Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

bảo hiểm y tế việt nam thực trạng và đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.5 KB, 37 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trên con đường đi lên của đất nước, nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ của
nhân dân là rất quan trọng . Vì vậy Bảo Hiểm Y Tế (BHYT ) không những là
chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước mà còn là sự lựa chọn của nhân
dân. BHYT ra đời xuất phát từ yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội hiện đại
phát triển, nó đã tác động một cách tích cực đến các lĩnh vực khác của đời
sống kinh tế xã hội, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Thực hiện BHYT là
yêu cầu tất yếu của một xã hội hiện đại, của nền kinh tế phát triển. BHYT
được coi như là một công cụ để thực hiện bảo đảm công bằng xã hội trong
lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của toàn dân.
Nhưng làm thế nào để nguồn quỹ BHYT không những duy trì, tồn tại
mà còn phát triển và tăng trưởng không ngừng, để theo kịp sự phát triển của
nền kinh tế- xã hội của đất nước. Đó mới là vấn đề đang cần quan tâm hơn
bao giờ hết đối với ngành BHYT nói riêng cũng như của Bộ y tế và Nhà
nước nói chung .
Là một sinh viên chuyên ngành Bảo Hiểm, qua tìm hiểu hoạt động của
BHYT Việt Nam, em đã quyết định chọn đề tài "Bảo hiểm y tế Việt Nam
thực trạng và đổi mới" để có đánh giá đúng hơn về ý nghĩa nhân đạo của
BHYT và cũng để minh chứng rằng BHYT Việt Nam luôn luôn cố gắng tự
hoàn thiện phục vụ nhân dân tốt hơn. Ngoài lời nói đầu và kết luận đề án của
em bao gồm 4 chương:
Chương I : Sự cần thiết, tác dụng và quá trình hình thành phát triển của
BHYT.
Chương II : Thực trạng hoạt động của BHYT Việt Nam.
Chương III : Sự đổi mới của BHYT Việt Nam.
Chương IV : Một vài nhận xét và kiến nghị.
Do tầm hiểu biết còn hạn chế nên đề án của em không tránh khỏi những thiếu
sót, em kính mong được thầy cô chỉ bảo thêm. Qua đây em xin chân thành
cảm ơn thầy giáo Nguyễn Anh Thắng đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em
hoành thành bài viết một cách tốt nhất.
Một số kí hiệu trên đề án.


BHYT : Bảo hiểm y tế
BHXH : Bảo hiểm xã hội
KCB : Khám chữa bệnh
Hà Nội ngày 30 tháng 12 năm 2000
Sinh viên: Nguyễn Thị Hà Giang.
1
Chương I: SỰ CẦN THIẾT, TÁC DỤNG VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT
TRIỂN CỦA BHYT.
I- Sự cần thiết và tác dụng.
Con người ai cũng muốn khoẻ mạnh, ấm no hạnh phúc nhưng trong đời
người những rủi ro về sức khoẻ như ốm đau, bệnh tật luôn luôn có thể xảy ra
bất cứ lúc nào. Các chi phí về khám chữa bệnh (KCB) không được xác định
trước. Vì vậy cho dù lớn hay nhỏ đều gây khó khăn về kinh tế cho mỗi gia
đình, mỗi cá nhân . Đặc biệt đối với những gia đìng có thu nhập thấp, không
những thế rủi ro này có thể làm phát sinh những biến chứng vừa làm giảm sức
khoẻ, giảm sức lao động vừa kéo dài thời gian nghỉ lao động sẽ làm cho cuộc
sống trở nên khó khăn hơn.
Để chủ động về tài chính cho KCB dù là bệnh thông thường và để tránh
những chi tiêu đột biến , quá tải khi ốm đau bệnh tật người ta đã sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau như: để dành tiền tiết kiệm, bán tài sản, kêu gọi sự
hỗ trợ của người thân, đi vay Tuy nhiên mỗi biện pháp đều có những ưu
điểm và hạn chế nhất định, không thể áp dụng trong trường hợp rủi ro kéo dài
về thời gian và lặp đi lặp lại. Để khắc phục tình trạng khó khăn trên , từ cuối
thế kỷ XIX đã xuất hiện các hội "tương tế" rồi các tổ chức BHYT nhằm mục
đích giúp đỡ mọi người lao động và gia đình của họ khi không may gặp rủi ro
về sức khoẻ để ổn định đời sống, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, đời sống con người được nâng cao và
nhu cầu KCB cũng tăng lên. Trong lúc đó chi phí KCB ngày càng tăng do
nghành y tế sử dụng các trang thiết bị hiện đại, đắt tiền trong việc chẩn đoán
và điều trị bệnh. Đồng thời giá cả của các loại thuốc men tăng lên do biến

động chung của thị trường, đặc biệt có những bệnh phải sử dụng thuốc quý
hiếm, chi phí KCB rất lớn.
Hơn nữa dịch vụ y tế là dịch vụ đắt giá nhất đại đa số người dân không
đủ khả năng tài chính để đáp ứng. Do đó phải huy động các thành viên trong
xã hội đóng góp nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và cũng để
phục vụ cho chính bản thân mình khi gặp rủi ro về sức khoẻ.
Từ những vấn đề nêu trên cho nên BHYT ra đời là rất cần thiết , nó đã
đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo người dân lao động và gia đình của
họ.
Bảo hiểm Y Tế ra đời có tác dụng rất thiết thực:
2
Thứ nhất: Giúp những người tham gia BHYT khắc phục khó khăn về
kinh tế khi bất ngờ bị ốm đau, bệnh tật. Bởi vì trong quá trình điều trị bệnh
chi phí rất tốn kém ảnh hưởng đén ngân sách gia đình trong khi thu nhập của
họ bị giảm đáng kể thậm chí bị mất thu nhập.
Thứ hai: Góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, các quốc
gia trên thế giới thường có các khoản chi từ ngân sách cho hệ thống y tế, ở
phần lớn các nước Chính phủ phải đầu tư khoảng 60% cho ngân sách y tế.
BHYT ra đời nhằm làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, khắc phục
sự thiếu hụt về tài chính đáp ứng nhu cầu KCB ngày càng tăng của người dân.
ở Việt Nam ngay trước khi thực hiện BHYT hai năm 1991 và 1992, ngân sách
Nhà nước cấp cho y tế là 51% và 54% các khoản thu khác từ viện trợ nước
ngoài và thu viện phí là 15% và 12%. Như vậy ngân sách y tế vẫn còn thiếu
hụt 34% mỗi năm. Vì vậy BHYT ra đời đã góp phần giải quyết vấn đề trên.
Thứ ba: Góp phần nâng cao chất lượng và thực hiện công bằng xã hội
trong KCB. Thông qua việc đóng góp vào quỹ BHYT sẽ hỗ trợ cho ngân sách
y tế, nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng phục vụ của nghành y. Hơn nữa
sau khi tham gia BHYT thì mọi người bất kể giàu nghèo đều được khám,
chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ tại các cơ sở y tế.
Thứ tư: Nâng cao tính cộng đồng và gắn bó mọi thành viên xã hội. Trên

