Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

TỔNG hợp địa lý du lịch toàn cầu (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.39 KB, 24 trang )

Tóm tắt
Trong những năm qua, ngành du lịch của cả thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng đã có nhiều sự thay đổi, tăng trưởng đáng kể và dần trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn. Để có cái nhìn tổng quan, xác thực hơn thì bài báo cáo này sẽ trình bày các vấn
đề liên quan đến việc quản lý du lịch bền vững tại Phuket, Thái Lan và từ đó hướng
đến sự phát triển du lịch bền vững tại Phú Quốc, Việt Nam. Mục tiêu của bài báo cáo
là phân tích về tính thu hút, mức độ cạnh tranh về các yếu tố quan trọng tác động đến
du lịch ở thời điểm hiện tại và khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xúc tiến
du lịch bền vững, trên cơ sở đó đưa ra khung chiến lược về các chỉ tiêu để phát triển
bền vững định hướng phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2050.
Từ khóa: Phuket, Phú Quốc, du lịch bền vững, phát triển bền vững
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, du lịch phát triển theo xu hướng bền vững có vai trò rất quan trọng
trong sự phát triển kinh tế quốc gia, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của rất nhiều
đất nước. Du lịch bền vững giúp cho con người nâng cao hiểu biết, nâng cao chất
lượng các mối quan hệ xã hội, giúp mang lại cuộc sống hạnh phúc và gặt hái được
nhiều thành công. Hơn hết, “du lịch là một trong những công cụ quan trọng nhất được
sử dụng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển bằng cách tạo ra công ăn việc làm giúp tăng
thu nhập cho người dân và đặc biệt được coi là yếu tố chính trong sự phát triển ở các
nước đang phát triển. Vì vậy, du lịch đóng vai trị như một phương tiện tiềm năng để
tạo ra doanh thu cao hơn cho một quốc gia” (Szivasd, Riley, & Airey, 2003). Song,
những ảnh hưởng tiêu cực của du lịch đã làm suy giảm chất lượng môi trường, gây ra
bất ổn xã hội và làm xói mịn các giá trị văn hố. Một trong số đó phải kể đến tác
động của chất thải rắn, đây được xem là vấn đề môi trường lớn ở Thái Lan và tỉnh
Phuket là một trong những điểm đến du lịch chính ở quốc gia có các vấn đề về chất
thải rắn nghiêm trọng, bao gồm việc làm tràn chất thải vào cảnh quan thiên nhiên
gây mùi khó chịu, ô nhiễm nguồn nước và các mầm bệnh ảnh hưởng đến sức khỏe
cộng động và môi trường ở cộng đồng (Sawangchai, 2012).
Vậy với những bất cập nêu trên thì liệu chính phủ hay chính quyền địa phương
phối hợp cùng các tổ chức, cá nhân đã có những chính sách kế hoạch cụ thể nào để
phục hồi ngành du lịch và thúc đẩy ngành phát triển theo xu hướng bền vững chưa?


Điều đó sẽ được minh chứng qua bài báo cáo dưới đây và cụ thể là về điểm đến ở
Phuket, Thailand. Sở dĩ, lựa chọn Phuket là địa điểm lý tưởng phục vụ việc phân tích
bài báo cáo là bởi vì nó phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. Các vấn đề luôn
xoay quanh trong quá khứ và ngay cả hiện tại, hơn hết Phuket Thailand cũng tương
đồng với Việt Nam. Bởi lẽ cũng là một quốc gia đang phát triển có bình qn mức
sống cịn khiêm tốn, có nền tảng cơng nghiệp chưa được phát triển hoàn toàn do vậy
Việt Nam sẽ dễ dàng tiếp cận và vận dụng vào tình hình chung của nước mình hơn.


Thật vậy trên cơ sở xác thực đó, Việt Nam sẽ tiếp thu những bài học quý báu để định
hướng phát triển du lịch Việt Nam bền vững đến năm 2030, tầm nhìn 2050.
2. Cơ sở lý thuyết
a. Phát triển bền vững
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn
phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài
nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của
nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà cịn phải tơn trọng những
nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".
Trong “Báo cáo Brundtland” của Uỷ ban Môi trường và Phát triển Thế giới
(WCED) của Liên hợp quốc năm 1987: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng
các nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio
de Janeiro (Brazil) năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh
thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm
2002: “Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và
hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh
tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo
và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục
hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác

hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên)”.
Phát triển du lịch bền vững là du lịch phải thân thiện với môi trường, nghĩa là
cả môi trường tự nhiên và nhân tạo, không làm xáo trộn hoặc phá hủy trí tuệ xã hội và
văn hóa, cụ thể là ngơn ngữ, trang phục, thực phẩm hoặc thậm chí cả sinh kế, phải bảo
tồn văn hóa, lịch sử, di sản và nghệ thuật của cộng đồng địa phương (Edgell, 2006)
b. Du lịch bền vững
Du lịch bền vững trong tiếng Anh được gọi là Sustainable Tourism. Khái niệm
du lịch bền vững được nhắc đến lần đầu tiên năm 1992, tại Hội nghị về môi trường và
phát triển của Liên hợp quốc tại Rio de Janeiro.
Theo định nghĩa của tổ chức du lịch thế giới (WTO) đưa ra tại hội nghị về môi
trường và phát triển của Liên Hợp Quốc tại Rio de janeiro 1992 "Du lịch bền vững là
việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách và
người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài
nguyên cho phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu về kinh tế - xã hội, thẩm mỹ của
con người trong khi vẫn duy trì được sự tồn vẹn về văn hoá, đa dạng sinh học, sự
phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống con người".
“Du lịch bền vững là việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một
cách có trách nhiệm với mơi trường để tận hưởng và đánh giá cao tự nhiên (và tất cả


những đặc điểm văn hố kèm theo, có thể là trong quá khứ và cả hiện tại) theo cách
khuyến cáo về bảo tồn, có tác động thấp từ du khách và mang lại những lợi ích cho sự
tham gia chủ động về kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương” (Theo World
Conservation Union, 1996)
Theo Hội đồng du lịch và lữ hành quốc tế (WTTC), 1996 thì "Du lịch bền vững
là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo
những khả năng đáp ứng các nhu cầu cho thế hệ du lịch tương lai".
Theo Hens L.,1998 [2], thì “Du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các
dạng tài nguyên theo cách nào đó để chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã
hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hố, các q trình sinh thái cơ

bản, đa dạng sinh học và các hệ đảm bảo sự sống”.
c. Sản phẩm du lịch bền vững
Trong Chương trình Nghị sự 21 về công nghiệp du lịch và lữ hành hướng tới sự
phát triển môi trường bền vững của Tổ chức Du lịch Thế giới và Hội đồng Thế giới đã
xác định “Các sản phẩm du lịch bền vững là các sản phẩm được xây dựng phù hợp
với môi trường, cộng đồng và các nền văn hóa, nhờ đó sẽ mang lại lợi ích chắc chắn
chứ khơng phải là hiểm họa cho phát triển du lịch”.
Như vậy du lịch bền vững có 3 hợp phần chính, đơi khi được ví như “ba chân”
(International Ecotourism Society, 2004):
- Thân thiện môi trường, du lịch bền vững có tác động thấp đến nguồn lợi tự
nhiên và khu bảo tồn biển nói riêng. Nó giảm thiểu các tác động đến môi trường (động
thực vật, các sinh cảnh sống, nguồn lợi sống, sử dụng năng lượng và ơ nhiễm …) và
cố gắng có lợi cho mơi trường.
- Gần gũi về xã hội và văn hố, nó không gây hại đến các cấu trúc xã hội hoặc
văn hoá của cộng đồng nơi mà chúng được thực hiện. Thay vào đó thì nó lại tơn trọng
văn hố và truyền thống địa phương. Khuyến khích các bên liên quan (các cá nhân,
cộng đồng, nhà điều hành tour, và quản lý chính quyền) trong tất cả các giai đoạn của
việc lập kế hoạch, phát triển và giám sát, giáo dục các bên liên quan về vai trị của họ.
- Có kinh tế, nó đóng góp về mặt kinh tế cho cộng đồng và tạo ra những thu
nhập công bằng và ổn định cho cộng đồng địa phương cũng như càng nhiều bên liên
quan khác càng tốt. Nó mang lợi ích cho người chủ, cho nhân viên và cả người xung
quanh. Nó khơng bắt đầu một cách đơn giản để sau đó sụp đổ nhanh do các hoạt động
kinh doanh nghèo nàn.
d. Tính thu hút và cạnh tranh của điểm đến
Về tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của điểm đến du lịch
Kể từ những năm 90 của thế kỷ 20, số lượng các nghiên cứu về khả năng cạnh
tranh của điểm đến có sự gia tăng đáng kể. Crouch và Ritchie là một trong những
nhóm tiên phong tiến hành nghiên cứu nhằm đưa ra mơ hình và học thuyết về khả
năng cạnh tranh của điểm đến du lịch. Những kết quả nghiên cứu lần lượt được công
bố vào năm 1994, 1995, 1999, 2000, và đến năm 2003, mơ hình đầy đủ và hoàn thiện



