Thị trường hàng điện tử Việt Nam,thực trạng và giải pháp trong hội nhập
kinh tế quốc tế
LỜI MỞ ĐẦU
*Lý do chọn đề tài:
Trong những năm đổi mới,các mặt hàng điên tử dần trở nên phổ biến
trên thị trường Việt Nam,phong phú về chủng loại:chúng ta có thể thấy trên
các dãy phố chuyên kinh doanh ngành hàng này ở Hà Nội như Hai Bà
Trưng,Hàng Bài… bày bán rất nhiều mặt hàng các loại,thiết bị nghe nhìn,giải
trí,phục vụ thơng tin liên lạc,phục vụ công việc hay hàng điện tử gia dụng.Sự
đa dạng về hình thức,chất lượng sản phẩm,nguồn gốc xuất sứ,giá cả của các
sản phẩm này đem đến cho người tiêu dùng cơ hội lớn để lựa chọn,thỏa mãn
nhu cầu sử dụng của mình.Trong những năm gần đây,đời sống kinh tế của đại
bộ phận người dân được cải thiện rõ rệt,khiến khả năng tiếp cận với các sản
phẩm công nghệ cao không cịn là điều qua xa xỉ,bên cạnh đó thì sự ra đời của
các công nghệ mới khiến đời sống của các sản phẩm càng ngày càng rút
ngắn,giá của các sản phẩm cơng nghệ cao ngày càng có xu hướng giảm nhanh
nên sức mua của người dân khá cao.Điều này được minh chứng rất rõ rang
bằng tốc độ phát triển khá cao của thị trường hàng điện tử Việt Nam trong
những năm gần đây năm 2007 tăng 29.2% đạt 3.1 tỷ USD.Với dân số trên 84
triệu người,đồng nghĩa với 1 thị trường tiêu thụ rộng lớn có tốc độ tăng
trưởng cao,Việt Nam là một trong những thị trường hàng điện tử hấp dẫn đối
với các nhà sản suất trong và ngoài nước,và cả các nhà phân phối bán lẻ các
sản phẩm này.Vài năm trở lại đây,chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự xuất
hiện và tăng nhanh số lượng các trung tâm mua sắm hàng điện máy như
Nguyễn Kim,Carings,Việt Long,Pico Plaza…điều này chứng tỏ rằng,thị
trường hàng điện tử Việt Nam đang là mảnh đất màu mỡ của các nhà sản
xuất,phân phối và nó đã phát triển đến giai đoạn chuyên nghiệp,khi mà các
nhà phân phối lớn vào cuộc và sự cạnh tranh khơng cịn chỉ diễn ra bằng giá
1
cả mà bằng dịch vụ. Ở tầm vĩ mơ thì ngành cơng nghiệp điện tử đã được
Chính Phủ phê duyệt chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu với vai trị là
1 trong những ngành cơng nghiệp quan trọng của đất nước,góp phần thúc đẩy
q trình cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước (Quyết định số 75/2007/QĐTTg phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam
đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020) đây là một điểm hết sức quan
trọng,quyết định tới sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử Việt Namnhân tố có tác động rất lớn tới sự phát triển của thị trường hàng điện tử Việt
Nam trong tương lai.Theo quyết định này thì mục tiêu đến năm 2010 ngành
cơng nghiệp điện tử Việt Nam sẽ sản xuất từ 4-6 tỷ USD trong đó xuất khẩu
chiếm từ 3-5 tỷ USD. Ngày 11-1-2007,Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO,chính thức gia nhập sân chơi thương mại tồn
cầu,với việc tham gia này,Việt Nam phải thực hiên các cam kết đa phương,
cam kết mở cửa thị trường,cắt giảm thuế.Trong đó thì việc mở cửa thị trường
có tác động lớn đến thị trường hàng điện tử Việt Nam,việc các nhà bán lẻ
nước ngoài được phép vào thị trường kể từ 1-1-2009 đã có những tác động
đáng kể tới phản ứng của các nhà phân phối lớn trong nước mà các hoạt động
mở rộng hệ thống các trung tâm mua sắm hàng điện tử mới nhằm chiếm thị
phần,giữ chỗ trước là những hoạt động chuẩn bị tích cực.
*Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Qua việc nghiên cứu thị trường các mặt hàng điện tử trong nước và xu hướng
phát triển của thế giới chúng ta có thể có được cái nhìn tổng quát về tình
hình,thực trạng và xu hướng phát triển của thị trường,định hướng phát triển
thị trường hàng điện tử Việt Nam theo xu hướng phát triển chung của thị
trường toàn cầu.Điều này còn giúp chúng ta so sánh tiềm năng phát triển của
thị trường,nhận định những cơ hội,tìm ra giải pháp để nắm bắt,tận dụng cơ
hội này để đưa ngành hàng điên tử Việt Nam hoàn thành mục tiêu phát
triển,bên cạnh đó thì trong hội nhập kinh tế quốc tế cũng tiềm ẩn những nguy
2
cơ,tìm ra cách thức hạn chế rủi ro này để thị trường phát triển bền vững,đúng
hướng.
*Nội dung nghiên cứu:
Trình bày,phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về thị trường hàng điện
tử,cơ cấu của thị trường hàng điện tử.Phân tích thục trạng thị trường các mặt
hàng điện tử ở Việt Nam trong những năm gần đây,xu hướng biến động của
thị trường do tác động của các yếu tố như công nghệ,kênh phân phối và sự
chuyển hướng thị hiếu của người tiêu dùng có tác động như thế nào đến thị
trường và các hoạt động nhằm phát triển thị trường các mặt hàng điện tử Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tê.
3
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG HÀNG
ĐIỆN TỬ
I. KHÁI QUÁT VỀ HÀNG ĐIỆN TỬ
1. Một số khái niệm cơ bản
a. Hàng điện tử
Hàng điện tử là tồn bộ các mặt hàng máy móc điện tử như: các loại đài, ti
vi, thiết bị âm thanh, máy tính, các linh kiện bán dẫn, mạch tích hợp.
b. Ngành công nghiệp điện tử
Là ngành kinh doanh của chế tạo, thiết kế,sản xuất và bán các thiết bị như:
các loại đài, ti vi, thiết bị âm thanh, máy tính, các linh kiện bán dẫn, mạch tích
hợp
c. Giao dịch hàng điện tử
Giao dịch hàng điện tử là loại hình giao dịch lấy hàng điện tử làm đối tượng
tức là việc mua, bán, trao đổi, tặng, cho... máy móc hay vật dụng điện tử.
d. Thị trường hàng điện tử
Thị trường hàng điện tử là tổng thể toàn bộ các giao dịch hàng điện tử
2. Nguồn gốc phát triển của ngành công nghiệp điện tử
Tiền đề phát triển công nghệ của ngành
Ngành hàng điện tử đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỉ 20 với sự kiện
đầu tiên là việc phát minh ra ống electron 2 nguyên tố của John Ambrose
Flemming vào năm 1904. Hai năm sau thì Lee De Forest phát minh ra ống
electron 3 nguyên tố.Những phát minh này dẫn đến sự phát triển của radio
4
thương mại vào thập kỉ 20,mặt hàng đã đạt doanh số hơn 300 triệu dollar
trong thập kỉ đó.
