Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

tác động của việc khai thác và nuôi trồng thủy sản đến rừng ngập mặn ở long sơn (tp.vũng tàu) và giải pháp phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 69 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH






Nguyễn Thị Lan Anh







TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC KHAI THÁC VÀ NUÔI
TRỒNG THỦY SẢN ĐẾN RỪNG NGẬP MẶN Ở
LONG SƠN (TP.VŨNG TÀU) VÀ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG






LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC















Thành phố Hồ Chí Minh – 2011





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH





Nguyễn Thị Lan Anh






TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC KHAI THÁC VÀ NUÔI
TRỒNG THỦY SẢN ĐẾN RỪNG NGẬP MẶN Ở
LONG SƠN (TP.VŨNG TÀU) VÀ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG




Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60 42 60



LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VÕ SĨ TUẤN





Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


LỜI CAM ĐOAN



Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu thu thập, kết quả nêu trong luận văn là trung thực
và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.


Người viết cam đoan

Nguyễn Thị Lan Anh

LỜI CẢM ƠN

Luận văn được thực hiện theo chương trình đào tạo Thạc sĩ Chính quy tại trường Đại
học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Để hoàn thành nghiên cứu này, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy –
TS. Võ Sĩ Tuấn đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu và
nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn Ban Giám hiệu và Phòng đào tạo sau Đại học trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện luận văn này.
Chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo và cán bộ Ủy ban nhân dân xã Long Sơn, Sở Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên và môi trường, Sở thủy sản, Ban quản lí rừng
phòng hộ, Hạt kiểm lâm tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình thực hiện và thu thập số liệu liên quan đến đề tài.
Cảm ơn quí thầy, cô giảng dạy ngành Sinh thái học – Khoa Sinh học – trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt quá
trình học tập.
Xin cảm ơn các bạn và tập thể lớp Cao học Sinh thái học khóa 2007 – 2010, đã giúp
đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và làm luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến bố mẹ, sự quan tâm sự giúp đỡ của bạn bè và

những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học
tập và hoàn thành luận văn.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2011

Nguyễn Thị Lan Anh
MỤC LỤC
0TLỜI CAM ĐOAN0T 3
0TLỜI CẢM ƠN0T 4
0TMỤC LỤC0T 5
0TĐẶT VẤN ĐỀ0T 7
0TCHƯƠNG 1: TỔNG QUAN0T 9
0TCHƯƠNG 2: MỤC TIÊU – ĐỐI TƯỢNG – NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
0T 15
0T2.1. Mục tiêu nghiên cứu0T 15
0T2.2. Đối tượng nghiên cứu0T 15
0T2.2.1. Đối tượng nghiên cứu0T 15
0T2.2.2. Phạm vi nghiên cứu0T 15
0T2.3. Nội dung nghiên cứu0T 15
0T2.4. Phương pháp nghiên cứu0T 16
0T2.4.1. Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp0T 16
0T2.4.2. Phương pháp điều tra cộng đồng0T 16
0T2.4.3. Phương pháp khảo sát thực địa0T 17
0T2.4.4. Phương pháp vẽ bản đồ và tính diện tích rừng ngập mặn0T 17
0TCHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA XÃ LONG
SƠN, TP.VŨNG TÀU
0T 18
0T3.1. Điều kiện tự nhiên0T 18
0T3.1.1 Vị trí địa lí0T 18
0T3.1.2. Khí hậu, địa hình0T 18

0T3.1.3. Thủy văn, biển0T 18
0T3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội0T 19
0TCHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN0T 20
0T4.1. Đặc điểm rừng ngập mặn0T 20
0T4.1.1. Phân bố và diện tích0T 20
0T4.1.2. Thành phần và đặc điểm cây ngập mặn chủ yếu0T 22
0T4.2. Hiện trạng khai thác và nuôi trồng tài nguyên thủy sản liên quan đến rừng ngập
mặn
0T 29
0T4.2.1. Tài nguyên thủy sản liên quan đến rừng ngập mặn và hiện trạng khai thác thủy
sản
0T 29
0T4.2.2. Hiện trạng nuôi trồng thủy sản0T 32
0T4.3. Các tác động đến tài nguyên thủy sản liên quan đến rừng ngập mặn0T 38
0T4.3.1. Khai thác quá mức0T 38
0T4.3.2. Nuôi trồng thủy sản0T 41
0T4.3.3. Các tác động khác0T 42
0T4.4. Hiện trạng quản lí tài nguyên thủy sản liên quan đến rừng ngập mặn0T 46
0T4.4.1. Quản lí rừng ngập mặn0T 46
0T4.4.2. Quản lí việc khai thác tài nguyên thủy sản liên quan đến rừng ngập mặn0T 47
0T4.4.3. Quản lí các hoạt động nuôi trồng thủy sản0T 48
0T4.5. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng bền vững tài
nguyên thủy sản liên quan đến rừng ngập mặn
0T 48
0T4.5.1. Bảo tồn và phục hồi0T 48
0T4.5.2. Nuôi trồng thân thiện môi trường0T 51
0T4.5.3. Du lịch thiên nhiên0T 53
0TCHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ0T 59
0T1. Kết luận0T 59
0T2. Kiến nghị0T 59

