Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

thị trường vàng việt nam, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.35 KB, 74 trang )

LuËn v¨n tèt nghiÖp
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vàng là hàng hoá đa dạng với chức năng là tiền tệ, công cụ tài chính và
hàng hoá thông thường. Mặc dù thực tế chức năng tiền tệ của vàng không còn
quan trọng như thời kỳ bản vị vàng, Chính phủ rất nhiều nước vẫn giữ một
lượng vàng đáng kể trong dự trữ. Vàng vẫn còn chứng tỏ vai trò quan trong
của mình như một công cụ tài chính bên cạnh các công cụ tài chính khác như
chứng khoán và trái phiếu. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, nền
kinh tế chưa thực sự vững chắc, giá trị đồng bản tệ chưa thực sự ổn định.
Cũng vì lý do đó tại một số nước vẫn duy trì chính sách quản lý vàng một cách
chặt chẽ.
Ở Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế vai trò của vàng
cũng gắn liền với bước thăng trầm của nền kinh tế. Vai trò tiền tệ của vàng đã
phát huy rõ nét trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái, lạm phát với tốc độ phi
mã, vàng được coi là công cụ dự trữ, phương tiện thanh toán, đơn vị tính toán
đối với tài sản có giá trị. Nhà nước đã sử dụng vàng làm công cụ ổn định giá
trị đồng Việt Nam, góp phần chống lạm phát.
Trong bối cảnh hiện nay khi nền kinh tế nước ta đã qua thời kỳ khủng
hoảng và đang có bước phát triển ổn định, lạm phát được duy trì ở mức thấp,
xu hướng hội nhập toàn cầu hoá ngày càng tăng, thì giá vàng cũng ổn định và
biến động theo giá vàng của thị trường vàng quốc tế. Vai trò tiền tệ của vàng
ngày càng giảm, thị trường vàng trang sức mỹ nghệ ngày càng phát triển, nhu
cầu vàng trang sức mỹ nghệ ngày càng tăng theo mức độ tăng của đời sống.
Tuy nhiên do tập quán và thói quen vàng vẫn được sử dụng như một loại tiền
trong thanh toán dân gian, trong thanh toán quốc tế (lậu) ở biên giới nên vàng
vẫn có một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của nước ta.
Bên cạnh đó ngành sản xuất, kinh doanh vàng có truyền thống lâu đời
với hơn 8000 tổ chức, cá nhân sử dụng hàng chục vạn lao động, trong đó có
nhiều nghệ nhân, nhiều thợ có tay nghề cao phải là một thế mạnh cần khai
thác. Hàng trăm tấn vàng trong dân chưa trở thành vốn để phục vụ đầu tư


tăng trưởng. Sự manh mún, nhỏ lẻ của công nghệ sản xuất, kinh doanh vàng,
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
1
LuËn v¨n tèt nghiÖp
sự yếu kém của các đơn vị quốc doanh đang trở nên nhức nhối trong khi đó
những đơn vị kinh doanh vàng có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang hoạt động
có hiệu quả.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, cũng như
kinh nghiệm thực tế để đưa ra các giải pháp nhằm phát triển thị trường vàng
Việt Nam theo hướng sử dụng hợp lý nhất nguồn lực "vàng" cho mục tiêu
tăng trưởng kinh tế của đất nước. Đề tài nghiên cứu "Thị trường vàng Việt
Nam, thực trạng và giải pháp" nhằm đáp ứng những yêu cầu đó.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở kinh nghiệm về quản lý thị trường vàng của một số nước có
hoàn cảnh kinh tế tương đồng với Việt Nam, luận văn trình bày một số biện
pháp mang tính khả thi nhằm nâng cao hiệu qủa hoạt động thị trường vàng ở
Việt Nam, với trọng tâm là:
- Làm rõ nội dung về vai trò của vàng trong đời sống xã hội.
- Cơ cấu hoạt động của thị trường vàng thế giới trong thời gian qua.
- Một số kinh nghiệm về quản lý thị trường vàng của một số nước.
- Đánh giá hoạt động thị trường vàng ở Việt Nam trên cơ sở đó đề ra
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường vàng tại Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, dự báo
và sử dụng các kết quả nghiên cứu. Từ đó đề xuất các giải pháp kiến nghị
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thị trường vàng tại Việt Nam.
4. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương.

Chương 1: Tổng quan về vàng và thị trường vàng
Chương 2: Thực trạng thị trường vàng Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường vàng Việt Nam
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
2
LuËn v¨n tèt nghiÖp
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG VÀNG
1.1. VAI TRÒ CỦA VÀNG TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ XÃ HỘI.
1.1.1 Vài nét khái quát về lịch sử của vàng.
Nhiều nguồn tài liệu cổ còn lưu lại cho biết, vào khoảng 12000 năm
trước Công nguyên người Ai Cập đã biết đến vàng và từ "vàng" đã được ghi
trong cuốn từ điển cổ của người Ấn Độ cách đây 6000 năm. Cũng vào thời đó
người Ai Cập, người Xume đã biết gia công vàng làm đồ trang sức. Năm
3100 trước Công nguyên, vua Ai Cập Menes đã cho đúng vàng thành từng
thỏi mang tên mình, mỗi thỏi vàng nặng 14gr. Các đoàn lạc đà của vua Xa-lô-
mông hàng năm đem về từ Ophir một số vàng theo trị giá ngày nay đến hàng
tỷ phrăng. Vua có ngai bọc vàng và uống ruợu trong những ly rượu bằng
vàng. Khi vua Ai Cập trẻ Tontankhamon chết (khoảng năm 1350 trước Công
nguyên), các thần dân của Vua đã đặt xác ướp của ông vào một cái quách
bằng vàng khối trên 100kg, còn được trang trí bằng một tượng vàng người đồ
sộ bằng vàng tạc theo hình vua. Năm 1492, Christophe Colomb đã phát hiện
có vàng trên đảo Hispanila nằm giữa Đô-mi-ních và Ha-i-ti ngày nay. Suốt cả
thế kỷ sau đó, những người đi chinh phục Châu Mỹ đã gửi về nước mình
những số lượng lớn thứ kim loại quý đó.
Ở thời Trung Cổ, người Fhini, sau đó là người Hy Lạp đã biết dùng vàng
để đúc thành tiền và cho lưu hành song song với đồng tiền bằng kim loại bạc.
Cách đây khoảng 3000 năm đã thấy xuất hiện tiền bằng vàng ở Ấn Độ,
ở Trung Quốc. Ở Việt Nam từ đầu Công nguyên ông cha ta đã biết đến vàng.
Trên thế giới, dưới các triều đại nô lệ và phong kiến, vàng được dùng

đúc thành vương miện, tượng trưng cho quyền uy của bọn vua chúa phong
kiến. Từ thời tư bản chủ nghĩa cho đến ngày nay, vàng được dùng làm
phương tiện cất giữ của cải, phương tiện dự trữ, thanh toán và ngày càng được
dùng vào công kỹ nghệ phục vụ đời sống và làm đồ trang sức.
Lúc đầu vàng được xếp sau bạc trong hàng ngũ kim loại màu khan
hiếm. Nhưng sau đó người ta tìm cách cải tiến công tác thăm dò, khai thác
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
3
LuËn v¨n tèt nghiÖp
bạc, do dự trữ bạc lớn, dễ khai thác hơn, nên bạc đã được khai thác nhiều hơn
vàng, làm cho vàng vốn đã khan hiếm ngày càng trở nên khan hiếm và cao giá
hơn bạc. Từ thời cổ đại đến thời trung cổ, tương quan giá trị giữa vàng và bạc
thường dao động trong phạm vi 1/10 đến 1/12, chưa bao giờ vượt quá tỷ lệ
1/16. Đến đầu thế kỷ 20, tương quan ấy đã có lúc dao động trong phạm vi:
1/36 đến 1/39
(1)
.
Trong lịch sử nhân loại, cho đến nay con người đã khai thác được
khoảng 130 ngàn tấn vàng, nhưng do vàng là kim loại quý hiếm và bền vững,
cho nên hiện còn khoảng 85% số vàng này nếu thu gom lại thì có thể xếp
thành một khối hình hộp mỗi bề 16m
(2)
.
1.1.2 Vàng đối với sự ra đời của tiền tệ
Từ xa xưa, để tồn tại và phát triển, loài người đã xuất hiện nhu cầu trao
đổi hàng hoá dịch vụ lẫn nhau nhằm thoả mãn mục đích riêng của mình.
Phương thức đầu tiên được sử dụng trong thanh toán đó chính là phương thức
hàng đổi hàng. Đây là hình thức trao đổi ngẫu nhiên. Tuy nhiên khi sản xuất
hàng hoá phát triển, hình thức trao đổi này bộc lộ nhiều hạn chế. Điều này đòi
hỏi phải có một vật ngang giá chung trong trao đổi hàng hoá. Lúc đầu người