Vào năm 1947 ngành công nghiệp điện tử tạo ra một bước tiến quan trọng
khi John Bardeen, Walter Brattain, và William Shockley phát minh ra bong
bán dẫn. Nhỏ hơn, nhẹ hơn và bền hơn ống chân không đang sử dụng trong
đài radio thời bấy giờ, ống bán dẫn đã mở ra thời kì của những tiến bộ thu nhỏ
kích thước của các thiết bị điện tử. Các mạch tích hợp được phát minh vào
những năm 50 cho phép tích hợp nhiều mạch trên 1 bản mạch, và sự giới
thiệu các thiết bị tương tự_analog devices vào những năm 60 đã cho phép
tăng lượng thơng tin có thể lưu trữ trên 1chip silicon lên hàng ngàn lần.
Các nhân tố quan trọng khác đã tạo nên những tiến bộ vĩ đại kể từ thập kỉ
70 bao gồm laser và quang điện tử,diện tử kĩ thuật số và kĩ thuật vi sóng điện
tử. Tiến bộ trong lĩnh vực điện tử đồng thơi đóng vai trị tối quan trọng trong
sự phát triển của công nghệ không gian,liên lạc vệ tinh, mở ra cuộc cách
mạng trong ngành công nghiệp máy tính mà chính điều đó đã dẫn đến việc
giới thiệu máy tính cá nhân, và giới thiệu cũng như ứng dụng rộng rãi công
nghệ robot trong các nhà máy sản xuất, sản xuất ra các hệ thongs lưu trữ và
truyền số liệu điện tử, bên cạnh đó nó cịn có tác dụng tuyệt vời là mở rộng thị
trường phổ biến âm nhạc và văn hóa. Cuối cùng thì những phát minh này đã
và đang thay đổi cuộc sống của chúng ta: từ bên trong căn nhà đến văn phòng,
nhà máy.
Rất nhiều trong số những phát minh này như bóng bán dẫn ban đầu là sản
phẩm nghiên cứu của quân đội,với mục đích tăng độ tích hợp của các thiết bị
điện tử phục vụ cho những khí tài quân sự công nghệ cao.
5
Một số các nhóm sản phẩm chính như
Các thiết bị rời:
-Thiết bị quang điện:
-Thiết bị analog:
-MOS Logic:
-Thiết bị vi xử lý:
-Thiết bị vi điều khiển:
-DRAM:
-Flash:
II. CƠ CẤU CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG ĐIỆN TỬ
Thị trường hàng điện tử thế giới đang phát triển với nhịp độ nhanh và
thường hay biến động. Mỗi mặt hàng, nhóm hàng cũng như mỗi khu vực thị
trường có những đặc trưng khác biệt, có thể nêu lên một số đặc trưng chủ yếu
của thị trường hàng điện tử thế giới như sau:
1. Cơ cấu về thị trường
Thị trường hàng điện tử thế giới đã có sự phân công sản xuất và phân
chia thị trường ở mức độ rất sâu và rất cao. Với ưu thế về vốn và công nghệ,
các nước công nghiệp phát triển - Mỹ, Nhật Bản - đang chi phối thị trường
hàng điện tử thế giới thông qua việc khống chế sản xuất và xuất khẩu linh
kiện điện tử cũng như nghiên cứu triển khai các sản phẩm mới. Các nước
đang phát triển nhập khẩu linh kiện và nhận chuyển giao công nghệ, đồng
thời sản xuất, xuất khẩu lại các sản phẩm điện tử thành phẩm.
Vào những năm 60 của thế kỉ trước thì người tiêu dùng chuyển hướng sang
dùng hàng điện tử của Nhật Bản như Sony, Hitachi vì lý do hàng điện tử trong
6
nước của Mỹ không thể cạnh tranh nỗi với hàng Nhật về cả chất lượng và giá
thành. Tuy nhiên, đến đầu những năm 80 thì những nhà sãn xuất của Mỹ
vươn lên dẫn đầu thế giới về phát triển và sản xuất phụ kiện bán dẫn. Đến
những năm 90 thì linh kiện bán dẫn trở thành loại linh kiện cơ bản của máy
tính cá nhân và hầu hết mọi sản phẩm điện tử khác như: điện thoại, ti vi, thiết
bị y tế, và các thiết bị ứng dụng thông minh khác. Nhưng trong khi các công
ty Mỹ nắm giữ phần lớn thị phần của ngành cơng nghiệp bán dẫn thì hầu hết
các mặt hàng điện tử tiêu dùng lại đến từ những nước khác, những nước đang
phát triển.
Các nước có ngành công nghiệp điện tử phát triển nhanh đều tập trung ở
châu á như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, ấn Độ, Malaysia...
Những kinh nghiệm phát triển thành công ngành công nghiệp và thị trường
hàng điện tử của các nước này là những bài học tốt cần tham khảo khi đề ra
phương hướng và chính sách phát triển thị trường hàng điện tử của Việt Nam.
Dưới đây là một số số liệu và dự báo về doanh thu các sản phẩm điện tử tại
các thị trương khu vực theo số liệu của hiệp hội Công nghiệp bán dẫn (SIA)
-Thị trường châu Mỹ: Doanh thu sản phẩm bán dẫn tại thị trường châu Mỹ:
+năm 2005 tăng 3%, từ 39,1 tỷ USD năm 2004 lên 40,2 tỷ USD năm
2005
+tăng 4,5% trong năm 2006, lên 42,1 tỷ USD
+tăng 9,7% trong năm 2007, lên 45,4 tỷ USD
+tăng 11,8% năm 2008, lên 51,1 tỷ USD.
-Thị trường châu Âu: Doanh thu sản phẩm bán dẫn tại thị trường châu Âu
+năm 2005 chỉ tăng 0,1%, từ 39,4 tỷ USD năm 2004 lên 39,5 tỷ USD
năm 2005,
+tăng 4,9% trong năm 2006, lên 41,4 tỷ USD;
7
+tăng 9,7% trong năm 2007, lên 45,4 tỷ USD
+tăng 12,3% trong năm 2008, lên 51,0 tỷ USD.
-Thị trường Nhật Bản: Doanh thu sản phẩm bán dẫn tại thị trường Nhật Bản
+năm 2005 giảm 2,6%, từ 45,8 tỷ USD năm 2004 xuống còn 44,6 tỷ
USD năm 2005,
+tăng 5,2% trong năm 2006, lên 46,9 tỷ USD;
+tăng 8,3% trong năm 2007, lên 50,8 tỷ USD
+tăng 11,6% trong năm 2008, lên 56,7 tỷ USD.