cơ sở quy luật số lớn BHYT ra đời còn giúp cho việc giáo dục mọi người dân
trong xã hội theo tinh thần " mình vì mọi người, mọi người vì mình" " lá lành
đùm lá rách" và đặc biệt là giáo dục cho trẻ em ngay từ khi còn ngồi trên nghế
nhà trường.
II. Quá trình hình thành và phát triển của BHYT.
BHYT trên thế giới đã được triển khai khá sớm (từ 1883) tại nước Phổ
( nước Đức ngày nay ). Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội của mỗi
nước mà phạm vi triển khai rộng hay hẹp đối với từng loại đối tượng.
Cho đến nay có hàng trăm nước trên thế giới đã thực hiện BHYT mặc
dù với hình thức, mức độ phạm vi khác nhau. Một số nước đã triển khai
BHYT từ rất lâu như Pháp, Nhật Bản (70-80 năm) Hàn Quốc (30-40 năm).
Tuy vậy mục đích của việc triển khai BHYT trên thế giới tương đối thống
nhất:
3
Một là: Nhằm chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho mọi người dân.
Hai là: Giảm bớt phần nào khó khăn đối với gia đình nghèo khó, thu nhập
thấp trên cơ sở tham gia BHYT cộng đồng đóng góp.
Ba là: Góp phần nâng cao chất lượng các cơ sở KCB và điều trị cũng
như trang thiết bị của các cơ sở y tế đó.
Trên thế giới hiện nay việc triển khai BHYT phần lớn thực hiện dưới
hình thức bắt buộc. Sở dĩ phải thực hiện bắt buộc vì những lí do sau:
- Nhằm giáo dục ý thức cho mọi người dân trong cộng đồng về vấn đề
BHYT.
- Nhằm nhanh chóng bảo đảm được quy luật số đông bù số ít.
ở Việt Nam từ năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta trong cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp. Thực hiện chính sách bao cấp về sức khoẻ cho
nhân dân, người dân được KCB không mất tiền. Khi chuyển sang nền kính tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì khả năng bao cấp của Nhà nước để
thực hiện chi phí KCB như những năm trước đây không còn phù hợp.
Trước những đòi hỏi bức xúc và mang tính nhân đạo của BHYT, năm

1989 nước ta đã tổ chức làm thí điểm BHYT ở một số địa phương: Vĩnh Phú,
Hải Phòng, Đắc Lắc, Quảng Trị, Bến Tre. Bước đầu việc thực hiện đã đem lại
kết quả đáng phấn khởi. Trước hết một số phương tiện kỹ thuật, trang bị,
phòng khám, thuốc men ở các bệnh viện, trung tâm y tế đều được tăng thêm.
Bênh cạnh đó việc tổ chức sắp xếp, điều trị, phục vụ trong bệnh viện cũng
được làm tốt hơn. Kết quả của việc thí điểm BHYT đã khẳng định chủ trương
BHYT là đúng đắn và thích hợp.
Trên cơ sở đó ngày 15/08/1992, Hội đồng Bộ Trưởng đã ban hành nghị
định số 299HĐBT kèm theo điều lệ về BHYT Việt Nam. Đến ngày 11/9/1992
theo quyết định số 958/BYT- QĐ của Bộ trưởng Y Tế BHYT Việt Nam được
chính thức thành lập. Đây là một chủ trương lớn của Nhà nước nhằm huy
động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để nâng cao chất
lượng trong KCB.
ở nước ta từ năm 1991 ngân sách Nhà nước đầu tư cho y tế đã tăng mạnh từ
370 tỷ đồng lên 650 tỷ đồng năm 1992, nhưng cũng chỉ đáp ứng được từ 50
đến 54% nhu cầu về y tế.
4
Qua 5 tháng ban hành điều lệ BHYT đã có 14 Bộ, nghành có chỉ thị thực hiện
triển khai nghị định 299/HĐBT cho các đợn vị trực thuộc.
Sau 6 năm hoạt động thời gian chưa dài song với những kết quả và hiệu
quả đạt được đã khẳng định chính sách BHYT của Đảng và Nhà nước là đúng
đắn và tiềm năng phát triển của BHYT là rất lớn. Theo số liệu thống kê , số
người tham gia BHYT ngày càng tăng. Năm 1993 là 3.799.900 người, năm
1995 là 7.104.000 người, đến năm 1997 đã tăng lên là 9.551.000 người. Tính
riêng năm 1998, số người tham gia BHYT là 9.800.000 người, chiếm 12,6%
dân số cả nước, thu được 669 tỷ đồng ( chiếm khoảng 1/4 ngân sách y tế).
Hàng năm BHYT cũng đã chi trả cho hàng chục triệu lượt người đi KCB.
Năm 1996 số người đi KCB là 11 triệu lượt người, năm 1997 con số này đã là
14 triệu và năm 1998 là 15 triệu lượt người. Có người mắc bệnh hiểm nghèo
lại không có khả năng chữa bệnh, nhưng nhờ BHYT đã được chi trả KCB,