ta lựa chọn một hàng hoá làm vật ngang giá chung. Khi giao lưu trao đổi hàng
hoá giữa các vùng, các quốc gia phát triển thì vật ngang giá chung này bộc lộ
những hạn chế khá lớn đó là không phải quốc gia nào cũng có một vật ngang
giá chung giống nhau.
Chính vì vậy, vai trò vật ngang giá chung sau đó được chuyển sang
hàng hoá kim loại. Khi vàng đóng vai trò là vật ngang giá chung trong trao
đổi hàng hoá và dịch vụ thì phạm trù “tiền tệ” xuất hiện. Vàng được chấp
nhận trong lưu thông bởi những thuộc tính tự nhiên vốn có của nó thích hợp
với vai trò phương tiện trao đổi cho thế giới hàng hóa: dễ chia nhỏ, dễ hợp
nhất; bền vững, không bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên; có giá trị lớn
trong một khối lượng nhỏ - dễ di chuyển. Đầu tiên các thỏi vàng với những
trọng lượng và hình dáng khác nhau được sử dụng làm phương tiện trao đổi,
1
Xem - Những trang lịch sử của đồng tiền - NXB khoa học phân viện Xibiria 1986, Tr 84 - T. Nga
2
Xem - "kỹ thuật v ng bà ạc" - HN - Khoa học kỹ thuật - 1990, Tr. 11
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
4
LuËn v¨n tèt nghiÖp
sự bất tiện của nó chính là động lực để hình thành nên các đồng tiền đúc bằng
vàng với trọng lượng, hình dáng, kích thước thống nhất.
Ban đầu trọng lượng và độ tinh khiết của những đồng tiền vàng đều
được các nhà nước đảm bảo. Bởi tiền vàng được dùng một cách trân trọng
như vậy nên nhiều loại đã tồn tại trong lưu thông hàng thập kỷ, thậm chí hàng
thế kỷ. Nhưng về sau hết lần này đến lần khác các Chính phủ lại hạ bớt loại
kim loại quý của đồng tiền để nhằm đáp ứng những nhu cầu tài chính của họ.
Độ tinh khiết của những đồng tiền vàng bị hạ thấp trọng lượng hay kích cỡ bị
thu nhỏ lại. Những thực tế ấy đã nhen nhóm lạm phát và cản trở quá trình
thanh toán.
Những khó khăn đặc biệt ngày càng tăng lên trong suốt giai đoạn suy

tàn của thời Trung cổ, lúc đó sự giảm giá trị đồng tiền vàng kết hợp với sự
phân chia thành vô số các nhà nước nhỏ và rất nhỏ của Châu Âu đã gây ra
tình trạng hỗn loạn của tiền tệ. Trong bối cảnh đầy xáo trộn đó, người ta thích
tiêu những đồng tiền đã mòn hay kém chất lượng với giá trị danh nghĩa của
chúng, còn cất riêng những đồng tiền tốt cho riêng mình. Đó chính là trào lưu
đã khiến Thomas Gresham rút ra một qui luật rất nổi tiếng là: "Tiền xấu đuổi
tiền tốt".
Trong điều kiện như vậy, ước muốn tự nhiên về sự trở lại một hệ thống
thanh toán giản đơn hơn và an toàn hơn lại hình thành giữa đông đảo các
thương gia và dân chúng. Và kết quả là một bước thụt lùi mang tính lịch sử.
Những người đổi tiền thời bấy giờ chính là tiền thân của các ngân hàng ngày
nay - người ta không đếm tiền nữa mà lại cân các đồng tiền vàng để xác định
lượng vàng của chúng. Sau đó họ đưa cho các khách hàng của mình một hóa
đơn, trong đó họ cam kết rằng sẽ trao cho người nào giữ hóa đơn một khoản
tiền có đúng lượng vàng như vậy.
Một loại tiền mới - tiền giấy - đã ra đời như thế. Tiến trình này đã thu
được thắng lợi. Tuy nhiên, hình thức tiền tệ này cũng bị lạm dụng bởi các
Chính phủ và các ngân hàng do nhà nước quản lý y như tiền vàng. Vào đầu
thế kỷ 19, nhà kinh tế học vĩ đại David Ricardo đã buộc lòng phải ghi nhận
rằng không một ngân hàng nào đã từng độc quyền việc phát hành tiền giấy lại
không lạm dụng hình thức này.
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
5
LuËn v¨n tèt nghiÖp
1.2 CÁC CHẾ ĐỘ TIỀN TỆ
1.2.1 Chế độ hai bản vị (Double Standard System)
Trong chế độ phong kiến, bạc là kim loại tiền tệ chủ yếu. Ở giai đoạn
đầu của chủ nghĩa tư bản, Nhà nước quy định dùng bạc làm kim loại tiền tệ.
Khi sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển, nhất là những khoản giao dịch
với khối lượng hàng hóa có giá trị lớn ngày càng tăng khiến cho việc dùng

bạc làm vật ngang giá chung không còn thích hợp nữa. Vì giá trị của bạc rất
nhỏ, do vậy người ta phải tìm kim loại khác có giá trị cao hơn bạc để đưa vào
lưu thông. Kim loại đó chỉ có thể là vàng. Như vậy, có hai kim loại bạc và
vàng cùng đồng thời làm kim loại tiền tệ: chế độ hai bản vị ra đời.
Chế độ hai bản vị là chế độ tiền tệ mà pháp luật của Nhà nước quy định
hai loại kim loại vàng và bạc đồng thời làm kim loại tiền tệ, hai loại tiền vàng
và tiền bạc được tự do đúc và có hiệu lực pháp lý thanh toán vô hạn.
Căn cứ vào cách quy định về mối quan hệ trao đổi giữa tiền đúc bằng
vàng và tiền đúc bằng bạc mà chia chế độ hai bản vị ra làm hai loại cụ thể:
Chế độ bản vị song song là chế độ hai bản vị mà trong đó quy định tỷ
lệ trao đổi giữa tiền vàng và tiền bạc trong lưu thông phụ thuộc vào giá trị
thực tế của lượng vàng và lượng bạc chứa trong hai đồng tiền đó quyết định.
Ví dụ, nước Anh năm 1633 đúc tiền vàng sử dụng cùng với tiền bạc. Hai đồng
tiền này lưu thông và trao đổi với nhau theo tỷ giá hình thành tự phát trên thị
trường giữa kim loại vàng và kim loại bạc. Nếu 1 ounce vàng có giá trị thực tế
gấp 5 ounce bạc thì tỷ giá tiền đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc là 1/5.
Chế độ bản vị kép là chế độ hai bản vị mà nó quy định cụ thể tỷ giá
trao đổi giữa tiền đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc. Ví dụ, ở Mỹ năm 1792
quy định tỷ giá này là 1/15. Thông thường, người ta gọi chế độ hai bản vị chủ
yếu là chỉ chế độ bản vị kép này.
Chế độ hai bản vị là một chế độ tiền tệ không ổn định. Bởi vì, bản tính
của tiền tệ là độc chiếm, gạt bỏ những cái khác. Việc pháp luật của Nhà nước
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
6
LuËn v¨n tèt nghiÖp
quy định vàng và bạc đồng thời đều làm kim loại tiền tệ là trái với bản tính đó
của tiền tệ.
1.2.2 Chế độ bản vị vàng (Gold Standard System)
Tính chất không ổn định của chế độ hai bản vị đã kìm hãm sự phát triển
nhanh của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng trong thời kỳ đầu của chủ

