TIỂU LUẬN:
Vai trò của ISO 9000 đối với sự
phát triển của các DNCN Việt Nam
phần I : lời Mở Đầu
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá về kinh tế, cạnh tranh trên thị trường
ngày càng trở nên quyết liệt, chất lượng sản phẩm, sự hợp lý về giá cả và dịch vụ
thuận tiện sẽ là những yếu tố quyết địnhđến sự thành bại của các doanh nghiệp, các
công ty cũng như của các quốc gia trên thị trường quốc tế.
Vì vậy, vấn đề chất lượng sản phẩm, dịch vụ ngày nay không chỉ được đặt ra ở
cấp độ công ty, mà còn là một trong những mục tiêu có tầm chiến lược quan trọng
trong các chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế của nhiều quốc gia
và khu vực.
Trong những năm qua ở Việt nam, cùng với sự phát triển vượt bậc về kinh tế nhờ
những chính sách phù hợp, trong sản xuất Công nghiệp, Thương mại, Dịch vụ
chúng ta đã có nhiều sản phẩm có chất lượng cao chiếm lĩnh được thị trường trong
nước, một số mặt hàng đã có thị trường xuất khẩu ổn định, tạo được nguồn thu đáng
kể cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, so với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước cũng
như xuất khẩu, chất lượng sản phẩm Việt nam nói chung vẫn còn thấp và chưa ổn
định .Do đó, để có thể cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, chúng ta cần phải nâng
cao hơn nữa chất lượng và vị thế cạnh tranh của các sản phẩm Việt nam. Điều đó lại
càng trở nên quan trọng hơn khi chúng ta là thành viên chính thức của ASEAN, trong
tương lai sẽ trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO). Như vậy,
công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế đang đặt ra trước mắt các nhà xản suất Việt
nam những nhiệm vụ và thách thức nặng nề. Để có thể hoàn thành tốt sứ mạng quan
trọng này, đòi hỏi các doanh nghiệp, các quản trị gia phải có những kiến thức và kinh
nghiệm nhất định trong việc quản lý các hoạt động xản suất kinh doanh.
Bằng nhận thức và tham khảo tìm đọc các tài liệu, em viết bài: “Vai trò của ISO
9000 đối với sự phát triển của các DNCN Việt Nam “ nhằm góp phần nhỏ của
mình vào xu thế chung của đất nước, và bằng kiến thức của mình để nêu rõ được các
vấn đề cần đề cập đến trong bài viết này.
phần II : Nội Dung
CHƯƠNG I : Tổng quan về chất lượng Và hệ thống quản lý chất lượng
1. Tổng quan về chất lượng.
1.1- Một số quan điểm về chất lượng:
1.1.1- Quan điểm về chất lượng của chuyên gia W.Edward.Deming (Mỹ):
Theo ông : “Chất lượng là một mức độ dự báo được về độ đồng đều và độ tin cậy
với chi phí thấp và phù hợp với thị trường”.
Và ông đã nhìn nhận về chất lượng như sau:
Chất lượng và hiệu suất tăng thì độ biến động giảm. Sử dụng kiểm soát bằng
thống kê sẽ mang lại được khả năng kiểm soát các biến động và khả năng dự báo
về giới hạn của các biến động đó.
Chất lượng đạt được cần thiết phải có sự tham gia của toàn thể nhân viên-Nhưng
lãnh đạo chịu trách nhiệm 90% các vấn đề về chất lượng. Deming đã đề ra 14
điểm cần thiết cho lãnh đạo để nâng cao chất lượng.
1.1.2- Quan điểm về chất lượng của chuyên gia Kaoru Ishikawa(Nhật):
Chất lượng là sự thoả mãn nhu cầu với chi phí thấp nhất:
Trách nhiệm về chất lượng phụ thuộc 80-85% vào ban lãnh đạo.
Chất lượng phải dựa trên căn bản là Đào tạo-Huấn luyện-Giáo dục thường xuyên.
Tóm lại, qua các quan điểm nghiên cứu ở trên, ta thấy chất lượng có vai trò quan
trọng, nó là vấn đề mà mọi nhà kinh doanh phải nghiên cứu tìm hiểu, để từ đó có giải
pháp tối ưu phù hợp với hệ thống môi trường mà mình đang tồn tại và quản lý.
1.2- Định nghĩa về chất lượng (Quality).
Theo tiêu chuẩn TCVN ISO 8402 thì : “Chất lượng là tập hợp các đặc tính của
một thực thể, đối tượng, tạo cho thực thể, đối tượng đó có khảng năng thoả mãn
nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn ”.
