Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
Phần I - Lời mở đầu
Trong thời đại ngày nay, thời đại của khoa học công nghệ và thông tin, mở cửa
và giao lu hợp tác kinh tế quốc tế là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế
của các quốc gia. Trong cơ chế thị trờng tự do cạnh tranh đã cho phép các quốc gia
khai thác tối đa các nguồn lực trong nớc, khai thác triệt để các lợi ích so sánh đầu t,
lựa chọn phơng án sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất. Quá trình hội nhập kinh
tế đã đẩy mạnh mức tăng trởng kinh tế của các nớc, đời sống của con ngời ngày
càng đợc nâng cao. Tuy nhiên, đi cùng với nó, các khuyết tật của cơ chế thị trờng
ngày càng thể hiện rõ và có chiều hớng gia tăng, các cuộc khủng hoảng kinh tế diễn
ra trên quy mô lớn gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế, khoảng cách chênh lệch
giữa ngời giàu và ngời nghèo ngày càng một tăng,mất công bằng xã hội. Trớc tình
hình đó, các nớc đều chọn mô hình phát triển kinh tế có sự quản lý, điều tiết của
Nhà nớc để ổn định mức tăng trởng kinh tế, phát triển xã hội theo một hớng đã định
trớc.
ở nớc ta từ đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển nền kinh tế
Việt Nam từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trờng có sự
quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Cùng với quá trình chuyển
đổi là cả quá trình chuyển đổi vai trò quản lý của Nhà nớc đối với nền kinh tế. Từ
thực tế tồn tại vai trò quản lý của Nhà nớc còn nhiều yếu kém, cha thích hợp, đặc
biệt là qua cuộc khủng hoàn kinh tế Đông Nam á vừa qua, đòi hỏi chúng ta phải
nghiên cứu để hoàn thiện vai trò lãnh đạo điều tiết kinh tế của Nhà nớc, nâng cao
hiệu quả sản xuất - kinh doanh, tăng trởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, sao
cho vai trò quản lý của Nhà nớc thích ứng với tình hình hiện nay, là nhân tố quan
trọng tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong đề tài này chúng ta nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về vai trò kinh tế
của Nhà nớc trong cơ chế thị trờng hiện nay ở nớc ta và các biện pháp để nâng cao
vai trò đó. Đây là vấn đề mang tính cấp bách và trọng điểm hiện nay ở nớc ta trong
tình hình diễn biến kinh tế thế giới diễn ra vô cùng phức tạp. Đề tài đợc trình bày từ
những vấn đề lý luận chung về vai trò kinh tế của Nhà nớc và đi đến thực tiễn hiện
nay ở Việt Nam, các giải pháp cần thực hiện trong quá trình đổi mới. Phần kết luận,
đề này tổng kết những vấn đề đã trình bày và trình bày một số ý kiến cá nhân.
Phần II - Phần nội dung
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
1
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
I- Lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nớc
1.Vai trò kinh tế của Nhà nớc nói chung trong lịch sử.
a. Sự ra đời của Nhà nớc từ nguyên nhân kinh tế.
Lịch sử phát triển xã hội loài ngời đến nay đã trải qua bốn hình thái kinh tế -
xã hội, đó là: chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, t bản chủ nghĩa và cao nhất là
hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa. Bắt đầu từ nền sản xuất tự cung, tự cấp,
đời sống của con ngời ngày một cải thiện, của cải d thừa đã làm xuất hiện các quan
hệ sở hữu. Cùng với thời gian, quan hệ sở hữu ngày càng phát triển, nó phân tách
xã hội loài ngời thành hai lớp là giai cấp t sản và vô sản. Các hình thức sở hữu cũng
ngày càng đa dạng và phong phú, quan hệ sở hữu đã gắn các tập đoàn có cùng lợi
ích kinh tế với nhau thành các tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Sự phát triển của nền
sản xuất xã hội và lực lợng sản xuất ngày càng phân rẽ quyền lực của các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội. Trong xã hội có một giai cấp tiên tiến nhất, nắm trong tay
quyền lực về kinh tế đã đứng lên thành lập Nhà nớc của giai cấp mình nhằm bảo vệ
lợi ích tối đa của giai cấp mình đồng thời dung hòa các lợi ích của các giai cấp, tầng
lớp khác, lãnh đạo xã hội phát triển theo mục tiêu, quyền lực của đại đa số các tầng
lớp giai cấp trong xã hội. ứng với giai đoạn lịch sử có một giai cấp tiên tiến và thành
lập Nhà nớc của giai cấp ấy. Trải qua một thời gian dài đã có các hình thức Nhà nớc
sau: Nhà nớc chủ nô, Nhà nớc phong kiến, Nhà nớc t bản chủ nghĩa, Nhà nớc xã hội
chủ nghĩa. Nh vậy Nhà nớc ra đời là từ nguyên nhân kinh tế, từ lợi ích kinh tế của
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Cũng từ đặc điểm trên cho thấy, Nhà nớc bao giờp cũng bảo vệ lợi ích của một
giai cấp nhất định. Nhà nớc đợc do một giai cấp cơ bản tiên tiến thành lập ra để
phục vụ quyền lợi kinh tế của mình một cách tối đa nhất. Giai cấp lãnh đạo thông
qua Nhà nớc của giai cấp mình để điều hành, quản lý xã hội, hớng các lợi ích kinh
tế về phía giai cấp mình, bảo đảm lợi ích kinh tế của giai cấp mình thông qua các
chính sách, các quy định pháp luật buộc xã hội phải tuân theo.