nghĩa tư bản chưa có đủ điều kiện khách quan để thực hiện một chế độ bản vị
đơn vàng, vì lượng vàng khai thác ra chưa thể đáp ứng yêu cầu lưu thông tiền
tệ bằng vàng, do đó phải đúc tiền bạc để đưa vào lưu thông. Mãi tới cuối thế
kỷ 18 sang đầu thế kỷ 19, do công nghiệp khai thác vàng phát triển, các nước
mới có đủ điều kiện chuyển từ chế độ hai bản vị sang chế độ bản vị vàng.
Chế độ bản vị vàng là chế độ tiền tệ mà pháp luật quy định dùng vàng
để đúc tiền vàng. Trong quá trình phát triển, chế độ này tiến triển dưới hình
thức của 3 chế độ khác nhau: bản vị tiền vàng, bản vị vàng thoi và bản vị
vàng giấy.
1.2.2.1 Chế độ bản vị tiền vàng
Là chế độ tiền tệ trong đó tiền tệ được đúc bằng vàng một cách tự do,
tiền phụ và tiền tín dụng, tiền ngân hàng được đổi ra tiền vàng một cách tự do,
vàng được tự do xuất nhập khẩu.
Nhờ có chế độ tiền tệ như vậy nên lạm phát tiền tệ khó biến thành hiện
thực. Đây là một chế độ tiền tệ ổn định nhất từ trước tới nay. Tính chất ổn
định của chế độ bản vị tiền vàng là tương đối. Có nghĩa là sự ổn định của tiền
tệ chỉ trong quan hệ giữa tiền tệ và vàng, chứ hoàn toàn không phải là quan hệ
giữa tiền tệ và hàng hoá. Vì trong những điều kiện nhất định, tiền tệ có thể đại
biểu cho một lượng vàng nhất định, song, sức mua của tiền tệ có thể biến
động, một khi quy luật cung và cầu của hàng hoá có sự thay đổi trên thị
trường.
1.2.2.2 Bản vị vàng thoi
Bản vị vàng thoi là sự biến tướng của bản vị tiền vàng, không thông
dụng trên thế giới, chỉ được áp dụng ở Anh vào năm 1925 và ở Pháp vào năm
1926 và lấy tiền bản xứ làm chuẩn mực.
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
7
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Ở Anh, ngân hàng đã đúc các thoi vàng nặng 400 ounce (1 ounce =
31,103gr) làm chuẩn (làm bản vị). Người dân muốn đổi được thoi vàng ấy thì

phải có đủ 1700 đồng Sterling, còn ở Pháp, ai muốn đổi lấy thoi vàng chuẩn
(vàng bản vị) thì phải có 215 ngàn france. Do vậy bản vị vàng thoi là một chế
độ bất lợi cho đời sống kinh tế - xã hội, đã gây khó khăn cho việc luân chuyển
tiền thành vàng và ngược lại, chỉ những người nhiều tiền mới đổi được một
thỏi vàng để cất giữ, làm báu vật dùng cho khi cần thiết. Bởi thế, bản vị vàng
thoi là một bước thụt lùi so với chế độ bản vị tiền vàng.
Tuy nhiên, ở Anh chỉ sau vài năm chế độ bản vị vàng thoi ra đời,
những người giàu có ở bản xứ và ở nước ngoài đã tung tiền ra mua vàng của
Anh, làm cho kho vàng của Anh nhanh chóng bị cạn kiện khiến ngày
21/9/1931, chính phủ Anh đã phải phá giá 33% giá trị đồng Sterling và đình
chỉ việc đổi đồng Sterling lấy vàng, chấp nhận sự phá sản của chế độ bản vị
vàng thoi. Còn chế độ bản vị tiền vàng trên thế giới đã bị sụp đổ hoàn toàn
trong thời gian khủng hoảng KTTG (1929 - 1933): Nhật và Anh vào năm
1931; Mỹ - 1933; Bỉ và Ý - 1935; Pháp - Hà Lan và Thụy Sỹ năm 1936
(3)
.
1.2.2.3 Bản vị vàng giấy
Bản vị vàng giấy là chế độ bản vị vàng chỉ có trên sổ sách của IMF
trên thực tế không có tiền, không có vàng chuyển giao giữa các bên liên quan.
Đó chính là khái niệm để chỉ quyền rút vốn đặc biệt (SDR) ra đời vào năm
1970, nhằm điều chỉnh cán cân thanh toán của các nước thành viên IMF.
SDR không phải là tiền thật, nên không có hình dáng, màu sắc. Nó chỉ
là đơn vị thanh toán quy ước để ghi sổ. Trên danh nghĩa, hàm lượng vàng của
SDR là 0,888671gr. IMF mở sổ riêng để theo dõi lượng SDR phân cho từng
nước. Do vậy, SDR chỉ là phương tiện thanh toán quốc tế theo dõi ghi sổ,
chuyển khoản giữa các nước có quan hệ thanh toán trong cán cân TTQT, còn
"tiền" ở đây chỉ là tiền tưởng tượng, tiền ghi trong sổ sách của IMF.
1.3 VÀNG TRONG HỆ THỐNG BRETTON WOODS (1946 - 1971)
Sự thiết lập vai trò của vàng trong hệ thống tiền tệ vào những năm sau
chiến tranh thế giới được tạo nên bởi hai hoạt động của chính phủ Mỹ vào

tháng giêng năm 1934. Tổng thống Roosevelt đột ngột nâng giá vàng từ 20.67
3
Xem - Từ điển " TC tín dụng" "Liên xô cũ - M - T i chính quà ốc gia" - 1961, Tr 442.
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
8
LuËn v¨n tèt nghiÖp
USD lên mức chuẩn 35 USD một OZ. Đồng thời, kho bạc Mỹ đã cam kết sẽ
bán và mua vàng từ các tổ chức chính thức nước ngoài cho "mục đích tiền tệ
hợp pháp" với giá 35 USD một OZ. Hệ thống Bretton Woods là một chế độ
gồm các tỷ giá chuyển đổi ấn định nhưng có thể điều chỉnh và các quy tắc về
hoạt động tài chính được thoả thuận của nhiều nước hay từng quốc gia riêng
biệt sau đại chiến thế giới lần thứ hai.
Mối liên kết giữa đồng dollar Mỹ và vàng đã được củng cố một cách
vững chắc, vị trí của USD và vàng được xác lập là những điểm được ấn định
trong hệ thống tiền tệ thế giới theo các quy tắc của Quỹ tiền tệ quốc tế được
thành lập vào năm 1946. Thanh viên của Quỹ này bao gồm hầu hết các nước
không theo chủ nghĩa cộng sản trên thế giới. Các Quốc gia thành viên này đã
xác lập giá trị đối ngoại cho đồng tiền của họ dưới dạng vàng và USD, dựa
trên cơ sở giá vàng chính thức của Mỹ vào tháng Giêng năm 1946, nghĩa là
35USD/OZ. Gía này còn tồn tại cho đến khi Mỹ lại một lần nữa đình chỉ việc
chuyển đổi này vào tháng Tám năm 1971. Trong thực tế thì mối liên kết của
vàng với các tiền tệ khác ngoài đồng USD đều là gián tiếp : Các điều khoản
của IMF đã không cho phép các thành viên của mình bán hay mua vàng trong
nội bộ với nhau hoặc là giữ vàng trong nguồn dự trữ để củng cố đồng tiền của
họ. Vàng là "mẫu số chung" của hệ thống và giá trị danh nghĩa của mỗi đồng
tiền được biểu hiện trực tiếp bằng vàng, hay một cách gián tiếp qua đồng
USD với trọng lượng là 0,888671 gram vàng nguyên chất như được ấn định
vào 1/ 7/1944. Điều đó đã khiến vàng trở thành nền tảng của hệ thống này.
Điều này biểu hiện rõ rệt qua thực tế rằng khi tính chuyển đổi ra vàng của
đồng USD trở nên đáng ngờ vực thì hệ thống này tự nó đã suy yếu một cách

