ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ
BỘ MƠN KINH TẾ VĨ MƠ
TIỂU LUẬN
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH
Giảng viên hướng dẫn: Trần Bá Thọ
1
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN.......................................2
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT...............................................................5
1. Khái niệm và nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt nam hiện nay. .5
1.1. Khái niệm lạm phát:......................................................................5
1.2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát :..............................................5
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM....................................11
2.1. Bức tranh lạm phát năm 2021....................................................11
2.2 Lạm phát và những dự báo trong năm 2022...............................13
2.2.1 Dư địa kiểm soát lạm phát và dự báo....................................13
2.2.2 Những yếu tố chính hỗ trợ kiểm soát lạm phát......................15
2.3 Vấn đề lạm phát sau hậu COVID..................................................16
2.4 Kịch bản lạm phát của Việt Nam trước xung đột Nga – Ukraine. .17
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐỂ KIỀM CHẾ LẠM PHÁT......18
3.1. Giá của chính sách chống lạm phát............................................18
3.2. Các giải pháp giảm tỷ lệ lạm phát..............................................18
3.2.1 Nhóm giải pháp tác động vào tổng cung...............................19
3.2.2. Nhóm giải pháp nhằm mở rộng khả năng cung ứng hàng hoá
........................................................................................................20
3.2.3. Đề xuất một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở việt nam hiện
nay..................................................................................................20
KẾT LUẬN..............................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................23
3
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, lạm phát được xem là vấn đề nhạy cảm của các quốc gia, là một trong số
chỉ tiêu để đánh giá trình độ kinh tế phát triển của một quốc gia song lạm phát cũng là
công cụ gây trở ngại trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Nguyên nhân sâu xa
dẫn đến tình trạng lạm phát và làm ảnh hưởng đến tồn bộ nền kinh tế quốc dân, đời sống
xã hội là do chính sách tiền tệ của nhà nước .
Mặc dù cuộc cải cách của Việt Nam thời kì 1981-1991 đã gây ấn tượng lớn nhưng nền
kinh tế vẫn chưa ổn định mức lạm phát vẫn còn quá cao mà nền kinh tế Việt Nam vẫn cịn
phải đối phó với hàng loạt những vấn đề nghiêm trọng trong thời gian trước mắt này từ
năm 1994 trở về đây tình trạng lạm phát của nước ta đã giảm đi nhiều điều đó thể hiện
nền kinh tế nước ta đã ổn định được một phần lớn so với thời kì trước đây . Cùng với các
nước khác trên thế giới, tình hình lạm phát ở Việt Nam vẫn đang diễn ra nên nước ta cũng
đang khắc phục những thực trạng và tìm kiếm giải pháp phù hợp với nền kinh tế đất nước
để kìm hãm sự lạm phát giúp phát triển tồn diện nước nhà
Là sinh viên, chúng em thông qua các phương tiện truyền thơng để tìm hiểu và đưa ra
những giải pháp hợp lí để giảm tỉ lệ lạm phát. Vì vậy, nhóm đã chọn đề tài “ Tình hình
lạm phát ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp chính sách”
Do kiến thức cịn hạn chế và thời gian thực hiện ngắn nên khơng thể tránh khỏi những sai
sót. Chúng em mong nhận được những ý kiến góp ý của thầy.
4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm và nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt nam hiện nay
1.1. Khái niệm lạm phát:
Lạm phát là sự tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá
trị của một loại tiền tệ. Khi so sánh với các nước khác thì lạm phát là sự giảm giá trị tiền
tệ của một quốc gia này so với các tiền tệ của quốc gia khác.
1.2. Các nguyên nhân gây ra lạm phát :
Cái gì gây ra lạm phát là một câu hỏi phổ biến và điều mà ai cũng thắc mắc song vẫn
chưa tìm ra được câu trả lời kể cả những nhà kinh tế cũng có những bất đồng quan điểm
về vấn đề trên. Có nhiều lý thuyết để giải thích về nguyên nhân gây ra lạm phát nhưng
dưới đây sẽ là những lý thuyết chính để làm rõ điều trên.
- Trong ngắn hạn:
+ Lạm phát do cầu kéo: Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản
lượng đã đạt hoặc vượt quá mức tự nhiên.
Thực tế đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát dựa vào nguyên nhân gây ra lạm
phát : lạm phát được coi là do sự tồn tại của một mức cầu quá cao. Theo lý thuyết này
nguyên nhân của tình trạng dư cầu được giải thích do nền kinh tế chi tiêu nhiều hơn năng
lực sản xuất. Tuy nhiên chúng ta cần giải thích tại sao chi tiêu lại liên tục lớn hơn mức
sản xuất để cho định nghĩa này có sức thuyết phục, vì vậy chúng ta sẽ lần lượt xem xét
các thành tố của tổng cầu
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng
và đầu tư. Cụ thể là khi có làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh về nhu cầu tiêu dùng từ
đó làm giá của những mặt hàng này tăng lên, làm cho lạm phát tăng lên và ngược lại.
Tương tự, lạm phát cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc quan
của các nhà đầu tư làm tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên
Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá mức trong các
chương trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng
và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ
quyết định cắt giảm các chương trình chỉ tiêu cơng cộng hoặc các cơng trình đầu tư lớn
đã kết thúc thì mức giá sẽ giảm.
5
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu tác
động tới lạm phát trong nước theo một cách khác: Khi nhu cầu xuất khẩu tăng, lượng còn
lại để cung ứng trong nước giảm do vậy làm tăng mức giá trong nước. Ngoài ra nhu cầu
xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt trong chế độ tỷ giá
hối đối cố định, vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng lượng tiền cung
ứng. Tình hình ngược lại sẽ xảy ra khi khi nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn nước ngoài
chảy vào giảm do nền kinh tế thế giới hay trong khu vực lâm vào suy thối.