Từ những quan niệm trên có thể thấy rằng “Chất lượng” không chỉ là việc thoả
mãn một quy cách kỹ thuật hay một yêu cầu cụ thể nào đó, mà có nghĩa rộng hơn rất
nhiều- đó là sự thoả mãn những mong muốn của khách hàng.
1.3- Tầm quan trọng của chất lượng đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Những năm gần đây ở Việt Nam, trong bước đầu tiếp cận với nền kinh tế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, chúng ta ngày càng nhận rõ tầm quan trọng của
những vấn đề liên quan đến chất lượng. Nhất là sau khi chúng ta trở thành thành viên
chính thức của ASEAN.Gia nhập ASEAN chúng ta phải chấp nhận luật chơi của kinh
tế thị trường AFTA và CEPT, từng bước đến năm 2003 chỉ được đánh thuế 0% đến
5%đối với các mặt hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN. Điều này có thể nói là một
thách thức lớn đối với mặt hàng Việt nam, bởi lẽ khi đó hàng hoá các nước ASEAN
sẽ dễ dàng xâm nhập thị trường Việt nam, hàng hoá Việt nam sẽ phải cạnh tranh rất
mạnh mẽ ngay trên thị trường trong nước với một mặt bằng giá và chất lượng như
hiện nay, liệu các sản phẩm Việt nam có đủ sức cạnh tranh và vươn ra thị trường
quốc tế hay không?
Nhưng ngược lại, mở cửa thị trường với ASEAN chúng ta có thêm sức mua của
400 triệu dân, chúng ta có điều kiện để học hỏi, trao đổi hợp tác kinh tế, văn hoá thể
thao, công nghệ, thu hút đầu tư trong nhiều lĩnh vực, từ đó mở ra một chương trình
mới để Việt nam có thể nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giơí. Điều đó sẽ là
động lực thúc đẩy Việt nam phải cố gắng và nỗ lực hơn nữa để rút ngắn khoảng cách
kinh tế, bằng nhịp độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bằng sự học hỏi kinh
nghiệm quản lý, thành thạo, thích nghi và đáp ứng tốt nhất các tín hiệu của thị
trường.
Chất lượng đã trở thành Quốc sách của chúng ta trên con đường phát triển và hội
nhập vào nền kinh tế thế giới. Chất lượng là yếu tố quan trọng, song để có thể làm
chủ được nó lại là một vấn đề không đơn giản, mà đòi hỏi một cách nhìn nhận, một
sự quan tâm mới, không phải chỉ của những người “làm chất lượng”, của các cơ quan
quản lý, các công ty mà còn là một vấn đề liên quan tới tất cả mọi người trong xã hội.
Tuy nhiên, trách nhiệm đó trước hết thuộc về các nhà sản xuất, các nhà quản lý.
Do đó, để xây dựng được một mô hình quản lý chất lượng hữu hiệu, các nhà quản trị
cần phải biết những yêu cầu của thị trường ngày nay đối với công tác quản lý chất
lượng.
2- Một số yêu cầu thực tiễn đối với một hệ thống quản lý chất lượng
Để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần thiết phải xây
dựng được một hệ thống chất lượng phù hợp. Đây là một nhu cầu tất yếu và xuất
phát từ một số yêu cầu thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh như sau:
2.1- Yêu cầu của một hệ thống quản lý kinh tế thống nhất trong doanh nghiệp
Quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô cũng như vi mô thực chất là một quá trình quản lý về
mặt lượng, mặt chất và con người nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là: Khai thác mọi
tiềm năng, sử dụng hợp lý, hiệu quả và tiết kiệm nhất các nguồn lực để nâng cao
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, dịch vụ thoả mãn tối đa nhu cầu của xã hội
với chi phí thấp nhất.
Quản lý chất lượng là quản lý mặt chất của hệ thống, nó liên quan đến mọi bộ
phận, mọi người và mọi công việc trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Vì vậy, để đạt được mức chất lượng cao nhưng ít tốn kém nhất, cần phải quản lý chặt
chẽ và kiểm soát được mọi yếu tố của quy trình. Đó chính là mục tiêu lớn nhất của
công tác Quản lý chất lượng trong doanh nghiệp ở bất kể quy mô nào.
2.2- Đòi hỏi của quá trình cạnh tranh
Khi đánh giá khả năng cạnh tranh của một sản phẩm, một doanh nghiệp, người ta
thường xem xét đến 3 tiêu chuẩn hàng đầu là: chất lượng sản phẩm, gía cả và những
điều kiện giao hàng (Quality,Price,Delivery) đối với sản phẩm đó.
Chính vì vậy, việc liên tục hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ và không ngừng cải
tiến hoàn thiện chất lượng đã trở thành mục tiêu quan trọng trong các hoạt động của
nhiều công ty trên thế giới. Tuy nhiên, đây không phải là một vấn đề đơn giản, mà là
kết quả tổng hợp của toàn bộ các nỗ lực trong suốt quá trình hoạt động của đơn vị, nó
phụ thuộc vào tất cả nhân viên và cán bộ quản lý và đặc biệt trong đó là hiệu quả
của một hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ.