trầm trọng.
Vàng đồng thời cũng là tài sản dự trữ cơ bản của hệ thống Bretton
Woods tồn tại từ năm 1946 cho đến năm 1971. Nhưng ở đây không có mối
liên kết nào giữa khối lượng vàng cho các cơ quan tiền tệ Quốc gia sở hữu và
nguồn cung tiền của họ. Yếu tố này trong chế độ bản vị vàng cổ điển đã
không được khôi phục bởi các Quốc gia đều muốn có được tính linh hoạt và
quyền tự quyết cho đồng tiền bản tệ và các chính sách tài chính của mình. Các
quan hệ tài chính quốc tế đã trở nên chính trị hoá. Mỹ là Quốc gia duy nhất đã
thực hiện cam kết tự do mua và bán vàng trong trao đổi với đồng tiền của họ.
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
9
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Mỹ đã truyền bá chính sách này cho các Quốc gia khác để khẳng định rằng
đồng tiền của họ ở trong phạm vi hợp pháp so với đồng USD. Trong thực tế
các Quốc gia hàng đầu duy trì tỷ giá chuyển đổi USD của họ bằng cách can
thiệp vào thị trường hối đoái với các hoạt động mua và bán đồng tiền của họ
lấy USD. Và mọi người đều thừa nhận rằng đồng USD tự nó có thể vẫn bền
vững dưới hình thức vàng. Bởi vậy nước Mỹ đã rất thụ động trong thị trường
hối đoái - chính phong cách này đã gây ra nhiều khó khăn cho bản thân nước
Mỹ và các Quốc gia khác trong hệ thống này.
Vào năm 1945, hầu hết nguồn vàng dự trữ của thế giới được tập trung ở
Mỹ và sự mất cân bằng này đã trở nên tồi tệ hơn trong 5 năm đầu tiên của thời
kỳ hậu chiến : vào cuối năm 1950 nước Mỹ sở hữu tới 2/3 lượng tiền tệ vàng
của thế giới. Hơn nữa khoảng một nửa sản lượng vàng mới khai thác lại “biến
mất” vào các khoản tích trữ tư nhân, ngành công nghiệp và kim hoàn, bởi vậy
những lượng tiền tệ vàng tăng trưởng rất chậm. Các cơ quan tiền tệ phải đối
mặt với nhu cầu cần thiết phải tìm ra những gì có thể thay thế cho vàng - thứ
kim loại ngày càng nguy cơ khó có thể trở thành cơ sở của một hệ thống quốc
tế trong hiện thực.
Thật vậy, sự đe dọa về mức thiếu hụt trầm trọng trong nguồn dự trữ

quốc tế đã dịu đi bởi sự tăng trưởng liên tục của những khối lượng tiền USD
do các NHTW nắm giữ. Các NHTW này - chính là đối tác, đầu tiên là của
những chi tiêu vô cùng to lớn cho các chính sách tái thiết hậu chiến của Mỹ
và sau đó là sự sa lầy vào thiếu hụt cán cân thanh toán của Quốc gia này. Bởi
vì đồng USD vốn “quý như vàng” nên các NHTW nước ngoài đầu tiên rất vui
lòng bổ sung chúng vào nguồn dự trữ của họ.
Thực tế, trong suốt thời kỳ hoàng kim của hệ thống Bretton Woods; hệ
thống này đã tồn tại khoảng một thập kỷ từ năm 1955 cho tới 1964. Sự thống
trị tuyệt đối về mặt kinh tế và tài chính của nước Mỹ đã đóng một vai trò
tương tự trong việc duy trì tính tin cậy cho hệ thống tiền tệ quốc tế so với vai
trò “bá chủ” của nước Anh vào thế kỷ 19. Giống như Anh quốc, nước Mỹ là
một Quốc gia hướng ngoại, tự tin vào sức mạnh và đồng tiền của mình, ủng
hộ việc tự do kinh doanh; cho phép các cư dân và người ngoại quốc sử dụng
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
10
LuËn v¨n tèt nghiÖp
đồng tiền của Quốc gia này không có bất kỳ hạn chế hay kiểm soát nào; cho
nước ngoài vay với một tỷ lệ lớn.
1.4 CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG VÀNG
1.4.1 Thị trường giao ngay (Spot markets)
Vàng được mua trên thị trường giao ngay, là thị trường trong đó việc
giao hàng dù dưới dạng tiền vàng huy chương, hay vàng khối phải được giao
cũng như thanh toán trong thời gian 2 ngày làm việc sau ngày hợp đồng.
Khi khách hàng bán vàng, họ sẽ nhận hoặc tiền mặt hoặc bằng chuyển
khoản, ví dụ như : chuyển tiền thanh toán vào tài khoản, chuyển qua ngân
hàng, séc, hối phiếu ngân hàng. Trong thị trường mua bán giao ngay, việc
thanh toán được thực hiện khi bên kia giao hàng.
Thị trường vàng giao ngay hay thị trường trao đổi vàng là một nơi quan
trọng đối với lưu thông vàng. Vài năm trước đây những người mua vàng quan
trọng nhất chính là các NHTW, và chính sách của họ là trả bằng tiền mặt.

Hơn thế, trong nhiều năm các ngân hàng này thành công trong việc giữ giá
vàng ổn định, bởi vậy không có nhà kinh doanh nào cũng như các nhà công
nghiệp có sự kích thích tham gia vào các giao dịch có kỳ hạn với mục đích
kinh doanh tự bảo hiểm, hoặc đầu cơ. Tuy nhiên, từ khi giá vàng chính thức
bị bãi bỏ thì thị trường cho các hợp đồng có kỳ hạn và quyền chọn đã ngày
càng phát triển đối với lĩnh vực vàng khối, nhiều hơn hết là ở khu vực các
nước nói tiếng Anh (Mỹ, Anh và Hồng Kông). Tuy vậy ở Châu Âu, đặc biệt
là ở Thụy Sỹ, thị trường vàng khối vẫn giữ nguyên là thị trường giao ngay
mặc dù các phương thức kinh doanh vàng khác đang ngày càng tăng lên. Đối
với tiền vàng và huy chương các giao dịch giao ngay vẫn đóng vai trò quan
trọng và hầu hết đây là hình thức kinh doanh duy nhất.
1.4.2 Thị trường kỳ hạn (Forward markets)
Là thị trường mà việc trả tiền và giao hàng không thực hiện ngay lập
tức mà vào một thời điểm nhất định nào đó trong tháng xác định hợp đồng.
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
11
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Đối tượng kinh doanh ở đây không phải là vàng thực mà là quyền giao hay
nhận một khối lượng vàng nhất định theo một kỳ hạn được thoả thuận với giá
ấn định tại thời điểm của hợp đồng.
Các hợp đồng mua bán kỳ hạn được ký kết tại Sở Giao dịch. Các hợp
đồng này không thường được mua dưới hình thức hô giá, với các thành viên
của Sở Giao dịch là người mua cuối cùng (có trạng thái trường) và người bán
cuối cùng (có trạng thái đoản).
Trong hầu hết các trường hợp, các hợp đồng mua và các hợp đồng bán
trong thị trường có kỳ hạn tự triệt tiêu lẫn nhau. Bởi vậy việc chuyển giao
vàng thực trong trao đổi hầu như không cần thiết. Trong thực tế, ở các giao
dịch có kỳ hạn tại Mỹ chỉ có 1% đến 5% doanh số là có giao hàng thực. Vì lý
do này, doanh thu của thị trường có kỳ hạn lớn hơn lượng vàng được giao
thực sự rất nhiều. Trong thực tế, hàng năm doanh thu này vượt xa tổng giá trị

nguồn cung ứng mỗi năm.
Các thị trường có kỳ hạn, đúng tính chất hiện nay đang hoạt động ở
Chicago, Newyork, Singapore và HongKong. Các hợp đồng giao hàng có kỳ
hạn cũng rất phổ biến ở Zurich. Tuy nhiên, ở đây người ta áp dụng hình thức
hợp đồng “tiền giao sau”, ở các hợp đồng này, khoản chênh lệch giá trong
giao dịch giao sau không phải là yếu tố giá do thị trường quyết định mà là một
khoản trả lãi cho việc cung cấp một khoản tài chính trong thời hạn của giao
dịch.
Thị trường vàng có kỳ hạn, do những người tiêu dùng công nghiệp và
sử dụng vào mục đích tự bảo hiểm để tránh khỏi các biến động giá không
thuận lợi. Ở một khía cạnh khác, đối với các nhà đầu tư thì thị trường này
đem lại những cơ hội hiếm có để kiếm lời cũng như là các rủi ro. Một nhà đầu
tư mua vàng với hình thức giao sau có quyền kiểm soát một tài sản lớn với
phí khá ít. Do tính hiệu quả ấy mà khả năng kiếm lời ở thị trường này hơn
nhiều so với một đầu tư tương đương bằng tiền mặt. Tất nhiên là khả năng rủi
ro cũng lớn. Tuy cũng có những cách có thể hạn chế khả năng kiếm lời hay
thiệt hại trong giao dịch vàng có kỳ hạn. Ví dụ, thường người ta có thể tất
toán hợp đồng trước thời hạn, mặc dù điều này sẽ phát sinh chi phí. Rủi ro
mất mát ở thị trường chứng khoán cũng có khả năng hạn chế bằng cách sử
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
12
LuËn v¨n tèt nghiÖp
dụng “hợp đồng hạn chế rủi ro”. Nhờ cách này mà hợp đồng sẽ được tự động
tất toán khi giá cả đạt tới mức nhất định có lợi cho khách hàng.
1.5 DỰ TRỮ VÀNG TRÊN THẾ GIỚI.
Trên thế giới, vàng dự trữ của nhà nước thường nằm dưới dạng vàng
thỏi, nén hay tiền vàng và thuộc quyền quản lý, chi phối của các tổ chức và cơ
quan của Nhà nước. Trước khi vàng mất chức năng bản vị tiền tệ thì dự trữ
vàng của Nhà nước được coi như dự trữ tiền tệ thế giới và là bảo đảm cho lưu
thông tiền tệ trong nước. Từ khi vàng không còn chức năng này nữa thì dự trữ

