghiệp. Vì thế nhà
nước và doanh nghiệp cần có những biện pháp thích hợp để hạn chế tối đa việc xảy ra tai
nạn lao động.
- Bệnh nghề nghiệp: là bệnh phát sinh do ảnh hưởng và tác động thường xuyên kéo dài
của các yếu tố có hại phát sinh trong sản xuất lên cơ thể người lao động. Những người
làm việc trong môi trường độc hại, ô nhiễm thường mắc phải bệnh nghề nghiệp. Để hạn
chế vấn đề này nhà nước và các doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác bảo hộ cho người
lao động và có những chính sách ưu đãi phù hợp đối với những đối tượng này.
2.3.2.Vấn đề trả lương đúng, đủ cho người lao động.
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp
phải trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc mà người lao động cống
hiến cho doanh nghiệp.
Hàng hoá sức lao động là loại hàng hoá đặc biệt. Chính vì vậy tiền lương không chỉ là
vấn đề thuần tuý về kinh tế mà còn là vấn đề xã hội rất quan trọng liên quan đến đời sống
và trật tự xã hội. Trả tiền lương không đúng và đủ cho người lao động có thể gây ra đình
công, bất mãn trong thái độ làm việc của công nhân… Từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến

quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Ở nước ta mức lương tối thiểu hiện còn chưa đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người
lao động. Bên cạnh vấn đề trả lương đúng đủ cho người lao động, nhà nước và các doanh
nghiệp đang có những giải pháp nhất định để hoàn chỉnh vấn đề tiền lương, tạo ra động
lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng lao động của mình.
2.3.3. Đầu tư nhằm nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người lao động.
Ngoài những điều kiện vật chất thì yếu tố tinh thần có ảnh hưởng không nhỏ đến năng
suất lao động. Nhận thức được điều này các doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao đời
sống tinh thần của cộng nhân viên bằng các hoạt động thể thao, giải trí, văn nghệ…
Những hoạt động này đã ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng lao động và năng suất lao
động trong mỗi DN.
3.Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
3.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn.
Nhắc đến đầu tư là phải nhắc đến vốn. Vốn là yếu tố quan trọng và không thể thiếu đươc
của đầu tư. Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh
tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Có nguồn vốn dồi dào,
có nhiều dự án đầu tư quy mô lớn thì yêu cầu đối với nguồn nhân lực ngày càng cao. Vì
vậy, việc huy động vốn cho nền kinh tế cũng góp phần làm tăng quỹ cho việc đầu tư phát
triển nguồn nhân lực.
Nhóm 15
12
Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư trong nước và
vốn đầu tư nước ngoài.Vậy yếu tố nào ảnh hưởng đến việc thu hút vốn trong nền kinh tê?
- Năng lực tăng trưởng kinh tế: là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút vốn.
Yếu tố tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn
đối với vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả
thì khả năng thu hút nó càng lớn. Khi năng lực tăng trưởng được đảm bảo năng lực tích
luỹ của nền kinh tế sẽ gia tăng, khi đó quy mô nguồn vốn trong nước sẽ được cải thiện,
đồng thời đó cũng là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
- Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành

vi đầu tư. Để thu hút được các nguồn vốn đầu tư nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn các
yêu cầu phát triển của đất nước phải đảm bảo nền kinh tế đó trước hết là nơi an toàn cho
sự vận động của nó và sau nữa là nơi có khả năng sinh lợi cao. Nhắc đến môi trường kinh
tế vĩ mô chúng ta phải đề cập đến các yếu tố:thuế và các công cụ tài chính, lãi suất và tỉ
giá hối đoái, ổn định giá trị tiền tệ
- Lãi suất và tỉ giá hối đoái: đây là yếu tố không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút
vốn đầu tư mà còn ảnh hưởng đến dòng chảy của các nguồn vốn và mức lợi nhuận thu
được tại một thị trường xác định.Lãi suất càng cao tiềm năng của các nguồn vốn đầu tư
càng lớn. Đối với tỉ giá hối đoái, thực tế cho thấy giá đồng nội tệ càng giảm khả năng thu
lợi từ đồng nội tệ càng lớn. Điều này sẽ khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào hàng
xuất khẩu, và như vậy thì sức hấp dẫn vốn nươc ngoài sẽ càng lớn.
Thuế và các công cụ tài chính khác là một trong những chính sách quan trọng ảnh hưởng
đến khuyến khích đầu tư và tái đầu tư từ lợi nhuận. Ở nước ta ảnh hưởng của thuế thu
nhâp doanh nghiệp đến đầu tư chưa được thể hiện rõ nét, nhưng với các nước thu nhập
cao trên thế giới đây là yếu tố khá quan trọng khi các doanh nghiệp tiến hành đầu tư.
3.2.Các chính sách của nhà nước cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Các chính sách của nhà nước có ảnh hưởng lớn tới các hoạt động đầu tư nói chung và đầu
tư cho nguồn nhân lực nói riêng, bao gồm các chính sách đầu tư cho giáo dục, y tế, môi
trường, điều kiện làm việc…,chính sách thu hút vốn hiệu quả. Chính sách của nhà nước
có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động đầu tư nhân lực.
Trong đầu tư cho giáo dục nhà nước có nhiều chính sách khuyến khích học sinh sinh viên
như: học bổng, du học nước ngoài… hay các chính sách đầu tư xây đựng cơ sở vật chất
hạ tầng cũng như trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy, chăm sóc sức khoẻ…
Với mỗi giai đoạn khác nhau thì các chính sách của nhà nước cũng có những nét khác
biệt nhất định, gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Trong
điều kiện CNH-HĐH nước ta hiện nay thì chính sách đầu tư cho nguồn lao động chất
lượng cao cũng không phải là điều khó hiểu. Để huy động hiệu quả nguồn vốn đâu tư,
nhà nước đã có những chính sách và giải pháp hợp lý đồng bộ như việc đa dạng hoá các
hìn thức và phương tiện huy động vốn, tạo môi truờng chính trị ổn định nhằm thu hút vốn
Nhóm 15