-Thị trường châu á - Thái Bình Dương: Doanh thu sản phẩm bán dẫn tại thị
trường châu á - Thái Bình Dương
+năm 2005 tăng 38,316,4%, từ 88,8 triệu USD năm 2004 lên 103,3
triệu USD năm 2005.
+tăng 11,4% trong năm 2006, lên 115,1 tỷ USD;
+tăng 12,4% năm 2007, lên 129,4 tỷ USD
+tăng 16,2% trong năm 2008, lên 150,4 tỷ USD.
2. Cơ cấu về mặt hàng
Tiêu thụ thiết bị điện tử chuyên dụng, thiết bị tin học trong cơ cấu tiêu thụ
hàng điện tử có xu hướng tăng trong khi tiêu thụ thiết bị điện tử dân dụng
giảm đi, đặc biệt là ở các nước phát triển. Các nước đang phát triển vẫn có tốc
độ tăng tiêu thụ thiết bị điện tử dân dụng cao, chủ yếu là các sản phẩm thế hệ
thứ hai với giá rẻ.
Các linh kiện bán dẫn là nền tảng của cơng nghiệp điện tử có tỉ trọng
ngày càng tăng trong tổng giá trị thiết bị điện tử (khoảng 50% trị giá linh kiện
nói chung). Nhật Bản và Mỹ là những nước đứng đầu về cung cấp các sản
phẩm bán dẫn.
8
Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã, đang và sẽ dẫn đến những
thay đổi nhanh chóng của các sản phẩm điện tử và tạo ra sự kết hợp đan xen
giữa lĩnh vực sản xuất thiết bị xử lý dữ liệu với thiết bị điện tử dân dụng và
thiết bị điện tử công nghiệp. Tuy nhiên, thị trường hàng điện tử vẫn tiếp tục
chịu sự chi phối của thị trường trường linh kiện. Các yếu tố cung - cầu về linh
kiện điện tử đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành động thái thị
trường hàng điện tử trong những năm tới.
*Phân chia theo các nhóm sản phẩm chính
-Các thiết bị rời: Doanh thu các thiết bị rời
+năm 2005 giảm 2,6%, từ 15,8 tỷ USD năm 2004 xuống còn 15,4 tỷ
USD,
+tăng 3,7%, lên 15,9 tỷ USD trong năm 2006.
+Trong năm 2007, thị trường tăng 8,9%, lên 17,3 tỷ USD
+tăng 8,7% trong năm 2008, lên 18,9 tỷ USD.
-Thiết bị quang điện: Doanh thu thiết bị quang điện
+tăng 9% năm 2005, từ 13,7 tỷ USD năm 2004 lên 15,0 tỷ USD
+tăng 9,6% trong năm 2006, lên 16,4 tỷ USD.
+năm 2007 tăng 10,7%, lên 18,2 tỷ USD
+tăng 15,3% trong năm 2008, lên 20,9 tỷ USD.
-Thiết bị analog: Doanh thu analog
+tăng 1,1% trong năm 2005, từ 31,4 tỷ USD năm 2004 lên 31,7 tỷ USD
+tăng 11,9% trong năm 2006, lên 35,5 tỷ USD.
+tăng 13,0% trong năm 2007, lên 40,1 tỷ USD
+tăng 16,4% trong năm 2008, lên 46,7 tỷ USD.
-MOS Logic: Doanh thu MOS logic
+tăng 16,3% trong năm 2005, từ 49,4 tỷ USD năm 2004 lên 57,6 tỷ
USD năm 2005
+tăng 8,4% trong năm 2006, lên 62,4 tỷ USD.
9
+năm 2007, doanh thu MOS logic tăng 11,5%, lên 69,6 tỷ USD
+tăng 14,5% trong năm 2008, lên 79,7 tỷ USD.
-Thiết bị vi xử lý: Doanh thu thiết bị vi xử lý
+tăng 16,3% trong năm 2005, từ 30,5 tỷ USD năm 2004 lên 35,5 tỷ
USD
+tăng 11,7% trong năm 2006, lên 39,6 tỷ USD.
+tăng 7,6% trong năm 2007, lên 42,6 tỷ USD
+tăng 8,3% trong năm 2008, lên 46,1 tỷ USD.
-Thiết bị vi điều khiển: Doanh thu thiết bị vi điều khiển
+giảm 3,4% trong năm 2005, từ 12,5 tỷ USD năm 2004 xuống còn 12,0
tỷ USD,
+tăng 6,3% trong năm 2006, lên 12,8 tỷ USD.
+năm 2007, doanh thu thiết bị vi điều khiển tăng 9,5%, lên 14,0 tỷ
USD
+tăng 11,6% trong năm 2008, lên 15,6 tỷ USD.
-Thiết bị xử lý tín hiệu số (DSP): Doanh thu DSP
+năm 2005 duy trì ở mức 7,8 tỷ USD, tương đương với năm 2004
+tăng 17,2% trong năm 2006, lên 9,1 tỷ USD.
+tăng 19,3% trong năm 2007, lên 10,9 tỷ USD và
+tăng 20,2% trong năm 2008, lên 13,1 tỷ USD.
-DRAM: Doanh thu DRAM
+năm 2005 giảm 4,8%, từ 26,8 tỷ USD năm 2004 xuống còn 25,6 tỷ
USD
+giảm 10,1% trong năm 2006, xuống còn 23 tỷ USD.
+năm 2007, thị trường DRAM hồi phục lại với tốc độ tăng 13,1%, đạt
26,0 tỷ USD
+tăng 20% trong năm 2008, lên 31,2 tỷ USD.
-Flash: Doanh thu flash memory
10
+tăng 16,1% trong năm 2005, từ 15,6 tỷ USD năm 2004 lên 18,1 tỷ
USD
+tăng 15,9% trong năm 2006, lên 21,0 tỷ USD.
+tăng 4,7% trong năm 2007, lên 22,0 tỷ USD
+tăng 13,7% trong năm 2008, lên 25,0 tỷ USD.
III. CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG TỚI THỊ TRƯỜNG HÀNG
ĐIỆN TỬ
1. Công nghệ và tốc độ thay đổi công nghệ
Công nghệ là yếu tố hàng đầu tác động đến thị trường hàng điện tử tồn cầu
hiện nay. Khơng giống như cách đây một thế kỉ, khi mà nền công nghiệp điện
tử cịn ở thời kì sơ khai,tốc độ phát triển,nghiên cứu đưa ra các ứng dụng
chậm chạp thì hiện nay tốc độ này nhanh đến đáng ngạc nhiên,và nó tạo ra
những khoảng cách về công nghệ giữa các nước làm cho các nước thực hiện
phân công lao động quốc tế ,rút ngắn chu kì sống của sản phẩm điện tử,mở ra
nhiều mặt hàng mới qua đó thay đổi dần cơ cấu của các mặt hàng điện tử.