0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T 61
0TPHỤ LỤC0T 66

ĐẶT VẤN ĐỀ

Rừng ngập mặn (RNM) là hệ sinh thái đặc biệt ở vùng cửa sông, ven biển nhiệt đới
và đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế xói lở, cố định bãi bồi, chống sóng gió, cung
cấp các chất dinh dưỡng và là nơi sinh sản, ương giống cho các loài thủy sinh vật, lọc trong
nước thải, giữ cân bằng sinh thái ở vùng ven biển. Ðây cũng là môi trường thích hợp cho
các hoạt động nuôi trồng thủy sản, đánh bắt tôm, cá, các đặc sản thủy sản có giá trị khác.
Rừng ngập mặn còn là nơi cư trú của các loài động vật hoang dã như: chim, thú, bò sát,
lưỡng cư. Các sản phẩm có giá trị của thực vật như gỗ, ta nin, than, giấy, đường, rượu, dược
liệu cũng được khai thác từ rừng ngập mặn. Như vậy rừng ngập mặn cung cấp rất nhiều
nguồn lợi cho con người cả về thực vật lẫn động vật đặc biệt là nguồn lợi về thủy sản.
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, là một trong 7 tỉnh,
thành phố của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, được xác định là vùng động lực và trên
thực tế là vùng lãnh thổ phát triển năng động nhất cả nước. Trong những năm gần đây ở Bà
Rịa – Vũng Tàu do sự phát triển của các khu công nghiệp, khai thác trái phép rừng ngập
mặn, lấn chiếm đất để nuôi trồng thủy sản góp phần làm thu hẹp diện tích rừng ngập mặn
đồng thời ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản trong vùng. Đặc biệt là việc nuôi trồng thủy
sản phát triển nhanh, diện tích nuôi ngày càng mở rộng, người nuôi dùng nhiều biện pháp để
nâng cao năng suất dẫn đến lượng hóa chất đưa vào môi trường ngày càng nhiều, vấn đề
môi trường và an toàn vệ sinh thực phẩm đang trở thành mối lo ngại cho xã hội.
2TLong Sơn là một xã đảo duy nhất trực thuộc thành phố Vũng Tàu có p2Thía Đông giáp
sông Dinh, phía Bắc giáp xã Tân Hải - huyện Tân Thành và thị xã Bà Rịa (thuộc tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu), phía Tây và phía Nam giáp biển (vịnh Gành Rái). Long Sơn có gần 100 ha
rừng ngập mặn tự nhiên và hơn 400 ha rừng trồng ngập mặn (chủ yếu là cây đước). Rừng
ngập mặn của Long Sơn đóng vai trò quan trọng trong việc phòng hộ ven biển, là môi
trường để phát triển thủy sản bền vững. Toàn xã có diện tích đất nuôi trồng thủy sản kể cả
đất mặt nước là 2955 ha trong đó đất nuôi trồng thủy sản là 1191,78 ha, đất mặt nuớc nuôi

trồng thủy sản là 1763,42 ha. Sáu tháng đầu năm 2009, trên toàn xã sản lượng khai thác
thủy sản đạt 650 tấn, sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 690 tấn, giá trị sản lượng đạt khoảng
10,2 tỷ đồng (theo Báo cáo về tình hình hoạt động, khai thác, nuôi trồng thủy sản trên địa
bàn xã Long Sơn năm 2009). Nhân dân trong xã có nhiều kinh nghiệm trong việc phát triển
nuôi trồng và khai thác thủy sản cụ thể là nuôi nhuyễn thể hai mảnh vỏ đặc biệt là con hàu.
Hiện nay nhân dân đã đăng kí hồ sơ nuôi hào là 284 hộ, 12 doanh nghiệp và khoảng 17 hộ
dân tham gia nuôi cá lồng bè.
Trong giai đoạn hiện nay đối với xã Long Sơn nuôi trồng và đánh bắt thủy sản ven
bờ là những ngành kinh tế chủ yếu để giải quyết công ăn việc làm, ổn định cuộc sống hàng
ngày của người dân. Có thể nói đời sống của nhân dân Long Sơn gắn liền với tài nguyên
thủy sản liên quan đến rừng ngập mặn.
Tuy nhiên, tình trạng khai phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thủy sản và xây dựng cơ
sở hạ tầng đã và đang thu hẹp diện tích của hệ sinh thái này ở xã Long Sơn. Nguồn lợi thủy
sản ở vùng biển ven bờ và trên các sông rạch cũng đang giảm sút. Ngoài ra, nước thải từ chế
biến hải sản và việc khai thác cát thiếu qui hoạch cũng có thể gây ảnh hưởng đến nguồn lợi
thủy sản và hoạt động nuôi trồng. Mặt khác, Nhà nước chủ trương quy hoạch một số diện
tích đất đai trên địa bàn xã để xây dựng khu công nghiệp góp phần làm thu hẹp diện tích
nuôi trồng thủy sản.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi chọn đề tài: “Tác động của việc khai thác và
nuôi trồng thuỷ sản đến rừng ngập mặn ở Long Sơn (TP.Vũng Tàu) và giải pháp phát
triển bền vững”.




CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

Rừng ngập mặn ngoài chức năng phòng hộ bảo vệ các bờ biển, bờ sông, điều hòa khí
hậu còn có vai trò quan trọng trong việc duy trì nguồn lợi thủy sản cho đới ven bờ. Trên thế
giới cũng như ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa rừng

ngập mặn và nguồn lợi thủy sản, tác động qua lại giữa chúng và giải pháp phát triển bền
vững hệ sinh thái nhạy cảm này.
* Trên thế giới
Có thể điểm qua một số công trình sau đây:
Đề tài: “Mô hình nuôi trồng cá vùng cửa sông” của Hickling C.F. (1970) cho thấy
vùng cửa sông phù hợp với việc phát triển mô hình nuôi trồng các loại cá, tôm nước lợ,
mặn. Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến các loại cá được nuôi, nguồn giống, nguồn thức ăn
và các biện pháp quản lí vùng nuôi ở một số nơi trên thế giới như Nga, Nhật Bản, Ý.[4]
Đề tài: “Chuyển đổi rừng ngập mặn sang ao nuôi trồng thủy sản” của Kapetsky
(1986) cho thấy việc chuyển đổi rừng ngập mặn không qui hoạch sang ao nuôi trồng thủy
sản là một trong những nguyên nhân làm mất mát diện tích rừng ngập mặn và làm suy giảm
đa dạng sinh học. Trong suốt ba thập kỷ qua, 196.000 ha rừng ngập mặn của Philippines và
42.000 ha rừng ngập mặn của Ecuador đã được chuyển đổi thành ao nước lợ nuôi cá và nuôi
tôm tương ứng. Tuy nhiên việc nuôi trồng thủy sản ở các ao nước lợ trong vùng ngập mặn
đều thất bại về kinh tế và sinh thái. Các ao nuôi tôm đều hoạt động dưới tiềm năng sản xuất
mặc dù đã tăng cường sử dụng các chất kháng sinh, hóa chất nhưng số ao nuôi tôm tồn tại
khá khiêm tốn. Rừng ngập mặn còn chịu sự phá hủy của tự nhiên như bão, sóng thần. Thiệt
hại nghiêm trọng do bão gây ra ở Tây Nam Bangladesh năm 1988 đã phá hủy 8.500.000 cây
ngập mặn tương đương với 66,3 triệu m
P
3
P gỗ thương mại. Hơn nữa, quy mô thay đổi lớn về
môi trường sau biến thể vi khí hậu; bất thường dao động mức nước biển, muối tích tụ trong
đất hoặc lũ lụt cũng đã góp phần cho sự phá hủy rừng ngập mặn.[6]
Đề tài: “Một số vấn đề về môi trường trong qui hoạch nuôi trồng thủy sản” của
Saenger P. (1993) đã nghiên cứu những tác động trực tiếp và gián tiếp của việc nuôi trồng
thủy sản đến môi trường sống. Tác động trực tiếp của việc nuôi trồng thủy sản đó là làm mất
mát diện tích rừng ngập mặn, thảm cỏ biển từ đó làm mất môi trường sống của một số loài
dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học. Các hoạt động liên quan đến nuôi trồng thủy sản
như: nạo vét, cải tạo làm thay đổi chế độ thủy văn, ảnh hưởng xấu đến hệ sinh thái biển. Tác