thoát khỏi nguy hiểm. Như vậy BHYT đã thực sự đem lại lợi ích cho người
tham gia, đặc biệt là người nghỉ hưu, mất sức, người nghèo, người có thu
nhập thấp.
Bên cạnh những kết quả đạt được, sau một thời gian cọ sát với thực tế
và quá trình đổi mới đất nước, chính sách BHYT đã bộc lộ những điểm chưa
phù hợp, làm hạn chế hiệu quả hoạt động của BHYT và gây ra sự mất an toàn
của quỹ BHYT. Điều lệ 299/HĐBT quy định mức đóng góp BHYT có tỷ lệ
nhất định nhưng lại không có giới hạn của mức hưởng và không cân đối được
thu chi gây thất thoát nguồn quỹ.
Để phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội hiện nay và khắc phục những
điểm chưa phù hợp trong cơ chế tổ chức quản lý BHYT cũ, tạo điều kiện cho
BHYT hoạt động có hiệu quả và ngày càng lớn mạnh . Ngày 13/08/1998
Chính phủ ban hành Nghị định 58/1998/NĐ-CP về điều lệ bảo hiểm mới của
BHYT. Có thể nói Nghị định 58 đã đánh dấu một bước đổi mới quan trọng.
Đó là đã giải quyết được những điểm bất hợp lý trong thời gian trước, đòng
thời hoà nhập được vào quỹ đạo của nền kinh tế, dần từng bước hoàn thiện và
nâng cao việc thực hiện BHYT cho cộng đồng mà Đảng và Nhà nước đã lưạ
chọn.
Chương II : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BHYT Ở VIỆT NAM.
I. Một số nội dung cơ bản của điều lệ BHYT ban hành kèm nghị định 299/HĐBT
ngày 15/08/1992.
1. Đối tượng tham gia BHYT.
5
Theo điều lệ BHYT chỉ bao gồm 4 loại đối tượng phải tham gia BHYT
bắt buộc là các lao động làm việc tại:
- Đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức Đảng, đoàn thể, hội quần chúng
có hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
- Các doanh nghiệp quốc doanh, kể cả các doanh nghiệp trong lực
lượng vũ trang , các đơn vị thực hiện hạch toán kinh tế, hạch toán lấy thu bù
chi trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức Đảng, đoàn thể xã hội, hội

quần chúng.
- Các doanh nghiệp gồm: doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thuê từ 10
lao động trở lên, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp trong khu chế
xuất.
- Các tổ chức, văn phòng đại diện của nước ngoài các tổ chức quốc tế
đặt tại Việt Nam có thuê lao động là người Việt Nam.
Các đối tượng còn lại trong xã hội có thể tham gia BHYT tự nguyện.
Bên cạnh các đối tượng tham gia BHYT, điều lệ BHYT vẫn thực hiện chế độ
miễn giảm viện phí đối với các đối tượng được quy định tại điêù 3 Quyết định
số 45/HĐBT ngày 24/04/1989 của Hội đồng Bộ trưởng.
2. Quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia BHYT.
a. Người được BHYT
* Quyền lợi của người được BHYT.
- Được cấp thẻ BHYT
- Được KCB tại các cơ sở y tế thuận lợi nhất theo hướng dẫn của cơ
quan BHYT
- Trong trường hợp cấp cứu, người được BHYT đều được hưởng BHYT tại
bất cứ cơ sở y tế nào của Nhà nước, kể cả các cơ sở KCB không ký hợp đồng
với BHYT.
- Được cơ quan BHYT chi trả trợ cấp BHYT khi KCB.
- Được yêu cầu BHYT bảo vệ các quyền lợi theo quy định của điều lệ
BHYT và có quyền khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền khi các bên tham
gia không thực hiện đúng BHYT.
6
* Trách nhiệm của người được BHYT.
- Thực hiện đúng các quy định của điều lệ BHYT.
- Bảo quản và sử dụng đúng thẻ BHYT theo đúng quy định.
- Tại nơi khám và điều trị bệnh, người được BHYT phải KCB theo
đúng nơi đăng ký thẻ BHYT, trừ trường hợp cấp cứu và được chuyển viện

phù hợp với tuyến chuyên môn kỹ thuật theo đúng quy định của Bộ Y Tế.
b. Cơ quan BHYT
* Cơ quan BHYT có quyền
- Xác định mức phí đóng BHYT theo đúng quy định.
- Yêu cầu các cơ sở KCB làm rõ các chi phí KCB cho người được
hưởng BHYT.
- Từ chối chi trả BHYT đối với những trường hợp KCB vi phạm hợp
đồng.
- Huỷ bỏ hợp đồng với những cơ sở y tế vi phạm những quy định hợp
đồng.
* Trách nhiệm của cơ quan BHYT.
- Tổ chức cấp thẻ và quản lý việc sử dụng thẻ BHYT.
- Ký hợp đồng với các cơ sở y tế.
- Chi trả trợ cấp KCB với những thẻ BHYT do cơ quan phát hành.
- Bảo vệ quyền lợi của người được BHYT.
- Giải quyết khiếu nại của người được BHYT.
Cơ quan BHYT không có trách nhiệm chi trả trợ cấp KCB cho người được
BHYT trong trường hợp tự tử, say rượu, dùng chất ma tuý, vi phạm pháp luật.
c. Các cơ sở KCB.
* Quyền lợi của các cơ sở KCB
7
- Yêu cầu cơ quan BHYT thanh toán các chi phí về BHYT theo hợp
đồng.
- Có quyền huỷ bỏ hợp đồng với cơ quan BHYT nếu cơ quan này vi
phạm hợp đồng trước.
* Trách nhiệm của các cơ sở KCB.
- Thực hiện đúng hợp đồng phục vụ người bệnh đã ký kết với cơ quan
BHYT.
- KCB theo đúng phác đồ hướng dẫn điều trị.
- Kiểm tra thẻ BHYT, phát hiện và thông báo với cơ quan BHYT

những trường hợp vi phạm hoặc lạm dụng việc sử dụng thẻ BHYT.
3. Phí BHYT.
- Đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách chưa thực hiện cải
cách chế độ tiền lương mức phí đóng BHYT là 10% tổng quỹ lương cấp bậc
chức vụ tính theo quyết định số 203/HĐBT ngày 28/12/1988 của HĐBT.
Trong đó cơ quan người sử dụng lao động đóng 2% và người lao động đóng
1% phí BHYT.
- Đối với các doanh nghiệp thì mức phí là 3% tổng thu nhập, người sử
dụng lao động 2% phí và người lao động đóng 1% phí.
- Đối với người hưu trí, mất sức là 10% lương hưu, trợ cấp cho cơ quan
Bảo Hiểm Xã Hội có trách nhiệm đóng.
- Múc phí đóng BHYT tự nguyện sẽ được quy định bởi Bộ Y Tế.
Mức phí này ban hành theo nghị định 299/HĐBT không cố định và được thay
đổi phù hợp với mức tiền lương thu nhập và giá cả trong từng thời kỳ.
4. Mức hưởng BHYT.
Các đối tượng có thẻ bảo hiểm y tế khi đi khám chữa bệnh tại các cơ sở
y tế đăng ký ban đầu(ghi trong thẻ bảo hiểm y tế ) sẽ được cơ quan bảo hiểm
y tế trả toàn bộ viện phí bao gồm các chi phí đã ghi trong hợp đồng.
5. Quỹ bảo hiểm y tế :
Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý phân tán không tập trung 98% quỹ bảo
hiểm y tế được tập trung tại các cơ quan bảo hiểm y tế tỉnh thành phố trực
8
thuộc trung ương và ngành quản lý, còn 2% quỹ bảo hiểm y tế thì trích nộp
cho bảo hiểm y tế Việt Nam .
Theo Điều lệ quy định tiền Bảo hiểm y tế nhàn rỗi chỉ được gửi tiết
kiệm hoặc mua trái phiếu để hưởng lãi suất. Do đó quỹ Bảo hiểm y tế không
phải nộp thuế.
6. Tổ chức của hệ thống Bảo hiểm y tế Việt Nam :
Hệ thống Bảo hiểm y tế Việt Nam theo nghĩa rộng là một hệ thống có
các mốt quan hệ hai bên: Tổ chức bảo hiểm y tế , người tham gia bảo hiểm y