+ Lạm phát do chi phí đẩy:
Lạm phát cũng có thể xảy ra do tăng chi phí và có thể phát triển ngay cả khi thất nghiệp
và việc sử dụng nguồn lực cịn thấp. Vì tiền lương ( tiền cơng ) thường là chi phí sản xuất
quan trọng nhất, sự gia tăng tiền lương không phù hợp với tăng trưởng năng suất có thể
khơi mào cho q trình lạm phát. Nhưng lạm phát do chi phí đẩy có thể khơng dai dẳng
nếu chính sách tiền tệ tác động vào, trong trường hợp đó, tiền lương tăng dẫn đến thất
nghiệp cao hơn thay vì lạm phát cao hơn
Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu
nhập khẩu. Khi cơng đồn thành cơng trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh
nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Vịng xốy đi lên của tiền
lương và giá cả sẽ tiếp diễn và trở nên nghiêm trọng nếu chính phủ tìm cách tránh suy
thối bằng cách mở rộng tiền tệ
Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng
có thể gây ra lạm phát. Ở đây thuế gián thu ( kể cả thuế nhập khẩu, các loại lệ phí bắt
buộc) đóng một vai trị đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động trực tiếp tới giá cả hàng
hóa. Nếu so sánh với các nước phát triển là những nước có tỉ lệ thuế trực thu cao, chúng
ta có thể nhận định rằng ở các nước đang phát triển nơi mà thuế gián thu chiến tỷ trọng
lớn trong tổng nguồn thu từ thuế, thì thay đổi thuế gián thu dường như có tác động mạnh
hơn tới lạm phát
6
Hình 2. lạm phát do chi phí đẩy
Đối với nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên liệu , vật liệu thiết yếu mà nền
công nghiệp trong nước chưa sản xuất được thì sự thay đối giá của chúng ( có thể do giá
quốc tế thay đổi hoặc tỉ giá hối đối biến động) sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình
lạm phát trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng nội
tệ giảm mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng
mạnh và lạm phát sẽ bùng nổ.
Những yếu tố nêu trên có thể tác động riêng rẽ nhưng cũng có thể gây ra tác động tổng
hợp làm cho lạm phát có thể tăng tốc. Nếu chính phủ phản ứng q mạnh thơng qua các
chính sách thích ứng thì lạm phát có thể trở nên khơng kiểm sốt được như tình hình của
nhiều nước công nghiệp trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980.
+ Lạm phát ỳ: Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm
phát vừa phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một
tỷ lệ khá ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát
hồn tồn được dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về các
biến danh nghĩa được thanh tốn trong tương lai.
Hình 3. Lạm phát ỳ
7
Lạm phát ỳ xuất hiện là do lạm phát trong quá khứ ảnh hưởng đến kỳ vọng về lạm phát
trong tương lai và kỳ vọng này tác động đến tiền lương và giá cả mà mọi người ấn định.
Vào thời kỳ lạm phát cao của những năm 1970 ở Mỹ, R. Solow đã nắm bắt chính xác
khái niệm lạm phát ỳ và kết luận “Vì sao đồng tiền của chúng ta (nước Mỹ) lại mất giá?
Có lẽ chúng ta có lạm phát đơn giản là do chúng ta dự kiến lạm phát và chúng ta dự kiến
lạm phát vì chúng ta có nó”.
Hình 3 cho thấy lạm phát ỳ xảy ra như thế nào. Cả đường tổng cung và đường tổng cầu
cùng dịch chuyển lên trên với tốc độ như nhau. Sản lượng ln được duy trì ở mức tự
nhiên, trong khi mức giá tăng với một tỷ lệ ổn định theo thời gian.
- Trong dài hạn: cách tiếp cận tiền tệ và lạm phát
Lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về nguồn gốc sâu xa của hiện tượng
lạm phát. Tư tưởng cơ bản của các nhà tiền tệ là luận điểm cho rằng lạm phát về cơ bản là
hiện tượng tiền tệ. Tuy nhiên, nhiều tác giả khác, ví dụ như Friedman đã đi xa hơn và đề
ra một hình thái mạnh hơn của chủ nghĩa tiền tệ. Họ đã chỉ ra mối quan hệ nhân quả trực
tiếp giữa cung tiền và lạm phát: "Lạm phát ở đâu và bao giờ cũng là hiện tượng tiền tệ ...
và nó chỉ có thể xuất hiện một khi cung tiền tăng nhanh hơn sản lượng". Thực ra kết luận
này dựa trên hai điều:
+ Thứ nhất, các nhà tiền tệ cho rằng lạm phát gây ra bởi sự dư thừa tổng cầu so với tổng
cung, và nguyên nhân của sự dư cầu này là do có quá nhiều tiền trong lưu thơng. Nếu
cách giải thích này đúng về mặt lịch sử, thì nó khẳng định rằng lạm phát gây ra bởi sức
ép từ phía cầu, chứ khơng phải từ phía cung
+ Thứ hai, các nhà tiền tệ giả thiết rằng mối quan hệ nhân quả bắt nguồn từ cung ứng
tiền đến mức giá, chứ không phải ngược lại là giá cả tăng lên làm tăng lượng tiền cung
ứng. Để hiểu mối quan hệ đó chúng ta phải xem xét cơ chế lan truyền. Với giả thiết về thị
trường cân bằng, và bắt đầu từ vị trí cân bằng trên thị trường tiền tệ, khi đó sự gia tăng
trong cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự mất cân bằng trên thị trường tiền tệ. Để thiết lập
trạng thái cân bằng, một phần của số tiền dư thừa được dùng để mua hàng hố và dịch vụ.
Tuy nhiên, vì số lượng hàng hoá và dịch vụ được qui định bởi các nguồn lực khan hiếm
trong nền kinh tế, do đó xuất hiện dư cầu trên thị trường hàng hố. Điều này, đến lượt nó
sẽ gây áp lực làm giá cả tăng lên để thiết lập trạng thái cân bằng mới trên thị trường hàng
hố. Trong mơ hình tổng cung - tổng cầu, sự gia tăng cung ứng tiền tệ sẽ dẫn đến sự dịch
chuyển sang bên phải của đường tổng cầu và làm tăng mức giá do đường tổng cung thẳng
đứng trong dài hạn.
8
- Đồng thời cũng có những ngun nhân bên ngồi và bên trong gây ra tình trạng lạm
phát của nước ta hiện này cụ thể là như sau:
+ Nguyên nhân bên ngoài:
Cũng như những quốc gia châu á khác, do đồng USD suy yếu trong những năm gần đây
đã tạo ra những cú sốc về tăng giá xăng dầu, giá vàng, giá lương thực thực phẩm… từ đó
tác động xấu đến giá cả ở VN. Giá cả thị trường thế giới liên tục tăng cao, xăng dầu tăng
(giá dầu thô từ 60 USD/thùng đầu năm 2007 tăng lên trên 100 USD/thùng cuối năm
2007), sắt thép tăng 30%, phân bón tăng 20%, lúa mì tăng 60%, sợi, bơng, chất dẻo, …
Đồng thời những mặt hàng nước ta xuất khẩu (gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, điều…) cũng
xuất với giá tăng rất cao, đặc biệt là giá lương thực phẩm tăng trên 30%, nên giá thu mua
cũng tăng, từ đó làm ảnh hưởng lớn đến giá cả chung trong nước, vả lại khi tính chỉ số
CPI thì trọng số lương thực thực phẩm ở ta chiếm tỷ lệ cao (42,85%), nhà ở vật liệu xây
dựng chiếm 10%, giá xăng dầu trong năm 2007 tăng nhanh, giá vàng thế giới v trong
nước tăng rất cao, ảnh hưởng gián tiếp là tác động tâm lý đến các loại giá khác, nên CPI
tăng mạnh.
