Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

nghiên cứu sự sinh trưởng và khả năng ra hoa của cây hoàng lan (cananga odorata (lamk.) hook.f.& thomson) trồng ở huyện giồng trôm, tỉnh bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.07 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH





Trần Công Danh




NGHIÊN CỨU SỰ SINH TRƯỞNG VÀ KHẢ NĂNG RA HOA
CỦA CÂY HOÀNG LAN (CANANGA ODORATA (LAMK.)
HOOK.F.& THOMSON) TRỒNG Ở HUYỆN GIỒNG TRÔM,
TỈNH BẾN TRE

Chuyên ngành : Sinh Thái Học
Mã số : 60 42 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM VĂN NGỌT



Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CAM ĐOAN




“ Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả được tôi trình bày trong luận văn là trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác



TRẦN CÔNG DANH
























LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất của mình để gửi đến
TS Phạm Văn Ngọt- một người Thầy đáng kính, đã hết lòng chỉ bảo, hướng dẫn và
truyền đạt những kiến thức về chuyên môn hết sức quý báu, những kinh nghiệm
trong nghiên cứu khoa học. Thầy đã luôn động viên, chia sẻ những khó khăn, luôn
bên cạnh giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận
văn này.
Xin chân thành cảm ơn :
• Quý Thầy Cô đã giảng dạy trong suốt 3 năm học, những người đã
truyền đạt kiến thức và luôn giúp đỡ tôi về chuyên môn cũng như
những tài liệu tham khảo
• Ban Chủ Nhiệm Khoa Sinh học trường Đại học Sư Phạm Thành phố
Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu để hoàn thành luận văn này
• Quý Thầy Cô Phòng Khoa Học Công Nghệ - Sau Đại Học đã giúp đỡ
tôi về mọi mặt trong suốt quá trình học tập
• Quý Thầy Cô phòng thực hành phân tích Hóa – Lý đã tạo điều kiện
thuân lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu và học tập.
• Gia đình anh Phạm Nguyễn, ấp Phú Trị, xã Châu Hoà, huyện Giồng
Trôm, tỉnh Bến Tre đã giúp đỡ nhiệt tình và tạo điều kiện thuận lợi để
tôi thực hiện luận văn.
• Thầy Quách Văn Toàn Em, cùng các em sinh viên Trần Thụy Kim Hà,
Bùi Thanh Phong, Nguyễn Thị Như Ý đã giúp đỡ tôi trong quá trình
thu thập, ghi nhận các số liệu thực tiễn
• Gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu để luận văn được hoàn thành
TRẦN CÔNG DANH





DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

h : chiều cao của cây hoàng lan
∆h : độ tăng trưởng chiều cao của cây
d : đường kính thân
∆d : độ tăng trưởng đường kính thân
l : chiều dài cành cấp 1
∆l : độ tăng trưởng chiều dài cành
c : đường kính cành
∆c : độ tăng trưởng của đường kính cành
n : số cành bị tỉa
∆n : số cành bị tỉa trung bình hằng tháng


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trong quá trình “ công nghiệp hoá - hiện đại hoá “ với chủ
trương là tập trung phát triển các ngành công nghiệp chế biến và đa dạng hoá mặt
hàng xuất khẩu. Hằng năm chúng ta xuất khẩu tinh dầu đạt 15 triệu USD (nhưng
nhập khẩu đến 25 triệu USD mà chủ yếu là hương liệu ). Điều này cho thấy nhu cầu
về tinh dầu là rất lớn và là một thị trường có nhiều triển vọng
Do đó, vi
ệc chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp gắn với ứng dụng
tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, đưa cây tinh dầu vào cơ cấu cây trồng,
xây dựng các vùng sản xuất nông lâm nghiệp tập trung, kết hợp với trồng xen hợp
lý - hình thành những vườn cây chất lượng cao gắn với công nghệ sau thu hoạch và
chế biến xuất khẩu mở ra nhiều triển vọng mới đáp ứng được cả yêu cầu về kinh tế

lẫn chính trị : giúp xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống kinh tế-văn hoá, cải tạo
và phục hồi hệ sinh thái bảo vệ môi trường sống…. thông qua việc sử dụng lao
động nhàn rỗi, tận dụng nguồn đất trống đồi trọc ở một số vùng nhất là nông thôn
và đồi núi.
Nước ta có khoảng 657 loài thực vật có chứa tinh dầu, thuộc 357 chi và 114 họ
(chiếm 6,3% tổng số loài, 15,8% tổng số chi và 37% tổng số họ) [14]. Tuy nhiên
mới chỉ khai thác trong tự nhiên hoặc đưa vào gây trồng khoảng 20 loài (chiếm 3%
số cây tinh dầu đã biết). Những cây được trồng và khai thác chủ yếu hiện nay là sả
(Cymbopogon sp.), bạc hà ( Mentha arvensis), hương nhu (Ocimum gratissimum),
húng quế ( Osimum basilicum), hồi ( Illicium verum), quế (Cinnamomum cassia),
màng tang (Litsea cubeba), tràm (Melaleuca cajuputi ), … [15]. Việc tìm kiếm
những cây tinh dầu có giá trị kinh tế cao đưa vào sản xuất nhằm đa dạng hoá tinh
dầu xuất khẩu, xây dựng một vùng nguyên liệu và chế biến tinh dầu – hương liệu có
ý nghĩa chiến lược về kinh tế, chính trị và xã hội . Bên cạnh đó cần có những
nghiên cứu chuyên sâu về các điều kiện sinh thái, môi trường sống, giống, kỹ thuật
trồng và chăm sóc để nâng cao sản lượng tinh dầu.