tế và cơ sở khám chữa bệnh thuê hợp đồng với Bảo hiểm y tế .
Nếu theo nghĩa hẹp thì hệ thống Bảo hiểm y tế chỉ bao gồm các bộ
phận và các mối quan hệ trong nội bộ Bảo hiểm y tế.
Bảo hiểm y tế Việt Nam là cơ quan trực thuộc Bộ y tế. Bộ y tế chịu
trách nhiệm thành lập Hội đồng quản trị Bảo hiểm y tế để giám sát mọi hoạt
động của Bảo hiểm y tế Việt Nam. Hội đồng quản trị Bảo hiểm y tế Việt Nam
bao gồm:
-Chủ tịch Hội đồng quản trị do Thứ trưởng Bộ y tế đảm nhiệm.
-Phó chủ tịch Hội đồng quản trị do Vụ trưởng vụ quản lý sức khoẻ Bộ y
tế đảm nhiệm.
-Các thành viên hội đồng quản trị là các đại diện có thẩm quyền của các
bộ: Liên đoàn lao động Việt Nam; Bộ tài chính; Bộ lao động thương binh và
xã hội .
Bảo hiểm y tế Việt Nam là một đơn vị tự hoạch toán, không thu lợi nhuận
nhằm phục vụ công tác, bảo vệ sức khoẻ và công bằng xã hội trong khám
chữa bệnh. Bảo hiểm y tế Việt Nam có trách nhiệm thực hiện Điều lệ Bảo
hiểm y tế trong phạm vi toàn quốc, có chức năng quản lý về chuyên môn
nghiệp vụ đối với Bảo hiểm y tế tỉnh, thành phố, ngành. Ngày 19 tháng 3 năm
1994 theo QĐ số 251/BYT của bộ y tế , Bảo hiểm y tế Việt Nam giao lại
quyền khai thác Bảo hiểm y tế cho các chi nhánh Bảo hiểm y tế Việt Nam tại
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội trên hai địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
và Hà Nội. Như vậy bắt đầu từ quý 2 năm 1994 Bảo hiểm y tế Việt Nam
không có trách nhiệm khai thác Bảo hiểm y tế, chỉ chịu trách nhiệm quản lý
về chuyên môn, nghiệp vụ đối với Bảo hiểm y tế thành viên.
II. Thực trạng của BHYT Việt Nam .
9
1. Giai đoạn từ 1993- 1995.
a. Công tác thu và phát hành thẻ Bảo hiểm y tế .
Đây là công táo hết sức quan trọng, nó tạo điều kiện cho các hoạt động Bảo
hiểm y tế tiếp theo.

BHYT là một loại hình bảo hiểm mang tính nhân đạo nhất. Nó phù hợp
với xu thế phát triển của xã hội nên nhận được sự ủng hộ của cộng đồng.
Nhưng do thời gian đầu hoạt động còn mới mẻ nên sự nhận thức của quần
chúng chưa cao. Nắm rõ được thực trạng này nên Bảo hiểm y tế đã ngày càng
bám sát hơn để có những phương hướng, biện pháp khai thác và phát hành thẻ
ngày càng hoàn thện và có hiệu quả hơn.
Số lượng người tham gia Bảo hiểm y tế ngày càng đông, được thể hiện
qua bảng sau:
Bảng 1: Số thẻ phát hành và tổng thu của BHYT Việt Nam ( 93-95 ).
Năm Số thẻ phát hành Tổng thu
(tỷ đồng)
Bắt buộc (người) Tự
nguyện(người)
Tổng số ( người)
1993 3.199.225 0 3.199.225 111
1994 3.720.150 543.933 4.246.803 256
1995 4.870.009 2.234.178 7.104.187 400
(Nguồn số liệu: BHYT Việt Nam )
Theo số liệu thống kê Bảo hiểm y tế Việt Nam năm 1993 có 3.149.254 người
tham gia Bảo hiểm y tế chiém 5,35% dân số cả nước. Trong đó thu được 63%
đối tượng bắt buộc còn 37% chủ yếu ở khu vực doanh nghiệp trong và ngoài
10
nước chưa tham gia Bảo hiểm y tế gây thất thu cho quỹ BHYT hàng chục tỷ
đồng.
Năm 1994 do việc sửa dổi mức đóng Bảo hiểm y tế sau cải cách tiền
lương nên công tác thu của 6 tháng đầu năm gặp khó khăn. Nhiều cơ quan,
đơi vị chưa tham gia Bảo hiểm y tế vì lí do Nhà nước chưa quy định mức
đóng mới, một số cơ quan chấp nhận tham gia nhưng chỉ tạm thời đóng theo
mức quy định cũ hoặc với 1% lương mới. Cá biệt là một số địa phương phát
hành thẻ BHYT chưa thu tiền dẫn đến thất thu Bảo hiểm y tế. Do những sự

kiện trên công tác thu Bảo hiểm y tế năm 1994 tiến hành rất khó khăn. Năm
1995 số thẻ Bảo hiểm y tế tăng 30% so với năm 1994, số thu Bảo hiểm y tế
bắt buộc tăng 40% so với năm 1994 do mức đóng tăng lên so với năm trước
đó.
b. Chi BHYT.
*Chi KCB BHYT năm 1993.
Đây là năm đầu tiên thực hiện hợp đồng KCB BHYT giữa cơ quan BHYT với
các cơ sở KCB. BHYT Việt Nam chi trả chi phí KCB là 49 tỷ đồng, trong đó
chi cho KCB nội trú là 32 tỷ đồng và cho KCB ngoại trú là 17 tỷ đồng.
* Chi KCB BHYT năm 1994.
Năm 1994 có 5,3 triệu lượt người KCB ngoại trú chiếm 124,29% số người
tham gia BHYT, với tổng chi phí KCB ngoại trú là 55 tỷ đồng bằng 85,94%
so với quỹ KCB ngoại trú.
Số lượt người KCB nội trú là 0,5 triệu lượt người, chiếm 11,73% số người
tham gia BHYT. Tổng chí phí KCB nội trú là 75 tỷ đồng, chiếm 45,07% quỹ
nội trú.
*Chi KCB BHYT năm 1995.
Số lượt người KCB BHYT năm 1995 là 10 triệu lượt người với tổng chi phí là
250 tỷ đồng trong đó:
+Chi KCB ngoại trú là 110 tỷ đồng, chiếm 61,11% quỹ KCB ngoại trú
với 9 triệu lượt người KCB .
+ Chi cho KCB nội trú là 140 tỷ đồng, chiếm 77,78% quỹ KCB nội trú
cho1 triệu lượt người KCB .
11
2. Giai đoạn từ năm 1996- 1998.
a. Tình hình khai thác BHYT .
Tình hình khai thác BHYT trong giai đoạn 1996-1998 được trình bày qua các
bảng sau:
12
13