+ Ngun nhân bên trong:
Chính sách tài khóa khơng hiệu quả là nguyên nhân rất quan trọng của căn bệnh lạm phát
ở nước ta. Để hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế, Chính phủ đã có những kế hoạch chi tiêu
nâng cấp cơ sở hạ tầng của đất nước và liên tục bội chi ngân sách trong nhiều năm 5%
GDP (năm 2007 bội chi khoảng trên 56.000 tỷ đồng). Đầu tư cho tăng trưởng kinh tế là
điều cần thiết, nhưng đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, gây lãng phí lớn trong thời
gian dài là nguy hiểm cho nền kinh tế nước nhà ( đọc báo cáo kiểm toán nhà nước trong
nhiều năm chúng ta thấy rất đau lịng về những con số lãng phí và thất thốt hàng ngàn tỷ
đồng), trong khi đồng lương của nhân dân lao động, những người cơng chức nhà nước thì
q thấp so với thời giá, 30-40 năm làm việc trong cơ quan hành chính, giáo dục, y tế…
nhiều người khơng thể mơ nổi một căn nhà. Công tác xây dựng, thẩm định, phê duyệt dự
án, tổng dự án và thiết kế kỹ thuật quá chậm trễ, thủ tục rườm rà và phức tạp (ai cũng
biết, ai cũng nói, nhưng ai sẽ chịu trách nhiệm vấn đề này? Bộ nào cũng hứa!). Việc chi
tiêu thì khơng hiệu quả, tình trạng tham nhũng thì gia tăng đã hưởng đến niềm tin của
cơng chúng vào cơ chế và bộ my điều hành của chúng ta. Đảng và Nhà nước ta đã thấy và
đang điều chỉnh, như thành lập cơ quan chống tham nhũng, nhưng cần quyết liệt hơn. Tỷ
lệ vốn đầu tư toàn xã hội ở VN trong vài năm gần đây bình quân hàng năm trên 40%
GDP và hệ số ICOR là 4,7 (có nghĩa là VN hiện cần 4,7 đơn vị đầu tư để tạo ra một đơn
vị tăng trưởng), hệ số ny là rất cao so với các nước khác trong khu vực. Tổng cầu tăng,
nhưng tổng cung tăng hạn chế nên giá phải tăng.
9
- Trong năm 2007, và đầu năm 2008 Nhà nước chủ động thực hiện lộ trình điều chỉnh
theo giá thị trường đối với một số loại hàng hóa, vật tư cơ bản như: điện, xăng dầu, than,
… làm ảnh hưởng đến việc tăng giá các hàng hóa khác.
- Chính sách tiền tệ năm 2007 cũng có những vấn đề cần xem xét, cung tiền (tổng
phương tiện thanh toán) tăng nhanh năm 2005 là 23.4%, năm 2006 là 33.6%, năm 2007
là 53.8%, tổng cộng 3 năm cung tiền M2 tăng 134.2%, trong khi 3 năm GDP chỉ tăng
25.09%. Chênh lệch giữa cung tiền tăng trong 3 năm qua (134.5%) với tăng trưởng kinh
tế GDP (25.09%) là rất lớn, chắc chắn sẽ đè nặng lên giá cả trong nước, và cuối năm
2007, đầu năm 2008 nó bộc phát mạnh là do có sự cộng hưởng bởi lạm phát quốc tế
(USD yếu) và thiên tai.
Nếu dựa vào học thuyết “Định lượng tiền tệ- The quantity theory of money” của Irving
Fisher, ta có thể thấy rõ hơn quan hệ của nhân tố: cung tiền (M), tốc độ vòng quay tiền tệ
(V), giá cả (P), tổng sản phẩm quốc nội thực-GDP thực (Y), trong phương trình: MV=
PY. Vì vậy, nếu V, P khơng thay đổi thì P (giá cả) sẽ tăng nhanh khi cung tiền M tăng
nhanh, hoặc Y (GDP thực) có tăng nhưng tốc độ tăng chậm hơn cung tiền, thì giá cả cũng
tăng cao. Vì vậy, giải pháp kiểm sốt cung tiền, giảm tổng cầu luôn luôn là liều thuốc
chống lạm phát trước tiên được các nước sử dụng, nhưng với mức độ liều lượng khác
nhau.
Tổng dư nợ cho vay của toàn hệ thống ngân hàng tăng cao, năm 2006 là +29.7%, năm
2007 tăng dư nợ cao nhất trong nhiều năm qua 43.7%, một số NHTM tăng trên 70%. Các
NHTM trong thời gian qua đã cung cấp được một lượng vốn lớn cho các doanh nghiệp
trong nền kinh tế để phát triển sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng cao, góp phần tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng nóng của thị trường chứng khốn và
thị trường bất động sản, các NHTM cũng sẵn lòng cho vay đối với những nhà đầu cơ
trong lĩnh vực này. Nguồn vốn huy động ngắn hạn của ngân hàng được đổ vào thị trường
vốn dài hạn nhiều rủi ro, nếu bong bóng bất động sản có vấn đề thì rủi ro tín dung là rất
lớn (Mỹ đang đau đầu vì tín dụng bất động sản hiện nay). Điều cần lưu ý, một trong
những nguyên nhân dư nợ tín dụng tăng cao trong năm 2007 là do các ngân hàng thương
mại tăng vốn điều lệ lên nhanh + 56% (tăng 33.737 tỷ đồng), cuối năm 2006 tổng vốn
điều lệ của tổ chức tín dụng là 60.419 tỷ đồng, cuối năm 2007 là 94.156 tỷ đồng, thành
lập mới nhiều ngân hàng (cần xem xét lại điều kiện thành lập), làm tăng khả năng cho
vay và áp lực trả lãi cổ đông, áp lực tăng giá cổ phiếu trên thị trường do năm 2006 giá cổ
phiếu đã tăng chóng mặt, nên bây giờ mới “té”!Những đợt rét đậm, rét hại ở các tỉnh phía
Bắc gây thiệt hại năng nề: con người, tài sản, đất trồng, lương thực thực phẩm và dịch
10
bệnh (SARS, cúm gia cầm) ảnh hưởng đến giá cả thực phẩm…ảnh hưởng đến giảm tổng
cung.
- Chi phí sản xuất hàng hóa dịch vụ chưa hợp lý, sức cạnh tranh các sản phẩm trong nước
không cao, hiệu quả kinh tế thấp.