về các tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh của điểm đến đã được đưa ra. Mơ hình của
Crouch và Ritchie (2003) được coi là nghiên cứu nền tảng, là cơ sở lý luận cho những
nghiên cứu trong lĩnh vực về khả năng cạnh tranh của điểm đến. Cụ thể, mơ hình đã
chỉ ra 36 tiêu chí sử dụng để đánh giá tính cạnh tranh, được chia làm 5 nhóm, bao
gồm: nguồn lực và các yếu tố hỗ trợ, nguồn lực và các yếu tố thu hút khách chủ
đạo, các hoạt động quản lý điểm đến, các yếu tố chính sách, quy hoạch phát triển
điểm đến, nhóm các yếu tố định tính.
Một số quốc gia đã tiến hành nghiên cứu đánh giá khả năng cạnh tranh của
điểm đến du lịch dựa trên cơ sở mơ hình của Crouch và Ritchie, tuy nhiên có sự điều
chỉnh về hệ thống các tiêu chí đánh giá cho phù hợp với nét đặc thù của mình. Mỗi
nghiên cứu lại đánh giá một đặc điểm của điểm đến và sử dụng những bộ tiêu chí khác
nhau. Cụ thể là Bộ Du lịch của Brazil đã tiến hành “Nghiên cứu về khả năng cạnh
tranh của 65 điểm đến quan trọng cho sự phát triển của du lịch vùng” (Barbosa et
al, 2010). Nghiên cứu đã sử dụng 13 tiêu chí để đánh giá khả năng cạnh tranh của
điểm đến, bao gồm: cơ sở hạ tầng, dịch vụ và trang thiết bị du lịch, khả năng tiếp
cận điểm đến, điểm tham quan vui chơi, marketing, chính sách cơng, liên kết vùng,
mức độ kiểm tra giám sát, nền kinh tế vùng, năng lực kinh doanh, các khía cạnh xã
hội, các khía cạnh mơi trường, các khía cạnh văn hóa.
Ngồi ra, World Bank (2019) cịn sử dụng các tiêu chí: số lượng và tăng trưởng
khách du lịch (khách quốc tế và nội địa), số lượng và tăng trưởng doanh số, tỷ lệ đóng
góp vào GDP, thời gian lưu trú, chi tiêu của du khách, tỉ lệ khách quay trở lại, mức độ
hài lòng của du khách, tạo việc làm của ngành, xếp hạng quốc gia theo chỉ số năng lực
cạnh tranh về du lịch.
Về tiêu chí đánh giá khả năng thu hút của điểm đến du lịch
Bên cạnh những nghiên cứu về khả năng cạnh tranh của điểm đến
(Competitiveness), những mơ hình đánh giá về khả năng thu hút của điểm đến
(Attractiveness) cũng phổ biến trên toàn thế giới.
Trong các tài liệu về du lịch, có thể tìm thấy nhiều cách phân loại các điểm du

lịch. Cách phân loại cơ bản của các điểm du lịch là cách được UNWTO đề xuất
(McIntyre, Hetherington & Inskeep, 1993), phân loại tất cả các yếu tố hấp dẫn của
điểm đến thành một số loại sau:
- Tài nguyên du lịch tự nhiên
- Di sản văn hóa lịch sử trong du lịch
- Điều kiện khí hậu
- Cơ sở hạ tầng
- Các dịch vụ và cơ sở du lịch


Mơ hình được phát triển bởi Ritchie và Crouch (2003) được đưa ra và còn
nhiều hạn chế tuy nhiên đã được các tác giả Dwyer và Kim (2003) phát triển một
mơ hình thay thế
Mức độ hấp dẫn của một điểm đến phản ánh cảm xúc và ý kiến ​của du khách
về khả năng cảm nhận của điểm đến trong việc thỏa mãn nhu cầu của họ. Điểm đến
càng đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch thì điểm đến đó càng được coi là hấp
dẫn và càng có nhiều khả năng được lựa chọn.
Đầu tiên, phải kể đến là đánh giá về mức độ hấp dẫn (thu hút) của điểm đến du
lịch trên trang web TripAdvisor, nơi mà các tiêu chí xuất phát từ nhận thức của khách
du lịch. Trang web du lịch TripAdvisor – một trong những trang web du lịch lớn trên
thế giới đánh giá chất lượng những điểm đến du lịch và đồng thời cũng đưa ra những
xếp hạng các điểm đến thường niên.
Phương pháp đánh giá TripAdvisor áp dụng không giống những trang web
khác, họ sử dụng một thuật tốn độc quyền để phân tích ý kiến đánh giá và phản hồi
của người truy cập về điểm đến du lịch. Những ý kiến này tập trung vào đánh giá ba
tiêu chí chính, bao gồm: địa điểm lưu trú, nhà hàng, các điểm tham quan và vui chơi.
Cụ thể hơn, thuật tốn sẽ phân tích dựa trên nội dung, số lượng, và tính cập nhật của ý
kiến đánh giá đối với ba tiêu chí trên. Về mặt nội dung, TripAdvisor thu thập thông tin
đánh giá về điểm đến du lịch qua trang web trực tuyến, và bằng việc gửi email cho
những người đăng ký thành viên để khuyến khích họ đưa ra đánh giá về một điểm đến

cụ thể. Mỗi ý kiến phản hồi này đều phải đưa ra đánh giá theo thang đo từ 1 đến 5 đối
với các tiêu chí nơi lưu trú, nhà hàng, các điểm tham quan và vui chơi tại điểm đến
(trong đó, 1 là đánh giá chất lượng kém, 5 là chất lượng xuất sắc). Trang web sẽ tự
động lưu lại những nội dung đánh giá này cùng với số lượng ý kiến phản hồi để tiến
hành phân tích kết quả. Về tính cập nhật, hệ thống ý kiến đánh giá TripAdvisor đưa
vào phân tích thường ln mới, được lựa chọn theo từng năm.
Phương pháp phân tích này được áp dụng nhất quán cho mọi xếp hạng trên
trang web TripAdvisor. Ưu điểm của phương pháp này là các ý kiến đánh giá sử dụng
để phân tích mang tính cập nhật cao, thơng tin ln mới. Kết quả mang tính khách
quan cao, khơng có sự sai lệch do ý kiến chủ quan của người phân tích vì áp dụng
thuật tốn vào phân tích những ý kiến đánh giá. Thêm vào đó, kết quả xếp hạng hoàn
toàn trung thực do các quốc gia và điểm đến không trả tiền cho những đánh giá này.
Nguồn thông tin thu thập thường phổ rộng đến từ khắp nơi trên thế giới.
Tuy nhiên, phương pháp đánh giá này vẫn có nhược điểm đó là thứ tự xếp hạng
các điểm đến có sự chênh lệch khơng nhiều; thường là với những điểm đến nằm ngoài
top 10. Thứ tự xếp hạng này cịn có thể thay đổi thường xuyên, khi mà các ý kiến
phản hồi liên tục được cập nhật và phân tích. Do vậy, những xếp hạng điểm đến của
trang web TripAdvisor chỉ có tính nhất thời, trong khoảng thời gian ngắn.


Một nghiên cứu khác nữa của Bùi và Mai (2012) đã đưa ra hệ thống các tiêu
chí đánh giá khả năng thu hút khách của điểm đến du lịch – thành phố Huế, Việt Nam.
Trong đó, 17 tiêu chí xuất phát từ thuộc tính của điểm đến, được chia làm 5 nhóm
chính đã được đưa vào nghiên cứu. Các nhóm này bao gồm: các yếu tố tự nhiên, các
yếu tố xã hội, các yếu tố lịch sử, các điều kiện giải trí và mua sắm, cơ sở hạ tầng,
ẩm thực và lưu trú. Hệ thống các tiêu chí này được đưa ra dựa trên mơ hình đánh giá
khả năng thu hút của điểm đến đề xuất bởi Hu và Ritchie (1993) kết hợp với việc bổ
sung yếu tố “an toàn của điểm đến” – một trong những quan tâm hàng đầu của du
khách hiện nay.
e. Các tiêu chí đánh giá tính bền vững của điểm đến

Đánh giá tính bền vững của điểm đến du lịch dựa vào bộ chỉ thị môi trường của
UNWTO. Chỉ thị môi trường là một phép đo độ nhạy cảm của môi trường và sự phát
triển, là những thông tin được tổng hợp để giúp xác định một vấn đề.
-Về tiêu chuẩn:
+ Là một phép đo khách quan, ai đo cũng có giá trị như nhau.
+ Có thể xác lập được với giá cả và thời gian hợp lý
+ Phản ánh những giá trị cập nhật
-Về mặt cấu trúc
+ Chỉ thị đơn phản ánh một bộ phận nhỏ của vấn đề cần đánh giá
+ Bộ chỉ thị đơn (hay cịn gọi là hồ sơ mơi trường) là tập hợp các chỉ thị đơn
phản ánh toàn bộ vấn đề.
+ Chỉ thị tổng hợp là dạng chỉ thị phản ánh một vấn đề lớn, đòi hỏi một lượng lớn
các số liệu, tài liệu cần phân tích.
Bảng: Các chỉ thị chung cho ngành
( Nguồn: Manning E.W, 1996)
Chỉ thị

Cách xác định

1. Bảo vệ điểm du lịch

Loại bảo vệ điểm du lịch theo tiêu chuẩn
IUCN

2. Áp lực

Số lượng du khách đến thăm điểm du
lịch (tính theo tháng, năm cao điểm)