Quan tâm đến chất lượng, thiết lập được một hệ thống chất lượng hữu hiệu là một
trong những phương thức tiếp cận và tìm cách đạt được những thắng lợi trong sự
cạnh tranh gay gắt trên thương trường, nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của doang
nghiệp.
2.3- Do nhu cầu của người tiêu dùng:
Kinh tế phát triển, nhu cầu xã hội ngày càng tăng cả về mặt lượng và mặt chất,
dẫn đến sự thay đổi to lớn trong nhận thức của người tiêu dùng khi lựa chọn một sản
phẩm hoặc phương án tiêu dùng. Người tiêu dùng có thu nhập cao hơn, hiểu biết hơn
nên có những yêu cầu ngày càng cao, càng khắt khe hơn đối với sản phẩm. Những
đòi hỏi đó ngày càng đa dạng, phong phú.
Để thoả mãn người tiêu dùng, các sản phẩm phải có:
Khả năng thoả mãn nhiều hơn công dụng chính của chúng (sự phù hợp về kiểu
dáng, hiệu năng cao khi sử dụng, giá cả sự an toàn, vệ sinh môi trường ).
Một cơ cấu mặt hàng phong phú chất lượng cao, để đáp ứng sự lựa chọn của
người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Những bằng cớ xác định về việc chứng nhận, công nhận chất lượng sản phẩm,
chất lượng hệ thống theo những quy định, luật lệ quốc tế.
Những dịch vụ bán và sau khi bán phải được tổ chức tốt
Tất cả những khả năng đó chỉ có thể có được khi doanh nghiệp có một hệ thống
quản lý chất lượng thực sự hiệu quả.
2.4- Đòi hỏi về sự cân bằng giữa chất lượng và bảo vệ môi trường
Thực tế cho thấy rằng, trong rất nhiều nhân tố làm ô nhiễm môi trường thì những
tác động gây ra bởi hoạt động của các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ
trọng lớn. Bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng có những mối liên quan
giữa quy mô, quy trình sản xuất và vấn đề an toàn môi trường.
Muốn sản phẩm có chất lượng cao mà tiết kiệm được tài nguyên và ngăn ngừa
được ô nhiễm môi trường sinh thái các nhà sản xuất phải có được hệ thống quản lý
tốt từ khâu thiết kế, thẩm định, lập kế hoạch đến sản xuất và việc sử lý các sản phẩm
sau khi sử dụng.
Những năm gần đây, trên thế giới các nhà kinh tế và quản lý đã sử dụng nhiều
biện pháp đánh giá tác động và kiểm soát môi trường. Trong sản xuất kinh doanh,
người ta đã đưa ra các tiêu chuẩn chung, nhằm hướng dẫn các nhà quản trị, quản lý
tốt chất lượng sản phẩm và quản lý môi trường như: Tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO
14000.
2.5-Yêu cầu về tiết kiệm
Lãng phí và tiết kiệm là hai mặt đối lập. Bởi vậy, trước tiên, về mặt tư tưởng,
muốn chống lãng phí phải giáo dục về tinh thần tiết kiệm, phải có sự phối hợp đồng
bộ trên nhiều lĩnh vực (cơ chế, chính sách, luật pháp, việc kiểm tra, kiểm soát ).
Tiết kiệm trong kinh tế là tìm các giải pháp sản xuất - kinh doanh tối ưu, cho phép
tiết kiệm tối đa trên giá thành mà vẫn đảm bảo chất lượng, đủ sức cạnh tranh giá cả
với sản phẩm nước ngoài ở trong nước và thế giới, là tìm giải pháp tối ưu cho việc sử
dụng nguyên vật liệu, là sáng tạo, sản xuất ra các mặt hàng có nhiều giá trị gia tăng,
có hàm lượng chất xám cao hơn.
CHƯƠNG II
Giơí thiệu bộ tiêu chuẩn chất lượng
TCVN ISO 9000
1. Giới thiệu chung về bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000
1.1- Quá trình hình thành và phát triển của Bộ tiêu chuẩn ISO 9000.