động gián tiếp của nuôi trồng thủy sản như chiếu sáng ban đêm, tiếng ồn và độ rung. Tiếng
ồn, độ rung động từ máy bơm hay thiết bị sục khí có thể gây thay đổi hành vi của một số
loài động vật không xương, cá, chim. Ánh sáng chiếu ban đêm có thể làm thay đổi sự
chuyển động của một số loài cá, mực, rùa. Tuy nhiên, tác động quan trọng nhất của nuôi
trồng thủy sản là làm suy giảm chất lượng nước vùng ven bờ do quá trình axit hóa đất mặt,
làm giàu chất dinh dưỡng từ phân bón và thức ăn, chất thải hữu cơ tăng lên. Việc giới thiệu
các biện pháp quản lý để giảm thiểu suy giảm nước biển ven bờ tác động môi trường bất lợi
của nuôi trồng thủy sản phát triển đã trở thành vấn đề cấp bách.[10]
Đề tài: “Đa dạng sinh học các loài cá vùng cửa sông thuộc Nam Châu Phi” của
Whitfield, A.K (1994) đã xác định ở Nam Phi trong số 142 loài cá được nghiên cứu có tới
71% loài là những đại diện hoặc hoàn toàn hay một phần đời sống phụ thuộc vào vùng cửa
sông, trong đó gồm cá cửa sông (28%) và cá biển rộng muối (43%), số còn lại là những loài
cá biển hẹp muối, xuất hiện trong vùng cửa sông với số lượng ít như khách vãng lai (21%),
một số loài cá nước ngọt rộng muối (55) và những loài di cư qua vùng cửa sông (3%).[13]
Đề tài: “Xử lí nước thải đầm tôm ở vùng đất ngập nước rừng ngập mặn tự nhiên” của
Primavera và cộng sự (1998) đã nghiên cứu hiện trạng rừng ngập mặn ở Philippines và đánh
giá khả năng xử lí chất thải của rừng ngập mặn tự nhiên. Việc trồng các cây ngập mặn có
tác dụng lọc nước thải từ đầm tôm và phục hồi được các đầm tôm bị bỏ hoang.[9]
Đề tài: “Các tác động của môi trường nuôi trồng thuỷ sản và những ảnh hưởng của ô
nhiễm môi trường nuôi trồng thủy sản ven biển ở Đông Nam Á” của Chua Thia Eng và cộng
sự (2003) đã chỉ ra rằng nuôi trồng thủy sản ven biển là một nghề truyền thống ở Đông Nam
Á. Sự phát triển của nghề này trong ba thập kỷ qua đã tạo ra các tác động tiêu cực về môi
trường ví dụ như chuyển đổi rừng ngập mặn trên diện rộng thành các ao nuôi, làm thay đổi
chế độ thủy văn ở các vùng nước do sự phát triển của cơ cấu nuôi trồng thuỷ sản, xả nước
thải hữu cơ vào nước biển. Đồng thời, việc xả chất thải do các hoạt động nông nghiệp và
công nghiệp vào nước biển vùng ven bờ dẫn đến sự suy thoái ngày càng cao của chất lượng
nước biển từ đó ảnh hưởng đến sản xuất nuôi trồng thuỷ sản và lợi nhuận. Hơn nữa, tần số
tăng của thủy triều đỏ trong khu vực đã đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng cho nuôi trồng thủy
sản ven biển, đặc biệt là trồng nhuyễn thể. Việc giới thiệu các biện pháp quản lý để giảm
thiểu suy giảm chất lượng nước biển ven bờ và các hậu quả môi trường do phát triển nuôi

trồng thủy sản đã trở thành một vấn đề cấp bách cho khu vực.[2]
Đề tài: “Cơ sở của việc bảo vệ và đồng quản lí rừng ngập mặn” của Schmit, K.
(2010) đã đưa ra khái niệm, quy trình và nguyên tắc đồng quản lí. Đồng quản lí dựa trên nền
tảng thương lượng, lấy quyết định chung, mức độ chia sẻ quyền hạn và phân phối công bằng
lợi ích giữa tất cả các bên liên quan. Quy trình đồng quản lý theo một quy trěnh bốn bước,
trong đó bốn nguyên tắc phải được áp dụng. Bốn bước gồm: Tham khảo ý kiến và tổ chức,
thương lượng và thỏa thuận, thực hiện, giám sát và đánh giá và bốn nguyên tắc gồm: quản
lý tổng hợp vùng ven biển, sự tham gia, phân khu, giám sát. Đồng quản lý rừng ngập mặn sẽ
đem lại lợi ích như sau: Bảo vệ hiệu quả các khu rừng ngập mặn, cải thiện sinh kế qua việc
đảm bảo sử dụng bền vững tài nguyên, người sử dụng tài nguyên được tham gia quyết định
việc quản lý tài nguyên, giảm khối lượng công việc cho chính quyền chia sẻ lợi ích như một
phần của cách tiếp cận, quản lý tổng hợp vùng ven biển.[11]
* Tại Việt Nam
Công trình nghiên cứu về: “Mối quan hệ của hệ sinh thái rừng ngập mặn và nguồn
lợi hải sản” của Phan Nguyên Hồng (2003) và cộng sự đã cho thấy rừng ngập mặn là nơi
nuôi dưỡng các loài hải sản và hỗ trợ nghề cá. Rừng ngập mặn bảo vệ hiệu quả và xử lí các
chất thải của các đầm tôm, cua. Các nguồn tôm giống bố mẹ đều có quan hệ mật thiết đến
rừng ngập mặn. Chính nhờ mùn bã phong phú của rừng ngập mặn mà năng suất của các
đầm tôm, cua cao hơn. Và việc trồng rừng ngập mặn ở một số tỉnh đã đem lại thu nhập cho
người dân thông qua nguồn lợi hải sản.[12]
Đề tài: “Đánh giá tác động của việc phục hồi rừng ngập mặn đối với nguồn lợi thủy
sản ở một số xã ven biển thuộc tỉnh Thái Bình và Nam Định” của Phan Thị Thúy, Lê Xuân
Tuấn (1998) đã xác định việc phục hồi rừng ngập mặn đóng vai trò quan trọng tạo ra nguồn
lợi thủy sản to lớn từ đó đem lại lợi ích kinh tế cho người dân.[35]
Đề tài: “Sự gia tăng nguồn lợi hải sản sau khi có rừng ngập mặn trồng tại huyện
Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” của Lê Xuân Tuấn, Đỗ Thành Trung (1998) đã cho thấy sự
phát triển của rừng ngập mặn có tác dụng bảo vệ đê biển, cải thiện môi trường đồng thời
làm gia tăng nguồn hải sản đến cư trú và sinh sống góp phần giải quyết công ăn việc làm
cho người dân trong vùng.[36]
Đề tài: “Ảnh hưởng của rừng ngập mặn đối với hệ thống nuôi tôm rừng ở đồng bằng