3. Cường độ sử dụng


Cường độ sử dụng- thời kỳ cao điểm

4. Tác động xã hội

Tỷ số du khách/ dân cư địa phương thời
kỳ cao điểm

5. Mức độ kiểm soát

Các thủ tục đánh giá môi trường hoặc sự


kiểm sốt hiện có đối với sự phát triển
của điểm du lịch và mật độ sử dụng.
6. Quản lý chất thải

Tính bằng (đơn vị phần trăm) đường
cống thốt tại điểm du lịch có xử lý

7. Q trình lập kế hoạch

Có các kế hoạch nhằm phục vụ cho điểm
du lịch

8. Các hệ sinh thái tới hạn

Số lượng các loài hiếm hoặc đang bị đe
dọa


9. Sự thỏa mãn của du khách

Mức độ thỏa mãn của du khách dựa trên
phiếu thăm dò ý kiến

10. Sự thỏa mãn của địa phương

Mức độ thỏa mãn của địa phương dựa
trên phiếu thăm dò ý kiến

Một cách đánh giá khác là ngoài hai phương diện xem xét đánh giá điểm đến từ
phía cung và cầu du lịch riêng biệt, Vengesayi (2003) đã công bố nghiên cứu đánh giá
điểm đến dựa trên sự kết hợp các tiêu chí xuất phát từ cả hai phương diện, giữa khả
năng cạnh tranh và khả năng thu hút của điểm đến.


Với sự kết hợp hai khái niệm đánh giá điểm đến sẽ đưa ra một mơ hình đánh
giá tồn diện về các yếu tố của điểm đến. Cách tiếp cận này cho phép các nhà quản lý
điểm đến có thể so sánh những gì điểm đến đang sở hữu với những gì khách du lịch
cần có ở một điểm đến, để từ đó có những thay đổi và điều chỉnh phù hợp. Cùng với
mơ hình, Vengesayi (2003) đã đưa ra định nghĩa cho khả năng thu hút và cạnh tranh
của điểm đến du lịch, đó là khả năng một điểm đến có thể mang lại những lợi ích kinh
tế, xã hội, và vật chất cho cộng đồng dân cư của điểm đến cũng như làm hài lòng
khách du lịch.
Theo Vengesayi (2003), các yếu tố nguồn lực của điểm đến và hỗn hợp các
hoạt động là tiêu chí cơ bản tạo nên sự hấp dẫn của điểm đến. Đây cũng chính là lý do
tại sao du khách đánh giá, lựa chọn điểm đến này hơn điểm đến khác. Cụ thể đó là 5
nhóm yếu tố: văn hóa, tự nhiên, các sự kiện, các hoạt động du lịch, và hoạt động vui
chơi giải trí tại điểm đến. Các yếu tố nguồn lực của điểm đến và các hỗn hợp về các
hoạt động sẽ cung cấp cho du khách có thêm nhiều lựa chọn, giữ họ lưu lại điểm đến

lâu hơn, và đó chính là yếu tố “kéo” đối với du khách.
Các dịch vụ bổ trợ gồm lưu trú, hạ tầng giao thông, vui chơi giải trí, và nguồn
năng lượng cũng là những tiêu chí góp phần vào thu hút khách tới điểm đến. Crouch
và Ritchie (2003) cũng đồng ý với quan điểm này khi cho rằng khả năng thu hút của
điểm đến được nâng cao một phần nhờ khả năng của nó cung cấp các dịch vụ và tiện
ích mà du khách có thể sử dụng khi họ ở tại điểm đến. Trong khi đó, khả năng cạnh
tranh của điểm đến lại phụ thuộc vào việc cung cấp các dịch vụ và tiện ích này nổi trội
hơn so với các điểm đến thay thế khác. Môi trường của điểm đến là nơi các sản phẩm
dịch vụ du lịch được tạo ra và là nơi khách du lịch tương tác với các công ty du lịch.
Môi trường này được tạo thành bởi nhiều yếu tố, trong đó an ninh an tồn, mức độ
đơng đúc, chất lượng nguồn nhân lực, sự cạnh tranh, hợp tác,… được xem là tiêu chí
đánh giá khả năng hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của điểm đến. Chất lượng môi
trường tự nhiên và xã hội điểm đến được đảm bảo thì mới hấp dẫn được khách du lịch,
và một môi trường được quản lý tốt sẽ giúp nâng cao vị thế của điểm đến, giúp điểm
đến cạnh tranh thành cơng trên thị trường ngành Du lịch tồn cầu. Ngoài ra, các yếu tố
về danh tiếng, thương hiệu, mức giá của các dịch vụ du lịch tại điểm đến cũng được
liệt kê vào hệ thống các tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh và tính hấp dẫn.
Những phân tích điểm đến sẽ giúp những nhà quản lý hoạch định chiến lược
phát triển và có định hướng phân bổ nguồn lực phù hợp nhằm gia tăng khả năng cạnh
tranh của điểm đến trên thị trường du lịch cũng như nâng cao khả năng thu hút du
khách của điểm đến. Từ đó góp phần định vị thương hiệu và trở lại hoàn thiện quy
hoạch điểm đến du lịch qua các giai đoạn phát triển.


Như vậy, các nghiên cứu đã có thường tập trung vào phân tích đánh giá hai phương
diện của điểm đến, đó là “khả năng cạnh tranh” (Competitiveness) và “khả năng thu
hút” (Attractiveness) (Buhalis, 2001, 2000; Formica, 2001).
3. Tính thu hút và cạnh tranh của điểm đến Phuket Thái Lan
Phuket là một điểm du lịch đẳng cấp thế giới nổi tiếng về sự hấp dẫn với nhiều
giải thưởng đã giành được, như Thủ đô Hàng hải Châu Á tốt nhất (Thaimuslinnews,

2011), giải thưởng Kinnaree (ASTV, 2011), điểm đến thành phố giải trí tốt nhất châu
Á - Thái Bình Dương (ASTV, 2011), điểm đến yêu thích thứ 6 của du khách Trung
Quốc, điểm đến mùa Đơng của du khách Phần Lan. Có thể nói nơi mà tất cả các khách
du lịch dù là người Thái Lan hay người nước ngoài đều thực sự muốn ghé thăm khi
đến thành phố Phuket là đảo Phuket - hịn ngọc Phương Nam. Vậy tính thu hút và
cạnh tranh của đảo Phuket được thể hiện qua những khía cạnh nào mà lại được du
khách yêu thích đến thế?
Thật vậy Đảo Phuket là một thiên nhiên đầy cảm hứng, khơng hổ danh là hịn
ngọc phương Nam của đất nước Thái Lan, nằm bên bờ biển Ấn Độ Dương thuộc miền
Nam Thái Lan, Phuket là một hòn đảo lớn nhất của Thái Lan được xếp vào loại đẹp
nhất ở Đông Nam Á. Được biết, Phuket bắt nguồn từ ngôn ngữ Thái (“ภูเก็ต” - phát
âm: Phu-kẹt)và ý nghĩa “ngọn núi” và “viên ngọc”. Thực tế Phuket có hình dạng của
một viên ngọc bích khơng đều, lại sở hữu dải bờ biển rộng lớn với hàng trăm hòn đảo
lớn nhỏ, hợp cùng các đỉnh núi, vách đá, hang động, rừng cây… tạo thành một không
gian nhiệt đới êm ả và lãng mạn, được mệnh danh hòn ngọc phương Nam của quốc
gia Thailand. Đảo Phuket là một thiên nhiên đầy cảm hứng bởi tại đây những bãi biển
tuyệt vời với cát trắng, nắng vàng, sóng tràn, nước biếc như có hấp lực thu hút ngày
càng nhiều những người yêu mến thiên nhiên…Đảo Phuket hấp dẫn khách du lịch bởi
nó sở hữu khí hậu gió mùa nhiệt đới, Phuket có thời tiết quanh năm ấm áp. Các tháng
nóng nhất là 4, 5, 9, 10, riêng hai tháng 9 và 10 có độ ẩm rất cao. Với thiên nhiên ngập
tràn ánh nắng cùng những bãi tắm trải dài và rất sạch, lại được điểm trang bằng những
hàng dừa xanh mát, những khu vui chơi giải trí đầy sơi động, những tour lặn biển hết
sức ấn tượng, Phuket đang nổi lên là một trong những địa điểm nghỉ mát hàng đầu thế
giới… Thời gian tốt nhất để du khách ghé thăm là từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau,
lúc hịn đảo này có gió mùa mát mẻ, nhiệt độ trung bình khoảng 24° - 33° C. Đến
thành phố Phuket, du khách có cảm giác như đang đi vào vùng đất của hoài niệm, bởi
chừng ¼ thành phố này cho đến nay vẫn còn đọng lại những dấu vết cũ xưa - du
khách dễ dàng bắt gặp hình ảnh những con phố cổ được hình thành từ thế kỷ XIX.
Đây cũng là khu vực tập trung nhiều nhà hàng, quán bar, cửa hàng lưu niệm do những
người Malaysia gốc Ấn Độ quản lý, nhiều ngôi chùa của người Hoa, bảo tàng văn hóa,

