Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

thực trạng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa việt nam và cămpuchia trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.55 KB, 91 trang )

Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia muốn phát triển kinh tế đều
phải thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với thế giới bên ngoài. Xu hướng
hội nhập và liên kết kinh tế đã trở thành động lực thúc đẩy của quan hệ quốc
tế. Các nước dù mạnh hay yếu đều có xu thế liên kết với nhau để đối phó với
những thách thức và cạnh tranh quyết liệt về kinh tế, thương mại. Quan hệ
thương mại Việt Nam-Cămpuchia cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Với bề dày hơn 40 năm quan hệ ngoại giao, đã từng ủng hộ, giúp đỡ lẫn
nhau trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, trong thời kì mới, Việt Nam và
Cămpuchia càng tăng cường và củng cố tình đoàn kết hữu nghị để đưa mối
quan hệ láng giềng truyền thống tốt đẹp giữa hai nước lên một tầm cao mới vì
lợi ích của nhân dân hai nước và góp phần tích cực cho hoà bình, ổn định và
hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới.
“Bán anh em xa, mua láng giềng gần” là câu ngạn ngữ rất quen thuộc
của ông cha ta để lại. Câu nói giản dị ấy không những có ý nghĩa to lớn trong
mối quan hệ cộng đồng “tình làng, nghĩa xóm”, mà ở một phương diện nào đó
nó còn mang cả ý nghĩa hợp tác quốc gia, quốc tế. Có tạo được mối quan hệ
tốt đẹp nhiều mặt trong đó có quan hệ thương mại với những nước láng giềng, ta
mới có điều kiện vững chắc để vươn tới những thị trường xa hơn, rộng lớn hơn.
Xuất phát từ những nhận thức đó, em đã chọn đề tài “Thực trạng và
giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Cămpuchia trong
thời gian tới” làm luận văn tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên
cơ sở trình bày một số hiểu biết có tính khái quát về đất nước Việt Nam và
Cămpuchia, nghiên cứu thực trạng và hiệu quả hoạt động thương mại giữa hai
nước trong thời gian qua để từ đó đề xuất một số kiến nghị giải pháp nhằm
tăng cường phát triển quan hệ thương mại giữa hai vì sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh hạnh phúc.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Quan hệ thương mại giữa Việt Nam
và Cămpuchia.
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 1


Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu mối quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Cămpuchia trong thời gian từ năm 2000 đến nay.
Kết cấu luận văn tốt nghiệp gồm có ba chương:
Chương1: Tổng quan về thương mại quốc tế
Chương 2: Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam-Campuchia
trong thời gian qua
Chương 3: Triển vọng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại
giữa Việt Nam-Cămpuchia trong thời gian tới.

Sinh viên: Koy ChanVichea Page 2
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm, chức năng và nhiệm vụ của thương mại quốc tế
1.1.1. Khái niệm
Thương mại quốc tế là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch
vụ vượt biên giới một quốc gia, thông qua các hoạt động xuất, nhập khẩu.
Theo cách định nghĩa này, trong hoạt động thương mại quốc tế bao gồm: Hoạt
động xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài và hoạt động
nhập khẩu là việc mua hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài.
Hoạt động thương mại quốc tế bao gồm: thương mại hàng hóa hữu hình
(như: xe hơi, máy móc, quần áo, nguyên, nhiên, vật liệu…)Thương mại hàng
hóa vô hình (như: bằng phát minh, dịch vụ )
Thương mại quốc tế là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời, tuy quy mô
lúc đó còn nhỏ bé. Thương mại quốc tế chỉ thực sự phát triển trong thời đại tư
bản chủ nghĩa và trở thành động lực phát triển quan trọng của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ngày nay, thương mại quốc tế không chỉ là quan hệ mua bán với bên
ngoài mà còn cùng với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác giúp một quốc gia,

vùng lãnh thổ tham gia vào phân công lao động quốc tế và khu vực.
1.1.2. Chức năng
Chức năng thương mại quốc tế được xem xét dưới hai khía cạnh như
sau:
Một là, thương mại quốc tế là một lĩnh vực kinh tế đảm nhận khâu lưu
thông hàng hóa giữa trong nước và nước ngoài. Trên khía cạnh này chức năng
cơ bản của thương mại quốc tế là: Tổ chức quá trình lưu thông hàng hóa với
bên ngoài , thông qua mua bán, làm cho thị trường trong nước gắn với thị
trường bên ngoài. Trên cơ sở đó, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng sản xuất và tiêu
dùng của các tổ chức, cá nhân về hàng hóa, dịch vụ theo số lượng, chất lượng,
mặt hàng địa điểm và thời gian phù hợp.
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 3
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
Hai là, thương mại quốc tế là một khâu trong quá trình tái sản xuất xã
hội quốc tế. Xét dưới khía cạnh này, thương mại quốc tế có thế có chức năng
như sau:
- Thương mại quốc tế tạo vốn cho quá trình gia tăng vốn đầu tư trong nước.
- Thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa, dịch vụ được tạo ra
trong lĩnh vực sản xuất của các nước.
- Góp phần tăng trưởng nền kinh tế.
1.1.3. Nhiệm vụ
Thương mại quốc tế có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Một là, nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ này được thực hiện thông qua các hoạt
động xuất, nhập khẩu, gia công thuê cho nước ngoài… Bởi vì, khi tham gia
trao đổi trên thị trường thế giới, nền kinh tế của một nước phải chấp nhận
cạnh tranh trên thị trường nên phải tính toán sao cho có lãi, phải ứng dụng tiến
bộ kỹ thuật, công nghệ, cải tiến quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm,
giảm chi phí, giá thành sản phẩm, nghĩa là phải làm ăn có hiệu quả.
Hai là, góp phần giải quyết vốn, công ăn, việc làm, sử dụng tài nguyên

một cách có hiệu quả. Thông qua hoạt động xuất khẩu, hàng hóa, dịch vụ
được tiêu thụ sẽ tạo thêm việc làm cho người dân trong nước, khai thác nguồn
tài nguyên một cách có kế hoạch và hợp lý phục vụ cho xuất khẩu, qua đó có
thêm nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
Ba là, thương mại quốc tế, thông qua hoạt động nhập khẩu, có điều kiện
tiếp cận đến các nguồn công nghệ tiên tiến, hiện đại và nhất là có thể tiếp nhận
những công nghệ phù hợp cho sự phát triển của sản xuất, nhất là phục vụ cho
xuất khẩu…
1.2. Chính sách thương mại quốc tế
1.2.1. Khái niệm
Chính sách thương mại quốc tế là một phần của chính sách kinh tế đối
ngoại, là hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc và các công cụ, biện
pháp thích hợp mà chính phủ một nước sử dụng để điều chỉnh các hoạt động
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 4
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
thương mại quốc tế của nước mình trong từng thời kỳ cho phù hợp với định
hướng đã định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia được thay đổi cho phù
hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng thời kỳ. Tuy nhiên,
chính sách thương mại quốc tế có chức năng chung là điều chỉnh các hoạt
động thương mại quốc tế của mỗi nước theo chiều hướng có lợi cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước đó. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, tạo điều kiện thuận lợi để khai thác triệt để lợi thế của nền
kinh tế đất nước, giúp cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường bên ngoài,
tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động và mậu dịch quốc tế.
Thứ hai, bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh tế quốc tế.
Để thực hiện các nghiệm vụ trên chính sách thương mại của một quốc
gia bao gồm các bô phận cơ bản như: chính sách mặt hàng xuất nhập khẩu,
chính sách thị trường (bao gồm mở rộng, xâm nhập thị trường mới, xây dựng