- Thu nhập của dân cư tăng (tăng tiền lương tối thiểu từ năm 2005, 2006, 2007). Việc
tăng lương một phần gia tăng tổng cầu, mặt khác tạo tâm lý làm tăng giá các hàng hóa
tiêu dùng khác. Điều chỉnh tiền lương cho người lao động là cần thiết trong giai đoạn lạm
phát cao, nhưng cần điều chỉnh tiền lương vào những thời điểm ít nhạy cảm (giữa năm).
- Một trong những nguyên nhân cũng góp phần vào mức lạm phát gia tăng tại Việt Nam
hiện nay là yếu tố tâm lý của người dân (cần kiểm sốt thơng tin). Đặc biệt là yếu tố đầu
cơ, găm hàng, làm giá rất “kinh nghiệm” (vì ta đã nhiều lần bị lạm phát) của các đơn vị
cung cấp hàng hóa dịch vụ, các đại lý bán lẻ tại Việt Nam.
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
2.1. Bức tranh lạm phát năm 2021
- Giá cả hàng hóa và lạm phát tồn cầu đã và đang “nóng lên”. Theo WB, tính đến hết
tháng 10/2021, nhiều nhóm hàng hóa tăng mạnh so với đầu năm, giá năng lượng tăng
56,1%, giá nông nghiệp tăng 6,46%, giá phân bón tăng rất mạnh 79,8%, giá kim loại cơ
bản và khoáng chất tăng 14,6%, trong khi kim loại quý giảm 5,6%...
- Lạm phát tăng dần theo tháng (đặc biệt là quý 3/2021) và thậm chí ở mức kỷ lục trong
nhiều năm ở nhiều quốc gia, chủ yếu do tác động của sức cầu bật tăng nhanh, đứt gãy
chuỗi cung ứng làm tăng “cú sốc” khan hiếm hàng hóa và chi phí vận tải – kho bãi
(logistics).
- Lạm phát của Mỹ tháng 10/2021 tăng 6,2% so với cùng kỳ, vượt xa so với mức mục
tiêu bình quân 2% và là kỷ lục trong vòng 31 năm; lạm phát Châu Âu ở mức cao 4,1% so
với cùng kỳ, cao nhất trong vòng 13 năm; chỉ số giá sản xuất (PPI) của Trung Quốc tháng
10 cũng ở mức cao nhất trong vòng 26 năm, nguy cơ “xuất khẩu lạm phát” ra toàn thế
giới...).
- Ở chiều ngược lại, giá cả hàng hóa Việt Nam có dấu hiệu tăng chậm so với thế giới.
Tính chung trong 10 tháng đầu năm 2021, chỉ số CPI chỉ có tháng 2 tăng mạnh (1,52%)
cịn lại 9 tháng chỉ tăng hoặc giảm nhẹ trong khoảng -0,2% đến 0,6%, CPI bình quân 10
tháng chỉ tăng 1,81% so với cùng kỳ năm 2020 và cả năm 2021 dự báo ở mức 2,1-2,3%,
là mức thấp nhất trong vòng 6 năm.
11
- Theo chúng tơi, có 4 ngun nhân chủ yếu khiến giá cả trong nước tăng chậm so với thế
giới.
+ Thứ nhất, do sức sản xuất, sức cầu của nền kinh tế cịn yếu khiến áp lực chi phí chậm
chuyển thành áp lực lạm phát (số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh 10 tháng đầu năm
2021 tăng 16%, tổng mức bán lẻ hàng hóa giảm 8,6% so với cùng kỳ năm 2020 dù đã so
với mức nền thấp của cùng kỳ năm 2020 (1,3%).
+ Thứ hai, xu hướng tăng chậm lại của cung tiền (M2 hết 10 tháng đầu năm 2021 so với
đầu năm ước tăng khoảng 7% so với mức tăng 9,5% cùng kỳ) và vòng quay tiền chỉ ở
mức 0,6 lần tương đương năm 2020, thấp hơn mức 1 lần cuối năm 2016.
+ Thứ ba, nhóm hàng hóa thiết yếu ngoài lõi (lương thực, thực phẩm, điện nước, nhà ở
và vật liệu xây dựng…) không tăng mạnh như giai đoạn trước dịch, thậm chí một số mặt
hàng cịn giảm nhẹ nhờ nguồn cung dồi dào. Đây là tác động trực tiếp khiến lạm phát
tổng thể khó tăng mạnh (trong điều kiện bình thường, sự tăng giá của nhóm hàng hóa
ngồi lõi sẽ tác động trực diện, tác động vòng 2,3 khiến lạm phát tổng thể tăng mạnh,
nhất là nhóm giao thơng).
+ Thứ tư, dù giá đầu vào tăng khá mạnh như nêu trên, nhưng giá bán (đầu ra) chưa thể
tăng tương ứng do sức cầu yếu, nhiều doanh nghiệp, người bán hàng sẵn sàng giữ nguyên
hoặc giảm giá để kích cầu, chấp nhận biên lợi nhuận giảm.
12
2.2 Lạm phát và những dự báo trong năm 2022
2.2.1 Dư địa kiểm soát lạm phát và dự báo
- Với CPI tăng thấp trong bối cảnh tăng trưởng GDP năm 2021 dự báo cũng ở mức thấp
(khoảng 2%), Việt Nam tránh được nguy cơ “lạm phát đình đốn”
- Năm 2022, hầu hết các tổ chức quốc tế (IMF, WB, ADB, Citibank…) đều dự báo lạm
phát Việt Nam sẽ tăng cao hơn năm 2021, lên đến 3,5-3,9% năm 2022.
- Theo dự báo của chúng tôi, lạm phát năm 2022 sẽ ở mức 3,4-3,7%, dù thấp hơn so với
mục tiêu dưới 4% song là mức tăng mạnh so với năm 2021 và so với trung bình tồn cầu
và các nước ASEAN. Nguy cơ rủi ro lạm phát đối với Việt Nam đang hiện hữu và còn
chịu áp lực tăng trong bối cảnh giá cả thế giới chưa sớm hạ nhiệt, lạm phát tồn cầu cịn ở
mức cao (3,3%) trong năm 2022 trước khi hạ nhiệt từ giữa năm 2022 và những năm tiếp
theo.
13
- Ở trong nước, nhiều áp lực khiến lạm phát gia tăng như CPI toàn cầu dự báo ở mức
3,3% năm 2022 cao hơn năm 2021 (3,2%), các thị trường mới nổi thậm chí ở mức 4,1%
so với mức 3,8% năm 2021. Tâm lý lo ngại “nhập khẩu lạm phát” có thể đẩy kỳ vọng lạm
phát tăng, nhất là trong điều kiện Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu.