Khi còn giai cấp, còn sự phân chia quyền lợi thì còn có Nhà nớc, chỉ khi nào
trong xã hội mọi ngời đều bình đẳng về quyền lợi kinh tế, xã hội không còn giai cấp
thì khi đó Nhà nớc mới mất đi. Nhà nớc hình thành từ kinh tế và tồn tại cùng với
nền kinh tế.
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
2
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
b. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, vai trò kinh tế của Nhà nớc có các mức độ
và hình thức biểu hiện khác nhau.
Trớc hết xuất phát từ bản chất của Nhà nớc: Nhà nớc ra đời từ nguyên nhân
kinh tế.Sự phát triển của nền sản xuất xã hội đã tạo tiền đề cho sự phát triển chung
của toàn xã hội về mọi mặt, hình thành nên các quan hệ sở hữu đa dạng hơn về các
t liệu sản xuất, nó phân hoá xã hội loài ngời thành các tập đoàn ngời có lợi ích kinh
tế khác nhau, thành các giai cấp có địa vị kinh tế và xã hội khác nhau. Và trong xã
hội đó có một giai cấp tiên tiến nhất và là giai cấp chủ yếu lập nên Nhà nớc của giai
cấp mình để lãnh đạo xã hội, đồng thời bảo vệ lợi ích của giai cấp mình dung hoà
đến mức tối đa lợi ích của các giai cấp khác trong xã hội. Trong mỗi giai đoạn lịch
sử, nền kinh tế xã hội có các mức phát triển khác nhau, lợi ích và địa vị kinh tế - xã
hội của các giai cấp cũng khác nhau, do đó vai trò điều tiết về kinh tế của Nhà nớc
cũng khác nhau. Song, sự phát triển của một nền sản xuất xã hội gắn liền với sự
phát triển của lực lợng sản xuất và trình độ sản xuất, các nhận thức và đánh giá về
kinh tế của con ngời ngày càng cao do đó nó đòi hỏi các cơ chế quản lý và các hình
thức can thiệp của Nhà nớc vào nền kinh tế phải có sự thay đổi cho phù hợp.
Nhà nớc là công cụ của giai cấp thống trị đợc sử dụng để duy trì trật tự xã hội
sao cho phù hợp với lợi ích của nó. Chức năng ban đầu của Nhà nớc là quản lý hành
chính bao gồm các lĩnh vực chủ yếu sau:
- Quản lý lãnh thổ, thiết lập quan hệ bang giao với các nớc (chức năng đối
ngoại).
- Quản lý trật tự xã hội, sắp xếp mối quan hệ giữa các cá nhân, giai cấp, các
tầng lớp,các cộng đồng dân tộc sao cho phù hợp với ý chí giai cấp đã sản sinh ra
nó (chức năng đối nội).
Để thực hiện hai chức năng này các Nhà nớc đều phải có những cơ sở kinh tế
nhất định. Trong lịch sử phát triển các Nhà nớc đã có các phơng pháp khác nhau để
nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ chức năng quản lý của mình. Lịch sử xã hội loài ngời
đã chứng tỏ rằng trong sự phát triển của mình, do yêu cầu quản lý xã hội, chức năng
quản lý kinh tế của Nhà nớc luôn gắn liền với chức năng quản lý hành chính. Trong
các Nhà nớc đơng đại không có Nhà nớc nào đứng trên kinh tế hay ngoài kinh tế.