tu viện…Du khách đến Phuket, ngoài việc thỏa sức vẫy vùng cùng những bãi biển đẹp
đến nao lòng, còn bị cuốn hút vào các trị chơi thể thao trên biển như mơ-tơ nước
(jetski), lướt ván… Du khách cũng có thể kết hợp khám phá những thắng cảnh nổi
tiếng như đảo Phi Phi với các hoạt động du lịch và là một trong những bãi biển sạch


nhất thế giới; vịnh Phang Nga với 40 đảo nổi, trong đó có đảo James Bond được các
nhà làm phim Hollywood chọn làm bối cảnh cho bộ phim “Điệp viên 007”; lặn ngắm
những dải san hô cùng những đàn cá sinh động đủ sắc màu…Do vậy với sức hút ấn
tượng năm 2009, khoảng 14 triệu khách du lịch nước ngoài đã đến thăm Thái Lan và
du lịch tạo ra 527.000 triệu baht (khoảng 1 Baht = 0,03 US $) (Bộ Du lịch và Thể
thao, 2010).
Mặc dù Phuket có tiềm năng du lịch cao như đã đề cập ở trên nhưng người ta vẫn
đặt câu hỏi liệu nó có được quản lý theo cách du lịch bền vững không? Bởi phát triển
du lịch bền vững là du lịch chú trọng đến môi trường, cả tự nhiên và nhân tạo, không
làm ảnh hưởng hoặc phá hủy văn hóa và trí tuệ xã hội. Mọi người có thể tham gia vào
các hoạt động du lịch nhiều nhất có thể, đồng thời họ cũng sẽ được hưởng lợi từ du
lịch bằng cách tham gia vào các hoạt động tạo thu nhập hoặc vận hành các cơ sở trong
cộng đồng vốn được phát triển chủ yếu cho hoạt động du lịch; không chỉ tài nguyên và
người dân địa phương sẽ được hưởng lợi từ phát triển du lịch bền vững mà cả khu vực
tư nhân. Về phía khách du lịch, một khi họ đã hài lịng về du lịch, họ sẽ khơng phá
hủy tài ngun du lịch vì họ sẽ ghi nhớ rằng những tài nguyên này thuộc về người dân
và nỗ lực phát triển du lịch bền vững cần được thực hiện vì lợi ích của thế hệ sau.
4. Bài học rút ra cho Phú Quốc, Việt Nam
Như vậy có thể thấy Phuket, Thái Lan có tiềm năng du lịch cao vì thế ngành du
lịch Việt Nam sẽ phải có những chuẩn bị kỹ càng để Phú Quốc thể hiện được năng lực
cạnh tranh cần có. Về khung cảnh hữu tình, Phú Quốc có lẽ khơng kém Phuket, nhưng
liệu điều đó có đủ khiến nó trở thành điểm đến hàng đầu của khu vực và giúp ngành
du lịch Việt Nam phát triển mạnh không là một câu hỏi lớn. Cho nên, với những quan
sát về tính thu hút và cạnh tranh của Phuket, Phú Quốc chúng ta nên đúc kết những

bài học có giá trị sau:
- Tăng cường đầu tư phát triển sản phẩm du lịch biển đặc trưng gắn với bản sắc
văn hoá và đặc thù tự nhiên của Phú Quốc, đồng thời cần thu hút đầu tư cơ sở
hạ tầng du lịch để tạo sự đột phá và kéo các nhà đầu tư lớn tạo động lực thúc
đẩy phát triển nhanh và bền vững.
- Thực hiện khác biệt và đa dạng hóa sản phẩm du lịch biển.
- Đẩy mạnh phát triển du lịch xanh và bền vững.
- Cần quán triệt nguyên tắc xuyên suốt trong chỉ đạo và quản lý, quy hoạch, triển
khai mọi hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển dịch vụ du lịch phải căn
cứ đáp ứng đồng thời 3 tiêu chí của phát triển bền vững.
5. Thảo luận
Song với những tiềm năng vốn có của điểm đến Phuket, Thái Lan thì mặc khác
khía cạnh cản trở sự phát triển du lịch bền vững cũng đang tồn tại. Do vậy, khi ban
hành các chính sách phát triển du lịch bền vững, các nhà hoạch định chính sách cần
hiểu rõ bản chất của du lịch địa phương và vai trị của việc tham gia hoạch định chính


sách. Ngoài ra, họ nên nghiên cứu kết quả của các chính sách du lịch trước đây và biết
cách áp dụng chính sách vào thực tế (Bramwell & Meyer, 2007; Stevenson, Airey &
Miller, 2008; Liu & Wall, 2003). Các nhà hoạch định chính sách cũng nên áp dụng các
cơng cụ kinh tế, xã hội và môi trường để thúc đẩy sự phát triển của du lịch địa phương
(Panayotou, 1994; Collins, 1999; Palmer & Riera, 2003).
Nghiên cứu cho thấy chất thải rắn hiện đang là một trong những vấn đề lớn ở Thái
Lan nói chung và xét về phạm vi Phuket nói riêng có tác động rất lớn đến sự phát triển
du lịch bền vững ở quốc gia này, các chất thải rắn (SW) tăng nhanh và tăng hàng năm
ở nhiều khu vực, đặc biệt là các trung tâm đô thị (Ơ nhiễm phịng kiểm sốt, 2012).
Các vấn đề SW có thể được tách thành 3 vấn đề chính là thu thập, vận chuyển và xử lý
(Kaosol, 2010). Do đó sự xuất hiện của hệ thống quản lý chất thải rắn (SWM) ở
Phuket yêu cầu ngân sách khoảng 156 triệu baht mỗi năm (Thành phố Phuket, 2015).
Bất chấp nhận thức về việc tăng khối lượng SW của các cơ quan có trách nhiệm,

SWM hiệu quả ở Phuket vẫn là một thách thức.

Hình 1: Khối lượng SW trung bình từ 2002-2013 và dự báo từ 2014-2027 ở
Phuket (Trung tâm SWM tỉnh Phuket của thành phố Phuket, 2013)
Theo thống kê qua các năm từ năm 2002-2013 và dự báo từ 2014-2027 thì khối
lượng SW tăng hầu như qua các năm điều đó có thể nhận định rằng sự gia tăng dân số
ẩn góp phần làm gia tăng SW và gây áp lực cho SWM của Tổ chức Hành chính Địa
phương (LAO). Vì ngân sách dựa trên số lượng nhà ở đã đăng ký, chi phí để xử lý
khối lượng chất thải do khách du lịch và dân số ẩn trở thành chi phí bổ sung do LAO
thực hiện về mơi trường có trách nhiệm. Các vấn đề về SW và bối cảnh của chúng


khác nhau giữa các LAO và sự định hình về chiến lược SWM - đây được xem là một
thách thức cho người dân và quản lý ở Phuket.
5.1 Tác động của vấn đề SW ở Phuket
5.1.1 Về môi trường
Hiện tại, Phuket tập trung vào SWM thông qua việc xử lý tại bãi chôn lấp và
thiêu hủy. Việc xử lý theo cách chơn lấp nếu khơng có các biện pháp vệ sinh an toàn
và đầy đủ sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường và xã hội bao gồm rủi ro làm ô nhiễm
nguồn nước ngầm và đất bởi khi nước rỉ rác thì chất lỏng sẽ di chuyển qua hoặc thốt
ra từ các bãi rác. Điều này sẽ làm suy giảm chất lượng nguồn nước ngầm và ảnh
hưởng đến những người sử dụng nước trong khu vực đó để tiêu dùng.
Các khu vực SWM nằm gần khu vực sinh hoạt của khu dân cư do đó sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người và chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
Một ví dụ điển hình như ở làng Saphanhin đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi quá trình xử
lý, đặc biệt là mùi từ các chất thải trong q trình vận chuyển đến lị đốt khi mà lượng
chất thải bị rị rỉ trên đường gây mùi hơi thối và thậm chí với lượng lớn nước thải bị rị
rỉ sẽ chảy vào các nguồn nước tự nhiên gây hại cho các loài động, thực vật.
5.1.2 Về xã hội
Nơi đây có nhiều điểm tham quan dựa vào thiên nhiên, lịch sử và tôn giáo và

nằm hầu hết trên khắp các hịn đảo, do đó khi mà với lượng lớn du khách đến thăm
quan ở Phuket điều này cũng là một tác nhân dẫn đến khối lượng SW cao đặc biệt là ở
các đô thị các khu vực Patong và Thành phố Phuket. Khi các chất thải được vận
chuyển đến nơi xử lý tại trung tâm thành phố Phuket bị tắc nghẽn gây mùi khó chịu
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của cư dân nơi đây (Sangsintusron, 2007). Hơn
thế nếu việc thu gom, xử lý rác thải không đúng khung giờ đã thỏa thuận hoặc các vấn
đề rò rỉ chất thải từ các xe thu gom sẽ gây ra các khiếu nại và mâu thuẫn trong cộng
đồng.
5.1.3 Về kinh tế
Như đã đề cập ở trên, Phuket phải chi khoảng 156 triệu baht mỗi năm cho
SWM thay vì sử dụng ngân sách cho các sáng kiến phát triển khác. Ngoài ra nếu hệ
thống SWM khơng hoạt động hiệu quả có thể dẫn đến mất thu nhập từ các điểm du
lịch và điểm đến du lịch cũng sẽ bị xuống cấp, ô nhiễm nghiêm trọng. Quản lý chất
thải kém có thể giảm chất lượng hình ảnh du lịch và trải nghiệm ở Phuket, điều này sẽ
ảnh hưởng đến lượt trở lại của khách du lịch. Như vậy, điều này càng làm nổi bật tầm
quan trọng của việc giải quyết lượng lớn chất thải này thơng qua hệ thống SWM.
5.2 Quy trình SWM ở Phuket
Qua nghiên cứu, việc phân loại rác thải theo nguồn gốc được sử dụng như một
điểm khởi đầu để khám phá hệ thống SWM ở Phuket. Theo Shekdar, 2008 đã nghiên
cứu SWM bền vững bằng cách sử dụng cách tiếp cận tổng hợp cho người châu Á và
nhận thấy rằng các hệ thống đang được định hướng tập trung vào việc kết hợp 3R -


reduce, reuse, recycle (giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế). Những sáng kiến này hướng
tới “ không chất thải” và chính sách “khơng lấp đất”