Qua 2 bảng số liệu trên ta có nhận xét:
Nhìn chung công tác khai thác BHYT qua 3 năm đều đạt kết quả tốt, giữ được
mức tăng trưởng hàng năm cả về số người tham gia BHYT và số thu BHYT .
Thứ nhất: Số thẻ BHYT bắt buộc là chủ yếu, chiếm trên 60% tổng số
thẻ phát hành. Trong đó đối tượng thuộc khu vực doanh nghiệp ngoài quốc
doanh chiếm tỷ lệ rất thấp ( chỉ khoảng 5% ) so với số thẻ BHYT bắt buộc.
Mặt khác mức đóng BHYT bắt buộc của khu vực ngoài quốc doanh nhỏ hơn
nhiều so với mức quy định là 3% tổng thu nhập,. Như vậy mặc dù tỷ lệ tăng
lên qua các năm song quyền được tham gia BHYT của người lao động tại khu
vực ngoài quốc doanh chưa được người sử dụng lao đảm bảo đầy đủ, đặc biệt
là tại các văn phòng,công ty đại diện nước ngoài ở Việt Nam người lao động
hầu như không được BHYT .
Thứ hai: Số người tham gia BHYT bắt buộc đã đạt đến điểm dừng (trừ
khu vực ngoài quốc doanh) còn các đối tượng thuộc khối hành chính sự
nghiệp trong các doanh nghiệp Nhà nước, hưu trí mất sức và ưu đãi xã hội
tăng giảm không đáng kể.
Thứ ba: Số người tham gia BHYT năm 1997 mới chỉ chiếm 12,62%
dân số cả nước. Đối tượng tham gia BHYT tự nguyện chủ yếu là học sinh,
14
sinh viên chiếm tới 93%. Năm 1998 trong tổng số thẻ BHYT tự nguyện số thẻ
BHYT nhân dân chỉ chiếm có 3,4%. Như vậy số người trong xã hội chưa
tham gia BHYT là rất lớn, BHYT Việt Nam chưa thực hiện được công tác xã
hội hoá BHYT. Trong thực tế yêu cầu mở rộng BHYT đến các đối tượng khác
của xã hội ngoài đối tượng bắt buộc là học sinh, sinh viên chưa được chính
quyền các cấp quan tâm.
b.Hoạt động KCB trong BHYT .
Hoạt động KCB BHYT được thể hiện qua bảng số liệu sau đây:
Bảng 4: Hoạt động KCB BHYT trong các năm 1996 - 1998.
Chỉ tiêu \ Năm 1996 1997 1998
1. Số lượt KCB BHYT (nghìn lượt) 11.000 14.000 15.169

- Ngoại trú 10.000 12.800 13.800
- Nội trú 1.000 1.200 1.369
2 Số lần KCB ngoại trú BHYT BQ/năm 1,16 1,353 1,43
3Số lần KCB nội trú BHYT BQ/năm 0,12 0,13 0,14
4Số lần KCB ngoại trú 1người BQ/năm 1,56 1,58 1,60
5Số lần KCB nội trú 1 người BQ/năm 0,07 0,07 0,08
6 Số người KCB BHYT /tổng số TG 1,24 1,47 1,57
7Chi KCB BHYT (triệu đồng ) 410.000 480.000 522.000
- Ngoại trú 170.000 220.000 254.000
- Nội trú 240.000 260.000 268000
15
8 Chi KCB ngoại trú
BHYTBQ(đ/n/năm)
17.000 17.900 18.330
9Chi KCB nội trú BHYT bq (đ/n/năm 240.000 217.000 205.000
Nguồn số liệu: BHYT Việt Nam
Nhận xét: Qua bảng số liệu thống kê tình hình KCB BHYT qua 3 năm từ năm
1996 đến năm 1998 ta thấy có một số điểm đáng chú ý sau:
Một là: Số lượng người khám chữa bệnh BHYT tăng qua các năm với tỷ lệ
là17,5% /năm.
Trong đó: - Tỷ lệ bình quân lượt người KCB ngoại trú BHYT là 18,1%/năm.
- Tỷ lệ tăng bình quân lượt người KCB nội trú BHYT là 14,1%/năm
Song nếu xét theo từng năm ta thấy mức độ tăng có xu hướng giảm dần cụ
thể:
- Tỷ lệ tăng của năm 1997 so với năm 1996 là 27%/năm
- Tỷ lệ tăng của năm 1998 so với năm 1997 là 8%/năm.
Hai là: Mặc dù số người tham gia BHYT chỉ chiếm 12% dân số cả nước song
tỷ lệ điều trị nội trú là khá cao so với mức bình quân ở đối tượng dân cư khác.
Ba là: Số chi BHYT cũng tăng lên cả về chi KCB nội trú lẫn ngoại trú. Nhưng
số chi KCB nội trú giảm dần từ 240.000đ/người/năm xuống