thị trường trọng điểm) và chính sách hỗ trợ, (bao gồm các chính sách tác động
gián tiếp đến hoạt động thương mại quốc tế như: chính sách đầu tư, chính sách
tin dụng, giá cả, tỷ giá hối đoái ).
Nhìn chung, chính sách thương mại quốc tế là một bộ phận của chính
sách kinh tế - xã hội của nhà nước, có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự
phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
1.2.2. Các chính sách thương mại quốc tế
 Chính sách tự do thương mại: là chính sách mà trong đó nhà nước
không can thiệp trực tiếp vào quá trình điều tiết thương mại quốc tế. Với
chính sách này, thị trường nội địa được mở cửa hoàn toàn, tạo điều kiện thông
thương trong và ngoài nước.
Đặc điểm của chính sách này là nhà nước không sử dụng các công cụ
điều tiết xuất, nhập khẩu, quá trình xuất nhập khẩu được tiến hành một cách tự
do theo sự điều tiết của các quy luật kinh tế khách quan.
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 5
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
Ưu điểm của chính sách này thể hiện ở những điểm sau: hàng hóa được
lưu thông tự do, quá trình cạnh tranh tự do giúp nâng cao chất lượng, hạ giá
hàng hóa, thỏa mãn nhu cầu hàng hóa cho người tiêu dùng.
Nhược điểm của chính sách thể hiện ở chỗ thị trường dễ bị xáo trộn và
dễ bị lệ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị bên ngoài. Một khi các nhà sản
xuất trong nước chưa đủ mạnh thì dễ bị phá sản.
 Chính sách bảo hộ thương mại: là chính sách nhà nước sử dụng
các biện pháp để bảo vệ thị trường nội địa, nâng đỡ các nhà kinh doanh trong
nước bành trường ra thị trướg ngoài nước.
Đặc điểm của chính sách này là nhà nước sử dụng các biện pháp thuế
quán và phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu, nhà nước nâng đỡ các nhà sản
xuất nội địa bằng cách giảm thuế xuất khẩu, thuế lợi tức, phá giá đồng nội tệ,
trợ cấp xuất khẩu
Ưu điểm của chính sách này là giảm bớt sức cạnh tranh của hàng nhập

khẩu, bảo hộ nhà sản xuất trong nước, giúp họ nâng cao khả năng cạnh tranh,
giúp nhà xuất khẩu nâng cao khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường bên
ngoài.
Nhược điểm của chính sách này gây tổn thương cho thương mại quốc
tế, nền kinh tế có thế bị cô lập với bên ngoài, làm gia tăng sự bảo thủ trì trệ
của các nhà sản xuất trong nước, khiến họ chậm cải tiến gây thiệt hại cho
người tiêu dùng, bởi hàng hóa kém đa dạng về mẫu mã, giá thánh sản phẩm
cao
1.2.3. Chính sách thương mại của các nước kém phát triển
 Chính sách “đóng cửa” kinh tế: Những nước kém phát triển sau
khi giành độc lập dân tộc vào những năm 50 của thế kỷ XX đã thực hiện chính
sách “đóng cửa” kinh tế bởi vì các lý do sau:
- Các nước này muốn có nền kinh tế tự lực cánh sinh, độc lập.
- Do ảnh hưởng của tư tưởng dân tộc trong cuộc cách mạng dân tộc nên
muốn có nên kinh tế độc lập, không lệ thuộc vào bên ngoài, thể hiện tinh thần
tự lực, tự cường.
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 6
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
- Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, nên các nước
này cũng muốn có nền kinh tế độc lập không có quan hệ rộng rãi với nên kinh
tế bên ngoài để khi xảy ra khủng hoảng kinh tế thế giới nền kinh tế mình sẽ
không bị ảnh hưởng.
Đặc điểm của chính sách này là:
- Nền kinh tế tự đáp ứng các nhu cầu trong nước trên cơ sở sản xuất tất
cả các ngành hàng dù không thuận lợi trong sản xuất mặt hàng đó, mà không
cần nhập khẩu hàng hóa từ bên ngoài.
- Chỉ xuất những gì sau khi trong nước đã thỏa mãn nhu cầu. Nghĩa là
sau khi thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước, nếu hàng hóa đó có dư thừa
mới tiến hành xuất khẩu chứ không phải đặt mục tiêu xuất khẩu hàng hóa đó
ngay từ khi bắt đầu sản xuất.

- Đối với đầu tư nước ngoài, các chính phủ không khuyến khích đầu tư
vốn từ bên ngoài mà chỉ sử dụng hình thức vay vốn.
Ưu điểm của chính sách này là:
- Tốc độ tăng trưởng khinh tế tuy chậm nhưng chắc, chẳng hạn nền
kinh tế Ấn Độ áp dụng mô hình này và có tốc độ tăng trưởng kinh tế trung
bình hành năm khoảng 3,5-4%.
- Nền kinh tế trong nước ổn định ít chịu tác động của nền kinh tế thế
giới như: khủng hoảng tài chính – tiền tệ, khủng hoảng kinh tế, biến động giá
cả năng lượng
- Đảm bảo quyền tự quyết về chính trị , bởi vì nếu kinh tế bị phụ thuộc
cũng dễ dẫn đến bị lệ thuộc về chính trị.
- Nền kinh tế phát triển khá toàn diện nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng
của nền kinh tế. Trong mô hình này, hầu như tất cả các ngành kinh tế đều
được tổ chức, xây dựng cho dù có những ngành không có lợi thế.
Tuy nhiên, chính sách này cũng có những hạn chế như:
- Không phát huy được lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế, dẫn
đến việc tổ chức sản xuất kinh doanh của cả nền kinh tế sẽ bất lợi hơn so với
khi nên kinh tế đó tham gia vào phân công lao động quốc tế.
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 7
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
- Hạn chế khả năng tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật từ bên
ngoài do không có dịp tiếp cận.
- Thiếu vốn ngoại tệ do không xuất khẩu hàng hóa, do vậy nền kinh tế
phải vay vốn ngoại tệ để thỏa mãn nhu cầu phát triển.
- Thất nghiệp có thể gia tăng do không thể phát triển sản xuất khi năng
lực trong nước có giới hạn.
- Sản xuất trong nước với giá đắt do nhập khẩu nguyên liệu, bởi vì
không có một quốc gia nào trên thế giới này có đầy đủ nguồn nguyên liệu
phục vụ cho sản xuất tất cả các mặt hàng, kể cả quốc gia giàu tài nguyên nhất,
chẳng hạn nước Mỹ hàng năm vẫn phải nhập nguyên, nhiên, vật liệu để phục