- Bên cạnh đó, đà hồi phục kinh tế - xã hội và sự sôi động của các hoạt động sản xuất –
kinh doanh, tiêu dùng. Áp lực lạm phát cầu kéo tăng lên khi đà phục hồi kinh tế, kéo theo
nhu cầu đầu tư, tiêu dùng tăng, thậm chí cịn có hiện tượng “chi tiêu bù” (bù đắp những
lúc giãn cách xã hội khơng được giải trí, chi tiêu trước đó).
- Ngồi ra, tăng trưởng mạnh của thị trường tài sản như chứng khoán, bất động sản, tiền
kỹ thuật số...có thể lan tỏa đà tăng giá sang thị trường hàng hóa bởi kỳ vọng chi tiêu, tiêu
dùng nhiều hơn khi thu nhập tăng.
- Cùng với đó, lạm phát chi phí đẩy cũng chịu áp lực tăng lên trong năm 2022 ngay cả khi
phục hồi còn chậm, bởi lẽ nhà cung cấp, bên bán hàng có thể sẽ bắt đầu tăng giá hàng –
hóa, dịch vụ nhằm bù đắp phần tăng chi phí đầu vào đã và đang diễn ra.
- Không những vậy, độ trễ tác động của chính sách tiền tệ-tài khóa nới lỏng giai đoạn
2020-2021 sẽ rõ nét hơn, khả năng điều chỉnh các mặt hàng do Nhà nước quản lý (như
14
giá điện, nước, y tế, giáo dục…) có thể xảy ra, tạo áp lực tăng lạm phát đáng kể đối với
Việt Nam. Việc triển khai mạnh Chương trình hỗ trợ phục hồi kinh tế giai đoạn 20222023 cũng sẽ là một tác nhân tăng cung tiền và gia tăng lạm phát 2 năm đó và có thể cả
năm tiếp theo.
- Thậm chí, rủi ro lạm phát nếu tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp, một số
khu vực, tỉnh thành phố phải áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội ở cấp độ cao khiến
sản xuất, lưu thơng hàng hóa gián đoạn, tình trạng thiếu hụt cục bộ. Tuy nhiên, tình trạng
này ít khả năng xảy ra và sẽ sớm được khắc phục theo tinh thần chung của Chiến lược
phòng, chống dịch giai đoạn tới. Mặc dù vậy, tình trạng khan hiếm, mất cân đối cung cầu
lao động khiến một số doanh nghiệp phải tăng lương, tăng phúc lợi cho nhân viên, cũng
sẽ là một tác nhân khác của lạm phát.
- Áp lực lạm phát tiềm ẩn trong dài hạn nếu các chỉ tiêu về chất lượng, hiệu quả tăng
trưởng như năng suất lao động, hiệu suất đầu tư công, cơ cấu lại nền kinh tế chậm cải
thiện. Nguồn lực không được sử dụng hiệu quả, tăng trưởng dưới tiềm năng, trong khi
cung tiền không giảm hoặc gia tăng, cũng sẽ là những yếu tố tác động lên lạm phát trung
– dài hạn.
2.2.2 Những yếu tố chính hỗ trợ kiểm soát lạm phát
15
Một là, đà tăng giá cả hàng hóa thế giới dự báo sẽ chậm lại từ giữa năm 2022: chỉ số giá
hàng hóa dự báo sẽ giảm nhẹ trong giai đoạn 2023-2025 sau cú sốc giá năm 2021 và đi
ngang năm 2022 khi đà hồi phục được định hình và vững chắc hơn.
Cùng với đó, vấn đề khủng hoảng năng lượng tại các nước cung ứng năng lượng, nguyên
liệu hàng đầu thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nga, OPEC…đã và đang được chú trọng
khắc phục một cách tích cực (thơng qua đa dạng hóa nguồn cung, đối tác, tăng sản
lượng).
Hai là, nền tảng vĩ mô khá vững chắc, lạm phát đang ở mức thấp và tỷ giá cơ bản ổn định
là những yếu tố hỗ trợ tích cực. Các cân đối lớn của nền kinh tế (nợ công, thâm hụt ngân
sách, cán cân thương mại…) vẫn đang được kiểm soát khá tốt (dù phải chịu tác động
nặng nề của của dịch bệnh và áp lực tăng thâm hụt ngân sách, nợ cơng là khó tránh khỏi).
Chính sách điều hành tỷ giá ngày càng linh hoạt, chủ động hơn, đã và đang giúp tỷ giá cơ
bản ổn định, hỗ trợ ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát (10 tháng đầu năm, VND tăng
1,48% so với USD và chúng tôi dự báo tỷ giá có thể tăng khoảng 0,5-1% trong năm
2022).
Ba là, sự phối hợp ngày càng nhịp nhàng hơn giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa
và giá cả, thể hiện rõ nét nhất phối hợp trong phát hành TPCP cũng như trung hịa lượng
tiền vào-ra. Lạm phát khơng tăng đột biến vừa là kết quả phối hợp điều hành chính sách
vừa tạo dư địa mở rộng ở mức phù hợp chính sách tài khóa và tiền tệ trong trung hạn, từ
đó hỗ trợ nền kinh tế phục hồi bền vững hơn.
Bốn là, cơ cấu rổ hàng hóa tính CPI ngày càng tiệm cận quốc tế: xu hướng giảm tỷ trọng
nhóm hàng thiết yếu lương thực, thực phẩm – nhóm hàng tác động lớn tới rổ hàng hóa
tính CPI sẽ giúp mặt bằng lạm phát dài hạn ổn định hơn. Đồng thời, xu hướng ổn định
của giá lương thực, thực phẩm trong nước nhờ chủ động nguồn cung dồi dào cũng là nền
tảng để chống đỡ áp lực tăng giá lương thực, thực phẩm.
2.3 Vấn đề lạm phát sau hậu COVID
Thách thức mới từ vấn đề lạm phát hậu covid, nguyên nhân và giải pháp: Theo tạp chí
Eurasia Review, cuộc khủng hoảng kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra đã dẫn đến tình
trạng lạm phát cao. Giải quyết các vấn đề liên quan đến lạm phát cao đòi hỏi phải hiểu
được những ngun nhân chính dẫn đến tình trạng này. Đó là sự gia tăng nhu cầu, sụt
giảm nguồn cung hoặc sự kết hợp của hai điều này.
Trên thực tế, chúng ta đang đối phó với sự kết hợp giữa nhu cầu tăng và cung giảm,
trong đó yếu tố thứ hai đóng vai trị chủ đạo. Một số nhu cầu tăng lên là do việc chính
phủ cấp tiền mặt trực tiếp cho những người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19.