Lịch sử cũng đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nớc đợc phôi thai ngay từ
buổi ban đầu khi Nhà nớc vừa mới chỉ xuất hiện,sau đó mới đợc nhận thức và ứng
dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế xã hội.
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
3
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ: Nhà nớc chủ nô - kiểu Nhà nớc đầu tiên trong
lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải đ-
ợc sản xuất ra. Trong thời đại của Nhà nớc chủ nô, của cải đợc sản xuất ra bởi
những ngời nô lệ dới sự chỉ huy điều khiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô,
nhng khối lợng của cải ấy không đợc "phân phối" mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt
bằng bạo lực, các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây đợc sử dụng làm công cụ để
chiếm đoạt, cỡng bấc kinh tế.
Trong thời đại phong kiến, Nhà nớc phong kiến không chỉ can thiệp vào việc
phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lợng nhân dân xây dựng kết cấu hạ
tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các vùng
đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ. Nhìn chung các
hoạt động diễn ra tự phát, tuy nhiên trong sự khác biệt với các Nhà nớc phong kiến
phơng tây, chức năng quản lý kinh tế đợc các Nhà nớc phong kiến phơng đông nhận
thức sớm hơn.
ở Việt Nam, t tởng Nhà nớc can thiệp vào nền kinh tế cũng đợc hình thành rất
sớm. Trên thực tế Nhà nớc phong kiến đã can thiệp và đã thu đợc cả những thành
công và cả không thành công, trong đó sự can thiệp sớm nhất xuất hiện vào triêu đại
nhà Lý thế kỷ X trớc công nguyên. Với chế độ phong cấp ruộng đất của nhà Lý đã
dẫn đến sự hình thành các thái ấp và tất cả các thái ấp phải chịu sự kiểm soát của
triều đình. Từ một số ít ruộng đất vĩnh viễn biến thành ruộng t còn phần lớn ruộng
đất phong cấp thuộc quyền sở hữu của Nhà nớc phong kiến. Ngời đợc phong chỉ có
quyền chiếm giữ và sử dụng. Đó là nguyên tắc phong cấp không triệt để nhằm bảo
vệ chế độ sở hữu của Nhà nớc về ruộng đất và duy trì quyền lực của chính quyền
trung ơng. Nh vậy, ngoài các đặc điểm chung với các Nhà nớc phong kiến phơng
tây, Nhà nớc phong kiến Việt Nam ngay từ buổi đầu đã ý thức rất rõ về quyền sở
hữu và quyền sử dụng ruộng đất nói riêng và của cải nói chung. Do đó một mặt trao
quyền sử dụng cho quan lại, mặt khác áp dụng các biện pháp để củng cố quyền sở
hữu và kiểm soát đợc hoạt động của quan lại, mặt khác áp dụng các biện pháp để
củng cố quyền sở hữu và kiểm soát đợc hoạt động của quan lại, Nhà nớc cũng liên
tục đa ra nhiều biện pháp để kiểm soát, duy trì và củng cố quyền lực của Nhà nớc
trung ơng.
Trên thế giới vào thế kỷ thứ 15, chủ nghĩa t bản đợc hình thành, quá trình tích
luỹ nguyên thuỷ t bản đợc thực hiện - nền kinh tế thị trờng từng bớc đợc hình thành.