Hoàng lan (Cananga odorata (Lamk.) Hook.f.& Thomson) còn gọi là ngọc lan
tây, ylang-ylang thuộc họ Na (Annonaceae) đã được trồng tập trung quy mô sản
xuất hàng hóa ở nhiều nước như Philippines, quần đảo Camoros, Réunion,
Indonesia, tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc, đảo Madagascar Indonesia là nước
trồng nhiều hoàng lan, diện tích lên đến 160.000 ha với sản lượng tinh dầu hàng
năm khoảng 120 tấn. Hoàng lan là loài cây ưa sáng , thích hợp vùng nhiệt đới . Hoa
hoàng lan chứa tinh dầu (ylang -ylang oil) có mùi thơm hấp dẫn, được ưa chuộng
trong công nghiệp hương liệu và tinh dầu này từ lâu đã được điều chế nước hoa nổi
tiếng Chanel N
o
5 và là nguyên liệu chính để sản xuất ra hầu hết các loại nước hoa

đắt tiền. Tinh dầu có hương vị đặc biệt nên còn được sử dụng trong công nghiệp chế
biến thực phẩm và đồ uống. Tinh dầu hoàng lan cũng được dùng làm thuốc chữa
bệnh cao huyết áp, chữa chứng nhịp tim nhanh, sốt rét, bệnh đường ruột, viêm
gan…Cây hoàng lan là cây trồng có tiềm năng sinh lợi rất lớn , cây trồng 2 năm tuổi
có thể ra hoa với số lượng nhỏ, đến 4 – 5 năm tuổi ra hoa rất nhiều và khai thác đến
50 năm. Mỗi cây cho khoảng 20kg hoa /năm. Hàm lượng tinh dầu trong hoa có từ 1
– 2%. Một kg tinh dầu hoàng lan có giá từ 81 – 97 đô la Mỹ.
Ở Việt Nam , cây hoàng lan chưa được trồng đại trà để lấy tinh dầu cũng như
chưa được quan tâm nghiên cứu , chúng chỉ được trồng rãi rác ở các công viên,
trường học, nhà dân để lấy bóng mát, làm cảnh. Điều này rất đáng tiếc vì cây hoàng
lan là loại cây tinh dầu có triển vọng ở nước ta. Việc nghiên cứu các điều kiện sinh
thái thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển cây hoàng lan ở các vùng khác nhau
của nước ta nhằm cung cấp những thông tin khi đưa loài cây này vào trồng với quy
mô sản xuất hàng hóa,
tạo nguồn nguyên liệu lấy tinh dầu đáp ứng nhu cầu sử dụng
trong nước và xuất khẩu là rất cần thiết.
Vì thế, chúng tôi tiến hành đề tài : “Nghiên cứu sự sinh trưởng và khả
năng ra hoa của cây hoàng lan (Cananga odorata (Lamk.) Hook.f.& Thomson )
trồng ở huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre”.



2- Mục tiêu đề tài
- Đánh giá về sự sinh trưởng cây hòang lan trồng tại huyện Giồng Trơm , tỉnh
Bến Tre với một số mật độ trồng cây khác nhau.
- Cung cấp những dẫn liệu bước đầu về khả năng ra hoa và hàm lượng tinh
dầu của hoa hồng lan.
3- Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu những cây hồng lan ở giai đoạn từ 1 đến 2 năm sau khi trồng, tỉa
thưa và cắt ngọn ở độ cao 2m với các mật độ 2m x 2m, 2m x 4m và 4m x 4m.

• Về sinh trưởng: nghiên cứu các chỉ tiêu sinh trưởng về chiều cao, đường kính
thân cây, cành sơ cấp, sự tỉa cành, đường kính tán và sinh khối .
• Về khả năng ra hoa: nghiên cứu q trình ra hoa và sự phát triển của hoa
hồng lan.
• Bước đầu tìm hiểu về hàm lượng tinh dầu và năng suất hoa hồng lan.
4- Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện hạn hẹp về thời gian đề tài chỉ nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh
trưởng và khả năng ra hoa của cây hồng lan trong giai đoạn 2 năm sau khi trồng .
5- Ý nghĩa của đề tài
5.1- Ý nghĩa khoa học
Đề tài cung cấp những dẫn liệu về sinh trưởng và khả năng ra hoa của hồng
lan làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo về khả năng thích ứng, về năng suất
của cây hồng lan trồng ở huyện giồng Trơm, tỉnh Bến Tre.
5.2- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học cho việc đẩy mạnh trồng đại trà cây
hoàng lan, góp phần thay đổi cơ cấu cây trồng, tăng thu nhập, nâng cao đời sống
cho người dân ở huyện Giồng Trơm, tỉnh Bến Tre.


Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1-Nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố sinh thái đến sinh trưởng của
thực vật
1.1.1- Ảnh hưởng của ánh sáng
Ánh sáng là nhân tố quan trọng đối với sự sinh trưởng và phát triển của thực
vật. Những cây được chiếu sáng đều thì mọc thẳng, chiếu sáng không đều thì mọc
lệch về hướng có ánh sáng. Nguyên nhân do phía chiếu sáng sẽ tích điện dương,
phía còn lại tích điện âm và các chất di chuyển đến nơi tích điện tích âm làm cho
nơi đó sinh trưởng mạnh hơn dẫn đến cây bị uốn cong. Những cây mọc trong tối
thường dài, thân mảnh và có màu nhạt do trong tối protein được tổng hợp ít còn
glucid được tổng hợp nhiều. Mặt khác, chu kỳ phân chia của tế bào giảm trong khi

sự tăng trưởng của tế bào cao nên cây cao nhưng mảnh khảnh .
Hiện tượng tỉa cành tự nhiên của cây liên quan đến điều kiện chiếu sáng.Khi
cây bắt đầu khép tán thì những cành phía dưới bị các cành ở phía trên che mất ánh
sáng do vậy quang hợp của nó giảm nhưng nó vẫn hô hấp tiêu hao dưỡng chất. Kết
quả là khi lượng chất tích luỹ không đủ bù năng lượng tiêu hao thì cành khô héo dần
và rũ xuống. Nghiên cứu của Ngô Trí Lực (1967) về vai trò của ánh sáng đối với sự
tỉa cành của tre nứa. Ông kết luận ánh sáng đã kích thích sự ra cành của các mắt
thân cây nứa lá nhỏ.[10]
Ánh sáng cũng ảnh hưởng đến cấu tạo giải phẫu của lá. Giải phẫu của lá phản
ánh chính xác nhu cầu ánh sáng của cây và hiện trạng mà nó chịu đựng. Cây sinh
trưởng trong điều kiện chiếu sáng khác nhau thì có hình thái, giải phẫu khác
nhau.Trên cùng một cây, lá ở phần ngọn (ngoài sáng ) thường nhỏ, dày, cứng, có
tầng cutin dầy nhiều mô giậu nhiều gân, lá có màu nhạt. Lá ở phía trong chỗ bị che
bóng phiến thường to, mỏng, mềm, biểu bì mỏng, tầng cutin mỏng có khi không có,
lá có màu lục thẫm, gân ít, lỗ khí to và ít .[10]