Hình 2: Hệ thống quản lý chất thải rắn bền vững (Shekdar, 2008)
Dựa vào hệ thống này và tùy theo lối sống của mỗi con người cho thấy chất
thải cũng sẽ có nguồn gốc khác nhau. Việc phân loại và tái chế chất thải đã được sử
dụng như chiến lược giảm thiểu chất thải trước khi bước vào quy trình thu gom và vận

chuyển. Tuy nhiên việc thực hiện chiến lược này cũng tùy thuộc vào bối cảnh của các
tổ chức.
Đối với Phuket nơi có một trung tâm xử lý SW do thành phố Phuket quản lý,
SW sẽ được thu gom và vận chuyển bằng xe tải đến nơi xử lý và trung tâm xử lý. Tất
cả các xe tải đều được đăng ký với trung tâm theo quy định nguồn thải (LAOs). Sau
khi được cân, các xe tải được chuyển hướng phù hợp với các địa điểm chất thải như
nhà máy đốt rác hoặc khu vực chơn lấp (Liamsanguanvà Gheewla, 2008) với mức phí
520 baht/tấn do chính quyền thành phố Phuket thu so với việc thải bỏ. Phuket sử dụng
hai phương pháp để xử lý SW là lò đốt và bãi rác. Lò đốt có ba bộ đốt: bộ C và B kết
hợp với nhau có thể đốt 700 tấn chất thải rắn mỗi ngày. Hiện tại bộ A đang trong quá
trình xin ngân sách để sửa chữa. Có 5 ơ chơn lấp đang theo lệnh cải tạo của Quốc gia
Hội đồng vì Hịa bình và Trật tự (NCPO) theo Lộ trình SWM năm 2014.
5.2.1 Các chính sách và trách nhiệm của SWM (trang 46/126) (Tuyền)
Tại Phuket Ban Quản lý chất thải rắn và nước thải được thành lập kể từ năm
2005. Ban Quản lý SWM và nước thải của tỉnh Phuket có Thống đốc với tư cách là
chủ tịch và ONRE Phuket là Thư ký. Vai trò của Hội đồng này là thiết lập các chính
sách, bắt đầu thảo luận giải quyết các vấn đề và lập kế hoạch cho tương lai. Ví dụ
trong năm 2014 có chính sách về chất thải nguy hại Hội đồng quản trị đã báo cho tất
cả các LAO để tách chất thải nguy hại ra khỏi chất thải thông thường và giao cho
Phuket CM làm điểm thu gom chất thải nguy hại được Phuket PAO xử lý thích hợp.


Tuy nhiên về trách nhiệm thì mặc dù có thơng báo chính thức gửi đến tất cả các LAO
để thu thập chất thải nguy hại và chuyển chúng đến đúng địa điểm nhưng sau thời gian
quan sát hiện trường thì chất thải vẫn được xử lý trong các thùng rác chung. Ngồi ra,
trong năm 2014 trong các cuộc họp thì hầu như LAO không tham gia điều này cho
thấy sự thiếu nhiệt tình trong SWM về các vấn đề của LAO.
5.2.2 Lộ trình SWM năm 2014 (trang 48/126) (Tuyền)
Lộ trình SWM năm 2014 có bốn thành phần chính: quản lý chất thải rắn tại các
bãi xử lý cũ đồng thời tạo ra một mơ hình SWM và chất thải nguy hại (SWM mới),

ban hành các quy tắc quản lý chất thải, chất thải nguy hại và thiết lập các kỷ luật trong
quốc gia nhằm hướng tới quản lý phát triển bền vững
Lộ trình được chia thành 3 thời kỳ: thời hạn trước mắt (6 tháng), trung hạn (1
năm) và dài hạn ( 1 năm), mơ hình quản lý cũng được chia thành ba mức khối lượng
chất thải: nhỏ (S), trung bình (M) và lớn (L. Lộ trình này nhằm xác định các lĩnh vực
hành động theo mức độ cấp bách khủng hoảng trên địa bàn tỉnh, sự cần thiết đối với
các quy định để kiểm soát quản lý.
Theo kết quả của lộ trình SWM 2014 thì nhiều cơ quan liên quan đã trở nên
tích cực hơn trong SWM, khn khổ hoạt động địi hỏi sự tham gia của chính quyền
địa phương và tình nguyện viên để tạo ra một kế hoạch hành động thiết thực. Có như
vậy thì khi mọi người và các tổ chức nhận thức được vấn đề thì họ sẽ góp phần giải
quyết vấn đề.
5.2.3 Kế hoạch tổng thể SWM ở cấp tỉnh 54/126) ( Nhí)
Vào năm 2008, Phuket và MNRE, bộ năng lượng và văn phòng phát triển kinh tế
và xã hội quốc gia đã đề xuất kế hoạch SWM Phuket. Một nhiệm vụ được giao cho bộ
nội vụ là cung cấp kinh phí cho dự án.
Năm 2014, kế hoạch SWM Phuket đã được khởi động lại, kế hoạch đã được áp
dụng như một lộ trình SWM quốc gia 2014, kế tập trung vào việc phân loại chất thải
tại nguồn và quản lý chất thải nguy hại. Kế hoạch SWM đã được thảo luận nhiều lần
để biến vấn đề trở thành một kế hoạch hành động hiệu quả cũng như tạo ra một khuôn
khổ để hướng dẫn và áp dụng hiệu quả SWM trong Phuket.
Năm 2015, lập kế hoạch hành động môi trường Phuket. Trọng tâm nhằm hợp nhất
các kế hoạch SWM từ các LAO và xin tài trợ từ MNRE. Năm 2017 hai dự án đã được
đề xuất, cải tạo các bãi chôn lấp cũ của Phuket và dự án khí sinh học của Phuket PAO.
5.2.4 Hệ thống SWM trong thực tế ( trang 55/126) (Bình)
Đầu tiên, để nói về hệ thống SWM trong thực tế, cần phải xem xét sự phát triển
của hệ thống SWM qua các giai đoạn. SWM đã có những bước tiến cũng như những
thay đổi trên con đường phát triển.
- Sự phát triển của hệ thống SWM trong thực tế ở Phuket, Thái Lan
Hệ thống SWM ở Phuket được chính thức thành lập vào năm 1993, nó đã được

hồn thiện và có nhiều đổi mới trong con đường phát triển của mình. Cụ thể:


Tiến trình phát triển của hệ thống SWM qua các năm
Đối với vấn đề xử lý rác thải ở Phuket, ban đầu khu vực Sapapanhin ở Phuket
CM chiếm diện tích 41,5 ha được chọn là khu vực tập trung cho việc xử lý rác thải.
Tuy nhiên, hiện khu vực đã được xây dựng, phát triển thành sân vận động, công viên
và một phần là các khu vui chơi giải trí. Cục Cơng trình Cơng cộng và Quy hoạch Thị
trấn đã và đang hỗ trợ tích cực cho khu vực Phuket CM nhằm có kế hoạch tổng thể
cho một hệ thống xử lý chất thải thích hợp và có hiệu quả nhất.
SWM ở Phuket đã phát triển liên tục kể từ khi thành lập, tuy nhiên việc thực
hiện kế hoạch còn hạn chế. Một quan chức nhà nước giải thích lý do cho điều này
rằng “ kế hoạch không được thực hiện nghiêm túc và khơng có cán bộ chịu trách
nhiệm điều hành nên không được đề cập hoặc thực hiện”.
-

Hệ thống SWM Phuket ở cấp độ vận hành

Phần 1: Sự phân cấp trách nhiệm từ trung ương đến khu vực chính phủ. Ở cấp tỉnh,
văn phịng hành chính địa phương quản lý 19 LAOs thuộc quy định của Bộ nội vụ. Về
chính sách SWM có Hội đồng quản trị SWM với vai trị thiết lập khn khổ và chính
sách để hướng dẫn công tác Quản lý SW trên địa bàn tỉnh.
Phần 2: Bức tranh tổng thể về SW ở các khu dân cư, cơ quan, thương mại, công
nghiệp xây dựng và nông nghiệp. SW từ các nguồn này thường được phân thành bốn
loại cụ thể là chất thải chung, chất thải hữu cơ, chất thải có thể tái chế và chất thải


nguy hại. Tuy nhiên trong thực tế, tất cả các loại SW đều được cho vào cùng một
thùng mà không cần phân tách. Mặc dù trước đó các LAO cụ thể là Phuket CM có
khởi xướng dự án phân loại chất thải để phân loại các chất nguy hại như pin, bóng