Nguồn cung giảm đóng một vai trị lớn hơn nhiều trong việc gia tăng lạm phát. Nguyên
nhân của sự sụt giảm nguồn cung là do “gián đoạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu” do
16
hậu quả của việc đóng cửa một số lĩnh vực của nền kinh tế nhằm hạn chế khả năng lây
lan của dịch bệnh.
Vào giữa năm 2021, có một quan niệm sai lầm cho rằng sẽ có sự tắc nghẽn nguồn cung
ngắn hạn nhưng rõ ràng vào mùa Thu năm ngoái, các nước đã phải đối mặt với sự sụp đổ
thực sự của hệ thống sản xuất toàn cầu. Sự xuất hiện của một thuật ngữ mới là “lạm phát
chuỗi cung ứng” cũng minh chứng cho tầm quan trọng của hiện tượng lạm phát gia tăng
do sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng tồn cầu. Rõ ràng, q trình phi tồn cầu hóa do
hậu quả của việc đóng cửa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế toàn cầu là nguyên
nhân gây ra tình trạng lạm phát chuỗi cung ứng.
Sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng toàn cầu làm gián đoạn chu kỳ sản xuất cơng nghệ
tồn cầu, dẫn đến giảm mức sản xuất. Do đó, về bản chất, lạm phát chuỗi cung ứng là
một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát do sản xuất dưới mức.
2.4 Kịch bản lạm phát của Việt Nam trước xung đột Nga – Ukraine
- Những kịch bản lạm phát của việt nam trước xung đột Nga – Ukraine :
+ Dragon Capital vừa có báo cáo đánh giá tác động của căng thẳng chính trị thế giới đến
kinh tế Việt Nam, trong bối cảnh xung đột ở Ukraine ngày càng theo thang và các nước
phương Tây bắt đầu áp dụng nhiều biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga.
+ Tác động dễ thấy nhất đến nền kinh tế Việt Nam, theo Dragon Capital, là áp lực lạm
phát do giá xăng dầu tăng. Hiện nay, mặt hàng xăng dầu chiếm tỉ trọng 3,6% và nhóm
giao thơng vận tải chiếm 9,7% trong rổ hàng hố tính lạm phát của Việt Nam.
+Từ đầu năm 2022 đến nay, giá dầu thô Brent đã tăng 27,2%. Diễn biến giá dầu trong
thời gian tới sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm cả diễn biến xung đột tại Ukraine
và tiến triển của thỏa thuận hạt nhân Iran.
Trích dẫn dự báo của JP Morgan, báo cáo cho biết có 3 kịch bản có thể xảy ra và sẽ có
tác động tới giá dầu. Thứ nhất, nếu Nga tiến hành các biện pháp trả đũa cộng với việc
khơng có thỏa thuận hạt nhân Iran, giá dầu sẽ tăng lên mức 105 USD/thùng. Thứ hai, nếu
xung đột leo thang và có thỏa thuận hạt nhân Iran, giá dầu sẽ quanh mức 100 USD/thùng.
Cuối cùng, nếu rủi ro địa chính trị khơng cịn và vẫn đạt được thỏa thuận hạt nhân với
Iran, giá dầu sẽ ở mức 88 USD/thùng.
17
Dựa vào ba kịch bản trên, Dragon Capital nhận định lạm phát cơ bản của Việt Nam
trong năm 2022 có thể tăng tương ứng 0,68%; 0,3% và 0,08% so với ước tính hiện tại, dự
kiến dao động từ 3,58% đến 3,8% và trong trường hợp xấu nhất có thể đạt mức 4,18%
nếu giá dầu lên 105 USD/thùng.
Tuy nhiên, Dragon Capital cũng đánh giá tác động trực tiếp từ giá dầu tăng lên lạm phát
Việt Nam là không quá lớn, bởi không phải lúc nào giá xăng trong nước với giá dầu thế
giới cũng biến động cùng chiều. Giá nhiên liệu của Việt Nam còn bao gồm nhiều loại
thuế (thuế nhập khẩu, thuế mơi trường) cũng như các yếu tố bình ổn giá khác.
Hiện Chính phủ đã hỗ trợ tài chính cho một số công ty lọc dầu để giải quyết những khó
khăn tạm thời và nâng cơng suất lên mức bình thường. Bộ Cơng thương cũng có kế hoạch
bán đấu giá 100 triệu lít xăng RON-92 từ nguồn dự trữ quốc gia trong tháng này để tăng
nguồn cung trong nước.
Bên cạnh đó, Thủ tướng cũng u cầu Bộ Tài chính xem xét việc giảm thuế môi trường
đối với xăng dầu. Hiện tại, thuế bảo vệ môi trường chiếm tới 15% giá xăng dầu trong
nước và tổng các loại thuế phí chiếm tới 42%.
Nhìn chung, Dragon Capital đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của cuộc xung đột Nga –
Ukraine đến thương mại của Việt Nam là rất hạn chế. Dù vậy, Việt Nam có thể vẫn chịu
tác động gián tiếp từ gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt đối với hoạt động xuất
khẩu các mặt hàng điện và điện tử.
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐỂ KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
3.1. Giá của chính sách chống lạm phát
Những tác động của lạm phát đối với việc tái phân phối thu nhập hay tái phân bố nguồn
lực, hiệu quả kinh tế,.. thường xảy ra đối với các trường hợp lạm phát cao và đa số đều
không thể lường trước được. Mặc dù những tác động của lạm phát là hiển nhiên song các
18
nhà hoạch định chính sách vẫn ln đau đầu với câu hỏi : “Liệu rằng nên làm cho nền
kinh tế thích ứng với lạm phát hay cố gắng thủ tiêu nó bằng những biện pháp cứng rắn ?”
Câu trả lời thực sự khơng dễ dàng, nó tuỳ vào thực trạng của nền kinh tế, mức độ lạm
phát và sự nhạy cảm của các biến số kinh tế vĩ mô đối với sự thay đổi của 1% lạm phát.
3.2. Các giải pháp giảm tỷ lệ lạm phát
- Về mặt dài hạn, việc kiềm chế lạm phát , giữ giá trị tiền tệ ổn định sẽ tạo điều kiện tăng
sản lượng thực tế và giảm thất nghiệp. Vì thế duy trì sự ổn định tiền tệ là mục tiêu dài hạn
của bất kỳ nền kinh tế nào. Nhưng trong từng thời kỳ việc lựa chọn các giải pháp kiềm
chế lạm phát cũng như liều lượng tác động của nó phải phù hợp với yêu cầu tăng trưởng
và các áp lực xã hội mà nền kinh tế phải gánh chịu. Chính phủ các nước có thể chọn
chiến lược giảm lạm phát từ từ, ít gây biến động cho nền kinh tế hoặc chiến lược giảm tỷ
lệ lạm phát nhanh chóng tạo nên sự giảm mạnh về sản lượng trong quá trình điều chỉnh.