vàng của Nhà nước chỉ còn đóng vai trò chính trong thanh toán quốc tế và có
thể dùng để bổ sung cho dự trữ ngoại tệ.
Trong thời gian dài, khi vàng được dùng làm bản vị tiền tệ thì dự trữ
vàng chính thức của Nhà nước tăng lên cả về số tuyệt đối (về tổng lượng vàng
tập trung vào kho Nhà nước) lẫn về số tương đối (về phần của Nhà nước trong
tổng lượng vàng dự trữ trong nền KTQD). Nhưng sau khi vàng mất chức năng
bản vị tiền tệ thì xảy ra khuynh hướng ngược lại, vàng của Nhà nước giảm cả
về mặt tương đối và tuyệt đối, còn vàng tiêu dùng và tích luỹ trong khu vực tư
nhân lại tăng lên. Ở đây, chẳng những lượng vàng mới khai thác mà còn một
phần vàng dự trữ của Nhà nước được chuyển sang tay tư nhân.
Số vàng nắm giữ bởi các nước khác nhau rất đa dạng cả về khối lượng
và tỷ lệ so với dự trữ ngoại hối. Những nước nắm giữ vàng lớn - bao gồm Mỹ,
Đức, Quỹ tiền tệ quốc tế và Pháp. Đã có nhiều nước bán vàng với số lượng
lớn, đáng chú ý nhất là Argentina, Australia, Bỉ, Canada, Hà Lan, Thụy Sỹ và
Anh. Cũng có nhiều nước xác định mua vàng, nước mua nhiều nhất là Đài
Loan, Ba Lan. Những chênh lệch đó có thể giải thích được một phần theo
cách trong đó dự trữ được nhìn nhận như là vấn đề của quốc gia, cách trong
đó các quyết định về chính sách dự trữ để thực hiện, và bằng khối lượng dự
trữ rất lớn so với lượng sản xuất vàng tiêu thụ cơ bản.
Với khối lượng vàng dự trữ tương đối lớn so với mức tiêu thụ, khả
năng thay đổi về chính sách đã có ảnh hưởng khá lớn đến giá vàng. Sự lo ngại
về việc bán vàng của khu vực chính thức được xem là một nhân tố chủ yếu
sau sự suy giảm giá vàng từ cuối năm 1996 - những lo ngại gây ra bởi lòng tin
rằng đã có một số ít nước bán vàng. Năm 1999, hành động bán vàng của Anh
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
13
LuËn v¨n tèt nghiÖp
cộng với khả năng bán vàng tiếp theo của các thành phần khác của khu vực
chính thức đã được coi là nhân tố chủ yếu đứng sau sự suy giảm đặc biệt
nghiêm trọng của giá vàng, mức giá rớt xuống 252/OZ vào tháng 8/1999.

Bảng 1.1: Dự trữ vàng khu vực chính thức lớn nhất (tính đến cuối năm
2000).
STT Tên nước Tấn Tỷ lệ % vàng trong dự trữ ngoại
hối
1 Mỹ 8137 57
2 Đức 3469 35
3 IMF 3217 N/a
4 Pháp 3025 42
5 Italia 2452 40
6 Thuỵ Sỹ 2420 40
7 Hà Lan 912 46
8 Nhật 764 2
9 ECB 747 14
10 Bồ Đào Nha 607 39
11 Tây Ban Nha 523 13
12 Anh 480 9
13 Đài Loan 421 3
14 Trung Quốc 395 2
15 Nga 382 12
16 Áo 377 19
17 Ấn Độ 358 9
18 Vênezuela 319 16
19 Lebanon 287 30
20 Bỉ 258 19
21 Tất cả các nước 28.871 12
(Nguồn: Gold Survey 2000)
Đối với các nước công nghiệp phát triển, dự trữ ngoại tệ nhiều hơn dự
trữ vàng gần 2 lần, đối với các nước đang phát triển nhiều hơn gấp 9 lần. Chỉ
có Mỹ giá trị vàng dự trữ tính theo giá thị trường là cao hơn dự trữ ngoại tệ,
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031

14
LuËn v¨n tèt nghiÖp
chiếm 57% vàng trong dự trữ ngoại hối. Trong khi đó, ở nhiều nước dự trữ
ngoại tệ, chiếm 57% vàng trong dự trữ ngoại hối. Trong khi đó, ở nhiều nước
dự trữ ngoại tệ nhiều hơn dự trữ vàng. Ví dụ như Đức, Pháp, Bồ Đào Nha,
Vênêzuêla, Áo, Bỉ.
Về mặt lịch sử, dự trữ vàng quốc gia ở các nước đều được tập trung
trong kho bảo quản kim loại quý hiếm của NHTW dùng để phục vụ cho lưu
thông tiền tệ trong nước và thanh toán quốc tế. Mặc dù ngày nay các chức
năng này không còn nữa nhưng dự trữ vàng ở đa số nước vẫn nằm trong bảng
tổng kết tài sản, dưới sự quản lý của NHTW theo truyền thống, trừ một số
nước ví dụ Mỹ, toàn bộ dự trữ vàng quốc gia đều thuộc quyền chi phối của
kho bạc thuộc cơ quan tài chính. Ở Anh cũng vậy, kho bạc nhà nước nắm toàn
bộ dự trữ vàng, còn ngân hàng chỉ làm nghiệp vụ kỹ thuật theo sự uỷ quyền
của kho bạc. Ở một số nước, bên cạnh dự trữ vàng chính thức ở NHTW còn
có vàng dự trữ ở các cơ quan khác.
Do thực hiện các biện pháp phi chuẩn mực hoá tiền tệ bằng vàng cho
nên phạm vi sử dụng vàng chính thức bị co lại rõ rệt. Cùng với nghị quyết của
IMF dùng đồng tiền SDR làm chuẩn mực thay vàng, nhưng thoả thuận của
các cường quốc cấm Nhà nước mua vàng mới khai thác, không thực hiện các
hợp đồng có vàng để điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế đã làm cho các
cường quốc vàng như Đức, Ý, Pháp và Thụy Sỹ ngừng các nghiệp vụ giao
tiếp có vàng quốc gia. Do vậy, vàng dự trữ quốc gia trong nhiều năm bị nằm
"chết" trong kho.
Song, vào khoảng giữa thập niên 80, một số nước nhận thấy rằng, để
vàng nằm chết trong kho vừa mất công bảo quản lại vừa không sinh lời, do
vậy đã bán bớt lượng vàng trong kho dự trữ quốc gia của mình theo hai
hướng:
Thứ nhất là thông qua các ngân hàng môi giới, vàng dự trữ quốc gia
được chuyển cho các công ty kim hoàn vay để họ làm đồ trang sức, vật lưu