còn205000đ/người/năm
3. BHYT học sinh - sinh viên qua 5 năm thực hiện
Thực tế cho thấy rằng BHYT học sinh được đông đảo các bậc phụ
huynh, các thầy cô giáo và các em chấp nhận. BHYT đã có những đóng góp
quan trọng trong công tác chăm sóc sức khoẻ ch học sinh sinh viên - thế hệ
tương lai của đất nước.
Sau 5 năm tổ chức thực hiện số học sinh tham gia, số thu tăng dần qua
các năm: Năm học 1994- 1995 mới có 65.000 học sinh tham gia, đến năm
1999 - 2000 đã tăng lên gần 3 triệu học sinh - sinh viên. Từ số thu 8,3 tỷ đồng
năm học 1994-1995 đến năm học 1999-2000 đã tăng lên 55 tỷ đồng. Số tiền
để lại y tế trường học tới gần 20 tỷ đồng mỗi năm, số tiền chi KCB cho học
sinh - sinh viên co BHYT tăng dần từ 5 tỷ đồng năm họ 1994- 1995 lên 33,5
tỷ đồng năm học 1999-2000.
16
Từ khi có BHYT học sinh - sinh viên 35% tổng số thu bảo hiểm để lại
phục vụ cho công tác y tế trường học. Nhờ đó các trường đã khôi phục và
thành lập mới được hệ thống y tế trường học. Những nơi có đông học sinh
tham gia BHYT thì mạng lưới y tế trường học được phát triển tốt. Nhiều tỉnh
như Ninh Bình, Thái Bình, Bình Định, Đồng Tháp, TP Hồ Chí Minh đã xây
dựng được hệ thống y tế trường học ở hầu hết các trường có học sinh tham gia
BHYT. Nhò có nguồn kinh phí BHYT, các trường đã tổ chức khám sức khoẻ
định kỳ cho học sinh, hỗ trợ thực hiện các chương trình nha học đường, mắt
học đường.
Ngoài phần kinh phí 35% số thu để lại nhà trường hàng năm UBND môt số
tỉnh còn cho phép trính từ nguồn kết dư BHYT để mua sắm thêm thiết bị y tế
trường học. Quỹ KCB đã chi trả không giới hạn chi phí KCB cho nhiều
trường hợp học sinh bị bệnh nặng. Trong trường hợp học sinh không may bị
tử vong thì gia đình học sinh đều được quỹ BHYT trợ cấp. Ngoài ra hàng năm
quỹ BHYT còn dành một phần kinh phí không nhỏ để mua thẻ BHYT cho
học sinh nghèo. Danh sách các học sinh nghèo này do Ngành GD - ĐT đề

nghị, nguồn kinh phí mua thẻ BHYT cho các em trích từ nguồn kết dư quỹ
BHYT học sinh. Các tỉnh thường xuyên làm tốt công tác này có thể kể đến là
Hà Nội, Phú Thọ, Thừa Thiên Huế, TP Hồ Chí Minh.
Để đạt được những kết quả nói trên bên cạnh sự nỗ lực rất lớn của hệ
thống các cơ quan BHYT, thì một trong những yếu tố quan trọng không thể
thiếu là sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, sự phối
hợp của các nghành có liên quan đặc biệt là nghành GD - ĐT, nghành y tế
trong việc tổ chức thực hiện BHYT học sinh. Hy vọng trong những năm tới
sự nỗ lực của các nghành, các cấp công tác BHYT học sinh - sinh viên sẽ thu
được nhiều kết quả khả quan.
17
Chương III: SỰ ĐỔI MỚI CỦA BHYT VIỆT NAM .
I. Sự cần thiết của việc sửa đổi điều lệ BHYT.
Ngày 15/08/1992 Hội đồn Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 299/HĐBT về
việc ban hành Điều lệ BHYT, nhằm cụ thể hóa Điều 39 Hiến pháp năm 1992
"thực hiện BHYT để tạo điều kiện mọi người dân đều được chăm sóc sức
khoẻ ". Sau nhiều năm tổ chức thực hiện trong hoành cảnh còn nhiều khó
khăn, chính sách BHYT đã đạt được những kết quả quan trọng như:
- Thực tế triển khai BHYT đã khẳng định BHYT là chính sách xã hội
đúng đắn của Đảng và Nhà nước, phù hợp với tiến trình đổi mới là giải pháp
nâng cao chất lượng KCB góp phần thực hiện công bằng trong chăm sóc sức
khoẻ được nhân dân và xã hội chấp nhận.
- BHYT đã góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
- Đã hình thành được hệ thống BHYT trên phạm vi cả nước ngày càng
đông đã thiết thực hỗ trợ kinh phí góp phần nâng cao chất lượng KCB.
- Đối tượng tham gia ngày càng được mở rộng đặc biệt là BHYT tự
nguyện học sinh - sinh viên.
- BHYT Việt Nam đã hợp tác với nhiều tổ chức BHYT của các nước
trong khu vực và các tổ chức quốc tế để học tập kinh nghiệm quản lý BHYT
và tranh thủ sự hỗ trợ trong phát triển chính sách BHYT ở Việt Nam .

Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu trên đây, NĐ299/HĐBT đã bộc lộ những
vấn đề không còn phù hợp cho tiến trình phát triển, làm giảm những gía trị
đích thực trong bản chất vốn có của nó, thậm chí còn kìm hãm sự phát triển
của BHYT Việt Nam. Cụ thể:
- Thiếu công bằng trong việc thực hiện chế độ và nghĩa vụ BHYT.
- Quyền lợi của người tham gia BHYT chưa được đảm bảo.
18
- Điều kiện BHYT hiện hành quy định mức đóng BHYT có giới hạn,
trong khi đó mức hưởng không giới hạn dẫn đến tình trạng mức thu BHYT
không tương ứng với nhu cầu KCB ngày càng cao, chi phí y tế ngày càng
tăng lên nên quỹ BHYT một số nơi không cân đối được thu - chi.
- Điều lệ BHYT chưa quy định chế độ BHYT cho đối tượng ưu đãi xã hội, đại
biểu HĐND các cấp, cán bộ công tác tại xã, phường mặc dù trong thực tế họ
đã và đang tham gia BHYT.
- Điều lệ BHYT chưa có những quy định cụ thể, phù hợp về BHYT tự nguyện
dẫn đến việc tổ chức thực hiện BHYT gặp nhiều khó khăn. BHYT chưa phát
huy được tính cộng đồng, chưa thực hiện đầy đủ công tác chăm sóc sức khoẻ
cho nhân dân theo tinh thần Đại hội VI đã đề ra đối với sự nghiệp chăm sóc
sức khoẻ cho nhân dân.
- Hệ thống BHYT tổ chức quản lý theo từng địa phương như hiện nay
dẫn đến sự thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ trong tổ chức thực hiện chính sách
BHYT cũng như việc điều hoà giữa các vùng không thực hiện được.
Trước những yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng cao, mặt khác để giải quyết
những vấn đề bức thiết và trang trải nảy sinh đông thời đề ra được những định
hướng và bước đi đúng của hợp đồng Bảo hiểm y tế trong những năm tiếp
theo, cần phải tổ chức lại hệ thống Bảo hiểm y tế trên cơ sở sửa đổi một cách
cơ bản Điều lệ Bảo hiểm y tế .
II. Nguyên tắc xây dựng điều lệ Bảo hiểm y tế :
Để khắc phục các tồn tại của Điều lệ Bảo hiểm y tế hiện hành, đồng
thời chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân ngày càng tốt hơn. Điều lệ