sông Cửu Long” của tác giả Bùi Thị Nga và cộng sự đã chỉ ra mối quan hệ và ảnh hưởng
qua lại giữa lá đước với hệ thống nuôi tôm – rừng. Lá đước có vai trò trực tiếp và gián tiếp
là nguồn thức ăn cho hầu hết các loài thủy sinh kể cả tôm. Tuy nhiên, quá trình phân hủy lá
đước làm tiêu thụ nhiều oxi, làm cho hàm lượng oxi trong thủy vực thường rất thấp gây ức
chế sinh lí cho tôm dẫn đến năng suất nuôi thấp trong mô hình nuôi quảng canh. Do đó việc
trao đổi nước tại nơi tích tụ nhiều lá đước hoặc tạo điều kiện để cung cấp oxi cho hệ thống
nuôi là điều rất cần thiết.[19]
Đề tài: “Vấn đề nuôi thủy sản trong rừng ngập mặn” của Viên Ngọc Nam, Nguyễn
Sơn Thụy (1998) đã tổng kết các hình thức nuôi thủy sản trong rừng ngập mặn hiện nay
gồm có: nuôi trên nền đáy (nuôi sò huyết, nuôi nghêu); nuôi lồng hoặc nuôi bè (nuôi cua,
tôm, cá); nuôi thủy sản ở ao, đầm, đập (nuôi cá, tôm). Đồng thời đưa ra phương thức sử
dụng hợp lí rừng ngập mặn cho việc nuôi thủy sản kết hợp với mô hình lâm – ngư trong
rừng ngập mặn đảm bảo được vốn rừng và năng suất thủy sản bền vững.[17]
Đề tài: “Nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng ngập mặn huyện Cần Giờ, thành phố Hồ
Chí Minh” của Lê Đức Tuấn (1995) trong báo cáo hội thảo quốc gia năm 1996 đã tổng kết
các mô hình nuôi trồng thủy sản trong rừng ngập mặn ở huyện Cần Giờ, TP.Hồ Chí Minh
và đề xuất một số biện pháp quản lí bền vững.[29]
Đề tài: “Hiện trạng nuôi trồng thủy sản trong khu vực có rừng ngập mặn ở Hải
Phòng và biện pháp cải thiện” của Lê Xân, Đỗ Văn Khương (1998) cho thấy nuôi trồng
thủy sản ở Hải Phòng và các tỉnh miền Bắc những năm 90 phát triển chậm và mô hình
quảng canh là chủ yếu và đề xuất mô hình trang trại nuôi trồng thủy sản hòa hợp với rừng
ngập mặn.[42]
Đề tài: “Công tác khôi phục tài nguyên rừng và khai thác nuôi trồng thủy sản với mô
hình lâm ngư kết hợp tại lâm ngư trường công ích 184 tỉnh Cà Mau” của tác giả Ngô Dũng
Liêm (1996) đã đưa ra mô hình sản xuất lâm - ngư kết hợp vừa trồng rừng vừa nuôi trồng
thủy sản. Theo mô hình này thì diện tích nuôi trồng thủy sản chiếm 1/4 diện tích rừng mà
vẫn đảm bảo sự ổn định và bền vững của môi trường, của hệ sinh thái rừng ngập mặn và ổn
định đời sống kinh tế của người dân. Khi thực hiện mô hình này, Cà Mau đã phục hồi được
4000 ha rừng ngập mặn.[15]
Các công trình liên quan đến giải pháp phát triển bền vững hệ sinh thái rừng ngập

mặn gồm có:
Đề tài: “Sử dụng bền vững và có hiệu quả kinh tế các tài nguyên trong hệ sinh thái
rừng ngập mặn ở xã Liên Vị, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh” của Phạm Văn Minh
(1995) đã đưa ra một số biện pháp khai thác, quản lí và bảo vệ rừng ngập mặn có hiệu quả
như sau: quá trình khai thác phải đi đôi với việc củng cố, phát triển và nuôi dưỡng rừng
ngập mặn; phải nghiên cứu những cây dược liệu quí là cây ngập mặn để có phương thức chế
biến và khai thác có kế hoạch; phải có qui chế quản lí toàn bộ diện tích rừng ngập mặn và
thông báo cho nhân dân trong vùng nhận thực và hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của rừng
ngập mặn.[16]
Còn trong công trình nghiên cứu: “Qui hoạch môi trường thành phố Hải Phòng và
định hướng bảo tồn phát triển tài nguyên sinh vật vùng ngập nước ven biển” của tác giả Lê
Trình và cộng sự (1996) cho rằng việc bảo tồn rừng ngập mặn ngoài việc khai thác hợp lí
nguồn tài nguyên, trồng rừng bổ sung thì cần phải xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên rừng
ngập mặn. Đồng thời giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội như: đưa việc giáo dục bảo vệ
rừng ngập mặn vào nhà trường, cung cấp chất đốt để thay thế cho việc dùng củi từ cây ngập
mặn, áp dụng các kĩ thuật công nghệ tiên tiến vào nuôi trồng thủy sản để tăng năng suất thay
cho việc phá rừng làm đầm mới, giảm thiểu việc khai thác hải sản trong khu vực rừng ngập
mặn để bảo vệ đàn giống cho dải ven bờ.[27]
Đề tài: “Cộng đồng ven biển và vấn đề quản lí nguồn tài nguyên ven biển” của tác
giả Trần Minh Hiền và cộng sự (1996) đã đề xuất các giải pháp phát triển bền vững từ phía
cộng đồng ven biển như: Hỗ trợ tài chính cho các hộ dân đánh bắt xa bờ để nâng cao sản
lượng trong bối cảnh nguồn lợi ven bờ bị cạn kiệt, nâng cao nhận thức của người dân nhằm
chấm dứt phương thức đánh bắt hủy diệt, kiểm soát các vấn đề ô nhiễm do rác thải sinh hoạt
và công nghiệp, xây dựng đê biển, đầu tư xóa đói giảm nghèo.[7]
Đề tài: “Mô hình phục hồi, quản lí hệ sinh thái theo hướng đồng quản lí” của Lý Hòa
Khương (2010) đã đưa ra giải pháp phát triển bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn bằng mô
hình đồng quản lí. Mô hình này dựa trên việc thiết lập lợi ích cho nhiều bên liên quan dẫn
đến cải thiện rừng ngập mặn thông qua qui hoạch tổng hợp việc sử dụng nguồn tài nguyên
và thử nghiệm phương pháp tiếp cận đồng quản lí có sự tham gia của nhiều nhóm đối tượng
chủ yếu là cộng đồng dân tộc người Khmer, phụ thuộc vào tài nguyên vùng ven biển.[14]