niệm bán ra thị trường, sau đó sẽ mua số vàng mới khai thác được hoàn lại
cho ngân khố nhà nước với mức lãi không cao. Với cách này thì lượng vàng
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
15
LuËn v¨n tèt nghiÖp
dự trữ của nhà nước về hình thức vẫn còn nguyên, nhưng lại làm cho vàng
“biết chửa”, sau đó “đẻ” cho nhà nước một khoản thu nhập nhất định.
Thứ hai là vàng kho bạc được bán trực tiếp ra thị trường lấy tiền để
trang trải số thiếu hụt của ngân sách nhà nước hoặc để bổ sung dự trữ ngoại tệ
và cho vay kiếm lời hoặc đầu tư chứng khoán.
Cả hai cách “phá băng” nói trên đều làm tăng áp lực hạ giá vàng trên
các thị trường vàng quốc tế. Tính đến đầu năm 2000, kho vàng dự trữ quốc tế
của Canada bị giảm nhiều nhất so với mức dự trữ tối đa –giảm 12 lần, còn
637 tấn vàng; rồi đến Bỉ – giảm 5 lần, còn 1067 tấn; tiếp theo là Ôxtrâylia –
giảm 3 lần, còn 167 tấn; Hà Lan – giảm 1,7 lần còn 722 tấn và Austria – giảm
1,6 lần, còn 249 tấn
(4)
. Do đó đã góp phần làm tăng áp lực hạ giá vàng trên
các thị trường vàng thế giới trong thời gian qua.
1.6 CUNG VÀ CẦU VÀNG TRÊN THẾ GIỚI
Từ lâu, vàng đã trở thành thứ kim loại quý hiếm vì lượng vàng khai
thác được từ xa xưa đến nay không nhiều, nhưng vàng ngày càng được sử
dụng nhiều trong đời sống kinh tế - xã hội, như trong công nghiệp chính xác
kim hoàn, trong ngành kinh tế. Nhà nước dùng vàng làm tài sản đảm bảo giá
trị đồng tiền và ổn định nền kinh tế; tư nhân dùng vàng làm đồ trang sức, vật
lưu niệm, vừa làm của tiết kiệm để dành.
Đặc biệt ngày nay khi công nghiệp chính xác, điện tử, vi tính càng phát
triển thì lượng vàng dùng cho lĩnh vực công nghiệp ngày càng cao. Ví dụ trên
các vệ tinh và con tàu vũ trụ chỉ cần bọc một lớp vàng 1/600.000cm là đủ để
chống lại bức xạ hồng ngoại trong vũ trụ. Để bảo vệ khỏi các tác động bên

ngoài, và để quan sát được dễ dàng, trên các con tàu của Mỹ người ta bọc một
lớp vàng. Ngoài ra một số thiết bị bên trong cũng được bọc một lớp vàng để
chống quá nóng và chống rỉ.
Lượng vàng dùng cho sản xuất, đời sống do các nguồn sau đây cung
cấp: vàng mới khai thác ở các quốc gia phương Tây (Mỹ, Nam Phi, Canada,
Úc, Brazin…); và ở các nước phương Đông đem bán (Nga, Trung Quốc,
Mông Cổ, Bắc Triều Tiên, Inđônêsia, Philipin…); vàng tái sinh, vàng dự trữ
4
Nghiên cứu kinh tế số 273 - tháng 2 năm 2001.
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
16
LuËn v¨n tèt nghiÖp
quốc gia và dự trữ tư nhân đem bán, vàng từ những nguồn khác. Vàng mới
khai thác của thế giới đưa vào lưu thông làm tăng lượng vàng hiện có trên thị
trường, còn các lượng vàng khác là vàng vốn có chỉ làm thay đổi quyền sở
hữu, không làm tăng lượng vàng hiện có, nhưng nói chung nhờ có nó nên
cung và cầu vàng trên thế giới trong thời gian qua gần như là cân bằng.
Bảng 1.2 : Cung và cầu vàng vật chất từ 1990 - 1999
(tấn / 1 năm, tính trung bình)
Cầu Cung
Chế tác 3.287 Khai thác mỏ 2.332
Vàng vụn 630 Bán từ khu vực chính thức 309
2.657 Dự phòng sản xuất ròng 238
Dự trữ vàng 235 Huỷ bỏ đầu tư ròng 13
Tổng số 2.892 2.892
(Nguồn: Gold Fields Mineral Services Ltd)
Các con số cho thấy nhu cầu chế tác, ước tính khoảng 3.278 tấn / năm
trong thập kỷ qua, đã vượt xa nguồn cung khai thác mỏ mới là 2.332 tấn /
năm Lượng cung hàng năm vàng mới được khai thác và bán vàng từ các nền
kinh tế phi thị trường đều đã tăng đều trong thập kỷ 90. Nam Phi là nước dẫn

đầu trong sản xuất vàng và cung cấp tới 17,5% lượng vàng được khai thác
hàng năm. Theo ước tính, Mỹ là nhà sản xuất vàng lớn thứ 2, cung cấp 13,3%
và Australia đứng thứ ba với 11,7%. Tổng lượng bán từ khu vực chính thức,
dự phòng sản xuất ròng và huỷ bỏ đầu tư ròng là 550 tấn cũng góp phần làm
tăng cung về vàng trên thị trường. Tuy nhiên, những đợt bán vàng của các
NHTW hay các tổ chức quốc tế là không thường xuyên. Một trong những
động cơ có thể của những đợt bán vàng này là mong muốn thay đổi cơ cấu dự
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
17
LuËn v¨n tèt nghiÖp
trữ để tạo nên dự trữ ngoại tệ lớn hơn và do đó tăng trạng thái động của tài
sản dự trữ.
Cơ cấu nhu cầu vàng trên thị trường cũng khác cách cơ bản cơ bản với
những gì thường gặp trong các hàng hoá khác. Nhu cầu về vàng không giống
nhau, hầu hết nhu cầu về các nguyên liệu thô khác, không chỉ nảy sinh từ phía
ngành công nghiệp sử dụng vàng. Sự thực là ngành công nghiệp đang ngày
càng trở thành ngành tiêu dùng vàng quan trọng. Ba yếu tố cấu thành chính
trong nhu cầu vàng đó là các cơ quan tiền tệ, các khách hàng tư nhân mua
vàng với mục đích để tích trữ, đầu tư hay đầu cơ và nhu cầu vàng cho sản
xuất.
Qua hàng thế kỷ, nhu cầu về vàng của các cơ quan tiền tệ đã chi phối
thị trường vàng. Dưới chế độ bản vị vàng, các cơ quan này đã giữ giá vàng ổn
định và tích lũy cho riêng mình khối lượng vàng rất lớn. Sự ổn định này kéo
dài được đến năm 1968. Từ đây bắt đầu có vấn đề tranh luận một cách rộng
rãi về việc bãi bỏ chế độ bản vị vàng. Các thập niên 80, 90 giá vàng liên tục
hạ, sở dĩ giá vàng hạ là do sức hấp dẫn của vàng có phần bị giảm sút đối với
các nhà đầu tư kiếm lời, vì tình hình kinh tế và thị trường tiền tệ thuận lợi
hơn, nhờ quan hệ Đông- Tây đã dịu đi nhiều, lạm phát giảm, đồng nội tệ ở
nhiều nước lên giá.
Mặc dù dự trữ vàng là ổn định hơn so với dự trữ tiền tệ, kể cả ngoại tệ

mạnh, nhưng lại không có lợi bằng dự trữ ngoại tệ mạnh một khi nền kinh tế
duy trì mức lạm phát thấp và đồng nội tệ đã ổn định. Trong khi dự trữ vàng
kém cơ động, cần chi phí bảo quản tốn kém, khó sinh lời, thì dự trữ tiền tệ lại
rất cơ động và sinh lời nhanh. Do vậy, nhiều nước đã giảm lượng vàng nhập
và bán vàng dự trữ để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn Đài Loan là
nước trước đây nhập khẩu vàng vào loại nhất nhì thế giới thì gần đây cũng
giảm lượng nhập.
Tích trữ, đầu tư và đầu cơ tạo thành một khu vực rộng lớn và hỗn tạp
của nhu cầu vàng. Từ lâu lắm rồi con người đã sử dụng vàng làm phương tiện
bảo đảm an toàn cho những của cải của họ để tránh những tình huống bất ổn
trong cuộc sống. Không giống những khoản đầu tư bằng tiền có thể sinh lời,
việc tích trữ vàng từ lâu đã không mang tính chất kiếm lời mà nhằm mục đích
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
18
LuËn v¨n tèt nghiÖp
an toàn, tức là bảo vệ tài sản. Ưu thế này của vàng làm nên đặc trưng trong
hành động cất trữ. Tất cả những điều đó gây ấn tượng thật lâu dài. Ý tưởng sở
hữu vàng như một phương tiện để bảo hiểm tài sản của con người khỏi những
bấp bênh và biến động của đời sống kinh tế, chính trị bắt rễ sâu xa vào ý
tưởng con người trên toàn thế giới.
Ngoài việc tích trữ vàng nhằm mục đích an toàn, vàng còn là phương
tiện đầu tư và đầu cơ. Ở lĩnh vực này, mục đích là để đạt được một khoản lợi
do giá vàng tăng lên. Trong suốt thời kỳ giá vàng còn do các NHTW ấn định
thì nhu cầu vàng kể trên là không mấy quan trọng. Nhưng vào nửa sau của
thập kỷ 60, khi người ta dần dần vỡ lẽ rằng các cơ quan quyền lực khó mà đủ
sức giữ giá vàng ở mức 35 USD/OZ, mối quan tâm của các nhà đầu tư và đầu
cơ đối với vàng mới thật sự tăng lên một cách đáng kể. Khi cuối cùng thị
trường vàng trở nên không kiểm soát nổi, thì nhu cầu vàng trong lĩnh vực này
tự nó trở thành yếu tố quyết định chính cho giá vàng. Theo GFMS, nhu cầu
đầu tư tư nhân khoảng dưới 25.000 tấn, một con số đã được tăng lên một cách