Ánh sáng ảnh hưởng đến lượng diệp lục trong lá: cây mọc thiếu ánh sáng có
màu nhạt, lá bị vàng dần, vì thiếu ánh sáng lá không tạo được diệp lục mà chỉ có sắc
tố vàng xanthophin và carotin. Khi cây đủ ánh sang thì lá có màu lục. Cây sinh
trưởng trong điều kiện ánh sáng yếu thì lượng diệp lục trong lá cao hơn ngoài ánh
sáng mạnh do ánh sáng làm oxi hóa chất sắt của diệp lục (Phan Nguyên Hồng
1978). Nghiên cứ u của Nguyễn Hữu Thước và cộng sự (1965 ) trên hai cây lim và
xà cừ đã cho thấy điều đó .[10]
- Ánh sáng còn ảnh hưỏng đến cường độ của quang hợp. M.Ia. Ôsretcôp đã
nghiên cứu cường độ quang hợp của lá thông trong điều kiện chiếu sáng trong bóng
và ngoài sáng đã thu được kết quả như sau: ở cường độ chiếu sáng thấp (khoảng
1000-2000 lux ) thì cường độ quang hợp lá trong bóng bằng 2- 4 lần lá ngoài sáng.
Nhưng ở độ chiếu sáng cao (20.000 – 40.000 lux) thì cường độ quang hợp của lá
trong bóng trên 1dm

2
chỉ là 0,6 - 1,0 mg CO
2
, trong khi đó lá ở ngoài sáng tăng lên
nhiều: 0,9 - 2,0mg CO
2
.
1.1.2 Ảnh hưởng của thực vật khác lên sự sinh trưởng của cây
Các loài thực vật trong điều kiện được trồng chung với nhau sẽ có tác động
qua lại với nhau. Rễ sẽ cạnh tranh về nguồn chất dinh dưỡng và nước dẫn đến hiện
tượng loài này sẽ bóp nghẹt rễ của loài kia làm loài kia sinh trưởng chậm .
Tán lá các loài cũng sẽ cạnh tranh về điều ki ện ánh sáng, loài nào sinh trưởng
mạnh thì loài đó sẽ chiếm ưu thế về nhu cầu ánh sáng.[10]
1.1.3. Hiện tượng ưu thế ngọn
Ưu thế ngọn là hiện tượng phổ biến đối với thực vật. Đó là sự ức chế của chồi
ngọn lên sự sinh trưởng của chồi bên, rễ chính lên rễ phụ. Nếu cắt bỏ chồi ngọn tức
là loại bỏ ưu thế ngọn thì các chồi bên được giải phóng khỏi trạng thái ức chế tương
quan của chồi ngọn và lập tức sinh trưởng mạnh. Có nhiều trường hợp cần loại bỏ
ưu thế ngọn để tăng phân cành, phân nhánh như với cây ăn quả, cây cảnh, cây công
nghiệp.Nguyên nhân là do sự cạnh tranh dinh dưỡng của chồi ngọn lên chồi bên:


mô phân sinh chồi ngọn là trung tâm lôi cuốn dòng chất dinh dưỡng ưu tiên nên
chồi bên nghèo dinh dưỡng, không sinh trưởng được.
Auxin có vai trò quan trọng trong hiện tượng ưu thế ngọn. Tuy nhiên các
phytohoocmon khác cũng có vai trò qu an trọng trong điều chỉnh hiện tượng này,
đặc biệt là xytokinin. Xytokinin được rễ cây tổng hợp rồi vận chuyển lên ngọn làm
yếu ưu thế ngọn. Tỉ lệ auxin/xytokinin càng cao thì ưu thế ngọn càng mạnh mẽ, còn
tỉ càng thấp thì sự phân cành càng chiếm ưu thế. [24]
1.2

- Những nghiên cứu trên thế giới về cây hoàng lan
Hoàng lan còn được gọi là ylang-ylang. Một số nhà khoa học giải thích rằng
tên gọi ylang-ylang là xuất phát từ tiếng Tagalog đọc từ chữ ilang-ilang có nghĩa là
hoa của các loài hoa bởi vì hoa hoàng lan có mùi thơm đặc biệt gồm mùi của rất
nhiều loài hoa khác hợp lại mà thành, nó vừa có mùi của hoa lài và tinh dầu cam
đắng (Citrus aurantium); vừa có mùi của hoa hồng, vừa có mùi dịu dàng của hoa
thủy tiên và dạ lan hương. Đây là loài cây có nguồn gốc từ các nước Đông Nam Á
và được nhập trồng ở Ấn Độ, Trung Quốc, các đảo Thái Bình Dương, các nước
châu Phi và châu Mỹ. [2][11]
Philippines là nước đầu tiên đã đưa cây hoàng lan vào trồng để lấy tinh dầu ở
quy mô sản xuất hàng hóa, tiếp theo đó là Indonesia. Vào năm 1770, cây hoàng lan
được đưa từ Philippines vào trồng ở đảo Réunion. Và sau đó gần một thế kỷ, hoàng
lan trở thành cây kinh tế quan trọng đối với đảo này. Vào những năm đầu thế kỷ 20,
hoàng lan được du nhập vào trồng nhiều ở đảo Comoro s (mệnh danh là đảo dầu
thơm) và trở thành cây công nghiệp quan trọng. Hiện nay, việc trồng hoàng lan để
lấy tinh dầu đem lại nguồn lợi đáng kể ở nhiều quốc gia như Madagascar,
Indonesia, Trung Quốc, Réunion… [2][6]
Theo Oyen và cộng sự (1999) thì cây hoàng lan ưa điều kiện nóng ẩm ở các
khu vực thấp trong vùng nhiệt đới, với nhiệt độ trung bình năm 21 - 27
0
C, lượng
mưa hàng năm 1500 – 2000m. Tại đảo Java (Indonesia), hoàng lan tái sinh tốt trong
rừng ẩm thường xanh và rừng Tếch (Tectona grandis). Ở New Guinea gặp hoàng