13
có hiệu quả, nâng cao hiêu quả đầu tư.
3.3.Các yếu tố quốc tế.
Hệ thống giáo dục nước ngoài là yếu tố không nhỏ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực. Chúng ta đã liên doanh-liên kết, hợp tác-đào tạo với nhiều quốc gia có
nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, và đã thu về những thành tựu rất đáng tự hào.
Bên cạnh đó yếu tố vốn nước ngoài (chủ yếu do viện trợ chính thức ODA và đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI) cũng góp phần không nhỏ trong đầu tư phát triển nhân lưc. Với xu
thế toàn cầu hoá hiện nay thì yếu tố quốc tế là một trong những nhân tố có tác động trực
tiếp đến hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Nhóm 15
14
Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam (giai đoạn 2000-2007)
I. Thực trạng đầu tư phát triển nhân lực Việt Nam hiện nay (2000-2008)
Là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ đầu năm 2007,
Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu. Điều đó mở ra
nhiều thời cơ, song cũng tạo ra những thách thức lớn đối với sự phát triển của nhiều lĩnh
vực kinh tế, xã hội của đất nước. Trước những đòi hỏi và yêu cầu mới phát triển đất
nước, với vai trò là một trong những nhân tố quyết định nhất và là chủ thể thực hiện các
sứ mạng lịch sử của đất nước, một câu hỏi lớn thường đặt ra là làm thế nào để nguồn
nhân lực Việt Nam có đủ trình độ, năng lực và sức mạnh để đẩy nhanh công cuộc đổi mới
nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế có hiệu quả trong điều
kiện khoa học-công nghệ tiến nhanh, hình thành nền kinh tế tri thức và cạnh tranh khu
vực và toàn cầu ngày càng gay gắt. Được như vậy, cần phải có cách nhìn thẳng thắn và
khách quan về những đặc điểm thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam
và có những phương hướng và giải pháp đúng đắn, hiệu quả để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực nước ta.
1. Đầu tư phát triển giáo dục đào tạo
1.1.Xét trên tầm vĩ mô


Biểu đồ 1: Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục qua các năm
(Nguồn: Nhandan.com.vn)
Nhóm 15
15
Theo biểu đồ 1, có thể thấy tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục có chiều hướng
tăng lên qua các năm: năm 1997 là 12,8%, năm 2003 là 16,2%, năm 2004 là 17,1%, và
đạt 20% vào năm 2007. Đặc biệt là chi phí của chính phủ Việt Nam tăng hơn gấp đôi từ
1998 đến 2003: năm 1998 là 11 nghìn tỷ đồng, năm 2001 là 19,7 nghìn tỷ đồng; năm
2003 là 27,2 nghìn tỷ đồng. Như vậy, có thể nói, đây là sự nỗ lực, cố gắng lớn của Chính
phủ tăng các chi phí dành cho giáo dục, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
Trong đó một phần lớn được ưu tiên đầu tư tăng cường cơ sở vật chất cho các trường.
Chế độ, chính sách, lương và phụ cấp của giáo viên những năm vừa qua cũng đã có sự cải
tiến, điều chỉnh lên mức cao nhất trong khu vực hành chính sự nghiệp, cải thiện đáng kể
thu nhập, giúp họ phấn khởi, yên tâm phục vụ sự nghiệp giáo dục. Các chính sách khuyến
khích đối với sinh viên giỏi, sinh viên nghèo vượt khó cũng đã được áp dụng như: chế độ
học bổng cho các đối tượng thuộc chính sách xã hội, học bổng cho các sinh viên học giỏi,
thực hiện tín dụng sinh viên, miễn học phí cho các sinh viên theo học tại các trường sư
phạm. Bên cạnh đó, Nhà nước chú trọng hơn vào đầu tư cho giáo dục ở những vùng khó
khăn, vùng đồng bào dân tộc. Năm 2007,ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục đạt 66.770
tỷ đồng chiếm 20% tỷ lệ chi ngân sách Nhà nước.
Biểu đồ 2: Chi tiêu ngân sách cho giáo dục Việt Nam (tỷ đồng).
(Số liệu năm 2008 là ước tính của Bộ GD-ĐT)
( Nguồn: www.vnn.vn)
Nhóm 15
16
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, thu hút đầu tư từ các tổ
chức và cá nhân trong và ngoài nước. Theo ước tính, từ năm 1990 đến nay, tổng giá trị
đóng góp của các doanh nghiệp và nhà hảo tâm cho ngành giáo dục lên tới trên 1.200 tỷ
đồng và khoảng 1,5 triệu m