vụ sản xuất.
 Chính sách “mở cửa” kinh tế: Chính sách mở cửa kinh tế được các
nước áp dụng sau khi thực hiện chính sách đóng cửa không thành công. Chính
sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn đầu
tư và kỹ thuật bên ngoài.
Chính sách này có ưu điểm:
- Đẩy mạnh xuất khẩu nên làm tăng nguồn ngoại tệ.
- Cải thiện cán cân thành toán quốc tế và thu chi tài chính quốc gia.
- Thu hút đầu tư nước ngoài, tạo thêm công ăn việc làm, giảm thất
nghiệp.
- Giúp nền kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế.
- Do cạnh tranh trên thị trường quốc tế nên hàng hóa được nâng cao
chất lượng.
- Khái thác được lợi thế so sánh.
Tuy nhiên, chính sách cũng có những hạn chế nhất định cụ thể như sau:
- Các nước đang phát triển thực hiện chính sách này dễ dẫn đến phụ
thuộc vào bên ngoài.
- Nền kinh tế dễ bị mất cân đối do chỉ tập trung vào sản xuất hàng hóa
xuất khẩu.
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 8
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
- Dễ dẫn đến bất bình đẳng và phân hóa giai cấp. Những ngành sản
xuất hàng xuất khẩu sẽ được lợi, có thu nhập cao hơn những ngành sản xuất
khác.
1.2.4. Các công cụ thực hiện chính sách thương mại
 Thuế quan (tariffs): Thuế quan là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị
hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu của mỗi quốc gia. Như vậy, thuế quan bao
gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu: là thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu, theo
đó người mua trong nước phải trả những hàng hóa nhập khẩu một khoản lớn

mà người xuất khẩu ngoại quốc nhận được.
Thuế xuất khẩu: là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu.
Loại thuế này hiện nay ở các nước phát triển thường không còn áp dụng
nhưng nước đang phát triển vẫn áp dụng nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách
nhà nước.
Thuế quan có thể tính dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn thuế
nhập khẩu tính như sau:
Thứ nhất, thuế tính theo một đơn vị vật chất của hàng hóa nhập khẩu.
Đây là hình thức đơn giản nhất, dễ tính toán, vì nó không phụ thuộc vào
giá cả hàng hóa (do giá thường biên động nên nếu phu thuộc vào giá thì thuế
cũng sẽ biến động).
P = P0 + Tn
Trong đó:
P: là hàng hóa sau khi có thuế nhập khẩu.
P0: là giá nhập khẩu.
Tn :Thuế tính theo đơn vị hàng hóa.
Thứ hai, thuế tính theo giá trị hàng hóa. Đây là loại thuế mà mức thuế
tính theo tỷ lệ % của mức giá hàng hóa trả cho nhà xuất khẩu ngoại quốc.
P = P0 (1+ t)
Trong đó:
P: là hàng hóa sau khi có thuế nhập khẩu.
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 9
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
P0: là giá nhập khẩu.
t : tỷ lệ % thuế đánh vào giá hàng hóa.
Thứ ba, thuế quan hỗn hợp là loại thuế vừa tính theo một tỷ lệ phần
trăm vừa tính theo một đơn vị vật chất của hàng hóa.
Vai trò của thuế quan thể hiện ở những điểm sau:
- Đây là công cụ lâu đời nhất của chính sách thương mại quốc
- Đây là phương tiện truyền thống để tăng nguồn thu ngân sách.

- Bảo vệ thị trường, bảo vệ những ngành công nghiệp còn non trẻ.
- Thuế xuất nhập khẩu cũng là công cụ làm tăng ngân sách và làm tăng
giá hàng xuất khẩu.
 Hàng rào phi thuế quan: Hàng rào phi thuế quan có nghĩa là các
công cụ khác với thuế quan được sử dụng trong chính sách thương mại quốc
tế. Bao gồm các công cụ chủ yếu như sau:
- Hạn ngạch: Đây là một hình thức của hàng rào phi thuế quan. Hạn
ngạch hay hạn chế số lượng được hiểu là quy định của nhà nước về số lượng
cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng được phép xuất hoặc
nhập khẩu từ một thị trường trong một thời gian nhất định, qua hình thức cấp
phép.
Trong thực tế hạn ngạch nhập khẩu là hình thức phổ biến hơn, còn hạn
ngạch xuất khẩu ít được sử dụng (nó tương tự như hạn chế xuất khẩu tự
nguyện). Hạn ngạch nhập khẩu đưa đến hạn chế số lượng hàng hóa nhập khẩu
sẽ gây tác động đến giá cả nội địa của hàng hóa. Do hạn chế nhập khẩu nên
mức tiêu dùng hàng hóa sẽ thấp làm giá cả hàng hóa sẽ cao hơn so với giá
trong điều kiện tự do thương mại. Như vậy, hạn ngạch có tác động giống như
thuế nhập khẩu.
Tuy nhiên, giữa hạn ngạch và thuế quan có sự khác nhau, thể hiện
những điểm như sau:
Thứ nhất, đối với chính phủ và các doanh nghiệp, hạn ngạch sẽ cho họ
biết trước số lượng hàng nhập khẩu. Còn đối với thuế quan thì không thể biết
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 10
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
được điều này vì thuế tác động gián tiếp đến cung cầu hàng hóa, thông qua giá
cả thị trường.
Thứ hai, thuế nhập khẩu sẽ đem lại thu nhập cho chính phủ và không có
tác dụng hỗ trợ cho các thuế khác. Còn hạn ngạch thì lại có thể đưa lại lợi ích
rất lớn cho những người xin được giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch (dẫn
đến hiện tượng tiêu cực là chạy quota).