chậm chạp theo thời gian.
Những lý do nắm giữ vàng thay đổi rộng rãi. Tại những thị trường với
hệ thống tài chính phát triển nghèo nàn, khó tiếp cận hay với những Ngân
hàng không đảm bảo an toàn, hay nơi mà lòng tin vào Chính phủ còn thấp,
vàng vẫn hấp dẫn như một vật cất trữ giá trị dễ cầm nắm, không bị lộ tên và
sẵn sàng đưa ra thị trường tại bất cứ đâu. Tại những nước với hệ thống tài
chính và chính trị ổn định, sự hấp dẫn đầu tiên của vàng là một công cụ đầu tư
với mối tương quan thấp, ngược chiều với những tài sản khác, và nó có thể
giữ hoặc tăng giá trị nếu vì một số lý do các nhà đầu tư chạy trốn khỏi các tài
sản tài chính khác như trái phiếu và chứng khoán.
Biểu đồ 1: Những thành phần nắm giữ vàng chính
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
19
V ng trang sà ức - 45%
Các loại khác - 12%
LuËn v¨n tèt nghiÖp
(Nguồn : Gold Survey 2000)
Các chuyên gia WGC cho biết, trong tổng số vàng dùng làm nguyên
liệu công nghiệp trong thời gian qua, thì phần lớn được dùng cho công nghiệp
kim hoàn, sau đó là vàng dùng cho công nghiệp điện tử. Ví dụ năm 1990 vàng
dùng cho công nghiệp là 2683 tấn, thì vàng dùng cho công nghiệp kim hoàn
2188 tấn, còn năm 1999 – vàng dùng cho công nghiệp kim hoàn là 3128 tấn
so với 3722 tấn. Nếu năm 1996 về trước, Italia đứng đầu thế giới về sản lượng
vàng dùng trong công nghiệp kim hoàn, thì từ năm 1997 tới năm 1999, Ấn
Độ đứng đầu thế giới trong lĩnh vực này. Còn nhu cầu vàng dùng trong công
nghiệp điện tử lại tăng nhanh ở Hàn Quốc và Đài Loan. Phần lớn sản phẩm
kim hoàn làm ra dùng để xuất khẩu. Ví dụ, nếu năm 1990, 1/4 sản phẩm kim
hoàn của thế giới được dùng xuất khẩu, thì năm 1994 là 30%. Trước năm
1995, đứng đầu các nước xuất khẩu sản phẩm kim hoàn là Italia. Còn nước
nhập khẩu sản phẩm kim hoàn nhiều nhất là Mỹ

Các số liệu thống kê của WGC cho biết, năm 1994 toàn thế giới dùng
tới 100 tấn vàng ròng (tăng gấp 2 lần so với năm trước) để mạ gọng kính, mạ
đồng hồ, mạ ấm chén. Đặc biệt ở Ấn Độ ngành may mặc dùng khoảng 10 tấn
mạ khuy áo, ve áo và các đường ren. Đôi khi trong các bộ nữ trang ngày Tết,
ngày hội ở Ấn Độ có tới 1% trọng lượng là vàng. Do vậy góp phần đưa Ấn
Độ lên hàng đầu thế giới về sản lượng vàng dùng trong lĩnh vực kim hoàn
trong thời gian vừa qua.
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
20
Lượng v ng do tà ư nhân nắm giữ - 18%
V ng do NHTW nà ắm giữ - 25%
LuËn v¨n tèt nghiÖp
1.7. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG Ở MỘT SỐ NƯỚC
Thị trường vàng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố và ngược lại nó cũng
tác động sâu rộng đến nhiều lĩnh vực khác trong đời sống kinh tế xã hội. Đối
với những nước đang phát triển, các phương tiện thanh toán, đầu tư còn nghèo
nàn, giá trị đồng bản tệ kém ổn định, tầng lớp nông dân thu nhập thấp chiếm
tỷ lệ lớn thì việc dùng vàng làm phương tiện cất trữ giá trị, tự bảo hiểm chống
lạm phát còn rất phổ biến. Khi đó vàng phát huy vai trò là công cụ phục vụ
chính sách ổn định tỷ giá, ổn định tiền tệ. Ngược lại khi nền kinh tế đã từng
bước ổn định, lạm phát được kiềm chế thì vai trò hàng hóa được nâng cao.
Chính vì vậy mà mỗi quốc gia xuất phát từ thực tế tình hình phát triển của nền
kinh tế, mức độ hoàn thiện của hệ thống tài chính ngân hàng, sự ổn định của
đồng nội tệ và thói quen ưa chuộng vàng mà đề ra chính sách quản lý vàng
phù hợp với hoàn cảnh của mình.
Nhìn chung cơ sở để phân tích và đưa ra các chính sách quản lý vàng
đều dựa vào mức độ ảnh hưởng của vàng đến:
- Sự ổn định của giá trị đồng bản tệ và tỷ giá hối đoái của đồng bản tệ so
với các ngoại tệ mạnh khác. Nếu nước nào có một nền tài chính ổn định, lạm
phát được kiểm soát chặt chẽ, sự biến động của giá vàng sẽ không ảnh hưởng

đến giá trị đồng bản tệ thì chính sách quản lý vàng sẽ được tự do hóa, không
có cản trở trong các giao dịch vàng.
- Mức độ phát triển của ngành sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ, đặc biệt
là lĩnh vực xuất khẩu và giải quyết việc làm cho người lao động. Nếu ngành
sản xuất vàng trang sức phát triển, doanh thu xuất khẩu lớn (như Thái Lan)
chính sách quản lý vàng sẽ tạo điều kiện để ngành này phát triển thuận lợi.
- Sự ổn định kinh tế xã hội. Nếu chế độ chính trị không ổn định, nền kinh
tế không được kiểm soát chặt chẽ, đồng nội tệ mất giá thì vai trò của vàng sẽ
tăng và chi phối mạnh đến việc ổn định nền kinh tế, ổn định tiền tệ và như
vậy chính sách quản lý vàng sẽ phải quy định chặt chẽ hơn nhằm hỗ trợ cho
chính sách tiền tệ.
Như vậy, chính sách quản lý vàng của các nước rất khác nhau, nó phụ
thuộc vào mức độ mở cửa, sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, phụ thuộc
vào mức độ phát triển của thị trường tài chính và còn phụ thuộc nhiều vào
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
21
LuËn v¨n tèt nghiÖp
thói quen tập quán tiêu dùng truyền thống của người dân đối với vàng. Đối
với các nước, mà ở đó vàng đóng vai trò là phương tiện cất trữ, thanh toán
như Trung Quốc, Việt Nam, Myanmar thì NHTW có vai trò quản lý, kiểm
soát, khống chế lượng vàng vào, ra. Còn đối với các nước sử dụng vàng chủ
yếu cho mục đích sản xuất nữ trang và khuyến khích tiềm năng xuất khẩu
hàng trang sức như Thái Lan, Indonesia, Philipin thì Bộ Tài chính hoặc Bộ
Thương mại quản lý thị trường vàng bằng các chính sách thuế xuất nhập
khẩu.
Điểm chung nhất về chính sách quản lý vàng của các nước đang phát
triển là mức độ quản lý vàng tương ứng với mức độ quản lý ngoại hối vì vai
trò tiền tệ của vàng trong lịch sử, và hiện tại vàng là tài sản có, tài sản dự trữ
quốc gia và nó không là tài sản nợ của bất cứ quốc gia nào.
Thông thường, Nhà nước quản lý vàng thông qua chính sách quản lý