2
đất. Nhờ vậy, cơ sở vật chất cho ngành giáo dục ngày càng
được cải thiện, nhất là ở các vùng khó khăn. Cả nước hiện đã có 36.700 trường trong hệ
thống từ mầm non đến đại học. Đặc biệt, năm 2007 đã ghi dấu sự thành công của ngành
giáo dục và đào tạo Việt Nam khi lần đầu tiên đăng cai tổ chức thành công Olympic Toán
quốc tế lần thứ 48, với sự tham gia của 96 nước và vùng lãnh thổ. Theo Bộ Giáo dục và
Đào tạo, năm học mới 2008, cả nước có gần 22 triệu học sinh, sinh viên đến trường. Hiện
nay tổng nguồn vốn đầu tư nước ngoài đang được sử dụng trong các dự án giáo dục tại
Việt Nam là 825,4 triệu USD với tỷ lệ giải ngân năm 2007 đạt 74,15%.
Về minh bạch trong quản lý tài chính, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân thừa nhận, hệ
thống quản lý tài chính giáo dục ở VN rất phân tán. Bộ GD-ĐT chỉ quản lý khoảng 50%
nguồn tài chính cho giáo dục, còn lại là các bộ ngành địa phương trực tiếp quản lý và chi
tiêu không hề báo cáo với Bộ GD-ĐT. Vì thế, Bộ không kiểm soát được hoàn toàn việc
sử dụng tài chính giáo dục.
Nhà nước có chính sách cho cho học sinh, sinh viên nghèo vay vốn để trang trải các chi
phí tối thiểu cho học tập như học phí, sách vở và ăn ở. Với chính sách đổi mới mức thu
học phí và cho vay tín dụng đối với học sinh, sinh viên, nhà nước sẽ tiết kiệm được một
phần ngân sách để đầu tư cho các trường về cơ sở vật chất hoặc đầu tư trong những lĩnh
vực đào tạo cần có sự ưu tiên. Chỉ khi cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được đầu tư
tốt, giáo viên có điều kiện nâng cao trình độ, khi đó mới có đủ điều kiện tối thiểu đáp ứng
nhu cầu của doanh nghiệp. Cần nhắc lại rằng, với mức đầu tư thấp như hiện nay, nhà
trường không thể có được những sản phẩm được đào tạo tốt, đáp ứng nhu cầu của thế
giới việc làm. Suất đầu tư trên một sinh viên thấp không những làm suy giảm chất lượng
đào tạo mà còn kéo theo một hệ lụy nữa là hiệu quả, hiệu suất đào tạo thấp và mất công
bằng trong xã hội.
Với quan điểm GD&ĐT phải là “bạn đồng hành” của doanh nghiệp, Bộ GD&ĐT ủng hộ
và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gặp gỡ, tìm đối tác liên kết đào tạo, tháo gỡ những
vướng mắc, điều phối sự hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường. Đào tạo nhân lực cho
những doanh nghiệp có vốn đầu tư trên 1 tỷ USD, nhà nước cam kết hỗ trợ các trường
(bồi dưỡng giáo viên, nâng cấp trang thiết bị, cho vay vốn…) đào tạo theo tiêu chuẩn của

doanh nghiệp, đồng thời doanh nghiệp cần thông báo sớm về nhu cầu đào tạo, tuyển
dụng, mức lương dự kiến trả cho người lao động sau khi tốt nghiệp.
Tổng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo năm 2006 so với 2005 là tăng 33%. Đây là mức
tăng cao thể hiện sự quan tâm rất lớn cho giáo dục đào tạo, tạo nhiều điều kiện thuận lợi
cho ngành. Mặc dù tăng nhiều nhưng vẫn chưa đủ bởi khoảng hơn 10 tỷ dành cho bù đắp
phần lương mới.
Có thể nói chiếm một phần đáng kể trong việc tăng ngân sách là để giải quyết vấn đề tiền
lương, phần giải quyết nhiệm vụ khác còn lại không bao nhiêu. Trong khi đó, những mục
tiêu như phát triển giáo dục tiểu học, giáo dục vùng dân tộc hải đảo đã có kết quả to lớn
Nhóm 15
17
nhưng phần còn lại rất nặng nề và khó khăn đòi hỏi kinh phí nhiều; nhiệm vụ phát triển
ĐBSCL, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc cũng đặt ra những nhu cầu rất lớn về kinh phí.
Ngoài ra, việc đổi mới phương pháp giảng dạy cũng đòi hỏi đầu tư phương tiện; thực
hiện chỉ thị hoàn thiện đội ngũ cán bộ giảng dạy cũng đòi hỏi chi phí lớn.
Tháng 8/2007, tại Hà Nội đã diễn ra lễ khởi động dự án Giáo dục Trung học cơ sở
(THCS) vùng khó khăn nhất, bao gồm 103 huyện khó khăn của 17 tỉnh: Cà Mau, Cao
Bằng, Đắc Lắc, Đắc Nông, Điện Biên, Gia Lai, Hà Giang, Kiên Giang, Kon Tum, Lai
Châu, Lào Cai, Ninh Thuận, Sơn La, Trà Vinh, Yên Bái, Bắc Kạn và Sóc Trăng. Dự án
được bắt đầu từ năm 2007 và kết thúc vào năm 2014. Mục tiêu dự án hướng tới là nâng
cao chất lượng giáo dục vùng khó khăn, vùng dân tộc, góp phần khắc phục tình trạng
không đồng đều giữa các vùng, các dân tộc; hỗ trợ các mục tiêu về phổ cập giáo dục
THCS, bình đẳng giới và chính sách đối với nhóm đối tượng đặc biệt; đồng thời tăng
cường năng lực quản lý giáo dục.
Được biết, tổng đầu tư cho dự án là 64 triệu USD, trong đó có 50 triệu do Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB) cho vay và 14 triệu USD là nguồn vốn đối ứng của Việt Nam.
Số vốn này sẽ được đầu từ vào xây dựng 960 phòng ở nội trú cho trường vùng dân tộc
thiểu số và cung cấp đồ gỗ cho các phòng này; xây dựng và trang bị thiết bị cho 48 phòng
học mới có kèm theo công trình vệ sinh cho những nơi chưa có hoặc công trình phụ
xuống cấp cho trung tâm giáo dục thường xuyên; bồi dưỡng và nâng cao chuyên môn cho