Đề tài: “Kinh nghiệm quản lí Vườn Quốc gia Xuân Thủy – Khu ramsar quốc tế” của
Nguyễn Viết Cách (2010) cho thấy thực trạng quản lí và bảo tồn Vườn Quốc gia Xuân Thủy
đồng thời đưa ra những giải pháp và bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả quản lí
và phát triển bền vững như sau: tăng cường năng lực cho Vườn Quốc gia Xuân Thủy (về vật
chất kĩ thuật, trang thiết bị, con người, pháp lí); tăng cường nâng cao nhận thức cộng đồng,
thúc đẩy hợp tác nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ chế quản lí thích hợp, tổ chức thực thi
dự án đầu tư vùng đệm, phát triển mô hình du lịch sinh thái.[2]
Qua quá trình thu thập tài liệu, điểm qua tất cả các công trình đã được nghiên cứu
cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu về đặc điểm rừng ngập mặn và những tác động
đến tài nguyên thủy sản liên quan đến rừng ngập mặn ở xã Long Sơn – thành phố Vũng Tàu
cũng như giải pháp phát triển bền vững. Do đó đây là vấn đề hoàn toàn mới cần được
nghiên cứu và phát triển.
CHƯƠNG 2: MỤC TIÊU – ĐỐI TƯỢNG – NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài của chúng tôi được thực hiện nhằm các mục tiêu sau đây:
• Nắm được các đặc điểm chủ yếu (diện tích, phân bố và thành phần cây ngập mặn
thường gặp của rừng ngập mặn ở xã Long Sơn, tp. Vũng Tàu.
• Tìm hiểu tài nguyên thủy sản liên quan rừng ngập mặn, hiện trạng khai thác và nuôi
trồng thủy sản
• Đánh giá các tác động đến tài nguyên liên quan rừng ngập mặn ở xã Long Sơn, tp.
Vũng Tàu
• Đề xuất giải pháp quản lí và phát triển bền vững tài nguyên thủy sản liên quan rừng
ngập mặn ở xã Long Sơn, tp. Vũng Tàu
2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rừng ngập mặn và nguồn lợi thủy sản liên quan ở
xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu.
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu là xã Long Sơn của tp. Vũng Tàu.
Phạm vi áp dụng: kết quả của đề tài làm cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước và
chính quyền xã xây dựng và thực thi các giải pháp quản lí và sử dụng bền vững tài nguyên
thủy sản liên quan đến rừng ngập mặn xã Long Sơn, tp. Vũng Tàu.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau đây:
1. Phân bố và diện tích rừng ngập mặn
2. Thành phần cây ngập mặn chủ yếu
3. Tài nguyên thủy sản liên quan rừng ngập mặn và hiện trạng khai thác thủy sản
4. Hiện trạng nuôi trồng thủy sản
5. Tác động và tình trạng suy thoái tài nguyên rừng ngập mặn
6. Giải pháp đề xuất liên quan đến quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên thủy sản
liên quan rừng ngập mặn
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nội dung nghiên cứu đã đặt ra, luận văn sẽ áp dụng các phương
pháp nghiên cứu sau đây:
2.4.1. Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp
Kế thừa tất cả các tài liệu (sách, luận văn, báo cáo nghiên cứu khoa học, bản đồ…)
có liên quan đến tài nguyên thủy sản của rừng ngập mặn Việt Nam nói chung và ở xã Long
Sơn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng. Đồng thời, liên hệ với các sở (Tài nguyên – Môi
trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…), ban quản lí rừng phòng hộ, thư viện tổng
hợp của tỉnh để thu thập các thông tin liên quan đến đề tài về các vấn đề như: đặc điểm rừng
ngập mặn xã Long Sơn và tài nguyên thủy sản của nó, hiện trạng khai thác và nuôi trồng
thủy sản, các tác động tới tài nguyên rừng ngập mặn…
2.4.2. Phương pháp điều tra cộng đồng
Điều tra, phỏng vấn trực tiếp người dân sinh sống ở vùng ngập mặn bằng cách sử
dụng mẫu phiếu đã lập sẵn những thông tin cần thu thập phục vụ cho nghiên cứu đề tài.
Ngoài ra, chúng tôi còn phỏng vấn cán bộ quản lí rừng, cán bộ thủy sản và cán bộ xã tại địa
phương để có thông tin tổng quát và xác thực hơn.
Nội dung phỏng vấn: tìm hiểu về tài nguyên thủy sản liên quan rừng ngập mặn và