Việc hình thành Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 bắt nguồn từ việc nghiên cứu các Tiêu
Chuẩn Đảm Bảo chất lượng cho các dự án quân sự (MIL, STD 9858A) do Uỷ Ban
Đảm Bảo Chất Lượng của Hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) công bố
vào năm 1955. Đến năm 1968, Bộ quốc phòng Anh biên soạn lại và công bố thành
tiêu chuẩn DEF.STAN 05-08. Vào những năm 1972-1973, Viện tiêu chuẩn Anh quốc
(BSI) phát hành các tiêu chuẩn BS 4891 - Hướng dẫn đảm bảo chất lượng, rồi BS
5179 - Tiêu chuẩn hướng dẫn bảo đảm chất lượng áp dụng trong các hoạt động ngoài
lĩnh vực quốc phòng.Đến năm 1979, BSI đưa ra tiêu chuẩn BS 5750 - Hướng dẫn xây
dựng hệ thống quản trị và bảo đảm chất lượng. Tiêu chuẩn này có thể được coi là tiền
thân của tiêu chuẩn ISO 9000.
Dự báo trước một thị trường toàn cầu, Tổ chức Tiêu chuẩn hoá quốc tế thành lập
Uỷ ban kỹ thuật TC 176 để nghiên cứu một tiêu chuẩn hoá quốc tế về quản trị chất
lượng. Sau 7 năm nghiên cứu, tháng 3 năm 1987, ISO đưa ra bộ tiêu chuẩn ISO 9000,
tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên về quản lý chất lượng.
1.2- ý nghĩa của việc ra đời Bộ tiêu chuẩn ISO 9000
áp dụng Tiêu chuẩn ISO 9000 là một đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển,
hợp tác kinh tế, thương mại quốc tế, là cơ sở để hàng hoá có thể trao đổi dễ dàng,
khắc phục được những khác biệt giữa các tiêu chuẩn của quốc gia và khu vực khác
nhau. Đây chính là điều kiện để hàng hoá có thể vượt được các hàng rào kỹ thuật
trong thương mại quốc tế. Việc doanh nghiệp được chứng nhận phù hợp với ISO
9000 không những mang lại nhiếu lợi ích về mặt kinh tế nhờ giảm được những chi
phí do chất lượng thấp gây ra, mà còn có thể chứng minh với khách hàng về khả năng
quản lý và đảm bảo chất lượng. Giấy chứng nhận phù hợp với ISO 9000 là một bằng
chứng khách quan có giá trị do một tổ chức thứ ba đánh giá và cấp cho doanh nghiệp,
xác nhận rằng doanh nghiệp đã và đang áp dụng một hệ thống quản lý chất lượng
theo các tiêu chuẩn quốc tế.
2.1- Nhóm các tiêu chuẩn nhằm đảm bảo chất lượng
Gồm 3 tiêu chuẩn ISO 9001, ISO 9002 và ISO 9003. Đây là nhóm tiêu chuẩn
quan trọng nhất, nhằm đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo chất lượng của hệ thống.
Tiêu chuẩn ISO 9001: Tiêu chuẩn về Hệ thống nhằm đảm bảo chất lượng trong thiết
kế, phát triển sản xuất lắp đặt và dịch vụ. Xác định rõ các yêu cầu của hệ thống chất
lượng đối với nhà cung cấp nhằm đảm bảo phù hợp với các yêu cầu quy định trong
thiết kế, triển khai, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ kỹ thuật.
Tiêu chuẩn ISO 9002: Tiêu chuẩn về Hệ thống chất lượng. Mô hình đảm bảo chất
lượng trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụ. Xác định yêu cầu của hệ thống chất lượng
đối với nhà cung cấp, đảm bảo phù hợp với các yêu cầu trong sản xuất, lắp đặt và
dịch vụ.
Tiêu chuẩn ISO 9003: Tiêu chuẩn về mô hình đảm bảo chất lượng trong khâu kiểm
tra và thử nghiệm cuối cùng. Xác định rõ các yêu cầu hệ thống chất lượng và cung
cấp các mô hình đảm bảo chất lượng chứng tỏ khả năng của nhà cung cấp trong việc
phát hiện và kiểm soát bất kỳ sự không phù hợp của sản phẩm, được chỉ rõ trong
khâu kiểm tra và thử nghiệm cuối cùng.
2-Những lợi ích của việc áp dụng TCVN ISO 9000
Như phần trên đã trình bầy, Tiêu chuẩn ISO 9000 là những tiêu chuẩn về mô hình
quản lý một hệ thống không những làm nâng cao chất lượng, mà còn nâng cao hiệu
quả của các hoạt động của doanh nghiệp. Nó có thể được áp dụng rộng rãi cho các
lĩnh vực sản xuất và dịch vụ ở tất cả các quy mô. Nhờ áp dụng ISO 9000, doanh
nghiệp có thể có những lợi ích sau:
2.1- Lợi ích bên trong
Nhờ mô hình quản lý theo các yêu cầu của ISO 9000, doanh nghiệp có thể thực
hiện các yêu cầu về chất lượng sản phẩm một cách có hiệu quả và tiết kiệm nhất,
nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Nhờ có một hệ thống hồ sơ, tài liệu chất
lượng, doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp làm việc đúng ngay từ đầu, có thể
xác định đúng nhiệm vụ và chỉ ra cách thực hiện để đạt kết quả mong muốn. Hệ
thống hồ sơ đó có thể cũng làm tài liệu để đào tạo và huấn luyện nội bộ. Do đó các
nhà điều hành không cần phải can thiệp thường xuyên vào các tác nghiệp kinh doanh.