Thứ ba, hạn ngạch nhập khẩu có thể biến một doanh nghiệp trong nước
thành nhà độc quyền. Còn thuế quan nhập khẩu thì không thể làm cho bất cứ
doanh nghiệp nào có thể lợi dụng thuế quan này để trở thành nhà độc quyền.
Nếu có thuế quan nhập khẩu thì nhà sản xuất trong nước có lợi hơn nhà sản
xuất ngoại quốc và người tiêu dùng trong nước phải chịu giá cao hơn khi tiêu
dùng hàng hóa đó. Vì vậy người ta cho rằng hạn ngạch có tác hại nhiều hơn
thuế quan và là công cụ hạn chế thương mại thiếu công khai. Thuế quan là
công cụ thương mại công khai nhất, dễ nhìn thấy nhất.
Hạn ngạch được xem là công cụ hạn chế thương mại quốc tế chắc chắn
hơn là thuế quan nên các nhà sản xuất nội địa ưa thích hơn, nhưng người tiêu
dùng thì bị thiết hại nhiều hơn vì vừa phải chịu mua giá cao vừa không thỏa
mãn đẩy đủ nhu cầu tiêu dùng do thiếu thốn hàng hóa. Như vậy, các doanh
nghiệp nhận được hạn ngạch sẽ có lợi nhiều nhất chứ không phải là nhà nước,
hay người tiêu dùng. Thông thương người ta quy định hạn ngạch nhập khẩu
cho một số loại sản phẩm đặc biệt hay cho sản phẩm với một thị trường đặc
biệt.
Nhìn chung hạn ngạch hạn chế tự do lưu thông hàng hóa quốc tế nền
điều XI của GATT đã quy định: “Các bêb ký kết không được duy trì hoặc tạo
ra các điều cấm hoặc hạn chế nào khác trừ thuế quan, các khoản thu khác, dù
mang hình thức hạn ngạch, giấy phép xuất hoặc nhập khẩu và các biện pháp
khác bị cấm”.
Thuế quan và hạn ngạch có thể kết hợp thành một công cụ hạn chế
thương mại khác được gọi là hạn ngạch thuế quan. Nước nhập khẩu sẽ đề ra
một mức hạn ngạch nhất định và mức thuế quan thấp đối với mức hạn ngạch
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 11
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
đó. Nhưng khi lượng hàng nhập cao hơn hạn ngạch đó thì nước nhập khẩu sẽ
áp dụng mức thuế quan cao hơn. Loại công cụ này thương áp dụng đối với
hàng nông sản.
- Hạn chế xuất khẩu tự nguyện: Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một

công cụ phi thuế quan của chính sách thương mại mà theo đó, một quốc gia
nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải tự nguyện hạn chế bớt số lượng
hàng hóa xuất khẩu sang nước mình, nếu không họ sẽ áp dụng biện pháp trả
đũa. Khi thực hiện biện pháp xuất khẩu tự nguyện cũng có tác động như một
hạn ngạch xuất khẩu tương đương. Nhưng ở đây cũng có sự khác nhau giữa
hạn ngạch xuất khẩu và hạn chế xuất khẩu tự nguyện ở chỗ: hạn ngạch mang
tính chủ động và thường là biện pháp tự bảo vệ thị trường trong nước hoặc
nguồn tài nguyên trong nước, còn hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang tính
miễn cưỡng và gắn với những điều kiện nhất định. Hình thức này thường
được áp dụng cho các quốc gia xuất khẩu một số mặt hàng nào đó với lượng
quá lớn trên thị trường.
- Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật: Một trong những công cụ
bảo hộ mậu dịch hiện được các nước áp dụng là những quy định về tiêu chuẩn
vệ sinh, an toàn lao động, bảo vệ môi trường sinh thái đối với các máy móc,
thiết bị dây chuyền công nghệ, hàng hóa sản phẩm nhập khẩu, quy định về
kích cỡ, bao bì, mẫu mã được gọi là hàng rào kỹ thuật. Đây là những công cụ
bảo hộ khá tinh vi giúp nâng cao khả năng cạnh tranh cho nước chủ nhà trong
quan hệ thương mại quốc tế. Trong các hiệp định của WTO các Hiệp định về
hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) và Hiệp định về các biện pháp
kiểm dịch (SPS).
- Các biện pháp tài chính phi thuế quan:
Trợ cấp xuất khẩu: Trợ cấp xuất khẩu là các khoản hỗ trợ từ phía
chính phủ cho các khoản thu hay cho giá cả. Trợ cấp xuất khẩu bao gồm các
khoản: Chính phủ trực tiếp cấp vốn, cho vay, góp cổ phần, bảo đảm cho vay,
chính phủ bỏ hay không thu các khoản thu mà doanh nghiệp phải nộp, chính
phủ đóng góp tiền vào một cơ chế tài trợ thu nhập hoặc trợ giá xuất khẩu
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 12
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
Mục đích trợ cấp xuất khẩu là để các doanh nghiệp tăng thu nhập, nâng cao
khả năng cạnh tranh của hàng hóa, từ đó thúc đẩy xuất khẩu. Có hai hình thức

trợ cấp: trực tiếp và gian tiếp. Trợ cấp trực tiếp là chính phủ trực tiếp bù đắp
những thiệt hại của nhà xuất khẩu như áp dụng thuế suất ưu đãi, miễn hoặc
giảm thuế, cho hưởng giá ưu đãi đối với các đầu vào sản xuất như: điện, nước,
vận tải, thông tin, trợ giá xuất khẩu. Trợ cấp gián tiếp là chính phủ dùng ngân
sách nhà nước để xúc tiến xuất khẩu, giới thiệu, quảng cáo, triển lãm, tạo điều
kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu, hoặc nhà nước giúp đỡ hướng dẫn
kỹ thuật sản xuất và đào tạo chuyên gia.
Ngoài tác dụng thúc đẩy xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu còn tác dụng góp
phần phát triển công nghiệp nội địa, điều chỉnh cơ cấu ngành, vùng kinh tế.
Trợ cấp xuất khẩu còn được dùng như một công cụ để mặc cả trong đám phán
quốc tế. Do tính hợp lý nên GATT/WTO đã cho phép các thành viên duy trì
các hình thức trợ cấp không gây khó khăn cho thương mại hoặc không gây
thiết hại đến các thành viên khác. Tuy nhiên, trợ cấp cũng có những mặt tiêu
cực như: bóp méo sự cạnh tranh tự nhiên trong môi trường thương mại tự do,
chi phí cơ hội của trợ cấp rất lớn, không hiệu quả về mặt tài chính vì phải tăng
chi và giảm thu ngân sách, xác suất chọn sai đối tượng trợ cấp khá cao, và dễ
dẫn đến hành động trả đũa của các nước trong xu hướng tự do hóa thương
mại Vì vậy, trợ cấp xuất khẩu cần phải có điều kiện và thời hạn. Mức độ trợ
cấp sẽ phụ thuộc vào các vấn đề sau: chính sách của nhà nước về mặt hàng
được trợ cấp, mức độ cạnh tranh trên thị trường. Xu hướng chính hiện nay là
trợ cấp vẫn còn được duy trì rộng rãi, nhất là đối với các mặt hàng nông sản
phẩm.
- Tín dụng xuất khẩu: Tín dụng xuất khẩu là khoản tín dụng được nhà
nước hoặc doanh nghiệp của nước xuất khẩu cấp cho nhà nước hoặc doanh
nghiệp của nhập khẩu để có điều kiện nhập khẩu hàng hóa của nước xuất
khẩu. Tín dụng xuất khẩu được thực hiện dưới nhiều hình thức như:
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 13
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
- Do nhà xuất khẩu trong nước cấp cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Đối
với loại hình này, nhà nước thường đứng ra bảo lãnh khoản tín dụng này để

hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp.
- Do các cơ quan chính phủ nước xuất khẩu cấp cho nhà nhấp khẩu nước
ngoài.
- Do chính phủ nước xuất khẩu cấp cho chính phủ nước nhập khẩu.
- Do ngân hàng nước xuất khẩu cấp cho nhà nhập khẩu nước ngoài thông
qua nhà xuất khẩu, đây còn gọi là biện pháp chiết khẩu.
Ngày nay, tín dụng xuất khẩu ngày càng được sử dụng rộng rãi, với quy
mô ngày càng lớn và thời hạn ngày cảng dài.
Bán phá giá: Bán phá giá được hiểu là xuất khẩu một hàng hóa nào đó
vào một thị trường với giá bán thấp hơn giá thông thường của hàng hóa đó
trên thị trường nội địa hoặc trên một thị trường so sánh nhằm chiếm lĩnh thị
trường nào đó. Giá trị thông thường bao hàm các nội dung sau:
- Giá đó phải đảm bảo lợi nhuận cho người bán
- Phải bán được một lượng thích đáng (chiếm khoảng 5% khối lượng
xuất khẩu hàng hóa đó trở lên).
- Phải có một lượng người mua độc lập ( chiếm hơn 5% nhà xuất
khẩu).
Thông thường bán phá giá có ba loại
- Bán phá giá liên tục: là bán hàng hóa trên thị trường nước ngoài thấp
hơn so với giá trong nước liên tục trong thời gian dài.
- Bán phá gia bất ngờ: chỉ trường hợp bán phá giá một mặt hàng nào đó
tron thời gian ngắn để cải thiện cán cân thương mại.
- Bán phá giá tiêu diệt: chỉ trường hợp bán phá giá trong thời gian ngắn
để tiêu diệt đối thủ cạnh tranh, sau đó lại phục hồi giá bán thông thương.
1.2.5. Lý thuyết về thương mại quốc tế
1.2.5.1.Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của ADAM SMITH
 Adam smith là người đầu tiên đưa ra sự phân tích có tính hệ thống
về nguồn gốc thương mại quốc tế. Trong tác phẩm nổi tiếng “Của cải của các
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 14
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46

dân tộc” xuất bản lần đầu tiên vào năm 1776, A. Smith đó đưa ra ý tưởng về
lợi thế tuyệt đối để giải thích nguồn gốc và lợi ích của thương mại quốc tế.
Nước A xét trong tương quan với nước B là có hiệu quả hơn (có lợi thế tuyệt
đối) trong việc sản xuất mặt hàng X, và kém hiệu quả hơn (có mức bất lợi
tuyệt đối) trong việc sản xuất mặt hàng Y. Khi đó B là nước có lợi thế tuyệt
đối về mặt hàng Y, và bất lợi tuyệt đối trong sản xuất mặt hàng X. Theo Adam
Smith, nếu mỗi nước tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt
đối, và xuất khẩu mặt hàng này sang nước kia để đổi lấy mặt hàng mà mình có
mức bất lợi tuyệt đối, thì sản lượng của hai mặt hàng sẽ tăng lên, và cả hai
quốc gia đều trở nên sung túc hơn.
Nếu như các tác giả trọng thương cho rằng buôn bán chỉ có lợi cho một
bên tham gia và họ tán đồng cho chính sách bảo hộ mậu dịch, thì A. Smith lại
khẳng định rằng thương mại tự do có lợi cho tất cả các quốc gia, và chính phủ
nên thực hiện chính sách “ không can thiệp” vào hoạt động thương mại quốc
tế nói riêng và hoạt động kinh tế nói chung. Ông cho rằng thương mại tự do sẽ
giúp cho việc phân bổ và sử dụng nguồn lực của thế giới có hiệu quả hơn, từ
đó tạo ra lợi ích cho từng nước tham gia vào hoạt động buôn bán. Ý tưởng về
lợi thế tuyệt đối của Adam Smith có thể được minh họa bằng mô hình thương
mại đơn giản dưới đây.
 Để đơn giản hóa sự phân tích, mô hình thương mại được xây dựng
với những giả thiết sau đây: thế giới chỉ bao gồm hai quốc gia (Việt Nam và
Cămpuchia ) và hai mặt hàng (Thép và Vải ); chí phí vận tải bằng không, lao
động là yếu tố sản xuất duy nhất và được di chuyển tự do giữa các ngành sản
xuất trong nước, nhưng không di chuyển được giữa các quốc gia, cạnh tranh
hoàn hảo tồn tại trên tất cả các thị trường.
Trong điều kiện tự cung tự cấp, mỗi nước tự sản xuất hai mặt hàng để
tiêu dùng trong nước. Số lượng lao động cần ở mỗi nước để sản xuất mỗi một
đơn vị thép và vải được cho trong bảng 1.1.
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 15
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46

Bảng 1.1: Mô hình giản đơn về lợi thế tuyệt đối
Quốc gia
Giờ công Việt Nam Cămpuchia
Thép 2 6
Vải 5 3

Có thể thấy rằng Việt Nam là nước có hiệu quả cao hơn (lợi thế tuyệt
đối) trong sản xuất thép vì để làm ra 1 đơn vị thép nước này chỉ cần 2 giờ
công (đơn vị) lao động, trong khi Cămpuchia phải cần tới 6 giờ công (đơn vị)
lao động. Ngược lại Cămpuchia có lợi thế tuyệt đối về sản xuất vải vì nước
này chỉ cần 3 giờ công (đơn vị) lao động để sản xuất 1 đơn vị vải trong khi
Việt Nam phải dùng tới 5 giờ công (đơn vị) lao động. Khi đó Việt Nam sẽ tập
trung toàn bộ số lao động của mình để sản xuất thép, còn Cămpuchia thì thực
hiện chuyên môn hóa hoàn toàn trong việc trong việc sản xuất vải, và sau đó
hai nước đem trao đổi một lượng nhất định các mặt hàng này với nhau để đáp
ứng nhu cầu tiều dùng trong nước. Điều này sẽ dẫn tới gia tăng sản lượng thép
và vải toàn thế giới, và mỗi nước có khả năng tiêu dùng nhiều hơn so với
trường hợp tự cung tự cấp.
Thực vậy, giả sử Việt Nam và Cămpuchia mỗi nước có 120 đơn vị lao
động và số lao động đó được chia đều cho hai ngành sản xuất thép và vải.
Trong trường hợp tự cấp tự túc, Việt Nam sản xuất (và tiêu dùng) 30 đơn vị
thép và 12 đơn vị vải, còn Cămpuchia 10 đơn vị thép và 20 đơn vị vải. Sản
lượng của toàn thế giới khi đó bao gồm 40 đơn vị thép và 32 đơn vị vải. Khi
lượng lao động được phân bố lại trong mỗi nước, cụ thể là tất cả 120 giờ công
(đơn vị) lao động ở Việt Nam tập trung vào ngành thép và 120 giờ công (đơn
vị) lao động ở Cămpuchia vào ngành sản xuất vải, thì sản lượng của toàn thế
giới sẽ là 60 đơn vị thép và 40 đơn vị vải. Rõ ràng là nhờ chuyên môn hóa và
trao đổi, sản lượng của toàn thế giới tăng lên không chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 16
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46