giáo viên; đào tạo sinh viên sư phạm sắp ra trường; biên soạn 9.700 bộ tài liệu hướng dẫn
bổ trợ; xây dựng nhà công vụ cho 870 giáo viên; xây dựng và cung cấp trang thiết bị cho
112 phòng thí nghiệm và 180 thư viện mới; trao học bổng đào tạo giáo viên cho sinh viên
dân tộc thiểu số; giúp các trường xây dựng năng lực lập kế hoạch và quản lý giáo dục và
thử nghiệm phương pháp đổi mới nhằm tăng cường bình đẳng và cơ hội tiếp cận giáo dục
cho trẻ em gái và trẻ em dân tộc thiểu số.
1.1.1. Đầu tư phát triển trình độ văn hoá của nguồn nhân lực.
1.1.1.1 Đầu tư cho giáo dục mầm non
Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư phát triển giáo dục mầm non, đồng thời đẩy mạnh xã hội
hóa sự nghiệp giáo dục mầm non, mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường, lớp mẫu giáo trên
mọi địa bàn dân cư; ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục mầm non ở những xã có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn, các xã vùng núi cao, hải đảo; tăng cường phổ biến đến thức
nuôi dạy trẻ cho các gia đình, nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ em trước 6
tuổi, tạo điều kiện để trẻ em được phát triển toàn điện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm
mỹ và hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách.
Các loại hình cơ sở giáo dục mầm non bao gồm:
- Cơ sở giáo dục mầm non công lập bao gồm các trường, lớp giáo dục mầm non do ngân
sách nhà nước đảm bảo cho đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên và
kinh phí hoạt động. Cơ sở giáo dục mầm non công lập được xây dựng chủ yếu ở các xã
Nhóm 15
18
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn ở miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa
trong danh mục được Thủ tướng Chính phủ quy định.
- Cơ sở giáo dục mầm non bán công bao gồm: Các cơ sở giáo dục mầm non do Nhà nước
đầu tư cơ sở vật chất ban đầu, các cơ sở giáo dục mầm non ở vùng nông thôn trước đây
do hợp tác xã nông nghiệp đầu tư nay do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn trực tiếp
quản lý và hoạt động trên cơ sở tự quản lý về tài chính, nhân lực hoặc được ngân sách địa
phương hỗ trợ cần thiết để bảo đảm chất lượng giáo dục. Cơ sở giáo dục mầm non bán
công được xây dựng chủ yếu ở vùng nông thôn không thuộc diện nêu trên và ở các địa
bàn có mức sống thấp của thành phố, thị xã, thị trấn;

- Cơ sở giáo dục mầm non dân lập bao gồm các trường, lớp mầm non do tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế được phép thành lập, đầu tư bằng vốn ngoài
ngân sách nhà nước. Khuyến khích việc lập trường, lớp mầm non dân lập, tư thục ở
thành phố, thị xã, thị trấn, khu công nghiệp và những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội
phát triển;
- Cơ sở giáo dục mầm non tư thục bao gồm các trường, lớp mầm non do cá nhân hoặc
một nhóm cá nhân được phép thành lập và đầu tư.
Về chương trình giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo biên soạn và
hướng dẫn thực hiện. Chương trình phải phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của lứa
tuổi trước tiểu học; tạo cơ sở để trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ và hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách; là cầu nối giữa mẫu giáo
với lớp một.
Về chế độ chính sách đối với giáo viên mầm non, giáo viên hợp đồng được hưởng chế độ
tiền lương, các khoản phụ cấp, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, học tập, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ, các danh hiệu tôn vinh nhà giáo như giáo viên trong biên chế,
tiền lương, phụ cấp, các khoản bảo hiểm phải đóng được chi trả từ nguồn thu học phí và
các khoản thu hợp pháp khác. Đối với những cơ sở giáo dục mầm non bán công, nếu
nguồn thu nêu trên không đủ để chi trả tiền lương và đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
cho giáo viên hợp đồng thì phần còn thiếu được ngân sách nhà nước chi hỗ trợ để bảo
đảm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trả tiền lương của những giáo viên này
không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Hầu hết các trường trọng điểm được trang bị khá đầy đủ đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho
công tác chăm sóc-giáo dục trẻ. Các trường ở vùng sâu chỉ có các trang thiết bị tối thiểu
phục vụ cho việc giảng dạy. Đặc biệt các lớp mẫu giáo 26 tuần gắn với trường tiểu học
cơ sở vật chất chưa đảm bảo: nhiều phòng học còn tạm bợ, bàn ghế chưa đúng qui cách,
thiếu nhiều đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc chăm sóc và giáo dục trẻ.
“Năm 2005, tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ, nhóm đạt 15%; trẻ từ 3 đến 5 tuổi đến
lớp mẫu giáo đạt 58%; trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt 92%; tỷ lệ các cơ sở giáo dục
mầm non đạt chuẩn quốc gia đạt 9%. Đối với các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc
biệt khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, nâng tỷ lệ trẻ từ 3