Công ty có thể chủ động trong việc đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu bằng cách
yêu cầu người cung cấp thiết lập hệ thống làm việc theo ISO 9000.
2.2- Lợi ích đối với bên ngoài
Trong giao dịch thương mại gần đây, đa số khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải
áp dụng một mô hình đảm bảo chất lượng cụ thể theo ISO 9000 để họ chắc chắn
được đảm bảo cung cấp sản phẩm đúng yêu cầu. Lúc đó ISO 9000 được ghi thành
điều khoản trong hợp đồng giữa doanh nghiệp và khách hàng.
Trong nhiều trường hợp, khi nhà cung cấp có nhiều địa điểm sản xuất cùng loại
sản phẩm mà chỉ vài điểm được chứng nhận ISO 9000, khách hàng thường chỉ chọn
những địa điểm đã được chứng nhận này. ISO 9000 được coi là cơ sở để khách hàng
đánh giá hệ thống quản lý chất lượng của doanh nghiệp, có sự tin tưởng có thể giúp
giảm việc thẩm định nhiều lần. Doanh nghiệp có thể đưa ra các mục tiêu đựơc sử
dụng để chứng minh chất lượng sản phẩm và dịch vụ của công ty. Các hoạt động đó
có thể được các chuyên gia đánh giá và đại diện khách hàng kiểm soát.
3- Những yêu cầu cơ bản của TCVN ISO 9000
Trong các tiêu chuẩn thuộc nhóm Đảm bảo chất lượng, thì tiêu chuẩn TCVN ISO
9000 là đầy đủ, bao trùm lên toàn bộ những hoạt động trong hệ thống chất lượng.
Chính vì vậy, khi nghiên cứu ISO 9000 ta có thể thấy được những yêu cầu chung
nhất của 20 điều khoản về đảm bảo chất lượng đối với từng công việc cụ thể. Trên cơ
sở đó, có thể lựa chọn những tiêu chuẩn và điều khoản liên quan đến lĩnh vực hoạt
động của doanh nghiệp để triển khai áp dụng.
Dưới đây là những yêu cầu có tính chất tổng quát của các điều khoản thuộc
TCVN ISO 9000.
Điều khoản 4.1: Trách nhiệm lãnh đạo.
Lãnh đạo hoặc người được uỷ quyền phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
4.1.1- Xây dựng chính sách chất lượng của Doanh nghiệp.
Mục đích: Định hướng cho các hoạt động của quản lý chất lượng của doanh nghiệp.
Điều khoản 4.2: Hệ thống chất lượng .
Mục đích: Lập văn bản những công việc mà doanh nghiệp cần thực hiện để đạt được
chất lượng.
4.2.2- Các thủ tục của hệ thống chất lượng.
Mục đích: Lập thủ tục và bảo đảm thực hiện hiệu quả.
4.2.3- Lập kế hoạch chất lượng
Mục đích: Hoạch định những công việc mà doanh nghiệp chuẩn bị làm để đạt chất
lượng mong muốn.
Điều khoản 4.3 : Xem xét hợp đồng.
Mục đích: Bảo đảm doanh nghiệp hiểu và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
Điều khoản 4.4 : Kiểm soát thiết kế
Mục đích : Chuyển đổi các nhu cầu của khách hàng thành các thông số kỹ thuật .
Điều khoản 4.5: Kiểm soát hồ sơ dữ liệu
Mục đích: Cung cấp tài liệu và thông tin chính xác.
Điều khoản 4.6: Kiểm soát mua hàng
Mục đích : Tránh những vấn đề do nguyên vật liệu mua về gây ra.
Điều khoản 4.7: Kiểm soát sản phẩm do khách hàng cung cấp .
Mục đích : Đảm bảo sản phẩm do khách hàng cung cấp vẫn còn sử dụng được
Điều khoản 4.8: Nhận biết và xác định nguồn gốc sản phẩm.
Mục đích: Để biết nguồn gốc hàng hoá, các bộ phận cấu thành và thành phẩm được
cung cấp.
Điều khoản 4.9 : Kiểm soát quá trình.
Mục đích: Làm chủ được các yếu tố của hệ thống chất lượng.
Điều khoản 4.10: Kiểm tra và thử nghiệm
Mục đích: Kiểm tra hàng hoá vừa nhập về và các quá trình để đáp ứng yêu cầu đề
ra.