lan sinh trưởng trên các khu vực có độ cao đến 850m so với mực nước biển. Cây
sinh trưởng và phát triển tốt trên các vùng đất màu mỡ, đất nham thạch, quang đãng,
hiều ánh sáng, đất hơi chua đến hơi kiềm (pH: 4,5 - 8). Ở Samoan (quần đảo ở Nam
Thái Bình Dư ơng) người ta trồng hoàng lan xen với chuối, dừa, cây ăn quả
[2][27][30]




Hình 1.1- Hoàng lan l được trồng xen
trong chuối, dừa ở Samoan
Hình 1.2. Hoàng lan được trồng ở
Madagascar
Trong tài liệu “Species Profiles for Pacific Island Agroforestry”, Harley I.
Manner and Craig R. Elevitch (2006) đã mô tả về đặc điểm hình thái, phấn bố của
hoàng lan và công dụng của hoàng lan. Về sinh trưởng thì cây sinh trưởng nhanh
khi gặp điều kiện thuận lợi, có thể đạt 2m chỉ trong 1năm. Cây thường phân bố ở
những vùng đất thấp hoặc những rừng tái sinh có độ cao 800 – 1200m so với mực
nước biển, những vùng này thường là những vùng có lượng mưa lớn bình quân 700
– 5000mm/năm và có nhiều ánh sáng. Độ pH thích hợp cho cây là thường trung tính
Trồng hoàng lan ở Madagascar


hơi ngã sang acid yếu, không được trồng cây những nơi nhiễm mặn với nồng độ
muối cao. Đây là loài cây được dùng để phục hồi rừng, để phủ xanh các vùng đất
trống ở Guam. Cây có thể chịu đựng được nhiệt độ thấp nhất từ 10 – 18
0
C, nhiệt độ
cao nhất là 28 – 35
0
C, nhiệt độ thích hợp trung bình là 18 – 28
0
C sẽ giúp cho cây
sinh trưởng phát triển tốt nhất. Đất trồng cây thường thích hợp nhất với đất cát, sét
chứa nhiều mùn hoặc đất sét, ngoài ra còn thấy rằng cây thích hợp với đất đỏ bazan
có nguồn gốc từ nham thạch núi lửa, đất cát màu mỡ có nhiều mùn. Cây 1,5 – 2

năm tuổi thì bắt đầu ra hoa , mỗi cây trưởng thành có thể cho 20 – 100kg hoa trong
1 năm. [29]
Về sản lượng thu hoạch, ở Madagasca, vùng Nosy Bé người ta trồng 500ha
thu được 800.000kg hoa và sau khi chưng cất thì thu được 20.000kg tinh dầu ylang-
ylang. Còn ở quần đảo Comoro s, mỗi 1 ha người ta thu hái 900 – 1500kg hoa và
chưng cất được 18 – 30kg tinh dầu ylang –ylang loại thượng hạng (MweziNet 2000)
[32]
Việc nhân giống hoàng lan chủ yếu từ hạt. Hạt được gieo trong các túi bầu
đất đến khi có 6 – 10 lá đem trồng trên diện tích đại trà. Trên các diện tích trồng
Hoàng lan để lấy hoa cất tinh dầu trong sản xuất hàng hóa, khoảng cách thường
được trồng 6 x 6m. Tuy nhiên ở đảo Pohnpei thuộc liên bang Micronesia (đảo quốc
ở Thái bình Dương) người ta trồng hoàng lan mật độ 4 x 4m. [2][6] [33]
Ở một số vùng như Samoa- nằm ở trung tâm Nam Thái Bình Dương
, người ta
trồng xen hoàng lan với chuối, dừa, cây ăn quả khác.[26]

 Ding, J.K. và các cộng sự (1988) đã nghiên cứu thành phần hoá học trong
tinh dầu (ylang-ylang oil) của hoa hoàng lan (sinh trưởng tại Vân Nam – Trung
Quốc) qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Bằng phương pháp sử dụng sắc ký
kết hợp khối phổ (GC/MS) để phân tích các mẫu tinh dầu hoàng lan có xuất xứ khác
nhau, Ding, J.K. và các cộng sự (1988) cho biết thành phần hóa học tinh dầu hoàng
lan qua bảng 1.1.



Bảng 1.1- Hàm lượng các chất (%) trong tinh dầu
ở các giai đoạn phát triển của hoa hoàng lan.
STT Hợp chất
Hàm lượng (%) trong tinh dầu
Nụ

xanh

Hoa
xanh
Hoa nửa xanh,
nửa vàng

Hoa
vàng

1 p-cresyl methyl ether - 1,70 3,40 -
2 Linalool - - - 0,03
3 Methyl benzoate 0,01 0,22 1,19 -
4 Benzyl acetate - - 0,05 -
5 Methyl chavicol - 0,01 0,05 -
6 Geraniol 0,21 1,20 2,45 0,52
7 α-copaene - 0,04 0,06 0,04
8 Geranyl acetate 2,37 4,69 7,28 2,58
9 β-elemene 0,32 0,22 0,23 0,70
10 β-caryophyllen 47,95 37,06 26,46 31,33
11 α-humulene 11,68 9,28 6,64 8,35
12 γ-muurolene 13,96 13,94 20,94 13,28
13 α-farnesene 9,86 10,68 8,09 9,21
14 γ-cadinene 0,26 0,23 0,34 0,40
15 β-cadinene 2,70 2,05 2,26 1,90
16 δ-cadinene - - - 0,04
17 δ-cadinol 0,77 0,84 0,90 0,68
18 Farnesol 2,34 3,99 4,52 6,23
19 Benzyl benzoate 3,56 5,07 9,26 13,33
20 Farnesyl acetate 0,36 0,58 0,79 2,48