Bảo hiểm y tế mới được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản sau :
Để thực hiện xã hội hoá Bảo hiểm y tế cần mở rộng chính sách Bảo
hiểm y tế đa dạng hoá các loại hình Bảo hiểm y tế để đông đảo tầng lớp dân
cư đặc biệt là người nghèo được tham gia và chăm sóc theo chế độ Bảo hiểm
y tế , vì lợi ích cá nhân và cộng đồng.
- Để đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người có thẻ Bảo hiểm y tế cần
phải xác định rõ hơn trách nhiệm, nghĩa vụ các cơ quan , đơn vị trong việc tổ
chức thực hiện chế độ Bảo hiểm y tế .
- Đảm bảo cân đối được quỹ Bảo hiểm y tế .
19
- Thực hiện công bằng xã hội , khắc phục tình trạng phân biệt đối xử
trong khám chữa bệnh như hiện nay .
- Thống nhất công tác quản lý hệ thống Bảo hiểm y tế .
- Cần có sự hỗ trợ của Ngân sách vì Bảo hiểm y tế là một chính sách xã
hội của Đảng và Nhà nước trong công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho
nhân dân.
III. Những nội dung mới cơ bản của điều lệ Bảo hiểm y tế ban hành theo Nghị
định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/08/1998:
1. Đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế :
Theo quy định trong điều lệ Bảo hiểm y tế mới , các đối tượng tham gia
Bảo hiểm y tế bắt buộc, bao gôm:
- Người lao động làm việc trong : doanh nghiệp Nhà nước , kể cả doanh
nghiệp thuộc lực tượng vũ trang; các tổ chức kinh tế thuộc cơ quan hành
chính sự nghiệp, cơ quan Đảng , tổ chức chính trị xã hội ; các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài , khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung , các tổ
chức quốc tế tại Việt Nam . Trừ trường hợp các điều ước Quốc tế mà cộng
hoà XHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Các đơn vị , tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở
lên.
- Cán bộ , công chức làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp,

người làm việc trong các cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ xã
phường , thị trấn hưởng sinh hoạt phí hàng tháng theo quy định tại Nghị định
số 09/1998/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 1998 của Chính phủ, người làm
việc trong các cơ quan dân cư trung ương đến cấp xã, phường.
- Người đang hưởng chế độ hưu trí , hưởng trợ cấp Bảo hiểm y tế hàng
tháng do suy giảm khả năng lao động .
- Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật.
- Các đối tượng bảo trợ xã hội được Nhà nước cấp kinh phí thông qua
Bảo hiểm y tế với mọi đối tượng trong xã hội có nhu cầu tham gia Bảo hiểm y
tế , kể cả người nước ngoài đến du lịch làm việc học tập tại Việt Nam . Bảo
hiểm y tế tự nguyện bao gồm các loại hình sau:
20
. Bảo hiểm , chữa bệnh ngoại trú.
. Bảo hiểm khám, chữa bệnh nội trú.
. Chế độ Bảo hiểm y tế bổ sung cho Bảo hiểm y tế bắt buộc.
. Các loại hình Bảo hiểm y tế tự nguyện khác.
Như vậy, so với Điều lệ Bảo hiểm y tế ban hành theo Nghị định số 299-
HĐBT chỉ quy định 4 loại đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế bắt buộc, đồng
thời vẫn áp dụng chế độ miễn viền phí cho đối tượng đặc biệt theo QĐ
45/HĐBT ban hành ngày 24/04/1989 của Hội đồng bộ trưởng . Điều lệ Bảo
hiểm y tế bắt buộc được mở rộng đến cán bộ phường, xã các đối tượng bảo
trợ xã hội được Nhà nước cấp kinh phí đóng Bảo hiểm y tế và những người có
công với nước theo Pháp lệnh ưu đãi người có công.
Mặt khác, việcquy định đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế bắt buộc như
vậy ở Điều lệ Bảo hiểm y tế cũ vẫn tồn tại song hành 2 chế độ khám chữa
bệnh gây khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước và đặc biệt là quản lý tài
chính đối với các cơ sở KCB với sự tài trợ còn rất hạn hẹp của Ngân sách Nhà
nước. Còn theo Điều lệ BHYT mới thì việc sử dụng dịch vụ BHYT đã tiến
triển chế độ KCB đối tượng bắt buộc chủ yếu được Ngân sách Nhà nước cấp.
2. Quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia BHYT :

a. Người được BHYT :
* Chế độ được hưởng từ BHYT khi KCB ngoại trú, nội trú gồm:
- Khám bệnh, chuẩn đoán và điều trị.
- Xét nghiệm, chiến chụp X-quang thăm dò chức năng.
- Thuốc trong danh mục theo quy định của Bộ y tế .
- Máu, dịch truyền.
- Các thủ , phẫu thuật.
- Sử dụng vật tư , thiết bị y tế và giường bệnh.
* Được thanh toán viện phí theo chế độ BHYT khi sinh con thứ nhất và
thứ hai.
21
* Được yêu cầu cơ quan BHYT bảo đảm quyền lợi theo quy định của
Điều lệ BHYT .
* Được khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi người sử
dụng lao động , cơ quan BHYT , các cơ sở KCB vi phạm Điều lệ BHYT .
b. Cơ quan, đơn vị và người sử dụng lao động :
* Quyền lợi:
- Từ chối thực hiện những yêu cầu của cơ quan BHYT và các cơ sở
KCB không đúng với quy định của Điều lệ BHYT .
- Khiếu nại với các cơ quan Nhà nứoc có thẩm quyền khi cơ quan
BHYT và các cơ sở KCB vi phạm Điều lệ BHYT . Trong thời gian khiếu nại
vào vẫn phải thực hiện trách nhiệm đóng BHYT theo quy định Điều lệ này.
* Trách nhiệm:
- Đóng BHYT theo đúng quy định của Điều lệ BHYT .
- Cung cấp cho cơ quan BHYT các tài liệu về lao động , tiền lương tiền
công , phụ cấp liên quan đến việc đóng và thực hiện chế độ BHYT .
- Chấp hành sự kiểm tra , thanh tra về thực hiện chế độ BHYT của các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
c. Cơ sở khám chữa bệnh:
Điều lệ BHYT mới đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm của cơ sở KCB trong