Nhóm 15
19
đến 5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt 43% năm 2005. Hiện cả nước có 1640 xã vùng dân tộc và
miền núi chưa có trường mầm non.” (Theo Dantri.com)
Nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục mầm non gồm: vốn từ ngân sách Nhà nước bố trí
trong chương trình mục tiêu quốc gia và dự toán chi thường xuyên hàng năm theo phân
cấp quản lý ngân sách và các nguồn hợp pháp khác.
Ở Nam Định,
Nhà nước hỗ trợ 30 triệu đồng cho trường mầm non đạt chuẩn quốc gia, 10
triệu đồng/1 phòng học kiên cố được xây dựng mới; cấp 10 triệu đồng/trường/năm để chi
hoạt động và mua sắm dụng cụ dạy học. Năm 2007, nâng mức hỗ trợ giáo viên ngoài
công lập từ 100.000đ/tháng lên mức 200.000đ/tháng và đóng BHXH, BHYT cho giáo
viên theo mức lương 450.000đ. Công tác xã hội hóa giáo dục Mầm non được đẩy mạnh,
các huyện, thành phố đã dành nguồn ngân sách cho hoạt động chuyên môn và mua sắm
thiết bị phục vụ việc dạy và học. Các xã, phường, thị trấn ngoài nguồn ngân sách ưu tiên
còn có nhiều hình thức huy động sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân Năm 2005 quy
mô trường lớp phát triển vững chắc: có 256 trường mầm non; số trẻ trong độ tuổi ra nhà
trẻ đạt 48,56%, mẫu giáo đến trường đạt 93%; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở các độ tuổi
giảm; 100% trẻ trong các trường được học theo đúng chương trình quy định; đội ngũ cán
bộ quản lý và giáo viên Mầm non được củng cố, bảo đảm về số lượng, chuẩn hóa về
trình độ đào tạo. Từ nguồn hỗ trợ của tỉnh, cộng với học phí được thu theo thỏa thuận với
cha mẹ học sinh, mức thu nhập của giáo viên ngoài công lập đã đạt khoảng 450.000
đ/tháng đến 800.000đ/tháng. Giáo viên mầm non nghèo được hỗ trợ xây dựng nhà ở từ
quỹ “Vòng tay đồng nghiệp”. Việc xây dựng trường, lớp, mua sắm trang thiết bị cho giáo
dục Mầm non cũng được đầu tư đáng kể. Kết thúc năm học 2006- 2007 đã có 136 trường
mầm non được xây dựng kiên cố, 90% trường có đủ nước sạch. Việc xây dựng các
trường đạt chuẩn quốc gia được các địa phương hưởng ứng mạnh mẽ, đã có 57 trường
đạt chuẩn quốc gia. Tuy nhiên, vẫn tồn tại lớp lẻ, lớp ghép, có nơi còn học nhờ nhà dân,
ảnh hưởng tới chất lượng nuôi dạy và chăm sóc trẻ. Chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ giáo
viên ngoài công lập thuộc ngành học này chênh lệch quá lớn so với giáo viên trong biên

chế nhà nước.
Ở Đăknông,
năm học 2003 – 2004, trong khi tỷ lệ trẻ được đến lớp mẫu giáo tại vùng
kinh tế - xã hội phát triển là 47% thì ở các vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tỷ lệ
này chỉ là 19%. Toàn tỉnh chỉ có 29 trường mẫu giáo, mầm non với tổng số 322 phòng
học. Tuy nhiên, có tới 61 phòng mượn, 119 phòng học tạm và 142 phòng học cấp 4. Các
lớp mẫu giáo phải nhờ cơ sở vật chất của các trường tiểu học hoặc mượn hội trường. Cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ việc chăm sóc và giáo dục trẻ của hầu hết các cơ sở
giáo dục mầm non vừa đơn điệu, lại xuống cấp.Giai đoạn
2005 – 2007, xây dựng thêm
200 phòng học mới để thành lập thêm 41 trường mầm non; Cấp bổ sung thiết bị đồ chơi
cho 32 trường; Tổ chức bồi dưỡng cho 30 cán bộ quản lý và chuẩn hóa trình độ cho trên
90% giáo viên; Huy động 8% trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ; 45% trẻ trong độ tuổi mẫu giáo
đến trường Toàn tỉnh có 65,4% trẻ từ 3 – 5 tuổi, 87,5% trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo. Đội
ngũ cán bộ, giáo viên từ 424 người năm 2004 tăng lên 800 người năm 2007; 98,3% đạt
Nhóm 15
20
chuẩn và trên chuẩn là 15,6%. Số trường tăng từ 28 trường năm 2004 lên 62 trường năm
2007, tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ chỉ đạt 1,5% kế hoạch. Hiện toàn tỉnh vẫn còn 9 xã
chưa có trường mầm non.
1.1.1.2. Đầu tư cho giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo dục dân tộc của nước ta còn nhiều bất cập, như: tỷ lệ
trẻ nhập học ở các cấp chưa cao; chất lượng dạy học còn thấp; đội ngũ giáo viên chưa
đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ; các hình thức và nội dung giáo dục đặc thù phát triển thiếu
vững chắc. Đáng lo ngại là tình trạng học sinh dân tộc đang ngày càng gia tăng. Nhiều
nguyên nhân được chỉ ra, trong đó nguyên nhân chủ quan là tình trạng hạ tầng cơ sở còn
yếu kém.Trường tiểu học ở vùng dân tộc thường có nhiều điểm trường phân tán, gây khó
khăn cho cả giáo viên, học sinh và ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục.
Dự án giáo dục tiểu học lớn nhất của Việt Nam mang tên ''Giáo dục tiểu học cho trẻ em
có hoàn cảnh khó khăn'' bắt đầu được thực thi từ ngày 12/10/2004. Điều này có nghĩa là

