Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

phan-biet-mien-tnhs-giam-tnhs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.03 KB, 5 trang )

Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt
Thứ tư, 17 12 2008 11:55 |
Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt (LÊ CẢM – TRỊNH TIẾN
VIỆT)
ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 2 /2004
Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt

CẢM-TRỊNH
TIẾN
VIỆT
TSKH, Chủ nhiệm Khoa, Trưởng Bộ mơn Tư pháp Hình sự, Khoa Luật ĐHQG Hà
Nội
Cử nhân Luật, Bộ mơn Tư pháp hình sự, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội
1. Ý nghĩa khoa học - thực tiễn của việc nghiên cứu:
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay, việc nghiên cứu chế định miễn trách nhiệm hình sự và chế định miễn hình phạt
để phân biệt sự giống và khác nhau giữa hai chế định này trong pháp luật hình sự
thực định cũng như trong thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng trên các bình diện chủ
yếu dưới đây.
Một là, miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt là các chế định quan trọng
trong luật hình sự Việt Nam thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và
Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời qua đó
nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả
năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hịa nhập với cộng đồng và giúp họ trở thành
người có ích cho xã hội. Hai chế định này chỉ có thể áp dụng khi có đầy đủ các căn
cứ pháp lý và những điều kiện cụ thể do pháp luật hình sự quy định.
Hai là, cũng như việc miễn trách nhiệm hình sự, bằng các quy phạm có tính chất
nhân đạo của chế định miễn hình phạt, nhà làm luật khơng phải dùng các biện pháp
mang tính trấn áp (trừng trị) về mặt pháp lý hình sự và do đó, sẽ loại trừ được việc
áp dụng hình phạt trong những trường hợp mặc dù hình phạt có được Tịa án quyết
định đi chăng nữa nhưng trên thực tế là bất hợp lý vì các mục đích của nó khơng


thể đạt được.
Ba là, với việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt nhà nước
không cách ly khỏi xã hội những người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm và như vậy, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ sớm thích nghi với các yêu cầu
của trật tự pháp luật để trở lại cuộc sống bình thường trong cộng đồng xã hội, phấn
đấu là người lương thiện và có ích cho gia đình và xã hội.


Bốn là, việc tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận chế định miễn trách nhiệm hình sự
và miễn hình phạt để phân biệt chúng dưới góc độ nhận thức - khoa học không
những là hướng nghiên cứu quan trọng, mà còn là việc làm cần thiết của khoa học
luật hình sự nước ta hiện nay.
2. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự:
Hiện nay xung quanh khái niệm miễn trách nhiệm hình sự cịn có nhiều quan điểm
khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luật hình sự có thể định nghĩa: Miễn
trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được
thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện
hành vi đó.
Như vậy, bản chất pháp lý của chế định miễn trách nhiệm hình sự là hủy bỏ hậu quả
pháp lý của việc thực hiện tội phạm khi có các căn cứ do pháp luật hình sự quy
định, tức là các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của nhà nước (cơ quan
Điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát và Tòa án) căn cứ vào
giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể để miễn trách nhiệm hình sự cho người
phạm tội.
3. Khái niệm miễn hình phạt:
Cũng giống như khái niệm miễn trách nhiệm hình sự, hiện nay xung quanh khái
niệm miễn hình phạt cịn có nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ
khoa học luật hình sự có thể định nghĩa: Miễn hình phạt là hủy bỏ biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất cho người bị kết án mà lẽ ra Tịa án phải tun trong bản án

kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người này.
Như vậy, bản chất pháp lý của chế định miễn hình phạt là ở chỗ - Tịa án khơng
quyết định hình phạt trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị coi
là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, tức là không áp dụng đối với người này biện
pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và
những điều kiện được quy định trong pháp luật hình sự.
4. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt:
Về bản chất pháp lý, các đặc điểm cơ bản và những trường hợp miễn trách nhiệm
hình sự (quy định tại Điều 19, Điều 15, khoản 2 Điều 69, khoản 3 Điều 80, đoạn 2
khoản 6 Điều 289, khoản 6 Điều 290 và khoản 3 Điều 314) và miễn hình phạt (quy
định tại Điều 54 và khoản 3 Điều 314) vì đã được đề cập trong các bài viết liên
quan đến hai chế định nói trên1 nên trong bài viết này chỉ tập trung đi sâu phân tích
các điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chúng theo hệ thống như sau.
4.1. Về các điểm giống nhau:


a. Miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt đều thuộc hệ thống các biện pháp
tha miễn trong luật hình sự nước ta2, thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong chính
sách hình sự nói chung và của luật hình sự Việt Nam nói riêng.
b. Miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người
nào bị coi là có lỗi trong việc thực hiện chính tội phạm đó. Nói cách khác, hành vi
nguy hiểm cho xã hội do người đó thực hiện bị pháp luật hình sự cấm (Bộ luật hình
sự (BLHS) quy định là tội phạm).
c. Miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt chỉ có thể áp dụng khi có đầy đủ căn
cứ pháp lý và những điều kiện cụ thể do pháp luật hình sự quy định tương ứng
trong từng trường hợp cụ thể.
d. Cũng như người được miễn trách nhiệm hình sự, người được miễn hình phạt
khơng phạt chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội hoặc (và) của việc quyết
định hình phạt - án tích.
e. Cũng như việc miễn trách nhiệm hình sự, bằng các quy phạm có tính chất nhân

đạo của chế định miễn hình phạt, nhà làm luật khơng phải dùng các biện pháp
mang tính trấn áp (trừng trị) về mặt hình sự và do đó, sẽ loại trừ được việc áp dụng
hình phạt trong những trường hợp mặc dù hình phạt có được Tịa án quyết định đi
chăng nữa nhưng trên thực tế là bất hợp lý vì các mục đích của nó khơng thể đạt
được.
f. Và cuối cùng, với việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt,
Nhà nước khơng cách ly khỏi xã hội những người bị coi là có lỗi trong việc thực
hiện tội phạm và như vậy, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ sớm thích nghi với các
yêu cầu của trật tự pháp luật để trở lại cuộc sống bình thường trong cộng đồng xã
hội, phấn đấu làm người lương thiện và có ích cho gia đình và xã hội.
4.2. Về các điểm khác nhau:
a. Nếu BLHS năm 1999 hiện hành của nước ta có quy định chín trường hợp (dạng)
miễn trách nhiệm hình sự, thì các trường hợp miễn hình phạt trong Bộ luật này chỉ
được ghi nhận tại hai điều luật mà thơi.
b. Trách nhiệm hình sự có thể được thực hiện bằng hình phạt (nếu người phạm tội
khơng được miễn trách nhiệm hình sự, mà bị Tịa án áp dụng hình phạt), nhưng
cũng có thể bằng biện pháp có tính cưỡng chế về hình sự khác (nếu người phạm tội
được miễn hình phạt). Cịn miễn trách nhiệm hình sự thì đương nhiên là khơng áp
dụng hình phạt với người phạm tội, tức là không áp dụng biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của nhà nước đối với họ, nhưng miễn hình phạt thì khơng có
nghĩa là khơng có trách nhiệm hình sự. Nói một cách khác, người được miễn hình
phạt khi họ chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự, cịn người được miễn
trách nhiệm hình sự lại đương nhiên được miễn hình phạt.


c. Khác với miễn trách nhiệm hình sự, điều kiện được miễn hình phạt áp dụng đối
với từng trường hợp cụ thể không được quy định rõ ràng như miễn trách nhiệm
hình sự. Theo quy định tại Điều 54 BLHS năm 1999 thì các điều kiện để miễn hình
phạt khơng khắt khe (chặt chẽ) bằng các điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự. Do
đó, dưới góc độ pháp luật hình sự thực định và thực tiễn áp dụng nó, chúng ta có