hiện trạng khai thác (đối tượng đánh bắt, công cụ đánh bắt, sản lượng khai thác, số lượng
tàu thuyền khai thác, vùng khai thác, thu nhập bình quân của mỗi hộ…), hiện trạng nuôi
trồng thủy sản (kiểu nuôi, vùng nuôi, sản lượng nuôi hàng năm, các tác động tới nuôi trồng
và từ nuôi trồng…)
Công tác phỏng vấn thực hiện song song với công tác điều tra khảo sát ngoài thực
địa, chụp hình, xem xét tình hình làm ăn sinh sống, lao động sản xuất và các hoạt động khai
thác sử dụng tài nguyên rừng ngập mặn của các hộ dân. Trong quá trình đi phỏng vấn có kết
hợp tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của người dân đối với những chính sách liên quan đến
đời sống kinh tế xã hội, môi trường sống, khai thác sử dụng rừng,…
Tổng số phiếu phỏng vấn là 150 phiếu. Mỗi phiếu tương ứng với một nghề khai thác.
Mỗi nghề khai thác chúng tôi tiến hành phỏng vấn khoảng 15 hộ. Vì điều kiện đi lại khó
khăn, các hộ tham gia khai thác và nuôi trồng khá nhiều nên chỉ chọn ngẫu nhiên 150 hộ
dân trong tổng số 2460 hộ đang sống trong xã. Thời gian phỏng vấn từ tháng 2/ 2011 –
tháng 3/2011.
2.4.3. Phương pháp khảo sát thực địa
Tiến hành khảo sát ngoài thực địa kết hợp với việc phân tích trên bản đồ để tìm hiểu
sự phân bố rừng ngập rừng ngập mặn có trong xã.
Kiểm tra tình trạng sử dụng rừng ngập mặn (nếu có).
Xác định các loài cây ngập mặn chủ yếu có trong vùng phân bố bằng cách sử dụng
một số tài liệu định loại sau: Cây cỏ Việt Nam, quyển I, II, III. (Phạm Hoàng Hộ, 1999),
Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam (Nguyễn Tiến Bân,
1997), Phân loại học thực vật (Hoàng Thị Sản, 1999), Cây cỏ có ích ở Việt Nam, tập I, II
(Võ Văn Chi, Trần Hợp).
Đối với các mẫu không xác định được tên loài thì tiến hành thu mẫu và nhờ các
chuyên gia về cây ngập mặn định loại.
2.4.4. Phương pháp vẽ bản đồ và tính diện tích rừng ngập mặn
Phương pháp này do chuyên gia GIS Tống Phước Hoàng Sơn của Viện Hải dương
học hỗ trợ, sử dụng ảnh vệ tinh để vẽ bản đồ phân bố. Tính diện tích bằng phần mềm
MapInfo 7.5.
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA

XÃ LONG SƠN, TP.VŨNG TÀU

3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1 Vị trí địa lí
2T Long Sơn là một xã đảo duy nhất trực thuộc thành phố Vũng Tàu được bao bọc
bởi bốn bề sông nước có p
2Thía đông giáp sông Dinh, phía Nam giáp xã Tân Hải - huyện Tân
Thành, phía tây bắc giáp biển, phía bắc giáp với TP. Vũng Tàu và cách trung tâm thành phố
chừng 10 km theo đường chim bay.[25]
3.1.2. Khí hậu, địa hình
Long Sơn nằm trong vùng khí hậu đồng bằng Nam Bộ có hai mùa rõ rệt: mùa khô
và mùa mưa. Mùa khô có nền nhiệt độ cao và hầu như quanh năm không thay đổi kéo dài từ
tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 27
P
o
PC. Mùa mưa bắt đầu từ
tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa phân bố đều trong các tháng, lượng mưa trung bình là
1356,5 mm.
Địa hình Long sơn đa dạng và xen kẽ lẫn nhau, bao gồm: Núi, đồng bằng và vùng
đầm lầy. Khu vực núi gồm có núi Nứa, nằm gần chính giữa đảo, có độ cao là 182m. Khu
vực đồng bằng bao quanh các ngọn núi trên có độ cao trung bình là 5 – 7 m. Khu đầm lầy
bao quanh đảo và giáp với biển, sông Chà và, sông Rạng có độ cao từ 0,2 – 1m.[37]
3.1.3. Thủy văn, biển
Long Sơn là hòn đảo che chắn các cửa sông đổ vào vịnh Gành Rái bao gồm hai
hệ thống sông chính là sông Rạng và sông Chà Và. Sông Rạng là một nhánh của sông Dinh,
tách ra từ sông Dinh tại Phước Cơ thành phố Vũng Tàu, sông có chiều dài khoảng 3 km.
Sông Chà Và nằm phía Đông của đảo được tách ra từ sông Rạng, phần hạ lưu của sông
Dinh, sông chịu ảnh hưởng của thủy triều. Sông Dinh dài khoảng 35 km nằm gọn trong tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu, lưu vực sông rộng khoảng 300 km
P

2
P là nguồn cung cấp nước sinh hoạt
và tưới tiêu của tỉnh.
Vùng biển tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói chung và của Long sơn nói riêng có chế
độ hải văn bán nhật triều. Trong một ngày có hai lần triều lên và hai lần triều xuống. Đỉnh
triều, thân triều và biên độ 2 lần triều lên, triều xuống không bằng nhau.[37]
Như vậy, khí hậu đảo Long Sơn nói riêng và của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói
chung mang đặc thù của miền khí hậu nhiệt đới gió mùa, khí hậu nóng ẩm quanh năm, ít
xảy ra thiên tai và thời tiết bất thường nên rất thuận lợi cho sự phát triển của hệ sinh thái
rừng ngập mặn.
3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội
Dân cư sống tại đảo Long Sơn có tổng số là 2460 hộ bao gồm 12899 người. Mật
độ dân số trung bình là 239 người/km
P
2
P. Dân cư chủ yếu sống bằng sản xuất nông nghiệp,
khai thác và nuôi trồng thủy sản. Tổng số lao động trên đảo chiếm 68% tổng dân số. Cơ cấu
lao động bao gồm: nông, ngư nghiệp (76,4%); dịch vụ hành chính sự nghiệp (11,4 %); công
nghiệp, xây dựng (12,2%).[40]
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1. Đặc điểm rừng ngập mặn
4.1.1. Phân bố và diện tích
Ở Việt Nam, Phan Nguyên Hồng là người đầu tiên đề cập đến vấn đề phân bố và
địa lí các quần xã cây ngập mặn ở Việt Nam được công bố trong các công trình nghiên cứu
ở các năm 1970, 1975, 1991, 1996, 1999.
Trong các hệ sinh thái rừng ngập mặn Việt Nam có tới 45 quần xã cây ngập mặn
(Mangrove communites) và 6 quần thể cây rừng ngập mặn (Mangrove populations) và
chúng được phân bố theo các vùng như sau:
+ Vùng ven biển Đông bắc Việt Nam (tỉnh Quảng Ninh)