hoạt động kinh doanh vàng, chính sách thuế, chính sách quản lý ngoại hối
Có thể khái quát chính sách quản lý vàng của một số nước như sau:
* Chính sách quản lý vàng của Trung Quốc:
Chính sách quản lý vàng của Trung Quốc được xếp vào loại chặt chẽ
nhất thế giới. NHTW kiểm soát thị trường vàng từ khâu khai thác đến khâu
cung ứng nguyên liệu cho các đơn vị sản xuất nữ trang. Việc xuất nhập khẩu
vàng phải có giấy phép của NHTW. Giá vàng được ấn định cho các mức từ
vàng khai thác đến bán lẻ, việc kinh doanh vàng chỉ được phép đối với
DNNN. Mặc dù vậy, NHTW vẫn tạo điều kiện để ngành sản xuất vàng trang
sức phát triển. Nhà nước cho phép các DN kinh doanh vàng tạm nhập vàng
nguyên liệu để gia công vàng trang sức tái xuất. Có chế độ bảo hộ ngành sản
xuất nữ trang trong nước, không cho phép các Xí nghiệp liên doanh sản xuất
nữ trang bán sản phẩm ở thị trường nội địa, định thuế suất rất cao đối với
vàng trang sức nhập khẩu.
* Chính sách quản lý vàng của Philipin:
- Vàng khai thác phải bán cho NHTW. Khi các đơn vị sản xuất nữ trang
có nhu cầu thì NHTW bán các loại vàng hạt, vàng miếng Nhưng với điều
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
22
LuËn v¨n tèt nghiÖp
kiện là đơn vị sản xuất nữ trang đó phải có giấy phép "Người sản xuất nữ
trang được uỷ quyền" của Hiệp hội sản xuất nữ trang Philipin và Liên hiệp
ngành nữ trang.
* Chính sách quản lý vàng của Thái Lan:
Theo xu hướng mở cửa thị trường tài chính, lưu thông vàng được từng
bước tự do hóa, song việc quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu vàng vẫn phải
tuân theo các quy chế ngặt nghèo, hạn chế bằng các mức thuế nhập khẩu và
có chính sách khuyến khích các đơn vị sản xuất vàng trang sức xuất khẩu.
Chính sách khuyến khích xuất khẩu vàng trang sức của Thái Lan đã thu
được thành công lớn. Việt Nam cần nghiên cứu kỹ để có thể vận dụng kinh

nghiệm tốt của bạn cũng như những bài học thất bại của Thái Lan để chọn lựa
cách tốt nhất, hướng đi đúng nhất cho Việt Nam, nhằm đưa ngành kim hoàn
phát triển vượt bậc, đạt kim ngạch xuất khẩu hàng tỷ USD vào những năm
tới. Nhìn vào chính sách phát triển thị trường vàng trang sức của Nhà nước
Thái Lan trong thời gian qua. Để có thể hiểu rõ kinh nghiệm của Thái Lan
trong việc phát triển thị trường vàng trang sức.
Thái Lan là một trong những trung tâm sản xuất nữ trang lớn trên thế
giới, hàng năm chế tác 70- 80 tấn vàng và xuất khẩu vàng trang sức lên tới
gần 2 tỷ USD. Ngành nữ trang sử dụng hơn 500.000 lao động, tính riêng Hiệp
hội các nhà sản xuất nữ trang và đá, Thái Lan đã có hơn 1.000 thành viên.
Các nhà máy hiện đại thường tuyển dụng từ 200 - 300 lao động và sử
dụng những trang thiết bị mới nhất. Vàng trang sức xuất khẩu thường là nữ
trang vàng 10, 14, 18 karat có gắn đá quý. Vàng sử dụng cho sản xuất được
nhập khẩu thông qua các hợp đồng do Chính phủ cấp giấy phép.
Những thị trường xuất khẩu chủ yếu là Hồng Kông, Nhật, Châu Âu và
Mỹ. Sau đây là tóm lược sự phát triển của thị trường vàng Thái Lan:
 Giai đoạn đầu:
Thái Lan có lịch sử lâu dài về khai thác và mài đá, nhưng cho tới tận
đầu những năm 1960, những công việc này chỉ mang tính chất kinh
doanh trong nước. Cắt đá và chế tác nữ trang phần lớn là ngành công
nghiệp đơn giản, ít chú trọng tới xuất khẩu.
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
23
LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Trong ngành nữ trang không có nhà sản xuất lớn, chỉ có các cửa hiệu
nhỏ, hộ gia đình.
- Trợ giúp của Chính phủ không đáng kể, không ai nhận ra được tiềm
năng của ngành kim hoàn.
 Thời kỳ phát triển - những năm 1970
Ngành nữ trang bắt đầu có những chuyển biến tích cực.

- Chính phủ bắt đầu nhận ra tiềm năng xuất khẩu của ngành sản xuất
vàng trang sức và chú trọng đến ngành này.
- Chính phủ cắt giảm thuế nhập khẩu đối với đá quý có màu, tài trợ cho
các nhà kinh doanh tham dự triển lãm tại nước ngoài. Năm 1981, Chính phủ
Thái Lan xoá bỏ thuế nhập khẩu đối với kim cương, chính sách này đã tạo ra
nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất. Thái Lan đã trở thành một
trung tâm giao dịch kim cương, hình ảnh về ngành kim hoàn của Thái Lan đã
được cải thiện rất nhiều.
 Những năm gần đây:
Sản phẩm nữ trang của Thái Lan đa dạng. Tiến bộ nhất là các sản phẩm
sản xuất sử dụng vàng có độ tinh khiết được công nhận trên thế giới. Kỹ thuật
cắt, mài đá cũng được cải thiện. Mẫu mã thiết kế đổi mới, kết hợp giữa tính
truyền thống với sự am hiểu sâu sắc về xu hướng và thiết kế nước ngoài.
Trình độ thợ kim hoàn nâng cao, đã có sự chuyển biến trong công nghệ
sản xuất nữ trang: đúc, tạo dáng
Hiện nay Thái Lan có khoảng 350 nhà sản xuất đã đăng ký với Bộ Công
nghiệp, hơn 1.000 nhà sản xuất không đăng ký. Năm 1996, ngành nữ trang
đóng góp 1,7 tỷ USD giá trị xuất khẩu (báo cáo thường niên của Hội đồng
vàng thế giới).
Chính phủ có một cơ cấu thuế rất ưu đãi đối với ngành kim hoàn, từ
những năm 1970, không đánh thuế đối với đá quý, xoá bỏ hạn chế nhập khẩu
vàng khối vào những năm 1980.
 Những ưu đãi của Chính phủ về đầu tư đối với nhà sản xuất tại khu
Gemopolis (hiện nay, Gemopolis gồm 60 nhà máy và một trung tâm buôn
bán rộng 50.000m
2
):
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
24
LuËn v¨n tèt nghiÖp

- Miễn thuế thu nhập liên đoàn và thuế chi thu nhập trong 3 năm.
- Miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng đối với nhập máy móc và
nguyên liệu.
- Miễn thuế giá trị gia tăng kinh doanh trong khu Gemopolis.
- Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu đất đai.
- Cho phép mang người nước ngoài vào làm việc tại Thái Lan.
 Hội chợ nữ trang và đá quý hàng năm tại Bangkok:
Hội chợ đầu tiên được tổ chức vào năm 1984 cho đến nay, các hội chợ
được tổ chức với quy mô rất lớn so với ban đầu. Giá trị buôn bán tại hội chợ
đã tăng lên tới 1,2 tỷ Bath. Hội chợ là một phần không thể thiếu của ngành nữ
trang.
Như vậy, nhờ có sự đánh giá đúng tiềm năng của ngành sản xuất vàng
trang sức, Chính phủ Thái Lan đã có những chính sách phù hợp tạo điều kiện
cho ngành này phát triển. Vì vậy từ chỗ ban đầu hầu như không có sản xuất,
xuất khẩu vàng trang sức, đến nay Thái Lan đã là một trong những cường
quốc trong lĩnh vực xuất khẩu vàng trang sức.
NguyÔn ThÞ Thu Trang - HVNH 2031
25

×