21
Benzyl salicylate
0,10
0,22
0,44
0,77
22
Dibutyl phthalate
0,34
0,26
0,65
1,77



Như vậy tinh dầu trong hoa hoàng lan ở Vân Nam (Trung Quốc) gồm khoảng
22 hợp chất, trong đó có các thành phần chín h là β -caryophyllen (25,44%),

γ-muurolene (17,09%), Geranyl acetate (13,41%), p-cresyl methyl ether (11,55%),
α-farnesene (6,39%).
Ngoài ra các tác giả trên còn cho biết:
+ Tinh dầu hoàng lan có xuất xứ từ Lào chứa khoảng 25 hợp chất, chủ yếu là
caryophyllen (25,68%), γ-muurolene (15,76%), linalool (10,64%), farnesyl
acetate (9,48%), α-humulene (6,48%).
+ Thành phần hóa học trong tinh dầu hoa hoàng lan tại Thái Lan khá phức tạp,
gồm tới 31 hợp chất, trong đó chủ yếu là α-farnesene (38,72%), β-
caryophyllen (11,39%), γ-muurolene (11,38%), farnesol (8,39%) và linalool
(6,62%). [18]
1.3- Những nghiên cứu ở Việt Nam
- Lã Đình Mỡi và cộng sự (2002) cho biết chi Cananga có khoảng 2 – 3

loài tại châu Á và châu Đại Dương. Tất cả các giống trồng khai thác hoa lấy tinh
dầu hoặc trồng làm cảnh thuộc loài Cananga odorata được xếp vào 2 nhóm:
 Nhóm Cananga (Cananga odorata forma macrophylla Steenis) có các cành
mọc ngang gần như vuông góc với thân cây, lá có kích thước lớn (10 x 20 cm). Các
giống thuộc nhóm này được trồng tại đảo Java, đảo Fiji và Samoa. Tinh dầu từ hoa
có chất lượng thấp và được gọi là “cananga oil”.
 Nhóm Ylang Ylang (Cananga odorata forma genuina Steenis) có các cành
rủ xuống, lá nhỏ, có nguồn gốc từ Philippines. Hiện chúng được trồng rộng rãi tại
khắp các khu vực thuộc vùng nhiệt đới. Tinh dầu từ hoa (ylang ylang oil) có chất
lượng cao. [17][18]
Các tác giả cũng cho biết ở khu vực thấp, hoàng lan bắt đầu ra hoa 2 năm
tuổi, khi đó cây cao độ 2m. Nhưng khi trồng trên các khu vực đồi núi có độ cao
khoảng 500 m so với mặt biển thì phải sau 7 năm tuổi cây mới bắt đầu ra hoa. Ở


nước ta, cây ra hoa tháng 5 – 7, có quả tháng 8 – 10. Ở điều kiện khí hậu nhiệt đới
cũng như trong trồng trọt, cây có thể ra hoa, kết quả hầu như quanh năm.[17][18]
- Công trình của Trương Mai Hồng và cộng sự vào năm 2002 đã nghiên cứu
sự phát triển và già chín của hạt hoàng lan (Cananga odorata (Lam) Hook. F. et
Thoms)” từ một cây hoàng lan 10 tuổi, cao 17m, đường kính thân (D
1,3
) 8,8cm được
trồng ở trường Đại học Nông Lâm TP.HCM và thu được một số kết quả như sau:
+ Ước lượng một cây hoàng lan cho hơn 30.000 hạt
+ Số hạt/quả khoảng 6 – 12 hạt
+ Xác định thời điểm chín thu hoạch là 98 ngày sau hoa nở.
- Phạm Phương Bình (2007) đã nghiên cứu về ảnh hưởng của phân bón lên
sự nảy mầm của Hoàng lan và theo dõi sự sinh trưởng của chúng trong giai đoạn
vườn ươm. Tác giả đã xác định:
+Tỉ lệ hạt nẩy mầm trung bình là 93,17%

+Số ngày nẩy mầm trung bình của hạt 30,56 ngày
+Thời gian hạt kéo dài nẩy mầm trung bình là 18,27 ngày
+Thời gian nẩy mầm bình quân là 40 ngày, quá trình nẩy mầm kéo dài 60
ngày.
+ Tỉ lệ sống của cây con trong giai đoạn vườn ươm là cao (95%)
+Cây hoàng lan tăng trưởng chiều cao , đường kính, số lá, diện tích lá, số
cành cấp I tốt nhất ở nghiệm thức N2% , photpho 3%, 4% [3]
Nghiên cứu về tinh dầu hoa hoàng lan có các công trình sau:
- Vũ Ngọc Lộ (1996) nghiên cứu về kỹ thuật khai thác, chế biến và những ứng
dụng của cây tinh dầu có nói đến kỹ thuật chưng cất tinh dầu hoàng lan bằng
phương pháp chưng cất nhờ hơi nước và tách ra thành các cấp khác nhau (extra
chiếm 15%; first grade chiếm 15%; second grade chiếm 30%; third grade chiếm 40-
50% trong tinh dầu) tương ứng với khoảng thời gian chưng cất [14]