200 triệu USD do các nhà tài trợ cung cấp đã đến với hơn 4.200 trường học chính và gần
15 nghìn trường điểm ở Việt Nam
Đối với vùng sâu vùng xa, Bộ GD-ĐT cũng đang tiến hành cung cấp miễn phí sách giáo
khoa và báo cho trẻ em dân tộc. Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ở những vùng không
được triển khai hỗ trợ vẫn được nhận hỗ trợ. Mỗi điểm trường cử thêm 1 nhân viên hỗ
trợ cho những học sinh mà tiếng mẹ đẻ không phải tiếng Việt. Mỗi trường tiểu học còn
được nhận 500 USD/năm để hỗ trợ trực tiếp cho HS khó khăn mua quần áo ấm, bữa ăn
bán trú
Với bậc THCS và THPT, tới năm 2004, 33 tỉnh đã có trường học 2 buổi/ngày nhưng hiện
nay ở các thành phố lớn đang bị quá tải nên cần phải đầu tư mở rộng gần 10.000 trường
THCS và 1.000 trường THPT, đồng thời xây dựng thêm trường mới. Bộ GD-ĐT sẽ phối
hợp với các bộ ngành liên quan để tìm nguồn vốn 25.200 tỉ đồng phục vụ kiên cố hóa
trường lớp học và xây dựng nhà công vụ cho giáo viên. .
Tại Bắc Ninh, đến nay toàn tỉnh có 146/150 trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức I,
chiếm 97% (toàn quốc dưới 30%); 15 trường tiểu học đạt chuẩn mức II và vào năm học
mới 2008-2009 có thêm 7 trường đạt chuẩn mức II. Tỷ lệ phòng học kiên cố tính đến hết
năm học 2007-2008 là trên 90%; số phòng học có bàn ghế đạt chuẩn (1-2 chỗ ngồi)
90%; phòng học có bảng chống loá, điện chiếu sáng 100%; số trường có phòng Tin học
48
Tại Hà Nội, đến năm 2005: phát triển 100% trường tiểu học và 50% trường trung học tổ
chức học sinh học tập và hoạt động cả ngày trong trường; phổ cập bậc trung học ở 12
quận nội thành; đảm bảo giáo viên các bộ môn ở các cấp học, ngành học đáp ứng yêu cầu
đồng bộ tập thể sư phạm nhà trường " Hoàn thành quy hoạch chi tiết mạng lưới trường
học của các quận, huyện; xây dựng cơ sở vật chất theo hướng kiên cố hoá, chuẩn hoá,
hiện đại hoá. Tiếp tục đổi mới quản lý giáo dục, tăng cường nề nếp kỷ cương, ngăn chặn,
khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục Năm học 2002-2003, thành
Nhóm 15
21
phố đã huy động được 1.361.632 học sinh đến trường (không kể khối dạy nghề), tăng
31.737 học sinh so với năm học trước. Trong đó, học sinh tiểu học phổ thông cao nhất

422.517, học sinh giáo dục trẻ khuyết tật thấp nhất 2.250 học sinh.”
Tại Tiền Giang, từng bước sẽ đầu tư máy vi tính cho các trường chuẩn quốc gia với
chương trình vui để học, học để vui. Tiền Giang đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới
phương pháp giảng dạy và thời gian học tập của học sinh. Ðó là từng bước tổ chức giảng
dạy cấp tiểu học theo nhóm môn (thay kiểu dạy cũ là một thầy phụ trách một lớp, dạy
nhiều môn). Tỉnh đã thực hiện đại trà xong việc học sinh tiểu học học hai buổi/ ngày;
đồng thời cho trẻ tiếp cận học tiếng Anh ở bậc học này hai tiết học/ tuần. Sở Giáo dục và
Ðào tạo Tiền Giang kiến nghị Bộ cho phép bắt đầu dạy tiếng Anh cho trẻ lớp 1 và 2 dạy
nghe và nói, lớp 3 dạy viết nhằm hình thành các phản xạ ban đầu cho trẻ khi tiếp cận
tiếng Anh. Lộ trình của Tiền Giang học sinh học xong tiểu học là phải có chứng nhận
trình độ ngoại ngữ bằng A, trung học cơ sở bằng B. Một điểm sáng đáng ghi nhận nữa là
Tiền Giang đã tập trung đầu tư đưa công nghệ thông tin vào trường học, cũng như nâng
cao trình độ tin học cho giáo viên một cách căn cơ, đầy đủ và hiệu quả cao. Do đó, hiện
nay tỉnh đã áp dụng thành công việc giảng dạy bằng giáo án điện tử trong các trường học
một cách hiệu quả. Thu hút từ 60 đến 65% số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào
trung học phổ thông. Số còn lại sẽ vào học các trung tâm giáo dục thường xuyên, các
trường trung cấp chuyên nghiệp hoặc trung cấp nghề. Nâng quy mô đào tạo trung cấp
nghề, trung cấp chuyên nghiệp với nhiều hình thức đào tạo linh hoạt. Phổ cập giáo dục
tiểu học trong cả nước. Phổ cập trung học cơ sở ở thành phố, vùng kinh tế trọng điểm và
nơi có điều kiện.Tính chung cả nước có 60% trẻ em độ tuổi 11-15 học trung học cơ sở.
1.1.1.3. Đầu tư phát triển hệ thống đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp
nhằm nâng cao trình độ chuyên môn kĩ thuật cho nguồn nhân lực.
Nhóm 15
22
Biểu đồ 3: Tổng số sinh viên đại học, cao đẳng trong nước.
(Nguồn: />Quy mô đào tạo đại học và sau đại học nước ta tăng rất nhanh. Nếu như năm 1991 cả
nước chỉ có khoảng 120 nghìn sinh viên thì con số sinh viên năm 2003 đã lên tới trên 1
triệu 20 ngàn người. Tương ứng với số sinh viên là trên 32.200 giảng viên đại học, trong
đó chỉ có 41,6% có trình độ thạc sỹ, 17,8% có học vị tiến sỹ, 5,1% có chức danh giáo sư,
phó giáo sư. Trung bình, tỷ lệ sinh viên/giảng viên là 27, nhưng cá biệt có trường tỷ lệ