Điều khoản 4.11:Kiểm soát thiết bị kiểm tra, đo lường và thử nghiệm.
Mục đích: Đảm bảo sử dụng đúng thiết bị để kiểm tra công việc.
Điều khoản 4.12: Tình trạng kiểm tra và thử nghiệm.
Mục đích: Xác định tình trạng sản phẩm trước khi đưa vào giai đoạn sản xuất tiếp
theo hoặc trước khi xuất đi.
Điều khoản 4.13: Kiểm soát sản phẩm không phù hợp
Mục đích: Thiết lập cách xác định và xử lý các sản phẩm không phù hợp.
Điều khoản 4.14: Hoạt động phòng ngừa và khắc phục
Mục đích: Thực hiện các vấn đề đúng cách và ngăn ngừa chúng khỏi tái diễn.
Điều khoản 4.15: Xếp dỡ, lưu kho, bao gói, bảo quản và giao hàng.
Mục đích: Đảm bảo xếp dỡ hàng hoá thích hợp.
Điều khoản 4.16: Kiểm soát hồ sơ chất lượng.
Mục đích: Lập bằng chứng (hồ sơ) các hoạt động được thực hiện.
Điều khoản 4.17: Đánh giá chất lượng nội bộ.
Mục đích: Để khẳng định công ty đã làm những gì đã nói.
Điều khoản 4.18: Đào tạo
Mục đích: Đảm bảo nhân viên phải được đào tạo chính quy.
Điều khoản 4.19: Dịch vụ
Mục đích : Lập thủ tục dịch vụ sau khi bán
Điều khoản 4.20: Kỹ thuật thống kê
Mục đích: Xác minh công ty của bạn cần kỹ thuật thống kê và lấy mẫu.
CHƯƠNG III
Thực trạng và các giải pháptrong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm theo Bộ
tiêu chuẩn ISO 9000
trong các dncn Việt nam
1- Thực trạng chung:
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, việc có được chỗ đứng vững chắc
trên thị trường là mong đợi của tất cả các doanh nghiệp. Để có thể làm được điều
này, đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao uy tín, chất lượng
sản phẩm của doanh nghiệp mình. Như trên đã phân tích, thì chất lượng được coi là
cứu cánh hàng đầu mà mọi doanh nghiệp phải cố gắng đáp ứng đựơc tiêu chuẩn về
chất lượng theo Bộ tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000 đã đề ra- hiện nay đã có 20 tiêu
chuẩn đã được thông qua, có thể nói là những tiêu chuẩn đó tưng đối là phù hợp với
điều kiện Việt nam hiện nay. Tuy đã có phương hướng thực hiện như vậy, nhưng
thực tế thì việc triển khai thực hiện còn nhiều còn nhiều vấn đề phải xem xét.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt nam đã dược cấp chứng chỉ chất lượng quốc tế
ISO 9000 đã nói rằng chi phí cho việc đó là từ 10000$ đến 90000$, và nó còn phụ
thuộc vào quy mô của từng công ty. Nhưng, kết quả mang lại thì khá khả quan.
Ví dụ như : công ty hoá mỹ phẩm Daso-Dacco đã giảm được 90% các sản phẩm kém
chất lượng, Công ty công nghiệp cao su phía Nam đã giảm được 30%, kể từ khi nhận
được chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng.
Đến nay, việc muốn nâng cao chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp đã thể
hiện rõ. Nhiều doanh nghiệp của ta do có ý muốn cải thiện hệ thống quản lý chất
lượng của mình, hoặc đòi hỏi của khách hàng đã có ý thức tiếp cận với bộ tiêu chuẩn
này. Năm 1996, Công ty Chiếu sáng và Thiết bị đô thị tiếp cận tiêu chuẩn ISO 9000.