+ Vùng ven biển Đồng bằng Bắc bộ
+ Vùng ven biển Bắc Trung bộ
+ Vùng ven biển Nam Trung bộ
+ Vùng ven biển Bà Rịa – Vũng Tàu – thành phố Hồ Chí Minh (miền Đông Nam
bộ). [20]
Như vậy, rừng ngập mặn xã Long Sơn thuộc khu vực vùng ven biển Bà Rịa –
Vũng Tàu – thành phố Hồ Chí Minh. Vùng này được hình thành từ các sản phẩm bồi tụ của
hệ thống sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, bãi bồi tương đối rộng, phù sa giàu đất sét, khí
hậu quanh năm ấm áp, không có mùa đông, không có bão, khá thuận lợi cho cây ngập mặn
sinh trưởng.
Long Sơn có 97,9 ha rừng ngập mặn tự nhiên và 412,2 ha rừng trồng ngập mặn
(theo báo cáo hiện trạng rừng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 2009) phân bố rải rác bao
quanh xã, trong đó tập trung nhiều nhất ở thôn 2, thôn 9, thôn Rạch Giá, thôn Bến Điệp.
Đặc điểm phân bố, diện tích và hiện trạng sử dụng rừng ngập mặn theo từng khu vực được
trình bày cụ thể ở bảng 4.1 và hình 4.1.




Khu vực có
rừng ngập mặn
Diện
tích
(ha)
Đặc điểm phân
bố (dày hay
thưa thớt)
Kiểu rừng
(Rừng tự nhiên
hay rừng trồng)

Cây ngập mặn
chủ yếu
Hiện trạng
sử dụng rừng
Cầu Long Sơn,
thôn 10, một
phần thôn 1
35.8 Rải rác Tự nhiên
Đước, Mắm trắng, Dà vôi, Bần
chua
Rừng phòng hộ
Rừng Sác 34.5 Dày Tự nhiên
Đước, Mắm trắng, Dà vôi, Bần
chua
Rừng phòng hộ
Thôn 2 123.4 Dày Trồng
Đước, Mắm đen, Dà quánh,
Bần trắng
Rừng phòng hộ
Thôn Rạch Giá 130.2 Dày Trồng
Đước, Mắm đen, Mắm trắng,
Dà quánh, Bần trắng
Rừng phòng hộ
Thôn Bến Điệp 87.4 Dày Trồng
Đước, Mắm đen, Mắm trắng,
Dà quánh, Bần trắng
Rừng phòng hộ
Thôn 4 35.6 Dày Trồng
Đước, Mắm đen, Dà quánh,
Bần trắng

Rừng phòng hộ
Thôn 6 19.3 Rải rác Tự nhiên
Đước, Mắm trắng, Dà vôi, Bần
chua
Rừng phòng hộ
Thôn 8 14.1 Rải rác Tự nhiên
Đước, Mắm đen, Dà quánh,
Bần trắng
Rừng phòng hộ
Thôn 9 (Khu Gò
Găng)
39.2 Dày Rừng trồng Đước, Mắm trắng, Bần trắng Rừng phòng hộ
Bảng 4.1: Đặc điểm của các khu vực rừng ngập mặn chủ yếu ở Long Sơn
(Số liệu do Tống Phước Hoàng Sơn tính toán)





Dựa theo bảng 4.1: Đặc điểm của các khu vực rừng ngập mặn chủ yếu ở Long Sơn
(Số liệu do Tống Phước Hoàng Sơn tính toán) ta có diện tích rừng ngập mặn tự nhiên và
rừng trồng ngập mặn được tính toán bằng phần mềm MapInfo 7.5 lần lượt là: 101,7 ha và
415,8 ha. Như vậy, so với kết quả diện tích rừng theo báo cáo hiện trạng rừng của tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu năm 2009 là không chênh lệch nhiều.
4.1.2. Thành phần và đặc điểm cây ngập mặn chủ yếu
4.1.2.1. Thành phần cây ngập mặn chủ yếu
Theo nghiên cứu của Phan Nguyên Hồng (1993) thì trong các hệ sinh thái ở rừng
ngập mặn Việt Nam có tới 77 loài cây ngập mặn khác nhau thuộc 2 nhóm đó là:
+ nhóm cây ngập mặn “thực thụ”: Nhóm này có 36 loài cây ngập mặn thuộc 20 chi của 14
họ (năm 1999 có bổ sung thêm một loài)

+ nhóm cây “gia nhập”: Nhóm này có 42 loài thuộc 36 chi của 28 họ
Hình 4.1: Bản đồ phân bố rừng ngập mặn trong xã Long Sơn
Nguồn: Tống Phước Hoàng Sơn

Trong 78 loài cây ngập mặn khác nhau thì các cây ngập mặn thực thụ, thân gỗ
nằm trong họ Rhizophoraceae bao gồm 4 chi: chi Đước (Rhizophora), chi Vẹt (Buguiera),
chi Dà (Ceriops) và chi Trang (Kandelia) có vai trò rất quan trọng trong hệ sinh thái rừng
ngập mặn Việt Nam.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy ở miền Bắc Việt Nam có 17 loài cây ngập mặn
thực thụ trong tổng số 37 loài cây ngập mặn thực thụ ở Việt Nam chiếm 46% tổng số loài.
Còn ở miền Nam Việt Nam có 33 loài cây ngập mặn thực thụ trong tổng số 37 loài cây ngập
mặn thực thụ ở Việt Nam chiếm 80% tổng số loài.
Vùng ven biển Đông Bắc có số loài cây ngập mặn thực thụ là 16 loài trong tổng
số 37 loài cây ngập mặn thực thụ ở Việt Nam chiếm 43% trong đó phổ biến là Đâng hay
Đước vòi (Rhizophoza stylosa), Vẹt dù bông đỏ (Bruguiera gymnorrhiza) và Trang
(Kandelia obovata). Ngoài ra còn có mắm biển (Avicennia marina), Sú (Aegiceras
corniculatum).
Vùng ven biển Đồng bằng Bắc bộ có 14 loài cây ngập mặn thực thụ trong tổng số
37 loài, chiếm 37,8 % tổng số loài trong đó phổ biến là Bần chua hay Bần sẻ (Sonneratia
caseolaris) và Trang (Kandelia obovata). Ngoài ra còn có Sú (Aegiceras corniculatum).
Vùng ven biển Nam Trung Bộ có 23 loài cây ngập mặn trong tổng số 37 loài,
chiếm 62 % tổng số loài. Tuy nhiều hơn 3 vùng trên nhưng chúng phân bố phân tán thành
các diện tích nhỏ hẹp, nằm ở ven các con sông hoặc khe rạch bên trong bờ biển.
Vùng ven biển Bà Rịa – Vũng Tàu do có khí hậu thích hợp, không có mùa đông,
bãi bồi tương đối rộng nên số lượng loài cây ngập mặn thực thụ tăng lên đáng kể có 32 loài
trong tổng số 37 loài chiếm 86,4 % tổng số loài trong đó phổ biến là: Đước hay Đước đôi
(Rhizophora apiculuta), Bần chua (Sonneratia caseolaris), Mắm trắng hay Mắm lưỡi đòng
(Avicennia alba) và Mắm đen (Avicennia officinalis).[20]
Rừng ngập mặn ở Long Sơn nối liền với rừng ngập mặn ở Long Thành, Nhơn
Trạch (tỉnh Đồng Nai) và rừng ngập mặn ở Cần Giờ (huyện Duyên Hải, thành phố Hồ Chí