đèn,... như vậy thành cơng đã bị đã bị hạn chế và những chất thải này vẫn còn thấy
trong thùng cùng với các chất thải thông thường.
Phần 3: Vai trò của xã hội dân sự trong SWM ở Phuket. Nhóm này bao gồm các cá
nhân từ nhiều nghề nghiệp và nhân khẩu học, có những người làm việc ở cả khu vực
nhà nước và khu vực cá nhân, những người cùng nhau và tạo ra các nhóm bảo tồn môi
trường và làm việc với các cơ quan chức năng để giải quyết vấn đề về môi trường
5.2.5 Các chiến lược SWM của Phuket ở cấp địa phương (trang 62/126)
(Tuyền)
Ba chiến lược mà LAO áp dụng bao gồm: sử dụng toàn thời gian nhân viên thu
gom và vận chuyển bằng xe LAOs, thuê nhân viên thu gom cho công ty tư nhân trong
khi sử dụng vận chuyển bằng các phương tiện LAOs và thuê cả nhân viên thu gom
ngoài và vận chuyển xe đến công ty tư nhân.
Hầu hết các LAO sử dụng chiến lược tự quản lý, sở dĩ sử dụng phương pháp
này là do sự thuận tiện trong kiểm soát và hợp tác đối với các yêu cầu mới hoặc các
nhiệm vụ khẩn cấp và mức độ cam kết cao giữa tổ chức và nhân viên. Có năm LAO
sử dụng chiến lược thuê ngoài một phần, lý do họ chọn phương pháp này là do các
khu vực và nhu cầu giải quyết các khiếu nại về SW tràn. Chỉ có hai năm LAO th
ngồi hồn tồn, lý do họ làm như vậy là để giảm chi phí hoạt động và tránh các khiếu
nại về các SW chưa được thu gom.
Sự khác biệt trong thu gom và vận chuyển chất thải là kết quả của các chính
sách khác nhau của các nhà lãnh đạo LAO. Tuy nhiên hiệu quả của SWM trong các
khu vực còn nhiều nghi vấn và những nghi vấn đó được liệt kê như sau:
Chiến lược SWM của Ưu điểm
Phuket LAO

Nhược điểm

Quản lý bản thân

1. Kiểm sốt dựa trên

SWM chính sách
của LAO
2. LAO hiểu các vấn
đề trong khu vực

1. Thiếu nhân viên
thu gom
2. Chi phí bảo trì cao
3. Khơng thể thu thập
SW trong một số
khu vực

Th ngoài một phần

1. Tập hợp bao gồm
tất cả các khu vực
2. Giải quyết tình
trạng thiếu nhân sự
3. Giảm phàn nàn

1. Nguy cơ tham
nhũng cao
2. Các nhà khai thác
có thể khơng có
tiêu chuẩn hoạt


động tốt
Hồn tồn th ngồi


1. Tiết kiệm chi phí
bảo trì
2. Giải quyết tình
trạng thiếu nhân sự

1. Phương pháp thải
bỏ khơng được
kiểm sốt
2. Nguy cơ tham
nhũng cao
3. LAO khơng thể
kiểm sốt tiêu
chuẩn hoạt động
4. Nhà khai thác có
thể khơng có tiêu
chuẩn hoạt động tốt

Hình: Điểm mạnh điểm yếu của các chiến lược SWM ở Phuket hiện tại
5.3 Những hạn chế của việc thực hiện lộ trình SWM năm 2014 (86/126)
(Linh)
Vào năm 2014 lộ trình SWM được thực hiện có hiệu quả bởi nó bao gồm
những mục tiêu xử lý chất thải rắn cũ, tạo một mơ hình SWM bằng cách tập trung
giảm thiểu tại nguồn giảm lãng phí năng lượng, ban hành các quy tắc về quản lý chất
thải và chất thải nguy hiểm, thiết lập kỷ luật quốc gia hướng tới bền vững. Song lộ
trình này đã vướng phải một số vấn đề như SW cũ vẫn còn tồn đọng 1 tấn, việc cải tạo
bãi rác cũ khơng hồn thành và vấn đề ơ nhiễm khơng khí ảnh hưởng đến mơi trường
xung quanh vì mùi hơi từ các dự án phân loại rác thải không được hiệu quả dẫn đến
chất thải nguy hiểm bị trộn lẫn với các rác thải thơng thường, do thiếu ngân sách và
nguồn lực, chính quyền địa phương bất lực trong việc thực thi chính sách phân loại rác
thải.

5.4 Những yếu tố làm tăng hiệu quả SWM ở Phuket (91/126) (Linh)
* Về phía nhà Lãnh đạo
Cần đề cao vai trò lãnh đạo của các LAO để góp phần giải quyết các vấn
đề ở SWM ở nguyên nhân gốc rễ. Ở cấp độ hoạt động, sự lãnh đạo của các
LAO nếu được chú trọng thì sẽ giải quyết được các cuộc xung đột và các thái
độ tiêu cực giữa các thành viên trong cộng đồng. Đề cao sự kết hợp giữa các
LAO để đề ra các biện pháp hỗ trợ các dự án khí sinh học, cung cấp các khu
vực lưu trữ các chất thải nguy hại cùng với đó thiết lập các trạm tái chế, thiết
lập kỷ luật trong các mơi trường giáo dục,... Ngồi ra, nếu qn triệt được điều
này thì sẽ khơng có sự xuất hiện của các chương trình làm sạch biển từ các tổ
chức bên ngồi khởi xướng và có thể gây tổn hại đến lợi ích của cộng động địa
phương


* Quyền sở hữu
- Phân cấp cụ thể về quyền sở hữu giữa các LAO và mọi người trong
cộng đồng đối với trách nhiệm giúp giải quyết các vấn đề SWM đạt hiệu
quả nhằm phát triển theo xu hướng bền vững
- Tăng cường quyền sở hữu có trách nhiệm SWM giữa các bên liên quan
trong khu vực để có thể giúp giảm thiểu sự thiếu hiểu biết trong các vấn
đề về SW và nên tăng hợp tác để giải quyết vấn đề
* Làm việc theo nhóm
Sức mạnh và chất lượng của một nhóm hay nhiều nhóm làm việc cho
SWM có thể nâng cao đáng kể SWM một cách hiệu quả chẳng hạn như phân loại chất
thải trong cộng đồng được thực hiện bởi nhiều tổ chức như văn phịng mơi trường tỉnh
và các LAO
* Nhận thức và giáo dục môi trường
Nhận thức và giáo dục môi trường của LAOs và công chúng cần được
cải thiện và nâng cao hiệu quả SWM. Điều này thể hiện qua việc thái độ cần
được thay đổi và nâng cao nhận thức để giáo dục cơng khai rằng SWM là nghĩa

vụ của mọi người. Có thể thấy điều này cũng liên quan đến cảm giác sở hữu
trong cộng đồng có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy các hành vi mơi
trường tốt hơn, đó là mục tiêu của sự phát triển du lịch bền vững.
* Tính bền vững
Nhóm các nhà lãnh đạo cần tiến hành thực hiện các dự án đã đề ra thay
vì chỉ thực hiện một giai đoạn đầu rồi dừng lại. Ngoài ra, cần phân bổ các bộ
phận chịu trách nhiệm để thực hiện dự án một cách thành công nhằm đạt được
sự tối ưu về phát triển bền vững. Không những vậy, nếu trong quá trình tiến
hành thực hiện dự án có xảy ra các vấn đề yêu cầu những người chịu trách
nhiệm cần thông báo ngay đến các tổ chức để giải quyết. Có như vậy thì nỗ lực
hoạt động hệ thống SWM mới đem lại hiệu quả tối ưu nhất.
5.5 Các chiến lược để tăng năng lực giảm thiểu chất thải (94/126) (Như)
Các chiến lược để tăng năng lực SWM của các LAO cần giải quyết các vấn đề về sản
xuất chất thải tại nguồn, vận chuyển và xử lý vì đây là những quy trình của SWM.
* Đưa ra luật pháp và chính sách
Các cán bộ LAO phải tham gia các cuộc họp SWM, và thực hiện chính sách
của Ban quản lý chất thải rắn và nước thải của tỉnh Phuket.
Ban quản lý SW và nước thải tổ chức các chương trình giáo dục về mơi
trường tới các trường học ở địa phương của tỉnh Phuket.
Tất cả các LAO phải lập kế hoạch hành động và kế hoạch tổng thể cho
SWM.
Tất cả các LAO phải có sự chỉ định một nhân viên có chun mơn phụ trách
SWM trong khu vực.
*Thúc đẩy sự tham gia