*Thực hiện chun mơn hóa giữa các nước
Các nước đã có lịch sử phát triển ngành công nghiệp điện tử lâu đời như Mỹ
và Nhật thì sẽ chun mơn hóa tập trung vào nghiên cứu các công nghệ nguồn
và các ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến, nhập khẩu linh kiện và xuất khẩu
lại hàng điện tử
Hiện tại Mỹ và Nhật là hai quốc gia đứng đầu thế giới về sản xuất hàng điện
tử với những cơng ty nổi tiếng tồn thế giới như:
11
HP, Dell, Acer, IBM, Apple, Intel, Microsoft v.v.. chuyên về sản xuất các
mặt hàng như máy tính,máy văn phịng,thiết bị giải trí
Các nước phát triển nhưng khơng chun sâu vào ngành hàng này và các
nước đang phát triển sẽ tập trung vào sản xuất linh kiện,gia công cho các
nước phát triển, sau một khoảng thời gian tích lũy vốn, kinh nghiệm, tiếp thu
cơng nghệ sẽ dần tự mình hình thành nền cơng ngiệp điện tử của nước mình.
Trung Quốc, Ấn Độ là 2 quốc gia đang dẫn đầu trên con đường này.
Ngày nay, khi nghĩ đến Trung Quốc, người ta liên tưởng ngay đến việc gia
cơng sản xuất vì giá nhân cơng ở đó rẻ. Nhưng Trung Quốc đang bắt đầu thực
hiện những dịch vụ thiết kế theo dạng “chìa khóa trao tay” thay vì chỉ đơn
thuần gia cơng sản phẩm.
Trong khi đó, Ấn Độ lại phát triển về gia cơng phần mềm. Với đội ngũ
nhân viên CNTT có trình độ tiếng Anh cao, cộng thêm sự hỗ trợ mạnh mẽ từ
chính phủ, quốc gia này đã trở thành một môi trường kinh doanh rất thân
thiện cho các đồng nghiệp ở Mỹ.
*Rút ngắn chu kì sống của sản phẩm
Thường thì hiện nay,việc nghiên cứu, phát minh ra các công nghệ mới và
việc ứng dụng đưa các công nghệ mới này vào sản xuất phục vụ nhu cầu thị
trường là khá nhanh và mang tính liên tục,chính vì vậy nó đặt ra nhiều cơ hội
và thách thức đối với các nhà kinh doanh mặt hàng điện tử. Đây chính là
nguyên nhân làm nảy sinh những đặc thù riêng của ngành kinh doanh này,
chu kì sống sản phẩm ngắn, giá có xu hướng giảm, công nghệ đổi mới liên tục
khiến các nhà sản xuất kinh doanh loại mặt hàng này phải điều chỉnh các
chính sách từ chính sách sản phẩm,chính sách thị trường,chính sách giá sao
cho phù hợp với thị trường và thu được lợi ích lớn nhất.
12
Ví dụ,vào những năm cuối thế kỉ 20 thì những thiết bị nghe điện tử cầm tay
vẫn rất hạn chế về tính năng và chủng loại và đặc biệt có giá thành rất
cao,những thiết bị điện tử hỗ trợ cá nhân PDA (personal digital assistant) hay
máy nghe nhạc chỉ có rất ít loại với giá thành lên đến hàng ngàn $/chiếc, thì
hiện nay trên thị trường thế giới có rất nhiều nhà sản xuất cung cấp các sản
phẩm này với giá thành cạnh tranh.
Các chủng loại mặt hàng mới ra đời cũng kéo theo những thay đổi trong
chiến lược bán hàng của các nhà cung ứng. Nhà cung ứng đóng một vai trị
mới trên thị trường đó là làm người hướng dãn tiêu dùng,cách đây 5 năm,khi
sản phẩm Ipod đầu tiên của Apple ra đời,trên thị trường chưa hề có loại sản
phẩm nào tương tự và nhà sản xuất và phân phối vào cuộc,hướng dẫn người
tiêu dùng sử dụng sản phẩm mới của họ,đến nay thì khái niệm Ipod đã trở nên
thơng dụng trên tồn cầu.
Chiến lược sản phẩm cũng đã thay đổi theo sự bùng nổ của công nghệ,ngày
nay các sản phẩm cơng nghệ khơng cịn q chú trọng đến độ bền như trước
kia nữa,do tốc độ thay thế sản phẩm ngày càng nhanh nên các nhà sản xuất đề
nghị những sản phẩm mới với độ bền tương đối nhưng hình thức thiết kế đẹo
và đa tính năng tạo điều kiện thuận lơi cho người tiêu dùng thay đổi,lựa chọn.
Hay khá gần gũi với với đại bộ phận người dân là chiếc ti vi đã thay đổi
đáng kể trong vòng khoảng 20 năm trở lại đây với sự ứng dụng công nghệ
mới vào sản xuất,cho ra đời những chiếc ti vi Plasma,hay LCD,tích hợp thêm
nhiều tinh năng nữa như đầu đọc thẻ, tích hợp đầu đọc đĩa. Cơng nghệ mới
mở ra cơ hội kinh doanh với những chủng loại mặt hàng mới và là nguy cơ
nghiêm trọng với những mặt hàng theo công nghệ cũ.Các loại ti vi theo công
nghệ cũ đang mất dần chỗ đứng trên thị trường,các nhà sản xuất thì thu hẹp
sản lượng,tìm cách chuyển dần sang loại mặt hàng cáo cấp hơn,ứng dụng
công nghệ mới hơn.
13
Chính sách giá của các nhà sản xuất cũng thay đổi phù hợp theo sự biến đổi
của công nghệ,hầu hết các nhà sản xuất khi giới thiệu sản phẩm mới của mình
đều đặt chính sách giá hớt phần ngon,nghĩa là đặt mức giá rất cao cho sản
phẩm nhằm thu phần lời cao từ những nhóm khách hàng ưa thích cơng nghệ
mới, và sau đó thì họ giảm giá để cạnh tranh khi các công ty khác bắt đầu
tung ra những sản phẩm tương tự. Có thể thấy rõ nhất chính sách này củ các
công ty sản xuất điện toại di động,mặt hàng có sức tăng trưởng mạnh mẽ nhất
trong vài năm trở lại đây,năm 2007 số lượng điện thoại di động bán ra tăng
12,4% so với 2006 và đạt 1.14 tỷ chiếc. Đây là mặt hàng rất được ưa chuộng
và các hãng liên tục đưa ra các mẫu mã mới,công nghệ mới. Mỗi sản sẩm mới
đưa ra thị trường trong vịng một năm đầu có thể hạ đến 30-40% giá thành sau
khi sản phẩm đã hết “hot” trên thị trường, điều này mở đường cho các sản
phẩm tiếp theo ra đời tiếp tục thu lợi nhuận cao cho các nhà sản xuất.
Ngồi ra,trong q trình nghiên cứu phát minh ra các công nghệ mới và đưa
chúng vào ứng dụng trong sản xuất các sản phẩm thì các nhà nghiên cứu-sản
xuất tiên phong thiết lập nên những chuẩn công nghệ mà những nhà sản xuất
đi sau phải tuân thủ.