việc đảm bảo quyền lợi cho người có thẻ BHYT . Bao gồm:
- Thực hiện đúng hợp đồng KCB BHYT .
- Thực hiện việc ghi chép và cung cấp các tài liệu liên quan KCB cho
người được Bảo hiểm y tế , làm cơ sở thanh toán và giải quyết các tranh chấp
về BHYT .
- Chỉ định sử dụng thuốc, vật phẩm sinh học, thủ thuật, phẫu thuật, xét
nghiệm và các dịch vụ y tế an toàn, hợp lý theo quy định về chuyên môn kỹ
thuật của Bộ y tế .
3. Phí BHYT :
22
Khác với điều lệ cũ, điều lẹ BHYT quy định , chỉ sau trách nhiệm
phương thức đóng và mức phí cho từng nhóm đối tượng tham gia BHYT .
Đối với BHYT bắt buộc , mức phí đóng vẫn là 3% tiền lương. Trong đó
, người sử dụng đóng 2% và người lao động đóng 1%.
Đối với BHYT tự nguyện, liên bộ tài chính - y tế quy định khung mức
đóng và mức hưởng BHYT cho các loại hình :
- BH KCB nội trú.
- Bảo hiểm KCB ngoại trú.
- Chế độ BHYT bổ sung cho BHYT bắt buộc.
- Các loại hình BHYT tự nguyện khác.
Để cho người tham gia BHYT thuận tiện hơn về mặt thủ tục , Điều lệ BHYT
mới quy định các cơ quan , người sử dụng lao động có thể ký hợp đồng với cơ
quan BHYT về việc đóng tiền và nhận thẻ BHYT cho người lao động .
4 Mức hưởng BHYT :
Theo quy định tại Điều 7 chương II Điều lệ BHYT ban hành theo NĐ 58/CP
- Quỹ BHYT chi trả 80% chi phí KCB theo giá viện phí ;20% còn lại
người bệnh tự trả trực tiếp cho cơ sở KCB.
- Quỹ BHYT sẽ đài thọ toàn bộ theo giá viện phí cho đối tượng thực
hiện ưu đãi xã hội .
- Trong trường hợp người bệnh tự trả 20% chi phí KCB trong năm vượt

quá 6 tháng lương tối thiểu thì quỹ BHYT sẽ đảm nhận chi trả toàn bộ cho các
chi phí còn lại tiếp tục trong năm.
Riêng với BHYT tự nguyện quỹ BHYT chi trả chi phí KCB phù hợp với mức
đóng và loại hình BHYT tự đã lựa chọn. Nếu mức đóng BHYT tự nguyện
tương đương với mức đóng BHYT bắt buộc bình quân trong khu vực thì
người có thẻ BHYT tự nguyện sẽ được hưởng chế độ BHYT như quy định đối
với BHYT bắt buộc.
5. Quỹ BHYT :
23
Khác với quy định tại NĐ 299, NĐ58/1998/CP quy định quỹ BHYT được
quản lý tập trung thống nhất trong toàn bộ hệ thống BHYT , hoạch toán độc
lập với Ngân sách Nhà nước.
- Tiền đóng BHYT được dành 91,5% cho quỹ KCB trong đó dành 5%
lập quỹ dự phòng KCB .
- Trong khi sử dụng phần quỹ này nếu không dùng hết được kết chuyển
vào quỹ dự phòng.
- Trong trường hợp sử dụng quỹ cho KCB trong năm bị thâm hụt thì
được bổ sung từ quỹ dự phòng.
- Dành 8,5%cho chi phí quản lí thường xuyên quỹ dự phòng BHYT
Việt Nam theo dự toán hàng năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt và theo
chế độ chi tiêu của Nhà nước.
- Tiền nhàn rỗi tạm thời của quỹ ( nếu có ) được phép mua tín phiếu,
trái phiếu kho bạc Nhà nước, của Ngân hàng thương mại quốc doanh và được
phép thực hiện các biện pháp nhằm bảo toàn tăng trưởng quỹ BHYT nhưng
phải bảo đảm nguồn chi cần thiết.
Đối với nguồn thu từ BHYT tự nguyện được hạch toáh riêng và sử dụng để
chi cho các đối tượng sau:
1. Chi trả chi phí KCB cho người có thẻ BHYT theo quy định.
2. Chi cho các đại lí thu, phát hành thẻ BHYT tự nguyện.
3. Chi quản lí thường xuyên của cơ quan BHYT .

Nguồn quỹ này được quản lý thống nhất bởi BHYT Việt Nam , liên Bộ y tế ,
Tài chính sẽ có quy định chi tiết và hướng dẫn sử dụng quỹ BHYT tự nguyện.
6. Tổ chức quản lý hệ thống BHYT Việt Nam .
- Theo quy định tại đièu 25 chương VII Điều lệ BHYT mới BHYT Việt
Nam được thành lập và quản lí tập trung theo nghành dọc . BHYT Việt Nam
trựcthuộc Bộ y tế. BHYT Việt Nam bên cạnh các cơ quan chức năng tại trung
ương bao gồm BHYT các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ươngvà chi nhánh
BHYT đàt tại các huyện quận , thị xã thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố do
BHYT tỉnh, thành phố trực tiếp điều hành.
24
BHYT Việt Nam có nhiệm vụ quyền hạn về tổ chức triển khai thực hiện điều
lệ BHYT , quản lý thu chi quỹ BHYT trong cả nước, đề xuất các phương án
bảo toàn tăng trưởng quỹ BHYT và tổ chức thực hiện sau khi được cấp có
thẩm quyền phê duyệt, trong ấn , phát hành và quản lí thẻ BHYT. Đông thời
quản lý tổ chức cán bộ công chức lao động cơ sở vật chất kỹ thuật trong toàn
bộ hệ thống cơ quan BHYT theo quy định của Nhà nước.
Tổ chức quản lý BHYT bao gồm:
a. Hội đồng quản lý BHYT Việt Nam bao gồm chủ tịch, phó chủ tịch và các
thành viên.
- Chủ tịch là một lãnh đạo Bộ y tế do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm
- Các thành viên Hội đồng quản lý là đại diện có thẩm quyền của các
Bộ y tế , Tài chính, Lao động thương binh và Xã hội Tổng liên đoàn lao động
Việt Nam và BHYT Việt Nam .
b. Hội đồng quản lý BHYT Việt Nam cơ quan quản lý giám sát hoạt động của
BHYT Việt Nam có nhiệm vụ và quyền hạn:
-Chỉ đạo giám sát việc thực hiện quản lý thu chi quỹ BHYT .
- Phê duyệt phương án điều hoà quỹ trong toàn hệ thống.
- Quyết định các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
- Phê duyệt dự án và quyết toán hàng năm của BHYT Việt Nam.
- Phê duyệt phương án tổ chức, đề nghị tách nhập giải thể các đơn vị thành

viên, đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng Giám đốc BHYT Việt Nam .
25

×