này lên tới trên dưới 100. Năm 2006,cả nước có 78,4% sinh viên đại học và 21,6% sinh
viên cao đẳng.Năm 2007,cả nước có148 cơ sở đào tạo sau đại học, trong đó có 78 trường
đại học và 70 Viện nghiên cứu. Số cơ sở đào tạo Tiến sĩ là 122, trong đó 54 cơ sở là
trường đại học và 68 cơ sở là Viện nghiên cứu.Nếu phấn đấu đạt chỉ tiêu số sinh viên đại
học chiếm 200/10.000 dân, tăng quy mô đào tạo sau đại học lên 38.000 học viên cao học,
15.000 nghiên cứu sinh vào năm 2010 thì mâu thuẫn giữa quy mô và chất lượng đào tạo
sẽ còn gay gắt hơn nhiều. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tuyển chọn để gửi đào tạo 2.500
tiến sĩ giảng cho các trường đại học, cao đẳng, trong đó đào tạo ở nước ngoài 1.000 và
trong nước là 1.500 người. Ngoài ra, khuyến khích các cơ sở GD ĐH thực hiện các hoạt
động nghiên cứu khoa học, tư vấn và chuyển giao công nghệ để tăng nguồn thu. Tuy
nhiên, so với nhu cầu của ngành GD, hàng năm các cơ sở GD vẫn thiếu kinh phí để đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất.
Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, tính đến tháng 7/2007, cả nước có 325 Học viện, trường
ĐH, trường CĐ, trong đó có 155 ĐH, Học viện, trường ĐH; 170 trường CĐ (gồm cả các
trường thuộc khối an ninh quốc phòng). Có 54 trường ĐH, CĐ ngoài công lập.Tổng số
sinh viên CĐ, ĐH năm 2006 – 2007 là 1.415.563 (tăng 10,21% so với năm 2005 – 2006).
Nhóm 15
23
Tỉ lệ sinh viên/giảng viên bình quân trung của cả hệ thống giáo dục ĐH năm học 2006 –
2007 là 27,15 sinh viên/1 giảng viên. Khối các trường ngoài công lập, bình quân 31,1
sinh viên/giảng viên.
Chế độ, chính sách, lương và phụ cấp của giáo viên những năm vừa qua cũng đã có sự
cải tiến, điều chỉnh lên mức cao nhất trong khu vực hành chính sự nghiệp, cải thiện đáng
kể thu nhập, giúp họ phấn khởi, yên tâm phục vụ sự nghiệp giáo dục. Các chính sách
khuyến khích đối với sinh viên giỏi, sinh viên nghèo vượt khó cũng đã được áp dụng
như: chế độ học bổng cho các đối tượng thuộc chính sách xã hội, học bổng cho các sinh
viên học giỏi, thực hiện tín dụng sinh viên, miễn học phí cho các sinh viên theo học tại
các trường sư phạm.
Bộ Tài chính đề xuất về giải pháp cân đối ngân sách nhà nước, nên nghiên cứu xây dựng
cơ chế đấu thầu đặt hàng của Nhà nước đối với đào tạo ĐH, theo đó Nhà nước sẽ ban

hành các tiêu chí, tiêu chuẩn và yêu cầu về giáo dục đại học để tất cả các cơ sở GDĐH
đều được tham gia vào quy trình tuyển chọn, đấu thầu, qua đó lựa chọn được những cơ
sở có phương án đào tạo tốt nhất, hiệu quả nhất để giao kinh phí NSNN cho đào tạo,
không phân biệt trường công lập hay ngoài công lập. Huy động các nguồn lực từ xã hội,
vay tín dụng nước ngoài để bổ sung nguồn vốn cho phát triển GDĐT, xây dựng cơ sở vật
chất cho các trường ĐH, CĐ. Riêng chính sách về đất đai, Bộ TC đề nghị, các địa
phương có nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế thì khi quy hoạch đất làm khu công
nghiệp, khu kinh tế phải dành một phần diện tích đất cho việc xây dựng trường, cơ sở
đào tạo, không thu tiền thuê đất.
Dự án xây dựng Đại học Quốc gia Hà Nội ở Hoà Lạc trên diện tích 1.000 ha với tổng
mức đầu tư khoảng 7.300 tỷ đồng; dự án xây dựng Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh ở Thủ Đức trên diện tích khoảng 600 ha với tổng mức đầu tư khoảng 6.800 tỷ
đồng; các trường đại học trọng điểm và nhiều trường đại học công lập khác cũng được
đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật. Dự án giáo dục đại học
nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học công lập bằng nguồn
vốn vay khoảng 100 triệu USD từ Ngân hàng Thế giới đã bước vào giai đoạn cuối; các
thư viện, phòng thí nghiệm, xưởng sản xuất thử hiện đại được xây dựng ở một số trường.
Ở Tây Nguyên, trong giai đoạn 2001 - 2005, ngân sách nhà nước đã đầu tư cho phát triển
giáo dục - đào tạo vùng Tây Nguyên cao hơn khu vực đồng bằng tới 1,7 lần. Các địa
phương trong vùng cũng ưu tiên chi ngân sách để phát triển giáo dục đạt gần 1.680 tỷ
đồng vào năm 2005.Tuy nhiên, trên bình diện chung còn nhiều khó khăn trong phát triển
sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Trong năm học 2007, toàn vùng còn thiếu khoảng 5.000
giáo viên so với định mức chung của cả nước. Mặt khác đội ngũ giáo viên là người dân
tộc thiểu còn chưa được đào tạo đủ so với nhu cầu. Số giáo viên có thể dạy song ngữ,
tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số còn ít. Đây là một rào cản lớn để có thể phát triển
nhanh giáo dục - đào tạo ở Tây Nguyên. Năm 2007, ngân sách nhà nước đầu tư cho phát
triển nhanh giáo dục - đào tạo ở Tây Nguyên đạt khoảng 3.200 tỷ đồng, tăng 700 tỷ so
với năm 2006.
Nhóm 15
24