Tất cả các LAO cần thành lập các nhóm cơng tác địa phương cho hoạt động
SWM.
Cần có một kênh chung để báo cáo vấn đề SW trong tất cả các khu vực.
Có những hành động khuyến khích mọi cá nhân hành động SWM tại các khu

vực của họ.
* Khuyến khích và lồng ghép các chương trình mơi trường
Ban quản trị SW và nước thải của Phuket phối hợp với các chương trình giáo
dục tại các địa phương.
Các LAO nên thành lập các câu lạc bộ về môi trường cho thanh niên cả trong
và ngoài trường học.
Tập trung kiến thức SWM giảm thiểu chất thải tại các trường học cũng như
các hoạt động giáo dục cơng cộng.
Cung cấp chương trình giáo dục về môi trường cho mọi lứa tuổi mọi ngành
nghề.
* Đánh giá và giám sát
Ban quản lý và nước thải tỉnh Phuket thành lập ban giám sát việc thực hiện
LAO tại tất cả các khu vực.
Nâng cao tinh thần các tình nguyện viên người dân địa phương các nhóm xã
hội chủ động đánh giá và giám sát LAO và SWM.
Thành lập nhóm chuyên gia làm việc cấp tỉnh để cung cấp tư vấn cho các
bên liên quan LAO và SWM.
5.6 Kết luận chung cho vấn đề (101/126) (Tuyền)
Như vậy với sự xuất hiện của Hệ thống quản lý chất thải rắn (SWM) ở Phuket
có ảnh hưởng rất lớn đến việc kiểm soát lượng lớn chất thải rắn (SW) ở khu vực của
tỉnh nói riêng và trên tồn thế giới nói chung. Mặc dù SWM ở Phuket được giám sát
bởi Hội đồng Quản trị chất thải ở cấp tỉnh, khả năng thực hiện các chính sách cịn hạn
chế nhưng với sự thay đổi trong tổ chức quản trị ở cấp quốc gia đã mang lại sự thay
đổi đáng kể cho SWM ở cấp tỉnh. Sự ra đời của SWM lộ trình 2014 đã làm thay đổi
bộ mặt của chính quyền địa phương ở nhiều tỉnh, trong đó có Phuket điều này càng
chứng tỏ vai trò của tổ chức quản trị đối với hiệu quả của SWM. Thông qua chiến
lược SWM này, LAO đã hiểu được vấn đề xảy ra trong khu vực và trong tương lai
chiến lược SWM ở Phuket vẫn được tiếp tục thực hiện dưới sự kiểm soát, quản lý của
các Tổ chức quản trị và các LAO thì các vấn đề SWM sẽ được giải quyết ở nguyên
nhân gốc rễ và khi ấy lượng SW nằm ở mức kiểm sốt của tỉnh, của quốc gia. Ngồi

ra ở cấp độ hoạt động, với sự lãnh đạo của LAO thì sẽ giải quyết được các cuộc xung
đột và các thái độ tiêu cực giữa các thành viên trong cộng đồng,... Có như vậy thì SW
khơng cịn là vấn đề kìm hãm sự phát triển bền vững của cộng đồng ở Phuket và khi
ấy lượt khách du lịch đến đây sẽ ngày càng đông thúc đẩy sự phát triển du lịch bền
vững của khu vực, hơn hết nó cịn là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững về kinh


tế, chính trị và các giá trị văn hóa - xã hội của Phuket nói riêng và cả quốc gia Thái
Lan nói chung.
6. Kết quả (Huế, Như)
Việt Nam tiếp thu những gì?
Như vậy, qua những vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường xảy ra cũng như cách
mà Phuket, Thái Lan đã tiến hành để cải thiện chính sách, đẩy mạnh tăng trưởng du
lịch biển Phuket, Thái Lan từ một điểm đến không được chú trọng, quan tâm nhiều trở
thành một địa điểm mà hàng vạn người mong muốn được một lần đặt chân đến đặc
biệt là người nước ngoài trong đó có Việt Nam. Phú Quốc nói riêng và Việt Nam nói
chung đã có những cái nhìn tổng qt hơn, thực tế hơn về những vấn đề môi trường
trong ngành du lịch hiện nay, đặc biệt là vấn đề về chất thải rắn vẫn luôn là vấn đề
đáng lo ngại địi hỏi chính phủ nhà nước và các doanh nghiệp phải theo dõi, xử lý kịp
thời. Đối với những chính sách tích cực mà Phuket, Thái Lan đã thực hiện để thu hẹp
và kiểm soát chất thải rắn nhằm quản lý điểm đến du lịch bền vững thì trong suốt quá
trình thực hiện đã gặp một số vấn đề kìm hãm sự thành cơng của hệ thống này thì đây
quả là bài học kinh nghiệm sâu sắc cho Việt Nam. Thật vậy, sau đây là những bài học
mà Phú Quốc, Việt Nam có thể học hỏi và tiếp thu được từ Phuket, Thái Lan:
- Về mơi trường
+ Tìm hiểu, khảo sát tình hình thực tế của Việt Nam từ đó có những điều kiện thuận
lợi, thích hợp để có thể ứng dụng Hệ thống quản lý chất thải rắn (SWM) vào tình hình
thực tiễn của Việt Nam. Bởi lẽ, vấn đề về chất thải rắn không chỉ là vấn đề của một địa
điểm, một quốc gia mà đâu đâu chúng ta cũng có thể phát hiện nó, thậm chí là rất
nhiều chất thải rắn tồn tại ở khắp mọi nơi - môi trường sống và sinh hoạt của con

người. Việt Nam cũng không ngoại lệ, mặc dù nước ta đã áp dụng chính sách phân
loại rác thải, và đang được áp dụng vào trong thực tế. Chính sách phân loại rác thải là
một chính sách hiệu quả khi tác động, kêu gọi mọi người phân đúng loại rác thải nhằm
giảm tối thiểu số lượng rác thải rắn ra ngoài mơi trường nhưng xét về một khía cạnh
sâu hơn thì chính sách phân loại rác thải khơng phải là một chính sách hồn hảo thật
sự vì nó hầu như khơng giải quyết triệt để vấn đề về quản lý chất thải rắn. Chính vì
thế, Việt Nam cần có những biện pháp khảo sát, tìm kiếm những điều kiện thích hợp
để có thể đưa Hệ thống quản lý chất thải rắn (SWM) áp dụng vào Việt Nam một cách
hoàn thiện nhất có thể.
+ Cần áp dụng kết hợp giữa Hệ thống quản lý chất thải rắn (SWM) và chính sách phân
loại rác thải ở Việt Nam. Hệ thống quản lý chất thải rắn SWM có hiệu quả tích cực rất
lớn khi đã giải quyết một lượng lớn chất thải rắn ở Phuket, Thái Lan nhưng xét về tình
hình kinh tế, xã hội thì Việt Nam có nhiều khác biệt so với Thái Lan. Chính vì thế, khi
quyết định áp dụng Hệ thống SWM vào Việt Nam cần phải xem xét, thực hiện một
cách kỹ lưỡng, cân nhắc. Nếu chỉ tập trung vào việc đổi mới, xây dựng hệ thống
SWM thì sẽ không mang lại hiệu quả tối đa nhưng nếu Việt Nam vừa triển khai Hệ
thống SWM vừa áp dụng chính sách phân loại rác thải sẽ giúp nước ta giảm thiểu tối


đa nhất số lượng chất thải rắn. Việc giảm thiểu chất thải rắn không chỉ giúp môi
trường Việt Nam được cải thiện đáng kể mà hơn hết ngành du lịch Việt Nam cũng từ
đó sẽ được cải thiện, nhằm thực hiện mục tiêu định hướng phát triển du lịch bền vững
2025 tầm nhìn 2030, đưa ngành du lịch Việt Nam hội nhập vào nền du lịch thế giới.
- Về kinh tế
*Đối với doanh nghiệp, khu du lịch
Xây dựng Hệ thống quản lý chất thải rắn và giảm thiểu lượng nước thải ra môi
trường là một giải pháp tuyệt vời và hữu ích khi các doanh nghiệp kinh doanh, các
khu du lịch, resort khơng cịn phải đau đầu với vấn đề “Làm thế nào để xử lý chất thải
mà không gây ô nhiễm môi trường?”. Hơn thế, họ cũng học được cách để áp dụng hệ
thống SWM vào doanh nghiệp của mình một cách hiệu quả nhất, nhằm thúc đẩy