2. Tâm lý tiêu dùng,thị hiếu thị trường.
Đây cũng là nhân tố rất quan trọng đến thị trường hàng điện tử vì các công
ty hiện nay khi đưa ra các sản phẩm mới đều nghiên cứu rất kĩ những đặc tính
của người tiêu dung nhằm thỏa mãn cao nhất nhu cầu của họ. Bất kì cơng ty
nào,dù là sản xuất hay cơng ty thương mại muốn tiêu thụ được hàng hóa dịch
vụ của mình thì đều phải bám theo thị trường,tức là cung cấp những sản phẩm
dịch vụ đúng nhu cầu của khách hàng.
Trong ngành hàng kinh doanh mặt hàng điện tử, đặc biệt là nhóm mặt hàng
điện tử tiêu dùng thì vấn đề này cịn quan trọng gấp bội vì đây là nhóm hàng
mà người tiêu dùng có phản ứng khá nhạy cảm.Hiện nay đối người tiêu dùng
14
các mặt hàng điện tử chia ra làm hai trạng thái tâm lý khá khác biệt,tùy theo
tưng nước,khu vực. Ở những nước phát triển thì nhu cầu của thị trường là khá
cao,các sản phẩm muốn thâm nhập được vào các thị trường này thì ngồi đáp
ứng được các tiêu chuẩn nhà nước còn phải đáp ứng đúng nhu cầu của các
nhóm khách hàng trong nước.Ở các nước đang phát triển thì nhu cầu đơn giản
hơn và các tiêu chuẩn cũng không khắt khe như thị trường các nước phát
triển,điều này tạo điều kiện để các nhà sản xuất nhỏ có cơ hội phát triển thị
trường.
Yếu tố tâm lý tiêu dùng và thị hiếu thị trường cần phải được nghiên cứu kỹ
khi quyết định đưa ra sản phẩm,hay tiến hành các chiến dịch marketing,
khơng có một chuẩn sản phẩm hay chuẩn marketing nào cho thị trường tồn
cầu vì mỗi thị trường có tập quán tiêu dùng (văn hóa tiêu dùng) khác nhau.
Lấy ví dụ như Nokia,một hãng sản xuất điện thoại di động nổi tiếng,chiếm
gần 40% lượng máy bán ra trên tồn thế giới nhưng tại thị trường Bắc Mỹ thì
họ chỉ chiếm phần nhỏ do không đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường này.
Các nhà sản xuất điện tử tiêu dùng của Trung Quốc là một trong những ví dụ
thành công về việc nghiên cứu thị hiếu,nhu cầu thị trường,các sản phẩm điện
tử tiêu dùng giá thành thấp của họ đã dễ dàng xâm nhập thị trường các nước
đang phát triển do đánh đúng vào tâm lý thích sử dụng hàng giá rẻ của đại bộ
phận người dân các nước này. Tuy vậy,khi phát triển đến một mức nhất
định,có đủ tiềm lực để phát triển thì ngành cơng nghiệp điện tử của Trung
Quốc đang chuyển dần sang các mặt hàng cao cấp hơn,có thể mang lại lợi
nhuận cao hơn,nhưng họ luôn chú trọng đến gắn kết sản xuất với nhu cầu thị
trường nhằm gặt hái thành công.
3. Hệ thống phân phối,dịch vụ
Trong thời đại kinh tế thị trường ngày nay,vai trò của hệ thống phân phối
đặc biệt quan trọng trong việc tiêu thụ quảng bá,khuyêch trương thương hiệu
15
hàng hóa. Đặc biệt là với loại mặt hàng điện tử-loại mặt hàng khá phức tạp,có
những đặc tính kĩ thuật nên cần sự hỗ trợ của hệ thống bán hàng,hệ thống dịch
vụ sau bán hàng như hậu mãi,lắp đặt,bảo hành.
Hiện nay,đa số các nhà sản xuất nhường lại việc phân phối hàng hóa cho
các nhà phân phối chuyên nghiệp,để có thể tập trung vào sản xuất,tuy
nhiên,quan hệ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối là hết sức chặt chẽ có ảnh
hưởng qua lại và là sự quyết định đến sự thành cơng của sản phẩm trên thị
trường. vẫn có những trường hơp mà các nhà sản xuất hàng điện tử tự mình tổ
chức các hệ thống phân phối sản phẩm riêng của mình,nhưng là số ít,và phải
là những thương hiệu lớn,có tên tuổi then thị trường.
Việc lựa chọn nhà phân phối chính xác sẽ giúp sản phẩm dễ dàng chiếm
lĩnh thị trường,mở rộng thương hiệu,tuy nhiên đây là một việc hết sức khó
khăn,thường thì các nhà sản xuất sẽ lựa chọn ở mỗi quốc gia một nhà phân
phối chính thức để đảm bảo sự nhất quán về các chính sách marketing,hệ
thống phân phối sẵn có,có uy tín và kinh nghiệm trên thị trường nội địa,có thể
dễ dàng đưa sản phẩm mới đến tay người tiêu dùng. Hệ thống bán lẻ là nhân
tố cuối cùng của hệ thống phân phối,tiếp xúc trực tiếp với người mua nên cần
thường được chú trọng đầu tư với đội ngũ nhân viên bán hàng chun
nghiệp,đặc biệt am hiểu về loại hàng hóa của mình bán ra,điều này sẽ dễ dàng
chiếm được long tin của khách hàng,thúc đẩy quá trình quyết định mua hàng
của khách hàng diễn ra nhanh hơn. Đối với từng loại sản phẩm thì nhà sản
xuất và nhà phân phối thực hiên các chiến lược marketing khác nhau,với các
sản phẩm điện tử tiêu dùng,thì áp dụng các hình thức quảng cáo qua các
phương tiện thơng tin đại chúng: truyền hình,báo chí,quảng cáo ngồi trời…
Đối với những loại hàng hóa cao cấp,đặc chủng như: các thiết bị sản xuất, hệ
thống thông tin liên lạc,các loại máy chủ… thì hình thức bán hàng cá nhân sẽ
được áp dung.
16
Ngồi ra,việc hình thành các hệ thống bán hàng,với các chuỗi cửa hàng điện
tử chuyên dụng tiện lợi bán nhiều loại mặt hàng với nhiều dải chọn lựa cũng
là biểu hiện của sự chuyên nghiệp dần của quá trình phân phối.