Minh) tạo thành một quần thể rừng ngập mặn rộng hàng trăm km
P
2
P. Rừng ngập mặn Cần Giờ
có diện tích là 24,592 ha bao gồm 33 loài cây rừng ngập mặn thực thụ thuộc 36 chi, 24 họ
trong đó có các loài chủ yếu sau: Bần trắng, Mắm trắng, Mắm đen, Đước đôi, Giá, Dừa
nước, Chà là.[21]
Cách trung tâm thành phố Vũng Tàu khoảng 180 km về phía đông là hệ thống
rừng ngập mặn của Vườn Quốc gia Côn Đảo thuộc huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu. Rừng ngập mặn Côn Đảo có diện tích không nhiều khoảng 30 ha nhưng là rừng
nguyên sinh chưa bị tác động bởi con người bao gồm 23 loài cây ngập mặn thực sự (thuộc
11 họ) và 18 loài cây gia nhập rừng ngập mặn (thuộc 16 họ), trong đó các cây ngập mặn
chiếm ưu thế là: Đước đôi, Sú đỏ, Dà vôi, Vẹt dù, Đâng, Đưng.[13]
Về cơ bản đặc điểm thành phần loài của rừng ngập mặn xã Long Sơn gần với
rừng ngập mặn Cần Giờ hơn so với rừng ngập mặn Côn Đảo. Tuy nhiên theo kết quả điều
tra thì diện tích rừng ngập mặn của Long Sơn nhỏ hơn và số loài ít hơn so với rừng ngập
mặn Cần Giờ. Chúng tôi đã xác định rừng ngập mặn xã Long Sơn có 10 loài cây ngập mặn
thực thụ thuộc 8 chi, 5 họ. (Bảng 4.2)
Aizoaceae
1. Sesuvium portulacastrum L.
Họ Rau đắng đất
Sam biển, Hải châu
Arecaceae
2. Phoenix paludosa Roxb.
3. Nypa fruticans Wurmb.
Họ Cau Dừa
Dừa nước, Dừa lá
Chà là
Avicennniaceae

4. Avicennia alba Bl.
5. Avicennia officinalis L.
Họ Mắm
Mắm trắng
Mắm đen
Rihizophoraceae
6. Ceriops decandra (Griff.)
7. Ceriops tagal (Pers) C.B.Rob.Ding hou
8. Rhizophora apiculuta Bl.
Họ Đước
Dà quánh, Dà đen
Dà vôi, Dà đỏ
Đước đôi
Sonneraticeae
9. Sonneratia alba Bl.J.E.Smith
10. Sonneratia caseolaris (L.) Engler.
Họ Bần
Bần trắng
Bần chua



Ở đây có các quần xã và quần thể cây ngập mặn chủ yếu sau:
+ Tại các bãi mới bồi, ngập nước sâu, khi triều cường ở ven sông Chà Và, sông Thị
Vải có các quần thể cây ngập mặn tiên phong là Bần trắng (Sonneratia alba).
Bảng 4.2: Thành phần loài cây ngập mặn chủ yếu trong
rừng ngập mặn xã Long Sơn

+ Trên các bãi bồi được ngập triều và đất tương đối ổn định thì có quần thể Đước
(Rhizophora apiculuta). Quần thể này chiếm ưu thế trong hệ sinh thái rừng ngập mặn ở

Long Sơn. Qua kết quả điều tra, hầu như các khu vực ngập mặn trong xã đều có Đước.
+ Quần xã Đước (R. apculata), Dà vôi (Ceriops tagal) và Mắm trắng (Avicennia
alba) phân bố trên các bãi bồi có độ ngập nước sâu trung bình khi triều cường (khu vực cầu
Long Sơn, thôn 9) (Hình 4.2, 4.3).
+ Quần xã Đước (R. apculata), Mắm đen (Avicennia officinalis), Dà quánh (Ceriops
decandra) phân bố trên các bãi bồi khi ngập triều cao (thôn Rạch Giá, thôn Bến Điệp, thôn
2, thôn 4).
+ Quần xã Chà là (Phoenix paludosa), Sam biển (Sesuvium portulacastrum) phân bố
trên các bãi bồi chỉ ngập nước khi có nước triều cao và cao bất thường trong năm (phân bố
rải rác trong các thôn như thôn 6, thôn 8, thôn 10).
Ở khu vực nước lợ cửa sông của vùng này thường gặp các quần thể chủ yếu sau:
+ Quần thể Bần chua (Sonneratia caseolaris) là quần thể cây ngập mặn tiên phong cố
định bãi bồi vùng cửa sông, nước lợ, ngập sâu (khu vực cầu Long Sơn, rừng Sác).
+ Quần thể Dừa nước (Nypa fruticans) phân bố trên các bãi bồi vùng nước lợ cửa
sông được ngập nước khi triều cao trung bình (phân bố rải rác trong các thôn như thôn 1,
thôn 6, thôn 8).




4.1.2.2. Đặc điểm của các loài cây ngập mặn chủ yếu
* Đước đôi (Rhizophora apiculuta Bl.)
Hình 4.2, 4.3: Một góc rừng ngập mặn nhìn từ khu vực cầu Long Sơn
và thôn 9

×