Cùng thời gian đó, Công ty tiếp xúc với một số nhà thầu nước ngoài như
OBAYASHI- đơn vị thắng thầu khu công nghiệp Nomura Hải phòng, TAISEI- thắng
thầu thi công cuốc lộ 5. Hai nhà thầu này đòi hỏi Cty phải có chứng chỉ công nhận
chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9000. Ban lãnh đạo công ty quyết định tham
gia với mục tiêu đủ sức cạnh tranh với những sản phẩm chiếu sáng của các hãng
nước ngoài - nhằm chiếm lĩnh thị phần, thay thế hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, so với
các nứơc trong khu vực thì tiến độ thực hiện bộ tiêu chuẩn chất lượng ở Việt Nam là
chậm. Trong 3 năm đầu thực hiện, đã có khoảng 60 doanh nghiệp đạt ISO 9000, sang
năm có thể có thêm từ 200-300 doanh nghiệp nữa sẽ áp dụng. Tính đến tháng
11/1998 cả nước có 17 doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 9000,trong đó hầu hết
là các doanh nghiệp Liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Điều này có nguyên
nhân - nhu cầu áp dụng ISO 9000 chủ yếu do yêu cầu của khách hàng. Bởi thế, các
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá cho thị trường nội địa hoặc thị trường quốc tế mà ở
đó không đòi hỏi ISO 9000 thì hầu như không quan tâm. Một hạn chế trong việc áp
dụng ISO 9000 với các doanh nghiệp Việt nam phải tính đến là con người (người
quản lý,công nhân ) hay thay đổi, nên tính ổn định và kế thừa thấp, doanh nghiệp ít
quan tâm. Bà Nguyễn Thị Bích Hạnh-Trung tâm Năng Suất-Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo
lường-Chất lượng chỉ ra một số điểm sau:
Một số lãnh đạo phó thác công việc xây dựng hệ thống chất lượng cho một vài
người trong công ty, chẳng hạn như cán bộ KCS.
Một số lãnh đạo hiểu rằng thực hiện ISO 9000 là thay đổi cả tổ chức nên e ngại,
không muốn thực hiện. Điều đó chứng tỏ sự am hiểu, lòng quyết tâm, khả năng
chỉ đạo và trách nhiệm của lãnh đạo các doanh nghiệp chưa cao.
Rập khuôn hệ thống theo một công ty khác.
Nôn nóng đạt tiêu chuẩn nên đốc thúc nhân viên tập trung quá mức vào xây dựng
ISO 9000 mà lơ là các hoạt động khác của công ty, trong khi đó sự hiểu biết về
tiêu chuẩn ISO 9000 của cán bộ công nhân viên, kể cả ban lãnh đạo chưa chắc đã
rõ.
Coi nguồn tài chính (để mua công nghệ mới) là đầu vào duy nhất. Thực ra yếu tố
con người mới là quan trọng
Phải chăng đó là những chở ngại khiến cho ít doanh nghiệp của ta đạt tiêu chuẩn
ISO 9000.
Trong một cuộc Hội thảo về chất lượng do Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất
lượng tổ chức đầu năm 1998, một cán bộ của Ban chứng nhận chất lượng đã nêu ra
con số dự kiến đến năm 2000, Việt nam sẽ có xấp xỉ 200 doanh nghiệp được cấp
chứng nhận hợp chuẩn ISO 9000. Theo như thực tế cho thấy, để có thể đạt được con
số dự kiến trên thì cần phải có một hệ thống giải pháp tổng thể từ sự chỉ đạo của bộ
chủ quản đến sự hỗ trợ lãnh đạo các Tổng công ty và sự năng động tích cực của các
doanh nghiệp.
2- Một số giải pháp
Ban lãnh đạo công ty cũng như cán bộ công nhân viên trong công ty cần phải
được đào tạo huấn luyện về ISO 9000, cũng như phải nhận thức rõ tầm quan trọng
của chính sách chất lượng. Có như vậy, hệ thống đảm bảo chất lượng mới hoạt động
có hiệu quả và chất lượng mới không ngừng được cải tiến. Việc kiểm tra thường
xuyên trong nội bộ giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp thấy rõ hiệu quả của hệ thống có
còn đáp ứng yêu cầu và mục đích đặt ra hay không để có biện pháp chấn chỉnh.
Cần phải thay đổi tác phong làm việc trong công tác quản lý của ban lãnh đạo
công ty sao cho phù hợp, đáp ứng được với phong cách khoa học, chính xác của tiêu
chuẩn ISO 9000.
Tuỳ thuộc vào điều kiện, mức độ cho phép của công ty mà ban lãnh đạo công ty
chọn một tiêu chuẩn ISO nào là phù hợp. Sau đó cần xác định được sứ mệnh tối cao
của công ty theo một kế hoạch tổng thể, để từng bước tiến hành hoạt động. Cần phải
tổ chức được đội ngũ nhân lực theo một quy định chung của công ty.Về phía Nhà
nước, cần phải có chính sách trợ giúp tài chính cho các doanh nghiệp trong thời gian
đầu xây dựng và áp dụng ISO 9000. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
bằng việc cung cấp các tài liệu, hồ sơ để tìm hiểu rõ về Bộ tiêu chuẩn chất lượng ISO
9000. Để từ đó doanh nghiệp có nhận thức sát thực về lợi ích của Bộ tiêu chuẩn ISO
9000.
phần III : Kết luận
Trước ngưỡng cửa hoà nhập vào AFTA và WTO, Đảng và Nhà nước cần phải
chủ động đối phó trong mọi tình thế sao cho có lợi nhất đối với nền kinh tế nước nhà.