Đến cuối năm 2006, cả nước ta có 311 trường cao đẳng và đại học với 1,4 triệu sinh viên,
đạt 167 sinh viên/1 vạn dân. Trong khi năm 2005, Mỹ, Nhật đã có 500-600 sinh viên/1
vạn dân và Thái Lan đã có 350 sinh viên/1 vạn dân.Chúng ta đã có chính sách không thu
học phí cấp tiểu học, đồng thời có chính sách trợ giúp đời sống, sản xuất cho hộ nghèo để
đồng bào ta có điều kiện cho con em mình có điều kiện được đi học. Đối với học sinh
cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông là con em gia đình nghèo cũng được miễn học
phí. Đối với sinh viên đại học, cao đẳng, đã có chủ trương miễn học phí cho đối tượng
nghèo, gia đình chính sách và có học bổng cho học sinh giỏi. Đồng thời, cũng có chính
sách cho sinh viên học đại học, cao đẳng vay vốn để trang trải chi phí trong thời gian học
tập. Chủ trương chính sách này đã được triển khai thực hiện và đạt kết quả nhất định.
Chúng ta đang đối mặt với mâu thuẫn gay gắt giữa quy mô và chất lượng đào tạo, trong
hoàn cảnh đầu tư của Nhà nước, xã hội cho giáo dục đại học và năng lực đội ngũ cán bộ
giảng dạy, quản lý tuy từng bước được tăng cường nhưng còn rất chậm và thấp so với
yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo. Cơ sở vật chất của các trường đại học hiện còn yếu
kém và lạc hậu. Mức đầu tư cho giáo dục mới đạt 6% GDP, trong khi ở Mỹ là 7,2% (số
liệu năm 2006). Tổng chi cho giáo dục gần 4,8 tỉ USD vào năm 2006.Đầu tư cho giáo
dục ở nước ta còn thấp. Có những nghiên cứu đã đưa ra con số chi phí trung bình cho 1
sinh viên trong 1 năm ở Việt Nam hiện nay ước tính ở mức trên dưới 400 USD trong khi
ở các nước khoảng từ 2.000 đến 10.000 USD/năm.
Trong vòng 6 năm (2001-2006), số trường dạy nghề tăng từ 156 trường lên 262 trường;
số trung tâm dạy nghề tăng từ 150 trung tâm lên 599 trung tâm và đã phát triển được hơn
1000 cơ sở dạy nghề khác trên phạm vi toàn quốc. Số lượng cơ sở dạy nghề tư thục tăng
nhanh, đã có một số cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với đó, quy mô đào
tạo nghề tăng nhanh, giai đoạn 2001-2006 đã dạy nghề cho 6,6 triệu người (tăng bình
quân hàng năm 6,5%), trong đó dạy nghề dài hạn đạt 1,14 triệu người (tăng bình quân
15%/năm; dạy nghề ngắn hạn đạt 5,46 triệu người (tăng bình quân gần 6%/năm). Quy mô
dạy nghề trong những năm qua tăng nhanh đã nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ
13,4% năm 2001 lên khoảng 20% năm 2006, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo nghề từng bước được điều
chỉnh theo cơ cấu ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Các cơ sở dạy nghề đã

mở thêm nhiều nghề đào tạo mới mà thị trường lao động có nhu cầu. Bên cạnh việc đào
tạo các nghề phục vụ cho các khu công nghiệp, khu chế xuất các cơ sở dạy nghề đã tổ
chức đào tạo các nghề phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn và giải quyết việc làm cho người lao động.
Hiện có 75% số trường Đại học, Cao đẳng có khoa kinh tế hoặc khoa Quản trị kinh doanh
thuộc các tỉnh phía Bắc có môn học thương mại điện tử(TMĐT). Thời lượng các môn
học ở mức phổ biến là 45 tiết, riêng Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp I
có 90 tiết và Đại học Ngoại thương có 60 tiết. Nhưng cũng còn nhiều trường, nhiều khoa
mới đang xây dựng chương trình TMĐT, trong đó có cả những trường thuộc ngành
thương mại như Trường Cán bộ Thương mại Trung ương. Mặc dù tỉ lệ số trường có
chương trình đào tạo TMĐT là khá cao ( 75% ở miền Bắc) nhưng nhìn chung, đội ngũ
giảng viên cho chuyên ngành này chưa đáp ứng được nhu cầu.
Nhóm 15
25

×