thể nhận thấy hành vi phạm tội và nhân thân người được miễn trách nhiệm hình sự
thơng thường đều ít nguy hiểm hơn so với hành vi phạm tội và nhân thân của người
được miễn hình phạt. Nói một cách khác, hành vi phạm tội và nhân thân người
được miễn hình phạt nguy hiểm hơn so với hành vi phạm tội và nhân thân người
được miễn trách nhiệm hình sự.
d. Nếu hình phạt và việc áp dụng miễn hình phạt đối với người bị kết án chỉ có thể
và phải do một cơ quan duy nhất áp dụng - Tịa án, thì trong khi đó miễn trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội, ngồi Tịa án có thẩm quyền áp dụng ra cịn
có thể do các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (cơ quan điều tra với sự phê
chuẩn của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát) áp dụng trước khi xét xử tùy thuộc vào
giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể tương ứng.
e. Và cuối cùng, nếu người được miễn trách nhiệm hình sự đương nhiên khơng phải
chịu hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện (như:
khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, khơng phải chịu hình phạt hoặc biện pháp
cưỡng chế về hình sự khác, khơng bị coi là có án tích và khơng bị coi là có tội),
nhưng thực tiễn xét xử cho thấy, người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn có thể
phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật
tương ứng khác. Cụ thể là: các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự; buộc phải hồi phục lại tình trạng ban đầu, buộc bồi thường thiệt hại…
theo quy định của pháp luật dân sự; phạt tiền, cảnh cáo hoặc buộc thôi việc theo
quy định của pháp luật hành chính; đình chỉ hợp đồng lao động theo quy định của
pháp luật lao động; hoặc biện pháp kỷ luật… Để minh chứng điều này có thể dẫn ra
văn bản hướng dẫn thống nhất có tính chất chỉ đạo của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5/1/1986 về việc Hướng dẫn
áp dụng một số quy định của BLHS: “Khi đã miễn trách nhiệm hình sự thì Tịa án
khơng được quyết định bất kỳ loại hình phạt nào nhưng vẫn có thể quyết định việc
bồi thường cho người bị hại và giải quyết tang vật”. Trong khi đó, người được miễn
hình phạt tuy đương nhiên được xóa án tích (khoản 1 Điều 64 BLHS năm 1999),
nhưng họ vẫn có thể bị áp dụng các biện pháp tư pháp (chung) được quy định trong
pháp luật hình sự thực định (các Điều 41 - 43 BLHS năm 1999).

5. Kết luận:
Xuất phát từ phân biệt hai chế định nói trên trong BLHS năm 1999 hiện hành, có
thể rút ra một số kết luận chung dưới đây.


Thứ nhất, miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt là hai chế định quan trọng
thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự nói chung, trong luật hình sự
Việt Nam nói riêng. Hai chế định này chỉ có thể áp dụng khi có đầy đủ các căn cứ
pháp lý và những điều kiện cụ thể do pháp luật hình sự quy định.
Thứ hai, việc quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam hai chế định này thể hiện
phương châm đúng đắn của đường lối xử lý về hình sự - đảm bảo sự kết hợp hài
hịa giữa các biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất của nhà nước với các
biện pháp tác động xã hội khác để cải tạo, giáo dục người phạm tội, bằng cách đó
hạn chế áp dụng các biện pháp mang tính trấn áp (trừng trị) về mặt hình sự.
Thứ ba, trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay để nhân đạo hóa hơn nữa chính sách hình sự nói chung và luật hình sự
nước ta nói riêng, dưới góc độ nhận thức - khoa học, nhà làm luật cần điều chỉnh
hai chế định độc lập này thành hai chương riêng biệt tương ứng trong BLHS năm
1999 hiện hành, với sự ghi nhận bổ sung thêm một số trường hợp thường có trong
thực tiễn3 có thể áp dụng hai chế định này.
Và cuối cùng, việc tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận chế định miễn trách nhiệm
hình sự và miễn hình phạt để phân biệt chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc
hồn thiện pháp luật hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
góp phần đấu tranh phòng và chống tội phạm.
1 Xem cụ thể hơn: Lê Cảm, Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy định
tại Điều 25 BLHS năm 1999, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 1/2001; Lê Cảm, Về sáu
dạng miễn trách nhiệm hình sự khác (ngồi Điều 25) trong BLHS năm 1999, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2001; Lê Cảm, Chế định miễn trách nhiệm hình sự
trong luật hình sự Việt Nam, trong sách Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước
thềm thế kỷ XXI (tập thể tác giả do TSKH Lê Cảm chủ biên), Nhà xuất bản Công

an nhân dân, Hà Nội năm 2002; Lê Cảm, Chế định miễn hình phạt và các chế định
về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 4/2002.
2 Xem Lê Cảm, Khái niệm, các đặc điểm (dấu hiệu), phân loại và bản chất pháp lý
của các biện pháp tha miễn trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý,
số 3/2001, trang 22 - 26.
3 Xem cụ thể hơn về mơ hình lý luận của các dạng miễn trách nhiệm hình sự và
miễn hình phạt: Lê Cảm, Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt
Nam trong sách Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI (Tập thể
tác giả do TSKH Lê Cảm chủ biên), Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội 2002;
Lê Cảm, Chế định miễn hình phạt và các chế định về chấp hành hình phạt trong
luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2002.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×