doanh thu, góp phần vào tăng trưởng GDP của Việt Nam. Ngành du lịch học cách xây
dựng, ứng dụng SWM tạo một mơi trường trong lành, thoải mái, với tiêu chí giảm tối
thiểu lượng rác thải rắn, đem lại cho du khách cảm giác thích thú khi đến Việt Nam du
lịch.
*Đối với người dân
Nâng cao nhận thức của người Việt Nam khi họ ý thức hơn, học được cách giảm
thiểu tối đa số lượng chất thải rắn thải ra ngồi mơi trường. Nhìn vào những gì mà
Phuket, Thái Lan đã thực hiện, chắc chắn phần nào sẽ khiến người dân Việt Nam có
nhận thức hơn với hành động sai trái trước đây của mình. Học được cách quan tâm,
chăm sóc cho nơi mình sinh sống, từ đó đẩy lùi tình trạng ơ nhiễm mơi trường. Đồng
thời, nâng cao nhận thức giữ gìn vệ sinh môi trường khi đến tham quan những danh
lam thắng cảnh, bảo tàng lịch sử, các điểm đến nổi tiếng,... hướng Việt Nam gắn với
du lịch bền vững trong tương lai.
- Về phía tổ chức lãnh đạo
Học hỏi thêm kinh nghiệm, những kế hoạch phát triển ngành du lịch Việt Nam, tiến
tới thực hiện mục tiêu xây dựng du lịch bền vững 2030 tầm nhìn 2050. Qua những
kiến thức, học hỏi từ Phuket, Thái Lan để có cái nhìn mới hơn về tình hình thực tế của
nước ta, qua đó để có những thay đổi kịp thời, phù hợp. Đồng thời, phải có một kế
hoạch cụ thể cho từng địa phương, tổ chức. Kêu gọi ý thức cộng đồng, tham gia xây
dựng tích cực từ cộng đồng người dân địa phương.
7. Kết luận và đề xuất (Huế, Bình - đề xuất), (Nhí - kết luận)
Kết luận
Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, địi hỏi các nước phải có những bước tiến
mang lại dấu ấn cho nền kinh tế. Đặc biệt, đối với ngành du lịch, việc xây dựng và
phát triển du lịch bền vững hiện đang là vấn đề được nhiều quốc gia quan tâm, hướng
tới nhằm thực hiện mục tiêu định hướng du lịch bền vững năm 2030 tầm nhìn 2050.
Việt Nam cũng khơng ngoại lệ, khi xem xét điểm đến Phuket, Thái Lan, Việt Nam đã
có được nhiều cái nhìn tổng quát, thiết thực hơn hơn về vấn đề xử lý chất thải rắn. Để
có thể thực hiện mục tiêu hướng tới du lịch bền vững Phuket, Thái Lan đã có những



chính sách riêng biệt, đặc biệt ở chỗ Phuket tiến hành xây dựng, triển khai hệ thống xử
lý chất thải rắn SWM và đã đạt được khá nhiều thành công dù chỉ mới tiến hành thực
hiện chưa bao lâu. Du lịch ở Phuket, Thái Lan đã thu hút rất nhiều du khách bất kể
trong và ngoài nước, mọi người đều mong muốn được đến tham quan, tìm hiểu, tận
mắt chứng kiến Phuket, Thái Lan đã xây dựng và áp dụng hệ thống SWM như thế
nào. Chính vì thế, để có thể hướng tới mục tiêu xây dựng du lịch bền vững trong một
tương lai khơng xa, địi hỏi Phú Quốc nói riêng và tất cả những địa điểm du lịch, các
tỉnh thành phố, đơ thị ở Việt Nam phải tích cực học hỏi, triển khai, xây dựng và áp
dụng hệ thống đó vào thực tiễn Việt Nam nhằm đưa du lịch Việt Nam bước sang một
trang mới, đẩy nền du lịch Việt Nam hướng tới du lịch bền vững, hội nhập toàn cầu
cũng như toàn thế giới.
Bài báo cáo đã đưa ra tính thu hút và cạnh tranh của điểm đến du lịch ở Phuket, Thái
Lan cũng như những chính sách mà Phuket đã áp dụng cho địa phương mình nhằm
xây dựng, thực hiện mục tiêu hướng tới du lịch bền vững. Qua đó để so sánh với một
điểm đến của Việt Nam để thấy được ngành du lịch Việt Nam thiếu sót những gì, cần
thực hiện những gì để có thể đưa du lịch Việt Nam hội nhập với du lịch thế giới, xu
hướng du lịch bền vững 2025 tầm nhìn 2030.
Đề xuất
- Tìm hiểu, rà sốt các chính sách, quy định, thực trạng cụ thể về tình trạng chất thải
rắn và những điều kiện liên quan đến ngành du lịch Việt Nam để có những đề xuất,
giải pháp, kế hoạch hợp lý cho từng vùng, địa phương cụ thể.
- Xây dựng kế hoạch cụ thể, chi tiết về việc xây dựng hệ thống xử lý chất thải rắn phù
hợp với điều kiện của từng địa phương trong tỉnh thành phố. Đồng thời kết hợp chính
sách phân loại rác thải như đã thực hiện từ trước.
- Tăng cường, giám sát khắt khe đối với công tác quản lý, xây dựng hệ thống xử lý
chất thải rắn ở từng khu vực, đô thị.
- Tiến hành các khảo sát, thu thập dữ liệu, thông tin cụ thể từ thực tiễn ở địa phương,
thành phố cho việc xây dựng, quản lý hệ thống xử lý chất thải rắn
- Nghiên cứu một số mơ hình xây dựng và mơ hình quản lý thích hợp từ đó có cách

quản lý chung nhất cho các hệ thống xử lý rác thải rắn ở tất cả các tỉnh thành nhằm tạo
nên sự thống nhất về mặt quản lý và giám sát.
- Nghiên cứu, xây dựng kết hợp với quy hoạch hướng tới xây dựng hệ thống xử lý rác
thải liên tỉnh, thành phố tạo nên sự liên kết giữa các tỉnh thành phố khác nhau trong
Việt Nam.
- Tổ chức các cuộc hội thảo, họp mặt giữa các tổ chức lãnh đạo doanh nghiệp trong cả
nước nhằm đưa ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu xây dựng, quản lý và phát triển
hệ thống xử lý chất thải rắn.
- Tuyên truyền, vận động, kêu gọi mọi người tham gia, hưởng ứng tích cực trong việc
thực hiện, áp dụng hệ thống khi hệ thống đã được hoàn thiện.

/>

(Các bạn làm mục 6,7 có thể tham khảo nha)
NOTE: Các bạn làm bài giảm thiểu tình trạng để các đầu dịng khi khơng thật
cần thiết nên viết thành văn nha các bạn, cảm ơn các bạn

của hệ thống quản lý chất thải của Phuket vẫn còn nhiều vấn đề. Sự gia tăng dân
số và lượng khách du lịch tạo ra một lượng lớn chất thải mà chính phủ khơng quản lý
tốt. Vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến hình ảnh thành phố, du lịch và sức khỏe của
cư dân. Castellani và Sala (2010) chứng minh rằng sự phát triển của du lịch bền vững
làm giảm các tác động tiêu cực đến môi trường. Do vậy các cơ quan chính quyền địa
phương ở Phuket nên xây dựng các chính sách và một kế hoạch thiết thực để giải
quyết về vấn đề chất thải chẳng hạn như vấn đề giảm thiểu chất thải rắn tại nguồn theo
chính sách 3R (Reduce, reuse, recycle) - viết tắt của giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế
tạo thành cơ sở của quản lý chất thải rắn trên toàn cầu (Sakai Et, al .,2008).
Giảm thiểu tức là tập trung vào việc giảm khối lượng và độc tính của chất thải,
điều này khơng bao gồm việc chuyển đổi sang các sản phẩm và bao bì có thể tái sử
dụng. Người tiêu dùng có thể tham gia bằng cách mua ít hơn hoặc sử dụng sản phẩm
hiệu quả hơn (George và Frank, 2002)

Tái sử dụng có nghĩa là sử dụng lại món hàng mà nó đã được sử dụng. Điều
này bao gồm việc tái sử dụng thông thường ở nơi vật phẩm được sử dụng lại cho cùng
chức năng và tái sử dụng đời mới ở nơi nó được sử dụng với một chức năng khác (The
Guide Network, 2013)
Tái chế là hoạt động phổ biến nhất được sử dụng để giảm thiểu chất thải. Tái
chế trả lại nguyên liệu thô cho thị trường bằng cách tách các sản phẩm có thể tái sử
dụng khỏi phần cịn lại của dòng thải (George và Frank, 2002)


Nhiều vật liệu có thể được tái chế là nhựa, kính, giấy. Tái chế làm giảm nhu
cầu chơn lấp và có thể cải thiện hiệu quả và đảm bảo chất lượng của các lò đốt và các
cơ sở làm phân hữu cơ bằng cách loại bỏ các vật liệu không cháy, chẳng hạn như kim
loại, thủy tinh (Hurst, et al ., 2005)
Quản lý chất thải rắn cũng là một phần của tiêu chuẩn quốc tế. Ở cấp địa
phương SEEK Phuket (2013) đã xác định việc quản lý chất thải rắn hiệu quả là một
phần chỉ số về tính bền vững của Phuket. Mục tiêu của nó là “Phuket trở thành một
hịn đảo sạch khơng có rác thải đến năm 2025” và đề xuất hai loại chỉ số bền vững về
chủ đề quản lý chất thải rắn. Đó là tổng số lượng chất thải được tạo ra (tấn) trên đầu
người và tổng lượng chất thải được tái chế (SEEK, Phuket, 2013)
Phuket phải đối mặt với

Nguồn tham khảo
-

/>-cua-11-bai-bien-noi-tieng-o-phuket-thai-lan.html

-

/>
-


Basic principles of sustainable development

-

The survey of factors influencing sustainable tourism at
Patong beach, Phuket island, Thailand

-

Evaluation of the Local Capacity in Solid Waste
Management at Source, Phuket Case Study
Barbosa et al. (2010): “Competitiveness of tourist destinations: The study of
65 key destinations for the development of regional tourism”, Rap – Rio de
Janeiro, 44(5), pp. 1067-95;
Buhalis, D (2001): “Tourism in Greece: Strategic Analysis and Challenges”,
Current Issues in Tourism, 4 (3), 440-80;
Bùi, T. và Mai, Q. (2012): “Đánh giá khả năng thu hút du khách của điểm
đến Huế”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, tập 72B, số 3 (2012);
/>
-

-



×