Một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định mua hàng
của khách hàng chính là chính sách bảo hành của nhà sản xuất,loại hình hàng
điện tử là loại sản phẩm cao cấp có nhiều tính năng khá phức tạp,khách hàng
thường lo sợ có sự cố,trục trặn xảy ra và luôn quan tâm đến chế độ hậu
mãi,bảo hành của doanh nghiệp. Có thể nói,một laoij sản phẩm điện tử khơng
thể tiêu thụ được nếu như khơng có chính sách bảo hành hợp lý. Hiện tại trên
thị trường hàng điện tử thế giới có 2 phương thức bảo hành chính là:
+ Phương thức thứ nhất: nhà sản xuất tự duy trì hệ thống bảo hành tại các thị
trường,như vậy khách hàng sẽ yên tâm khi mua hàng vì hàng hóa của mình sẽ
được bảo hành bởi chính nhà sản xuất,tạo dựng thương hiệu.. nhưng điểm bất
lợi là nhà sản xuất không tập trung nguồn lực vào sản xuất,và tại mỗi thị
trường phải có chi nhánh chuyên bảo hành,việc quản lý sẽ thêm khó khăn,chỉ
những tập đồn cực lớn mới có thể thực hiện được. Hiện tại thì HP là tập đoàn
đang thực hiện chế độ bảo hành này với chế độ bảo hành tồn cầu,đây chính
là một cơng cụ cạnh tranh rất mạnh của HP mà không phải nhà sản xuất nào
cũng có thể dễ dang có được
+ Phương thức thứ hai: đây là phương thức được áp dụng phổ biến,các nhà
phân phối sẽ là người phụ trách bảo hành cho sản phẩm,nhà sản xuất sẽ trích
số phần trăm nhất định cho hệ thống bảo hành của nhà phân phối để tiến hành
công việc bảo hành sản phẩm cho khách hàng. Ưu điểm của phương pháp này
là các nhà sản xuất có thể tập trung vào sản xuất,khơng phải phân tán nguồn
lực cho hệ thống bảo hành nhưng địi hỏi nhà phân phối phải có nguồn nhân
lực có trình độ,đủ đảm đương trách nhiệm với khách hàng, nhược điểm chính
là nếu trình độ của nhà phân phối yếu kém thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới
thương hiêu hàng hóa và của nhà sản xuất vì vậy sẽ vẫn phải có sự hỗ trợ kỹ
17
thuật,giám sát đánh giá của nhà sản xuất về chất lượng dịch vụ bảo hành và
phản hồi từ phía khách hàng.
4. Chính sách phát triển của Nhà Nước
Chính sách của Nhà nước về phát triển ngành hàng điện tử là nhân tố có ảnh
hưởng tươn đối quan trọng với các nhà sản xuất và xuất nhập khẩu loại hình
mặt hàng này. Nó ảnh hưởng đến mơi trường pháp luật và sự hỗ trợ của nhà
nước tới các dự án đầu tư, thuế,nguồn cung nhân lực,thị trường…Trong đó
anh hưởng to lớn nhất đối với nhà sản xuất và cả hệ thông phân phối là chính
sách thương mại của Nhà Nước có khuyến khích phát triển ngành hàng điện
tử hay khơng,chính sách mở của thị trường. Nếu Nhà nước coi ngành công
nghiệp điện tử là ngành cơng nghiệp chủ chốt thì sẽ có rất nhiều thuận lợi đối
với các nhà đầu tư và hệ thống phân phối vì,các điều kiện phục vụ sản xuất sẽ
được đáp ứng đầy đủ,đặc biệt là về nguồn nhân lực chất lượng cao,trong
những năm đầu thường thì các dự án đầu tư sẽ được hưởng ưu đãi vê thuế,đây
là một thuận lợi không nhỏ với các nhà đầu tư,các chính sách ưu đãi sẽ thu
hút các nhà đầu tư rót vốn vào thị trường và giúp phát triển nền kinh tế,đưa
đất nước phát triển đi lên. Chính sách phát triển ngành công nghiệp điện tử sẽ
định hướng phát triển của cả ngành,những dự án đi theo định hướng này sẽ
gặp thuận lợi hơn.
Ngồi chính sách về phát triển ngành cơng nghiệp điện tử ra thì cịn có nhưng
chính sách khác như chính sách chung về thương mại,chính sách đầu tư…
18
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HÀNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM
1. Đặc điểm của thị trường
Do đang ở giai đoạn phát triển ban đầu nên thị trường hàng điện tử Việt
Nam mang đầy đủ những đặc điểm thụ động của một nền sản xuất nhận
chuyển giao công nghệ. Hiện tại các nhà sản xuất nội địa chưa thể sáng tạo
phát minh công nghệ mà mới chỉ gia công các sản phẩm mà thôi,các nhà máy
sản xuất các thiết bị,linh kiên điện tử hiện đại vơi công nghệ hàng đầu đã có
mặt tại Việt Nam tuy nhiên đều là các nhà sản xuất nước ngoài.
Về tốc độ phát triển của thị trường,trong những năm gần đây,Việt Nam đã
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế mà đỉnh cao là gia nhập tổ chức thương mại
thế giới-WTO,giao lưu buôn bán hàng hóa với các nước trên thế giới tăng
mạnh,mặt hàng điện tử khơng phải là ngoại lệ,vì vậy người dân có cơ hội tiếp
xúc,tiêu dùng các mặt hàng này ngày càng nhiều. Với việc hàng điện tử ngày
càng giảm giá ,mức giá hàng nhập khẩu trong nước không cao hơn nhiều so
với hàng nước ngồi do có sự cạnh tranh và đời sống nhân dân tăng cao đã
khiến sức tiêu thụ tăng mạnh. Tổng giá trị thị trường bán lẻ hàng điện tửCNTT năm 2007 ước tính đạt 3,1 tỷ đơ-la Mỹ, tăng 29,2% so với cùng kỳ
năm ngối và cao hơn mức dự đoán của GfK là 3 tỷ đơ-la. Đặc biệt, nếu tính
đến cả yếu tố giảm giá của sản phẩm thì thị trường tăng trưởng cịn nhanh
hơn. Điều này diễn ra là nhờ giá nhiều nhóm hàng này trong những năm qua
đã liên tục giảm, mở rộng cơ hội tiêu dùng đồng thời thúc đẩy thị trường phát
triển nhanh hơn.
19
Gần 17 triệu sản phẩm ước tính được tiêu thụ trong năm nay so với năm trước
là 13,4 triệu. Doanh thu hai nhóm hàng điện tử tiêu dùng và CNTT tăng đến
43%, tương đương 641 triệu và 700 triệu đô-la. Trong 700 triệu đơ-la chi tiêu
cho sản phẩm CNTT, có đến 83% dành cho máy tính các loại. Đáng chú ý là
có hơn sáu triệu chiếc điện thoại di động được tiêu thụ trong năm nay so với
4,4 triệu hồi năm ngoái, tăng 37%. Mặt hàng này dù dẫn đầu về doanh số với
910 triệu đô-la, nhưng chỉ tăng 16% so với năm trước. Về nhóm hàng gia
dụng và máy ảnh kỹ thuật số, doanh thu tăng 25% và 26%, đạt 772 triệu và 61
triệu đơ-la.