- Lã Đình Mỡi và cộng sự (2002) cho biết tinh dầu chứa trong hoa (1,6-1,7%
ở hoa tươi), trong lá (0,10-0,14% ở lá tươi) và một lượng rất nhỏ trong quả hoàng
lan. Thành phần hoá học chủ yếu của tinh dầu lá (ở hoàng lan được trồng tại khu
vực Hà Nội) gồm caryophyllene (30-36%), germacren (20-23,5%) và α-humulene
(10-12,5%). Như vậy thành phần chính trong tinh dầu lá là các hợp chất
serquiterpen (khoảng trên dưới 70%). Ngoài ra còn có các hợp chất đáng chú ý như
α-farnesene (1,0-2,0%), và linalool (khoảng 1%). Cũng với hoàng lan tại khu vực
Hà Nội nhưng tinh dầu thu được từ hoa lại có các thành phần khác hẳn so với tinh
dầu lá. Những thành phần chính trong tinh dầu hoa thường gồm linalool (20,0-
30,0%), Benzyl benzoate (3,5-18,5%), germacren (3,5-18,5%), benzyl acetate (5,0-
13,5%), cis-caryophyllen (1,5-13,5%) và α-farnesene (1,0-11,0%). Tinh dầu trong
quả lại chứa chủ yếu là carbinen (34,3%), mycren (24,7%) và α-pinen (11,1%)
Các tác giả còn cho biết là thành phần hoá học của tinh dầu trong hoa hoàng lan
thường biến động trong giới hạn rất rộng trong mối quan hệ với các yếu tố di
truyền, các giai đoạn phát triển khác nhau của hoa, các mùa vụ thu hái, các khu vực

phân bố địa lý khác nhau và cả kỹ thuật chưng cất tách chiết tinh dầu…Về công
dụng của tinh dầu hoa hoàng lan, ông cho biết tinh dầu hoàng lan được ưa chuộng
trong công nghiệp hương liệu, công nghiệp chế biến thực phẩm, và cũng được dùng
làm thuốc chữa bệnh về tim mạch, viêm loét, tiêu hoá, điều trị trong xoa bóp, dưỡng
da chống lão hoá, tăng khả năng kích dục. [13][14]
- Thành phần tinh dầu hoa hoàng lan (trồng rải rác ở công viên và nhà dân ở ven
Hồ Tây, Hà Nội) ở 2 giai đoạn hoa xanh và hoa vàng như ở bảng 1.2.







Bảng 1.2. Hàm lượng các chất (%) trong tinh dầu
ở hai giai đoạn phát triển của hoa hoàng lan
STT Hợp chất
Hàm lượng (%) trong tinh dầu ở
hai giai đoạn phát triển của hoa
Hoa xanh Hoa vàng
1 Linalool 29.6 28.1
2 Benzyl acetate 5.0 7.1
3 Geraniol 0.4 0.4
4 Geranyl acetate 1.3 1.1
5 cis-caryophyllen 10.2 13.1
6 α-humulene 3.1 3.7
7 Germacren 13.3 17.6
8 α-farnesene 6.8 10.8
9 Benzyl benzoate 10.7 3.7
Các kết quả trong bảng trên đã cho thấy các thành phần hoá học chính trong

tinh dầu hoa hoàng lan tại khu vực Hồ Tây – Hà Nội ở 2 giai đoạn hoa xanh và hoa
vàng gần như ổn định, tuy có tăng giảm về hàm lượng song không nhiều.[13]
- Phạm Văn Ngọt và cộng sự (2009) đã tiến hành nghiên cứu ly trích tinh dầu
hoa hoàng lan bằng hai phương pháp chưng cất hơi nước và tẩm trích trong ether
dầu hỏa, cũng như xác định thành phần hóa học trong tinh dầu hoàng lan từ những
cây hoàng lan 3 năm tuổi trồng ở huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre như sau:
+ Chưng cất hoa hoàng lan bằng nước cho hàm lượng tinh dầu ít hơn so với
phương pháp trích bằng ether dầu hoả. Nguyên nhân là do trong phương pháp
chưng cất bằng nước, lượng tinh dầu bay hơi trong quá trình tiến hành chưng cất,
ngoài ra lượng tinh dầu còn nằm lại một phần trong nước chưng cất và phần còn lại
thất thoát do không thể thu hồi hết ở khâu làm khan để loại nước.


+ Hàm lượng tinh dầu trong hoa hoàng lan chưng cất bằng nước từ 0,65 –
0,68% và hàm lượng tinh dầu trong hoa này theo phương pháp tẩm trích bằng ether
dầu hỏa từ 1,27 – 1,32%.
+ Có 10 hợp chất được xác định trong thành phần tinh dầu hoàng lan, trong đó
thành phần hợp chất chiếm tỉ lệ cao trong tinh dầu hoa hoàng lan ở cả hai giai đoạn
hoa xanh và hoa vàng là Benzyl benzoate và Benzyl acetate. Ở giai đoạn hoa xanh
thì hàm lượng Benzyl benzoate (25,041%) cao hơn so với hàm lượng Benzyl
benzoate ở giai đoạn hoa vàng (18,630%), ngược lại hàm lượng Benzyl acetate ở
giai đoạn hoa vàng (19,034%) lại cao hơn so với hàm lượng Benzyl acetate ở giai
đoạn hoa xanh (12,881%). Tỉ lệ các thành phần hoá học còn lại trong tinh dầu
hoàng lan ở hai giai đoạn hoa xanh và hoa vàng cũng có sự chênh lệch nhưng không
quá nhiều khoảng từ 0,2 – 3,5 %.
Qua những tư liệu và công trình khoa học của các tác giả khác nhau được trình
bày ở trên cho thấy ở Việt nam chưa có công trình nào nghiên cứu hay đề cập đến
quá trình sinh trưởng và khả năng ra hoa của cây hoàng lan khi đ ược trồng với các
mật độ khác nhau.



Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cây hoàng lan
2.1.1- Về tên gọi
+ Ở mỗi địa phương, cây hoàng lan có những
tên gọi khác nhau như:
Cananga odorant (French)
Ilang ilang-ilang ilang, alang alang-ilang (Guam, CNMI)
Moso‘oi (Samoa)
Sa‘o (Solomon Islands: Kwara‘ae)
Ylang ylang, perfume tree, cananga (English)
Apurvachampaka, chettu sampangi, karumugai (India)
Ilang-ilang, alang-ilang (Philippineses)
Kadatngan, kadatnyan (Myanmar)
Kernanga (Indonesia)
Kenanga, chenanga, ylang-ylang (Malaysia) [25]
+ Ở Việt Nam cây hoàng lan cũng được gọi với nhiều tên khác nhau như
ngọc lan ta, công chúa, ngọc lan tây, ylang-ylang. Một số nhà khoa học giải thích
rằng tên gọi ylang-ylang là xuất phát từ tiếng Tagalog đọc từ chữ ilang -ilang có
nghĩa là hoa của các loài hoa, nguyên do là hoa hoàng lan có mùi thơm đặc biệt
gồm mùi của rất nhiều loài hoa khác hợp lại mà thành, nó vừa có mùi của hoa nhài
và tinh dầu cam đắng (Citrus aurantium), vừa có mùi của hoa hồng, vừa có mùi dịu
dàng của hoa thủy tiên và dạ lan hương. [4][34]


+ Ngoài ra, hoàng lan cũng còn có những tên gọi khác theo khoa học như:
Canangium fruticosum Craib; Canangium odoratum (Lam.) Baill. ex King;
Canangium scortechinii King, Uvaria odorata Lam.Nhưng tên khoa học được sử

dụng rộng rãi là: Cananga odorata (Lamk.) Hook. f. & Thomson.
2.1.2- Vị trí phân loại
Hoàng lan Cananga odorata (Lamk.) Hook. f. & Thomson thuộc:
- Chi Cananga
- Họ Na (Annonaceae)
- Bộ Mộc lan (Magnoliales)
- Phân lớp Mộc lan (Magnoliidae)
- Lớp Mộc lan (Magnoliophyta)
Theo Phạm Hoàng Hộ [7],[8] và Nguyễn Tiến Bân [2] thì họ Na
(Annonaceae) có khoảng 1000 loài với 80 chi, chỉ có Asimina là gặp ở vùng ôn đới
Bắc Mỹ còn đa số sống ở vùng nhiệt đới. Ở Việt Nam có khoảng 26 chi với 128
loài, phần lớn là cây mọc hoang dại ở các rừng thứ sinh. Đa số các loài trong họ này
có các công dụng đặc biệt như: Xylopia aethiopica hạt được dùng làm gia vị, Unona
hạt có thể thay thế cho tiêu, giống Annona cho trái ăn rất ngon, hoa của Cananga
odoratum rất thơm do có chứa linalol và geraniol trong thành phần tinh dầu
2.1.3- Đặc điểm hình thái và sinh thái
2.1.3.1- Đặc điểm hình thái
+ Cây gỗ thường xanh, cao 6 – 15m, đường kính thân khoảng 30 –50 cm,
không có bạnh gốc, cành thường mọc ngang dễ gãy, cành non rũ xuống.
+ Lá đơn, mọc cách, xếp thành hai hàng trên cành nhỏ, dễ rụng. Phiến lá mềm,
mỏng, hình trái xoan hay hình trứng, dài 15 – 20cm, rộng 5 – 8cm, mép có lượn
sóng, đầu thon, mặt trên không có lông, mặt dưới hơi có lông, có 9 – 10 cặp gân
phụ, cuống lá dài 1 – 2 cm.


+ Cây ra hoa quanh năm, hoa màu xanh vàng đến màu vàng, mọc thành cụm
trên các cành ngắn không có lá, mỗi chùm từ 2 – 7 hoa, 6 cánh tràng lượn sóng hình
giải đầu thuôn nhọn, gốc tròn xếp làm hai vòng, có gân song song. Bộ nhuỵ gồm 8-
10 lá noãn rời, bầu nhuỵ hơi có lông, vòi rõ và núm nhuỵ phình rộng hình đinh
ghim. Nhị nhiều, ngắn, trung đới thành mũi cao




+ Quả còn non màu xanh, hình trứng ngược hơi dài, nhẵn không có lông, kích
cỡ 1,5 – 2,5cm x 0,8 – 1,0cm, vỏ quả dày khoảng 2mm, khi chín vỏ màu xám tro
nhạt dần chuyển sang nâu đen, thịt vỏ màu vàng nhạt. Có 7 – 9 quả rời đính trên
cuống ngắn, mỗi quả chứa 3 – 12 hạt. Hạt dẹp, lúc non nhỏ mềm màu trắng đến khi
chín hạt cứng, màu nâu dài khoảng 0,5 – 0,7cm.

Hình 2.1- Cây Hoàng lan trồng trước nhà dân ở huyện Giồng Trôm





















2.1.3.2-Đặc điểm sinh thái
+ Cây ưa sáng, mọc nhanh, thích đất thoát nước, thường được trồng quanh
nhà, trong công viên, không thấy mọc tự nhiên. Cây hoàng lan rất khó ra rễ nên hiện
nay không thể nhân giống bằng chiết cây, chỉ có thể nhân giống bằng hạt
+ Thích hợp với những vùng có lượng mưa lớn bình quân 700 – 5000mm/năm
và có nhiều ánh sáng, pH trung tính hơi ngã sang acid yếu, không được trồng cây
Hình 2.2- Hoa - Quả - Hạt của cây Hoàng lan


những nơi nhiễm mặn với nồng độ muối cao. Đất trồng cây thường thích hợp nhất
với đất cát, sét chứa nhiều mùn hoặc đất sét, ngoài ra còn thấy rằng cây thích hợp
với đất đỏ bazan có nguồn gốc từ nham thạch núi lửa, đất cát màu mỡ có nhiều
mùn. Ngưỡng nhiệt
phát triển từ 10 – 18
0
C đ ến 28 – 35
0
C, nhiệt độ thích hợp trung
bình là 18 – 28
0
C sẽ giúp cho cây sinh trưởng phát triển tốt nhất [23]
+ Phân bố: cây có nguồn gốc Đông Nam Á đã được nhập trồng ở Ấn Độ,
Trung Quốc, Réunion, Comoros, một số nước châu Phi và châu Mỹ. [16][32]
2.1.4- Giá trị
+ Gỗ hoàng lan nhẹ, màu vàng nhạt, thớ mịn dùng tiện, khắc, làm văn phòng
phẩm, dễ gia công, chế biến, nhưng kém bền, dễ nứt nẻ, mối mọt, chủ yếu làm củi.
+ Hoa rất thơm cho tinh dầu có giá trị kinh tế cao (ylang ylang oil).
• Tinh dầu hoàng lan được dùng rộng rãi trong công nghiệp sản xuất nước
hoa theo phong cách phương Đông, là thành phần chính để sản xuất nước hoa
Chanel N