tiều dùng của mỗi nước như trong trường hợp tự cấp tự túc, mà còn dôi ra một
lượng nhất định.
Vì vậy mỗi nước có thế tăng lượng tiều dùng cả hai mặt hàng và sau đó
trở nên sung túc hơn.
1.2.5.2. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
 Nếu như khái niệm lợi thế tuyệt đối được xây dựng trên cơ sở sự khác
biệt về số lượng lao động thực tế được sử dụng các quốc gia khác nhau (hay
nói cách khác, sự khác biệt về hiệu quả sản xuất tuyệt đối ), thì lợi thế so sánh
lại xuất phát từ hiệu quả sản xuất tương đối. Trong mô hình tuyệt đối ở trên,
thép được sản xuất rẻ hơn ở Việt Nam so với ở Cămpuchia do sử dụng một
lượng lao động ít hơn. Ngược lại vải được sản xuất ở Cămpuchia rẻ hơn ở
Việt Nam căn cứ vào lượng lao động được sử dụng. Tuy nhiên, nếu một trong
hai nước, chẳng hạn là Việt Nam có hiệu quả sản xuất hơn trong hai mặt
hàng, thì theo quan điểm lợi thế tuyệt đối cả hai mặt hàng này cần được sản
xuất ở Việt Nam. Điểm quan trọng ở đây không phải là hiệu quả tuyệt đối mà
là hiệu quả tương đối trong sản xuất vải và thép: Việt Nam có lợi thế tuyệt đối
trong sản xuất cả hai mặt hàng, nhưng chỉ có lợi thế so sánh đối với mặt hàng
có mức lợi thế cao hơn; ngược lại Cămpuchia bất lợi tuyệt đối trong sản xuất
cả hai mặt hàng nhưng vẫn có thế có lợi thế so sánh đối với mặt hàng nào có
mức bất lợi nhỏ hơn.
 Quay trở lại mô hình thương mại giữa Việt Nam và Cămpuchia ở
phần trước. Các giả thiết cơ bản của mô hình vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên
lượng lao động cần thiết để sản xuất một đơn vị thép và vải có khác đi theo
bảng 1.2 dưới đây.
Bảng 1.2: Mô hình giản đơn về lợi thế so sánh
Quốc gia
Giờ công Việt Nam Cămpuchia
Thép 2 12
Vải 5 6
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 17

Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
Các số liệu cho thấy Việt Nam cần ít số lượng lao động hơn so với
Cămpuchia để sản xuất ra cả hai mặt hàng, thế nhưng điều này sẽ không cản
trở thương mại có lợi giữa hai nước. Tuy Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về cả
hai mặt hàng, nhưng do mức lợi thế về sản xuất thép lớn hơn mức lợi thế về
sản xuất vải (được thể hiện qua bất đẳng thức 2/12<5/6) cho nên nước này có
lợi thế so sánh về mặt hàng thép. Ngược lại, Cămpuchia bất lợi tuyệt đối về cả
hai mặt hàng, nhưng do mức bất lợi về sản xuất vải nhỏ hơn mức bất lợi về
sản xuất thép nên Cămpuchia có lợi thế so sánh về mặt hàng vải ( 6/5< 12/2 ).
Như vậy mặc dù cả thép và vải ở Việt Nam được sản xuất với hiệu quả tuyệt
đối cao hơn, nhưng thép lại là mặt hàng mà nước này có mức bất lợi tương
đối. Một cách khái quát, Việt Nam có lợi thế so sánh về mặt hàng thép khi và
chỉ khi:
Chi phí lao động để sx 1 đv thép ở VN Chi phí lao động để sx 1 đv ở VN
<
Chi phí lao động để sx 1 đv thép ở CPC Chi phí lao động để sx 1 đv vải ở CPC
Trái với lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh là một khái niệm có tính tương
đối: trong một thế giới bao gồm 2 quốc gia, 2 mặt hàng, khi đó xác định được
một quốc gia có lợi thế so sánh về một mặt hàng nào đó thì có thể rút ra kết
luận là quốc gia thứ hai sẽ có lợi thế so sánh về mặt hàng kia.
1.2. Các nhân tố thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam – Cămpuchia
1.2.1. Về vị trí địa lý và quan hệ đặc biệt giữa hai nước
Cùng nằm trên bán đảo Đông Dương với 1.237 km đường biên giới
chung, Việt nam và Campuchia có mối quan hệ tương đồng vô cùng gần gũi.
Nhiều phong tục tập quán, trình độ sản xuất, cấp độ tiêu dùng, tâm lý thị hiếu
của hai nước cũng có những nét giao hoà. Quan hệ buôn bán giữa hai nước
hình thành từ xa xưa là một điều hoàn toàn dễ hiểu. Nói như vậy để thấy rằng,
Cămpuchia là một thị trường cũ nhưng trong bối cảnh mới đã gợi mở nhiều cơ
hội hấp dẫn.
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 18

Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
Lịch sử quan hệ Việt Nam–Cămpuchia đã từng chứng kiến những giai
đoạn nhân dân hai nước luôn sát cánh bên nhau, cùng nhau “chia ngọt sẻ bùi”,
dành cho nhau sự thông cảm sâu sắc và giúp đỡ chân thành. Sự hợp tác giúp
đỡ lẫn nhau đó được tôi luyện thử thách bằng mồ hôi và xương máu của nhiều
thế hệ người Việt Nam và Campuchia, đã trở thành một biểu tượng sáng ngời
của tình hữu nghị, là tài sản vô giá không chỉ cho thế hệ hôm nay mà còn
muôn đời sau.
Ngày 24.6.1967, hai nước đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.
Tháng 2 năm 1979, “ Hiệp định đường biên giới” đã được kí kết giữa hai Nhà
nước Việt Nam – Campuchia. Sau tổng tuyển cử do Liên hợp quốc tổ chức tại
Campuchia tháng 5 năm 1993, chính phủ hoàng gia được thành lập, quan hệ
hai nước bước sang một giai đoạn mới, dựa trên cơ sở của “Hiệp định Hoà
bình, Hữu nghị và hợp tác” được kí kết giữa hai chính phủ. Trong những năm
gần đây, quan hệ hữu nghị láng giềng không ngừng được củng cố và phát
triển. Nhiều đoàn đại biểu cấp cao và đoàn đại biểu các bộ ngành, địa phương
hai bên cũng thường xuyên sang thăm, trao đổi và ký kết nhiều văn kiện quan
trọng góp phần thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực kinh
tế- chính trị –văn hoá. Đặc biệt mối quan hệ nhiều mặt được tăng cường từ sau
chuyến thăm hữu nghị chính thức của Lãnh đạo cao nhất của hai nhà nước
năm 1995. Qua đó, hai bên khẳng định lại mối quan hệ hữu nghị láng giềng
thân thiện lâu dài của nhân dân hai nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập
chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và bình đẳng cùng
có lợi.
Tháng 2/1997, Hiệp định vận tải đường bộ được kí kết để tạo điều kiện
thuận lợi cho hàng hoá quá cảnh vào Việt Nam. Việt Nam cũng đã trợ giúp
Campuchia về lương thực, hàng tiêu dùng, cung cấp chuyên gia, đào tạo cán
bộ, cấp vốn xây dựng cho một số công trình của Campuchia. Hai nước đã thực
hiện có hiệu quả sự hợp tác theo phương thức tài nguyên Cămpuchia + lao
động và kĩ thuật của Việt Nam + vốn góp chung hoặc đi vay từ một nước thứ 3.