- Việc đưa ra các giải pháp chống lạm phát thường xuất phát từ sự phân tích đúng đắn
nguyên nhân gây nên lạm phát bao gồm những nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực
tiếp.
- Nguyên nhân trực tiếp của bất kỳ cuộc lạm phát nào cũng xuất phát từ hai lí do : Một là,
do đẩy tổng cầu tăng quá mức. Hai là, tăng chi phí sản xuất khiến tổng cung giảm.
- Tuy nhiên nguồn gốc phát sinh các lý do làm dịch chuyển đường tổng cầu và đường
tổng cung lại rất khác nhau ở các cuộc lạm phát khác nhau: có thể là do cơ chế quản lý
kinh tế khơng phù hợp, nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh và do đó khơng hiệu quả, cơ cấu
kinh tế mất cân đối, các năng lực sản xuất không được khai thác, trình độ lao động và
cơng nghệ lạc hậu…
Để giải quyết những nguyên nhân sâu xa này cần phải có thời gian và đi kèm với các
cuộc cải cách lớn. Thông thường để tác động vào các nguyên nhân trực tiếp của lạm phát
và kiềm chế lạm phát ở tỷ lệ mong muốn, chính phủ các nước sử dụng một hệ thống các
giải pháp nhằm làm giảm sự gia tăng của tổng cầu hoặc khắc phục các nguyên nhân làm
gia tăng chi phí.
3.2.1 Nhóm giải pháp tác động vào tổng cung
- Giải pháp quan trọng nhất là tác động vào mối quan hệ giữa mức tăng tiền lương và
mức tăng của năng suất lao động xã hội. Thực chất là thiết lập một cơ chế để đảm bảo
mức chi trả tiền lương phù hợp với hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp cũng như
toàn bộ nền kinh tế. Sự thành công của cơ chế này sẽ hạn chế những đòi hỏi tăng tiền
19
lương (chi phí chủ yếu trong giá thành sản phẩm) bất hợp lý dẫn đến vòng luẩn quẩn:
tăng lương -> tăng tiền -> tăng giá -> tăng lương…
- Việc thiết lập cơ chế tiền lương lương trong khuôn khổ hiệu quả kinh doanh được thực
hiện bằng các phương pháp khác nhau: có thể nhà nước tham gia ấn định các mức thu
nhập một cách đơn phương (Mỹ), có thể trên cơ sở thoả thuận giữa nhà nước, giới chủ và
tổ chức cơng đồn để xây dựng một hệ thống các mức thu nhập (Thuỵ điển, Úc) hoặc
thoả thuận tiền lương được thực hiện ngay tại cơ sở kinh doanh giữa giới chủ và đại diện
cơng đồn. Chính sách kiểm sốt giá cả phải được tiến hành đồng thời với cơ chế tiền
lương nhằm hạn chế sự biến động của tiền lương thực tế, tránh rơi vào vịng xốy: lạm
phát -> tăng lương -> tăng giá -> tăng tiền.
- Các giải pháp tác động vào chi phí ngồi lương nhằm sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
như: Xây dựng định mức tiêu hao nguyên liệu và kỷ luật lao động nhằm tơn trọng định
mức đó; Hợp lý hố nguồn khai thác, vận chuyển và sử dụng nguyên liệu; Hạn chế tối đa
các chi phí trung gian làm tăng giá nguyên liệu.
- Trong trường hợp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại, cần quan tâm tới những ảnh hưởng
bên ngoài đến giá nhập khẩu và có xu hướng tìm ngun liệu thay thế nếu giá tăng quá
cao, sự giúp sức của chính sách tỷ giá cũng như thuế nhập khẩu đóng một vai trò quan
trọng trong việc giảm giá nội địa nguyên liệu nhập. Ngồi ra, các chi phí quản lý gián tiếp
cũng như các chi phí liên quan đến việc bố trí dây truyền công nghệ bất hợp lý cũng phải
được xem xét và giảm thiểu tối đa.
3.2.2. Nhóm giải pháp nhằm mở rộng khả năng cung ứng hàng hố
Giải pháp tình thế và tác động tức thời đến cân đối tiền hàng là nhập khẩu hàng hoá, nhất
là các hàng hoá đang khan hiếm, góp phần làm giảm áp lực đối với giá cả. Tuy nhiên giải
pháp này chứa đựng những nguy cơ tiềm tàng: làm cạn kiệt nguồn dự trữ quốc tế, tạo thói
quen dùng hàng ngoại và đặc biệt làm suy giảm sức sản xuất trong nước.
Tăng khả năng sản xuất hàng hoá trong nước được coi là giải pháp chiến lược cơ bản
nhất, tạo cơ sở ổn định tiền tệ một cách vững chắc. Thực chất đây là giải pháp nhằm tăng
mức sản lượng tiềm năng của xã hội. Đây là chiến lược dài hạn tập trung vào việc khai
thác triệt để năng lực sản xuất của xã hội, nâng cao trình độ của lực lượng lao động, đổi
mới thiết bị, hiện đại hoá dây truyền sản xuất và quan trọng nhất là đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế, khuyến khích cạnh tranh và hiệu quả
20
3.2.3. Đề xuất một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở việt nam hiện nay
Về mặt dài hạn thì giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay sẽ giúp giữ giá trị
tiền tệ ổn định nhằm tạo điều kiện tăng sản lượng thực tế và giảm thất nghiệp. Vì vậy,
duy trì sự ổn định tiền tệ chính là mục tiêu dài hạn của mọi nền kinh tế. Nhưng ở trong
từng thời kỳ thì việc lựa chọn được giải pháp kiềm chế lạm phát cũng như liều lượng sự
tác động của nó phải phù hợp với các yêu cầu tăng trưởng và các áp lực xã hội mà nền
kinh tế phải chịu đựng. Chính phủ ở các nước có thể chọn các chiến lược giảm lạm phát
từ từ, ít gây ra biến động cho nền kinh tế hoặc các chiến lược giảm tỷ lệ lạm phát nhanh
chóng nhằm tạo nên sự giảm mạnh về sản lượng trong cả quá trình điều chỉnh.