0
5. Nhiều tác giả có những nhận xét như sau: hương thơm ngào ngạt, sang
trọng hơi giống hương thơm của hoa thủy tiên và dạ lan hương. [15]
• Về công dụng tinh dầu: có tác dụng khuấy động cảm xúc con người, giúp cân
bằng rối loạn cơ thể, mang đến cảm giác thoải mái, tâm trí thanh thản, bình yên và
được coi như một loại thuốc tốt làm dịu đi sự mệt mỏi của cơ thể, rất tốt cho những
người hay lo âu và căng thẳng. Ngoài ra, tinh dầu hoàng lan còn rất hiệu quả trong
điều trị và chăm sóc da, giúp làm dịu viêm sưng da, điều tiết các chất bã nhờn, làm
giảm huyết áp cao, làm giảm sự căng cơ, được dùng chữa bệnh sốt rét, bệnh đường
ruột, viêm gan…[5] [35]
2.2- Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1- Địa điểm nghiên cứu

Địa điểm nghiên cứu - xã Châu Hoà, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.



2.2.1.2- Đặc điểm tự nhiên của vùng nghiên cứu
+ Tỉnh Bến Tre- có tọa độ từ 9
o
48’ đến 10
o
20’ vĩ độ Bắc và từ 106
o
48’ đến
105
o
57’ kinh độ Đông; có 7 huyện và 1 thị xã, là một trong những tỉnh thuộc khu
vực đồng bằng sông Cửu Long, được hình thành bởi ba cù lao: An Hòa, Bảo và
Minh, do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long (sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm

Luông và sông Cổ Chiên) bồi tụ nên qua nhiều thế kỷ.[311


Hình 2.3- Bản đồ hành chính tỉnh Bến Tre (Tỉ lệ 1 : 400.000)
Địa điểm nghiên cứu
+ Diện tích tự nhiên của tỉnh xấp xỉ 2285 km
2
, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang
(có ranh giới chung là sông Tiền), phía Nam giáp tỉnh Trà Vinh, phía Tây giáp tỉnh
Vĩnh Long (có ranh giới chung là sông Cổ Chiên), phía Đông giáp biển với chiều
dài 65 km.
CHÂU THÀNH
BÌNH ĐẠI
GIỒNG
TRÔM
MỎ CÀY
CHỢ LÁCH
BA TRI
THẠNH PHÚ
TX
BẾN TRE
TỈNH
VĨNH LONG

TỈNH
TRÀ VINH
TỈNH
TIỀN GIANG
BIỂN
ĐÔNG



+ Bến Tre có địa hình tương đối bằng phẳng rải rác có xu thế thấp dần từ Tây
sang Đông, nghiêng dần ra biển, có nhiều giồng cát hình vòng cung quay lưng ra
biển là kết quả của quá trình lấn biển. Sự chênh lệch tuyệt đối giữa vùng đất cao
nhất và thấp nhất không quá 3,5m. Những giồng cát xen kẽ với ruộng vườn, không
có rừng cây lớn, chỉ có những dải rừng ngập mặn ven biển và ở các cửa sông. Bốn
bề đều có sông nước bao bọc với một hệ thống đường thuỷ và một hệ thống kênh
rạch chằng chịt đan vào nhau như những mạch máu chảy khắp ba dải cù lao.
+ Độ cao tuyệt đối có nơi đạt trên 5 m, đa số từ 3 đến 3,5 m. Còn một phần
đất cao nằm theo các bờ biển cổ với những gờ bờ biển gọi là giồng với độ cao tuyệt
đối từ 2 đến 5 m. Đa số địa danh cao đều mang thêm từ "Giồng" ở phía trước như
Giồng Trôm, Giồng Tre
Cuối cùng là đất trũng thấp luôn luôn ngập dưới mực triều trung bình, gồm
có đất đầm mặn và bãi thuỷ triều. Loại này không vượt quá 0,5m.[31]
+ Huyện Giồng Trôm
Huyện Giồng Trôm có diện tích tự nhiên 31.142 ha, nằm khoảng giữa cù lao
Bảo. Đất canh tác nông nghiệp đạt xấp xỉ 25.000 ha. Nền đất được cấu tạo từ phù sa
của hai con sông lớn Ba Lai và Hàm Luông, cùng với mạng lưới sông rạch chằng
chịt, Giồng Trôm có thế mạnh của một nền kinh tế nông nghiệp đa dạng.
2.2.1.3- Đặc điểm khí hậu của vùng nghiên cứu
+ Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới cận xích đạo nhưng lại nằm
ngoài ảnh hưởng của gió mùa cực đới, nên nhiệt độ cao, ít biến đổi trong năm, nhiệt
độ trung bình hàng năm từ 26-27
o
C; không có tháng nào nhiệt độ trung bình dưới
20
o
C. Lượng bức xạ khá dồi dào, trung bình đạt tới 160 kcal/m
2

. Tổng số giờ nắng
trong năm đạt trên dưới 2.630 giờ. Trong mùa khô, số giờ nắng trung bình mỗi ngày
đạt từ 8 – 9 giờ. Tháng mùa mưa trung bình từ 5 – 7 giờ trong ngày nên Bến Tre
thích hợp cho sự phát triển của nhiều loại cây trồng

×