Sinh viên: Koy ChanVichea Page 19
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
Tháng 3/1998, Bộ thương mại Việt Nam và Bộ thương mại Campuchia
đã kí Hiệp định thương mại giữa 2 nước theo đó chính phủ mỗi nước sẽ cho
phép xuất khẩu những hàng hoá có thể xuất khẩu từ nước mình sang nước kia
và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu những mặt hàng có thể nhập
khẩu từ nước kia. Trong trường hợp áp dụng quy chế cấp giấy phép xuất nhập
khẩu thì hai bên sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc cấp giấy phép xuất nhập
khẩu theo quy định hiện hành của luật pháp mỗi nước cũng như là thông lệ
quốc tế. Đặc biệt 2 nước đã nhất trí dành cho nhau quy chế tối huệ quốc trong
buôn bán. Từ nay doanh nghiệp 2 nước được hưỏng ưu đãi về thuế quan và
thủ tục hải quan. Đây chắc chắn là một động lực thúc đẩy quan hệ thương mại
của hai nước phát triển mạnh mẽ.
Ngoài ra có thể kể đến các sự kiện tiêu biểu khác như : chuyến thăm
của Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu tháng 6/1999, Chủ tịch quốc hội Nông Đức
Mạnh tháng 2/2000, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Niên tháng
3/2000, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 8/2000, Bộ trưởng bộ
Thương mại tháng 9/2000….tạo cho quan hệ hai nước gần nhau, hiểu biết
thông cảm cho các khó khăn của nhau để cùng nhau tháo gỡ, do vậy cũng tạo
nhiều điều kiện cho thương mại hai nước phát triển theo chiều hướng tốt.
Hai nước đã xác định phương hướng cho quan hệ hai nước trong thế kỉ
21 là “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu
dài”. Khi xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển ngày càng gia tăng và trong bối
cảnh Việt Nam và Campuchia đều là thành viên của ASEAN, cùng tham gia
vào nhiều khuôn khổ hợp tác khu vực, chắc chắn hai nước sẽ có nhiều điều
kiện để thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ tốt đẹp vốn đã được nhiều thế hệ lãnh
đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp, trên cơ sở song phương cũng như
trong khuôn khổ đa phương vì lợi ích của nhân dân hai nước và góp phần vào
hoà bình, ổn định, hợp tác, phát triển, phồn vinh ở Đông Nam Á và trên thế
giới.

Về quan hệ Đảng, thì quan hệ giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng
nhân dân Campuchia vốn có từ lâu và đã và đang được tăng cường mạnh mẽ.
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 20
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
Qua các chuyến thăm và làm việc giữa lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, chúng
ta có thể hiểu rõ thiện chí và tình cảm trong sáng, thuỷ chung của Việt Nam
với sự nghiệp của Đảng và nhân dân Campuchia; Lãnh đạo cấp cao hai Đảng
thường xuyên có cuộc tiếp xúc và làm việc trực tiếp nhằm thúc đẩy quan hệ
hai nước phát triển, phù hợp với lợi ích của mỗi quốc gia, góp phần giữ vững
hoà bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.
Sau thành công của Bầu cử Quốc hội tổ chức vào ngày 27.7.2003, hiện
nay chính phủ liên hiệp Campuchia (liên hiệp giữa ba đảng) đã được thành lập
do ông Hun-xen phó chủ tịch đảng Nhân dân Campuchia làm thủ tướng. Đây
cũng là một nhân tố mới giúp cho quan hệ giữa hai nước Việt Nam –
Campuchia tiếp tục ổn định và phát triển. Do vậy chúng ta cần tranh thủ thời
kì êm đẹp giữa các đảng CPP, Puncinpec và Samrainsy, tranh thủ chính phủ
liên hiệp CPC để giải quyết các vấn đề tồn tại, thúc đẩy quan hệ nhiều mặt,
trong đó có quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước.
1.2.2. Xu hướng thời đại
Nếu như trước đây, chiến tranh là giải pháp hữu hiệu cho các cuộc
xung đột giữa các quốc gia, các cường quốc có thể áp đặt ý chí của mình bằng
vũ lực đối với các quốc gia nhỏ yếu hơn thì giờ đây các cường quốc nhận thức
được rằng hoà bình, ổn định, đối thoại và hợp tác là con đường tốt nhất để giải
quyết các xung đột và bất đồng giữa các quốc gia. Sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất trên quy mô toàn thế giới đã dẫn
đến xu thế tất yếu của khu vực hoá và toàn cầu hoá. Trong bối cảnh này, một
quốc gia muốn phát triển bền vững phải mở cửa buôn bán với tất cả các nước,
hội nhập với thế giới bên ngoài để có thể phát huy được các lợi thế cạnh tranh
trong nước và sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời tận dụng được các ưu thế về
công nghệ, vốn của thị trường bên ngoài. Đứng ngoài toàn cầu hoá và khu vực

hoá nghĩa là tự mình cô lập, cấm vận mình, nguy cơ lạc hậu là không thể tránh
khỏi.
Những cản trở biên giới quốc gia về thương mại, đầu tư đang giảm
dần. Đây chính là biểu hiện của xu hướng tự do hoá thương mại mà một loạt
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 21
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
các nước đang tiến hành. Hiện nay, tại các nước công nghiệp phát triển, mức
thuế trung bình thấp hơn 10% so với mức thuế lưu hành phổ biến trước những
năm 1914 và các nước đang phát triển cũng đang dần dần từng bước cắt giảm
hàng rào thuế quan của mình. Hầu hết các vòng đàm phán và các cuộc thương
thuyế toàn cầu đều đưa ra thời hạn 2010 đối với các nước phát triển và 2020
với các nước đang phát triển cho việc tự do hoá thương mại hoàn toàn. Chính
vì vậy, thương mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng.
Tự do hoá thương mại còn được thể hiện qua sự hình thành và củng cố
của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Hơn lúc nào hết, khẩu hiệu “buôn
có bạn, bán có phường” trở thành thách thức với mỗi quốc gia. Chính vì thế
ngày càng nhiều các quốc gia lớn nhỏ tham gia vào quá trình hợp tác và liên
kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt
động khác. Dưới tác động của xu hướng này, nhiều tổ chức kinh tế, thương
mại toàn cầu và tổ chức liên kết khu vực đã ra đời trong đó đáng chú ý là
WTO với 151 thành viên chiếm hơn 95% tổng giá trị thương mại quốc tế;
APEC với 21 thành viên chiếm tới 56% GDP và 46% thương mại thế giới; các
liên kết khu vực như ASEAN, AFTA, NAFTA và nhiều tam giác, tứ giác phát
triển.
Tự do hoá thương mại đã và đang mang lại những lợi ích to lớn và
những cơ hội chưa từng có cho các quốc gia bao gồm từ việc mở rộng thị
trường, tăng thêm nguồn vốn, có thêm công nghệ mới đến việc có các cơ hội
mở rộng, giao lưu học hỏi kinh nghiệm phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh rằng, quá trình toàn cầu hoá vốn có
tính hai mặt. Một mặt nó làm cho các nền kinh tế các nước phải phụ thuộc lẫn