GfK Vietnam, dự đốn thị trường bán lẻ các sản phẩm nói trên sẽ tiếp tục tăng
trưởng khả quan vào năm 2008 với doanh thu 3,9 tỷ đô-la, tương đương 21
triệu sản phẩm các loại. Trong đó dẫn đầu vẫn là điện thoại với xấp xỉ 9 triệu
chiếc, kế tiếp là ti-vi màn hình phẳng với hơn 2,4 triệu chiếc.
GfK cũng ước tính năm nay mỗi người dân Việt Nam chi tiêu 36,2 đô-la cho
các sản phẩm này (năm 2006 khoảng 28,4 đô-la). Chi tiêu cho điện thoại vẫn
dẫn đầu với hơn 10,7 đô-la ; cho hàng gia dụng 9 đô-la ; sản phẩm CNTT 8,2
đô-la và hàng điện tử là 7,5 đô-la. Người Hà Nội dẫn đầu chi tiêu với 186 đôla, TP.HCM 148 đô-la và Đà Nẵng là 117 đô-la. Chỉ số này cũng cho thấy sự
chênh lệch về tiêu dùng giữa vùng nơng thơn và thành thị cịn khá cao.
Cuộc nghiên cứu của GfK cũng cho thấy người tiêu dùng đang dần chuyển
sang lựa chọn những sản phẩm có giá trị lớn, cơng nghệ cao hơn và nhiều tiện
ích hơn. Có đến 85% điện thoại được tiêu thụ là sản phẩm tích hợp camera.
Khoảng 65% ti-vi được tiêu thụ là loại trên 21 inch, loại dưới 21 inch chỉ
chiếm 4%, trong khi năm trước đến 10%. Ti-vi màn hình lớn (LCD và
plasma) là sản phẩm dẫn đầu về mức tăng trưởng và ở mức cao nhất từ trước
đến nay với 191%. Sở dĩ mức tăng trưởng cao như vậy là nhờ giá giảm khá
nhanh. Tính từ tháng 6-2006 đến tháng 6-2007, mức giá sản phẩm này đã
20
giảm đến 70%. Một chiếc ti-vi LCD tháng 6-2006 khoảng 1.980 đơ-la thì đến
tháng 6-2007 chỉ cịn 1.148 đơ-la, tương tự như vậy, ti-vi plasma giảm từ
2.116 đơ-la cịn 1.470 đô-la.
Trong vài năm tới, những mặt hàng tiêu dùng cơ bản vẫn là dòng sản phẩm
chủ đạo trên thị trường, nhưng những dòng sản phẩm cấp cao hơn như LCD,
máy tính xách tay, điện thoại đa phương tiện sẽ đạt mức tăng trưởng cao. GfK
cũng dự báo giá các mặt hàng sẽ tiếp tục giảm do công nghệ thay đổi, kênh
phân phối phát triển và mức độ cạnh tranh ngày càng cao.
Kênh phân phối sẽ phát triển nhanh hơn
Những yếu tố cơ bản kích thích thị trường tăng trưởng nhanh hơn là thị
trường Việt Nam đang thay đổi và thị hiếu tiêu dùng cũng thay đổi. Dân
chúng ngày càng có sự lựa chọn đa dạng, có nhiều kinh nghiệm về sản phẩm,
sự hiểu biết về các tiện nghi tiêu dùng và thu nhập ngày càng gia tăng.
Các chuyên gia GfK cũng dự báo thị trường vẫn còn nhiều cơ hội cho tất cả
các nhà cung cấp, nhưng cũng có hàng loạt thách thức trong hoạt động bán lẻ
và cạnh tranh. Trước hết, các chỉ số nghiên cứu của GfK cho thấy khoảng
cách tiêu dùng giữa nông thôn và thành thị khá lớn sẽ là yếu tố tác động lớn
đến chính sách bán hàng của các doanh nghiệp, khoảng cách này càng lớn thì
thách thức càng cao : Làm sao để kênh bán lẻ phủ rộng trong khi vẫn bảo đảm
được lợi nhuận, giữ tốc độ tăng trưởng tỷ lệ thuận với giá trị tăng trưởng.
Lee Risk, chuyên gia của GfK Asia, nhận định sự chuyển dịch tiêu dùng đang
diễn ra khá mạnh mẽ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và Việt Nam
khơng nằm ngồi xu hướng đó. Trong tương lai, hiệu quả kinh doanh và mức
lợi nhuận phụ thuộc khơng chỉ vào doanh số của phần cứng mà cịn từ các
tính năng và dịch vụ đi kèm. Vì thế, thách thức cho thị trường công nghệ Việt
Nam là phát triển cân bằng giữa phần cứng và phần mềm – dịch vụ. Các
21
chuyên gia cũng khuyến khích các doanh nghiệp bán lẻ ứng dụng cơng nghệ
để quản lý hệ thống của mình có hiệu quả hơn
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HÀNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM TRONG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.Quy mô và tốc độ phát triển
Tăng trưởng cao, lợi nhuận thấp
Nở rộ đầu tư nước ngoài
Theo thống kê, kim ngạch XK các mặt hàng điện tử của Việt Nam đã vượt
qua mốc 1 tỷ USD/năm: Năm 2005, đạt XK 1,04 tỷ USD; năm 2006 đạt 1,23
tỷ USD và tính đến hết tháng 11-2007 đạt 1,96 tỷ USD. Theo dự báo của Bộ
Cơng Thương, doanh số XK của nhóm hàng này trong năm 2007 có khả năng
đạt 2,2 tỷ USD và được xếp hàng thứ 6 trong nhóm các sản phẩm XK của
nước ta. Mặc dù những con số “ấn tượng” này cho thấy mức tăng trưởng
CNĐT trong 3 năm qua khá tốt, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng, giá trị XK
của nhóm hàng điện tử chủ yếu tập trung trong khối DN liên doanh với nước
ngoài như Hanel, Panasonic hoặc các DN có 100% vốn nước ngồi như
Canon, Fujitsu...
Chỉ trong vịng 3 năm qua, hàng chục DN nước ngồi đã tìm kiếm cơ hội đầu
tư vào Việt Nam trong lĩnh vực CNĐT và thực tế họ đã rất thành công khi sản
lượng XK mỗi năm đạt hàng trăm triệu USD. Theo thống kê của Hội Tin học
Việt Nam, chỉ tính riêng trong năm 2006, Canon XK đạt 650 triệu USD còn
Fujitsu khoảng 500 triệu USD. Nhóm các cơng ty liên doanh có tên tuổi như
Hanel, Panasonic hoặc nhóm các cơng ty của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Trung Quốc, Mỹ… có nhà máy tại khu chế xuất hoặc khu công nghiệp, chiếm
khoảng vài trăm triệu USD.
22
Theo Hiệp hội Các doanh nghiệp điện tử Việt Nam, năm 2007, ngành CNĐT
Việt Nam đang có nhiều nhà đầu tư nước ngoài mới như Foxcon (thuộc tập
đoàn HonHai), Compaq… Dự báo, khi Intel chính thức đi vào sản xuất (nhà
máy đặt tại khu công nghệ cao TPHCM), trị giá XK sẽ cịn cao hơn nữa, có
thể đạt ngưỡng vài chục tỷ USD/năm.