Điều đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những chính sách đúng đắn, phù hợp với
điều kiện của Việt nam. Việc tham gia vào thị trường quốc tế là một thách thức cũng
như một vận hội mới đối với Việt nam.
Cùng với sự tham gia của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp phải nỗ lực hết
mình để có thể cạnh tranh được với các sản phẩm trong khu vực cũng như trên thế
giới. Một lần nữa, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những thay đổi phù hợp về cơ
cấu tổ chức quản lý; nâng cao chất lượng sản phẩm tương ứng với tiêu chuẩn chất
lượng quốc tế; không ngừng cập nhật thông tin; đổi mới công nghệ hiện đại, tiên tiến
và phù hợp
Với nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thị trường trong nước và nước ngoài, qua
sự phân tích trên ta thấy chất lượng sản phẩm cao là nhân tố quyết định thành công
của doanh nghiệp và ngược lại, chất lượng thấp là nguyên nhân dẫn đến thua lỗ.
Trong việc xác lập chính sách chất lượng của doanh nghiệp, thì chính sách chất
lựơng phải chỉ rõ các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp phải có trách nhiệm về luật
pháp và đạo đức đối với chất lượng. Chính sách chất lượng còn phải thoả mãn một
cách hợp lý lợi ích của doanh nghiệp, người đặt hàng và xã hội. Mục tiêu của chính
sách chất lượng là tôn trọng lợi ích của khách hàng trong các giai đoạn nghiên cứu,
thiết kế, sản xuất, tiêu thụ bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm mà
không phải chi phí quá mức các nguồn nguyên liệu, tài chính và nhân lực của doanh
nghiệp. Thực hiện hài hoà mục tiêu đó có nghĩa là giảm được chi phí đến mức thấp
nhất cho một sản phẩm.Nói tóm lại, Chất lượng là vấn đề cốt lõi, không thể thiếu
trong các định hướng và các chính sách của Nhà nức nói chung và của cá nhân các
doanh nghiệp nói riêng. Điều đó được coi là một sự đầu tư đúng đắn trong tương lai,
nhằn đưa nền kinh tế của nước nhà ngày càng đi lên, tránh nguy cơ tụt hậu so với các
nước trong khu vực và trêh thế giới ./.
Tài liệu tham khảo
1. Quản trị chất lượng trong doanh nghiệp theo TCVN ISO 9000. NXB Thống kê-
1998.
2. TQM & ISO 9000 - NXB Thống kê 1997.
3. Quản trị chất lượng NXB Trẻ 1991.
4 Một số vấn đề về thực hiện hệ thống quản lý chất theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000
trong các doanh nghiệp Việt nam.
5. ISO 9000 và việc áp dụng ở các doanh nghiệp VN.
6. Các yếu tố giúp doanh nghiệp Việt nam áp dụng thành công ISO 9000.
7. Tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 9000 là một đầu tư trong tương lai.
Mục lục
Phần I: Lời mở đầu 1
phần II : Nội Dung 3
CHƯƠNG I : Tổng quan về chất lượng Và hệ thống quản lý chất lượng 3
1. Tổng quan về chất lượng. 3
1.1- Một số quan điểm về chất lượng: 3
1.2- Định nghĩa về chất lượng (Quality). 3
1.3- Tầm quan trọng của chất lượng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. 4
2- Một số yêu cầu thực tiễn đối với một hệ thống quản lý chất lượng 5
2.1- Yêu cầu của một hệ thống quản lý kinh tế thống nhất trong doanh nghiệp 5
2.2- Đòi hỏi của quá trình cạnh tranh 5
2.3- Do nhu cầu của người tiêu dùng: 6
2.4- Đòi hỏi về sự cân bằng giữa chất lượng và bảo vệ môi trường 6
2.5-Yêu cầu về tiết kiệm 7
CHƯƠNG II: Giơí thiệu bộ tiêu chuẩn chất lượng TCVN ISO 9000 7
1. Giới thiệu chung về bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 7
1.1- Quá trình hình thành và phát triển của Bộ tiêu chuẩn ISO 9000. 7
1.2- ý nghĩa của việc ra đời Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 8
2.1- Nhóm các tiêu chuẩn nhằm đảm bảo chất lượng 8
2-Những lợi ích của việc áp dụng TCVN ISO 9000 9
2.1- Lợi ích bên trong 9
2.2- Lợi ích đối với bên ngoài 9
3- Những yêu cầu cơ bản của TCVN ISO 9000 9
CHƯƠNG III: Thực trạng và các giải pháptrong việc đảm bảo chất lượng sản
phẩm theo Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 trong các dncn Việt nam 12
1- Thực trạng chung: 12
2- Một số giải pháp 14
phần III : Kết luận 14
Tài liệu tham khảo 15