nhau. Mặt khác, nó tăng cường tính cạnh tranh giữa các nước. Nền kinh tế thị
trường vốn đã là nền kinh tế của cạnh tranh, song quá trình toàn cầu hoá càng
đẩy sự khốc liệt của cạnh tranh lên một mức cao hơn. Đó là khi hàng rào
thương mại và đầu tư bị xoá bỏ, hàng hoá sẽ dễ dàng lưu thông từ nước này
sang nước khác. Khi đó, cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa một nước với một
nước hoặc một nhóm nước mà là với toàn thế giới gồm cả các nước phát triển
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 22
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
cũng như các nước đang phát triển. Quá trình cạnh tranh này buộc tất cả các
công ty trong nước phải phấn đấu hết mình, phải có các chính sách đúng đắn
để tồn tại và phát triển nếu không thì tình trạng phá sản, dẫn tới thất nghiệp
gia tăng, gây bất ổn định xã hội là điều không tránh khỏi. Đồng thời, thị
trường trong nước sẽ do các công ty tập đoàn nước ngoài kiểm soát và thao
túng. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận một điều là các nước đang phát triển
bao giờ cũng ở vị trí yếu hơn so với các nước phát triển trong quá trình cạnh
tranh toàn cầu này. Do đó tất cả các nước, đặc biệt những nước đang phát
triển phải tuỳ thuộc điều kiện hoàn cảnh của mình mà điều chỉnh chính sách
sao cho vừa phù hợp với xu thế toàn cầu hoá vừa không làm tổn hại đến nền
kinh tế của mình.
Bên cạnh những vấn đề về kinh tế, cộng đồng thế giới đang đứng trước
những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế sự
bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo ) mà
không phải một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được, đòi hỏi phải
có sự hợp tác đa phương.
Tóm lại, xu hướng toàn cầu hoá đang phát triển như là một xu hướng
tất yếu của thế kỉ 21 và là một nhân tố quan trọng đối với sự tiến bộ của xã hội
loài người. Chắc chắn rằng, quan hệ thương mại Việt Nam-Campuchia không
nằm ngoài xu hướng đó.
1.2.3. Chính sách đối ngoại của hai nước
1.2.3.1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam

Nhận rõ xu thế trên, Việt Nam đã đề ra chủ trương hội nhập và kiên trì
thực hiện chủ trương đó. Trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, Đại hội VII
(1991), Hội nghị Trung Ương 3 (khoá VII) và Đại hội VIII (1996) của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã liên tiếp đề ra và phát triển đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá với
phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đầu vì hoà bình, độc lập và phát triển” nhằm mục tiêu giữ vững
hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 23
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc đồng thời góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt
Nam diễn ra cùng một lúc trên bốn mặt:
Một là, tạo dựng và củng cố môi trường hoà bình, ổn định cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc củng cố và thúc đẩy các mối quan hệ
song phương, nhất là với các nước láng giềng và các nước trong khu vực có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.
Nhận thức rõ điều đó, hoạt động đối ngoại đã tập trung giải quyết vấn đề
Campuchia và bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc
Từ đầu những năm 90, Việt Nam đã khai thông quan hệ với các tổ chức
tài chính quốc tế, tiếp đó năm 1995 chính thức gia nhập ASEAN và tham gia
AFTA. Năm 1996, Việt Nam tham gia diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM) với tư
cách là thành viên sáng lập và năm 1998 trở thành thành viên chính thức của
Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Việt Nam cũng
đã đàm phán và ký kết Hiệp định Thương mại với Mỹ, Hiệp định khung với
EU và đang đàm phán về việc gia nhập WTO. Những hoạt động đó đã góp
phần phá vỡ thế bị bao vây, cô lập, tạo môi trường hoà bình, ổn định và thuận
lợi hơn cho sự nghiệp xây dựng đất nước, đưa Việt Nam hội nhập kinh tế với

khu vực và quốc tế.
Hai là, tận dụng những điều kiện quốc tế thuận lợi góp phần vào công
cuộc phát triển đất nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế. Đây là một nhiệm
vụ quan trọng của công cuộc đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, Việt Nam đã làm thất bại chính
sách bao vây cấm vận của Mỹ và đồng minh, mở rộng và đa dạng hoá thị
trường, thúc đẩy quan hệ thương mại song phương với hơn 200 nước và vùng
lãnh thổ, đón nhận nguồn đầu tư khoảng 98 tỷ USD của hơn 80 nước và lãnh
thổ, thu hút hơn 16 tỷ USD từ nguồn viện trợ ưu đãi chính thức của các chính
phủ và các tổ chức quốc tế và hàng tỷ USD viện trợ không hoàn lại của nhiều
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 24
Luân văn tốt nghiệp KTQT-K46
chính phủ và các tổ chức quốc tế thuộc hệ thống Liên hợp quốc và các tổ chức
phi chính phủ. Việc tạo dựng môi trường quốc tế hoà bình, tăng cường hợp
tác, mở rộng thị trường, thu hút vốn, công nghệ phục vụ sự nghiệp xây dựng
đất nước cũng là sự đóng góp trực tiếp và thiết thực cho yêu cầu bảo đảm an
ninh.
Ba là, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá. Đến nay, Việt Nam
đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước thuộc tất cả các châu lục và lần đầu
tiên trong lịch sử có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các uỷ viên
thường trực của Hội đồng Bảo An Liên hợp quốc. Việt Nam đã hoạt động tích
cực với vai trò ngày càng cao tại Liên hợp quốc (Uỷ viên ECOSOC, uỷ viên
Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU), phát huy vai trò thành viên
tích cực của phong trào không liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng
Pháp, ASEAN.
Bốn là, chủ động tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân
thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các hoạt động
đối ngoại phong phú, đa dạng cả theo đường Đảng lẫn Nhà nước và các hoạt
động quốc tế nhân dân đã góp phần duy trì và củng cố quan hệ đoàn kết, hữu

nghị với các đảng phái chính trị, trước hết là các Đảng cộng sản và công nhân,
các tổ chức tiến bộ đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, từ đó
tranh thủ sự hỗ trợ về chính trị có lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.
Bước vào thế kỉ 21, Việt Nam tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc
tế theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.”
Việt Nam sẽ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ
và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc
gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Sinh viên: Koy ChanVichea Page 25

×