Việc đưa ra các giải pháp chống lạm phát thì thường xuất phát từ sự phân tích đúng đắn
các nguyên nhân gây nên lạm phát bao gồm như những nguyên nhân sâu xa và nguyên
nhân trực tiếp. Nguyên nhân trực tiếp của bất cứ cuộc lạm phát nào thì cũng xuất phát từ
các lý do đẩy tổng cầu tăng quá mức hoặc là làm tăng chi phí sản xuất khiến cho tổng
cung giảm. Tuy nhiên, một nguồn gốc phát sinh các lý do chính là làm dịch chuyển
đường tổng cầu và đường tổng cung rất khác nhau ở các cuộc lạm phát khác nhau: có thể
là do cơ chế quản lý kinh tế trở nên không phù hợp, nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh, các
năng lực sản xuất khơng được khai thác và do đó khơng hiệu quả, cơ cấu kinh tế mất cân
đối, trình độ lao động và công nghệ lạc hậu,…
Để giải quyết được những nguyên nhân gây nên lạm phát này cần phải có thời gian và
kèm theo các cuộc cải cách lớn. Thơng thường thì để tác động vào các ngun nhân trực
tiếp của lạm phát và có thể kiềm chế lạm phát ở tỷ lệ mong muốn, chính phủ ở các nước
thường sử dụng một hệ thống các giải pháp nhằm làm giảm sự gia tăng của tổng cầu hoặc
khắc phục được các nguyên nhân làm gia tăng chi phí. Có 3 nhóm giải pháp kiềm chế
lạm phát ở Việt Nam hiện nay:
Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu: Các giải pháp này nhằm hạn chế sự gia
tăng quá mức của tổng cầu.
Nhóm giải pháp tác động vào tổng cung: Giải pháp này quan trọng nhất là tác
động vào các mối quan hệ giữa mức tăng tiền lương và mức tăng lên của năng
suất lao động xã hội.
Nhóm giải pháp nhằm mở rộng các khả năng cung ứng hàng hoá: Giải pháp t
tác động tức thời đến sự cân đối tiền hàng chính là nhập khẩu hàng hoá, nhất là
các hàng hoá đang khan hiếm và góp phần làm giảm áp lực đối với giá cả.
21
Với mục tiêu lạm phát 4% năm 2022, Chính phủ cần có giải pháp linh hoạt, phù hợp với
diễn biến tình hình kinh tế xã hội trong nước, ưu tiên phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng
sau khi khống chế, kiểm sốt thành cơng làn sóng đại dịch COVID-19 lần thứ tư.
Đẩy nhanh quá trình tiêm vacxin cho lực lượng lao động và các hộ kinh doanh để
họ sớm ổn định và quay lại sản xuất, yên tâm lao động, thúc đẩy sự hồi phục của
nền kinh tế sau đại dịch, thích nghi với điều kiện bình thường mới
Chính phủ cần tháo gỡ bớt những khó khăn, phức tạp trong các thủ tục hành chính,
bãi bỏ những chi phí khơng hợp lí để tiết kiệm bớt chi phí cho các doanh nghiệp,
thúc đẩy tổng cung
Kết hợp hài hịa giữa chính sách tài khố và tiền tệ, chú trọng đến chính sách tài
khố hỗ trợ doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể vượt qua khó khăn, sớm trở lại
sản xuất kinh doanh. Sử dụng chính sách tiền tệ đúng liều lượng, hợp lý, không
nên quá chú trọng vào chính sách tiền tệ để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng
trưởng vì hỗ trợ tín dụng và hạ lãi suất cho doanh nghiệp dễ dẫn tới rủi ro cho hệ
thống ngân hàng và gia tăng lạm phát.
Tiếp theo là cần tối ưu hóa, minh bạch và đơn giản hố quy trình thương mại; tạo
dựng hạ tầng giao thơng và quản trị hiệu quả hơn; khuyến khích và đẩy mạnh chia
sẻ thông tin; thúc đẩy cạnh tranh trong nước đối với lĩnh vực logistics, thương mại
bán buôn và bán lẻ để giảm chi phí thương mại trong nước và quốc tế, giữ thị phần
của hàng hoá Việt trên thị trường thế giới.
Chủ động chuẩn bị đầy đủ các điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm
nguồn cung và lưu thơng hàng hóa. Đối với các mặt hàng thiếu hụt trong ngắn hạn,
cần có chính sách và giải pháp cắt giảm chi phí sản xuất, nhập khẩu kịp thời
nguyên vật liệu; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý nghiêm nếu phát
hiện có hành vi đầu cơ, tích trữ, thao túng giá.
Đặc biệt, Ban Chỉ đạo điều hành giá của Chính phủ cần theo dõi chặt diễn biến giá
cả, lạm phát trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến lạm phát
trong nước. Thực hiện hiệu quả và linh hoạt vai trị điều tiết, bình ổn giá của Nhà
nước như xăng dầu, dịch vụ y tế, giáo dục. Nghiên cứu thời điểm, mức độ điều
chỉnh giá xăng dầu, dịch vụ do Nhà nước quản lý để tránh gây cộng hưởng lạm
phát chi phí Dĩ nhiên là cần sớm kiềm chế COVID-19 thành công!
22
KẾT LUẬN
Như vậy, lạm phát là biểu hiện của vấn đề mất cân đối vĩ mơ rất phức tạp. Nó có thể
xuất hiện ở những hồn cảnh và điều kiện khác nhau trong nền kinh tế nên cùng mang
màu sắc mn mình mn vẻ. Để nhận dạng và nắm bắt nguyên nhân nào gây ra lạm
phát là một điều vô cùng khó khăn bởi vì mỗi khi diễn ra lạm phát nó chứa đủ các yếu tố
như lạm phát cơ cấu, lạm phát tiền tệ, lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy. Mỗi yếu
tố lại mang những đặc điểm riêng và cách giải quyết riêng nhưng rất khó khăn để nhận
biết được.
Để chống lạm phát khơng thể áp dụng đơn lẻ một giải pháp nào mà phải có hệ thống
các nhóm giải pháp thì mới mong thành cơng. Các nhóm giải pháp này phải đi từ đẩy
mạnh sản xuất đến các giải pháp phát triển lưu thông hàng hóa, các giải pháp chống đầu
cơ lũng đoạn thị trường, các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, tiếp đến
là ngân sách nhà nước, chi tiêu có hiệu quả, đúng việc và tiết kiệm, khơng thể bội chi
ngân sách nhà nước quá cao và bù đắp thâm hụt không thể tự phát hành tiền.
Chúng ta chống lạm phát nhưng không quên nhiệm vụ đẩy nhanh phát triển nền kinh tế,
bảo đảm nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao. Chống lạm phát đến một mức nào đó có
thể làm cho nền kinh tế bị chậm lại, nhưng để nền kinh tế không tụt hậu so với các nước
khác trong khu vực và trên thế giới đòi hỏi phải đạt tốc độ tăng trưởng vượt bậc là điều
chúng ta cần hướng đến.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Áp
lực
lạm
phát
2021
–
2022
và
khuyến
nghị:
/>2. Eldata3.neu.topica.vn
3. />4. />
23
24
25