Doanh nghiệp trong nước “bí” lối ra
Khác với các DN có vốn đầu tư nước ngồi, số các DN trong nước sản xuất
hàng điện tử XK rất ít và giá trị XK cũng chiếm không quá 10% so với tổng
giá trị tồn ngành. Những DN trong nước có hàng XK như Cơng ty
Viettronics Tân Bình (VTB) chun sản xuất linh kiện tivi, Cơng ty Điện tử
Bình Hịa thuộc Tổng Công ty cổ phần Điện tử và Tin học Việt Nam (VEIC)
chuyên gia công các sản phẩm điện tử dành cho xe hơi hay một số DN vừa và
nhỏ khác chuyên về các loại linh kiện như bộ biến áp đèn dành cho ampli,
loa...
Điều đáng nói là các DN này chỉ thuần túy ký hợp đồng nhỏ lẻ với đối tác
nước ngồi để đem hàng về gia cơng, lắp ráp. Đơn cử, Cơng ty Viettronics
Tân Bình được xem là DN năng nổ khi mang sản lượng XK đến khu vực
Đông Nam Á tương đối khá cũng chỉ đạt 3,4 triệu USD/năm và chủ yếu là gia
công; tăng trưởng hàng năm ở mức 5%.
Ơng Ngơ Quang Vị, Giám đốc VTB cho rằng, hạn chế và khó khăn lớn nhất
của CNĐT trong nước là công nghệ, kỹ thuật sản xuất quá kém. “Mặt khác
chúng ta xây dựng thương hiệu chưa tốt, lại là thị trường độc lập nên rất khó
khi mang sản phẩm XK ra các nước”. Nhiều DN sản xuất CNĐT cịn cho biết,
ngồi năng lực bị hạn chế, CNĐT trong nước đang phải đối mặt với sản phẩm
cùng loại của Trung Quốc với giá rẻ hơn nhiều.
23
Đồng quan điểm trên, một số chuyên gia cũng cho rằng, nhược điểm của
CNĐT Việt Nam là chưa xây dựng được những DN phụ trợ để tăng giá trị nội
địa hóa.
Như vậy, theo kế hoạch tổng thể phát triển CNĐT Việt Nam đến 2010 và tầm
nhìn đến năm 2020, mục tiêu đến năm 2010 sẽ đạt doanh số khoảng 4 - 6 tỷ
USD và kim ngạch XK 3 - 5 tỷ USD, đạt tốc độ tăng trưởng 20% - 30%/năm,
sẽ khơng q khó. Vấn đề đặt ra là các DN trong nước cần có biện pháp nâng
cao chất lượng, giảm giá thành, cải thiện mẫu mã, tăng cường tính năng sản
phẩm để đạt được giá trị gia tăng cao nhằm tăng thị phần và thị trường trong
nước cũng như XK. Có như thế, may ra kim ngạch XK mới thu về lợi nhuận
cao cho ngành CNĐT Việt Nam.
Việt Nam – Trung tâm thu hút đầu tư nước ngoài lớn trong lĩnh vực điện tử
Theo Hiệp hội DN Điện tử Việt Nam, kể từ khi Việt Nam trở thành thành
viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đến nay đã có nhiều dự án lớn
đầu tư vào lĩnh vực điện tử với số vốn khoảng 3 tỷ USD. Có thể nói Việt Nam
đang trở thành một trung tâm thu hút đầu tư nước ngoài lớn trong lĩnh vực
điện tử.
Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO thì Tập đoàn Intel ( Mỹ)
đã nâng vốn đầu tư từ 600 triệu USD lên 1 tỷ USD. Tiếp đến là Tập đoàn
Nidec (Nhật Bản) cũng đầu tư 1 dự án tại Bình Dương với số vốn 1 tỷ USD
sản xuất đầu đọc quang học dùng cho đầu DVD, VCD và môtơ siêu nhỏ dùng
trong máy ảnh, máy in... Tập đoàn Foxconn (Đài Loan) đầu tư vào Việt Nam
tổng vốn 5 tỷ USD, trong đó riêng sản xuất linh kiện điện tử khoảng 1 tỷ
USD. Ngồi ra cịn Tập đồn Meikom (Nhật Bản) đầu tư 300 triệu USD sản
xuất linh kiện điện tử tại Hà Tây...
24
Bộ Kế Hoạch và Đầu tư cũng cho biết, sắp tới sẽ cấp phép đầu tư cho Tập
đoàn Samsung (Hàn Quốc) vào Khu công nghiệp huyện Yên Phong (Bắc
Ninh) với số vốn 650 triệu USD sản xuất linh kiện điện tử.
Có thể nói Việt Nam đang trở thành một trung tâm thu hút đầu tư nước ngoài
lớn trong lĩnh vực điện tử. Rất nhiều các tập đoàn lớn với những dự án quan
trọng, vốn đầu tư lớn đã đổ vào Việt Nam. Hiện các doanh nhân trong lĩnh
vực điện tử của Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn đang đổ về Việt Nam để
tìm kiếm cơ hội đầu tư và thời gian tới sẽ còn nhiều dự án lớn được cấp phép
trong lĩnh vực này.
Tổng Thư ký Hiệp hội DN Điện tử Việt Nam, đang có xu hướng chuyển các
nhà máy sản xuất linh kiện điện tử từ Trung Quốc và các nước trong khu vực
Đông Nam Á sang Việt Nam. Với lý do, Việt Nam hiện có quỹ đất lớn với
nhiều vị trí đẹp, thuận lợi cho sản xuất điện tử và giá cơng nhân rẻ. Bên cạnh
đó sản xuất điện tử được coi là lĩnh vực công nghệ cao nên Việt Nam có các
chính sách ưu đãi lớn. Trong khi đó tại các nước như Trung Quốc, Malaysia...
giá th đất, giá nhân cơng tăng vì vậy Việt Nam trở nên có lợi thế.
Tất cả các dự án đầu tư vào lĩnh vực điện tử thời gian qua và tới đây đều là
sản xuất linh kiện. Điều này sẽ làm cho công nghiệp phụ trợ của ngành điện
tử nở rộ trong những năm tới, góp phần thúc đẩy sự phát triển ngành công
nghiệp điện tử Việt Nam. Lúc đầu các sản phẩm sản xuất chủ yếu để xuất
khẩu, nhưng khi các DN trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cần
thì có thể sử dụng ngay tại chỗ. Bên cạnh đó với việc sử dụng nhiều nhân
cơng, sẽ tạo điều kiện để Việt Nam có được đội ngũ lao động trong ngành
điện tử được đào tạo. Đây chính là những hiệu quả to lớn mà đầu tư nước
ngoài mang lại.
Tuy nhiên đầu tư vào nhiều, nhưng chủ yếu các DN này chỉ sử dụng đất đai
và lao động tại Việt Nam là chính. Việc sử dụng các nguyên vật liệu tại chỗ
25