Để giúp cho kinh tế phát triển nhanh, giai cấp t sản cần có "bà đỡ". Nói cách khác
là cần có sự hỗ trợ của Nhà nớc, chính vì vậy mà vai trò quản lý kinh tế của Nhà n-
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
4
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
ớc t sản ngày càng đợc xác lập và nâng cao.Trớc hết, Nhà nớc t sản đã thực hiện đợc
một chính sách tiền tệ hết sức nghiêm ngặt, họ tìm mọi cách tích lũy tiền tệ, không
cho tiền tệ chạy ra ngoài. Nhà nớc của các nớc t bản trong giai đoạn này đã đề ra
luật buộc các thơng nhân nớc ngoài không đợc mang tiền ra khỏi nớc họ, chỉ đợc
phép mang hàng mà thôi. Nhà nớc còn qui định những nơi đợc phép buôn bán để
tiện lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát. Trong chính sách ngoại thơng họ dùng hàng
rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao và thuế xuất khẩu các hàng sản xuất
ở trong nớc thấp, chỉ xuất thành phẩm chứ không xuất nguyên liệu, cấm nhập các
mặt hàng xa xỉ phẩm. Mặt khác Nhà nớc còn thực hiện việc hỗ trợ cho các thơng
nhân trong nớc các phơng tiện vật chất và tài chính khi họ tham gia buôn bán quốc
tế. Đồng thời Nhà nớc cũng qui định nghiêm ngặt tỷ giá hối đoái, cấm trả cho ngời
nớc ngoài cao hơn mức qui định của Nhà nớc. Nhờ các chính sách đó, các nớc t bản
đã tích luỹ đợc một lợng của cải và tiền tệ đáng kể. Vì vậy đầu thế kỷ 18 giai cấp t
sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất. Nhờ áp dụng các kỹ thuật và công
nghệ mới, nền sản xuất ở các nớc t bản phát triển rất nhanh- các nhà t bản đua nhau
phát triển các ngành nghề mới và mở rộng qui mô sản xuất. Tự do cạnh tranh đã trở
thành đòi hỏi cấp thiết trong đời sống kinh tế của các nớc này.
Nh vậy, qua mỗi thời kỳ, ứng với một trình độ phát triển của sản xuất, mức độ
can thiệp của Nhà nớc vào kinh tế là khác nhau và bằng các phơng thức khác nhau.
Ngày nay, Nhà nớc tham gia vào quản lý kinh tế nh một tất yếu để tăng hoạt động
sản xuất, kinh doanh, giải quyết các vấn đề xã hội, nhờ đó mà có điều kiện đẩy lùi
khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp.
2. Tính tất yếu khách quan của quản lý vĩ mô của Nhà nớc đối với nền
kinh tế ở nớc ta.
Chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà
nớc là bớc ngoặt quan trọng làm thay đổi đời sống kinh tế, xã hội đất nớc. Sự thành
công hay không của quá trình chuyển đổi quyết định sự thắng lợi hay không của sự
nghiệp đổi mới. Quá trình đổi mới kinh tế những năm qua cho thấy rằng việc
chuyển nền kinh tế nớc ta vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc
là phù hợp với xu hớng phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế, phù hợp với
xu hớng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Chúng ta có thể thấy điều đó nh một tất yếu
khách quan của đất nớc.
a. Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nớc:
* Thực trạng nền kinh tế nớc ta tại xuất phát điểm xây dựng XHCN.
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
5
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
Kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nớc XHCN, đất nớc ta bắt
đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng
về t liệu sản xuất. Tuy nhiên, sau một thời gian dập khuoôn một mô hình kinh tế cha
thích hợp và kém hiệu quả, hiện trạng nền kinh tế xã hội đã thay đổi theo chiều h-
ớng hết sức xấu. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại hình kinh tế tự
cấp tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Do các quan hệ
kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện
nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tợng tiêu cực. Do chủ quan cứng
nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã
không quản lý các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nớc, trái lại đã dẫn đến việc
sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên
nhiên bị phá hoại, môi trờng bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, Nhà nớc thực hiện
bao cấp tràn lan. Những sự việc đó đã gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự
tăng trởng kinh tế gặp nihều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị
thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm
hầu nh khôngcó. Vốn đầu t chủ yếu dựa vào vay và viện trợ của nớc ngoài. Đến cuối
những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với làm phát cao làm
cho đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phơng nạn đói đang rình
rập. Có thể nó thực trạng nền kinh tế nớc ta trớc khi chuyển sang kinh tế thị trờng là
nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, còn mang nặng tính chất tự cấp, tự túc và chịu
ảnh hởng nặng nền của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực trạng đó đợc biểu
hiện ở các mặt sau:
Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự
túc. ở đây thể hiện ra đó là trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất
còn thấp kém, hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội cha đủ
để phát triển kinh tế thị trờng ở trong nớc và cha có khả năng để mở rộng giao lu
với thị trờng quốc tế. Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, nền kinh tế
còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế của nớc ta còn mang nặng đặc
trng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Hiện tợng độc canh cây lúa vẫn còn tồn
tại. Ngành nghề cha phát triển. Hơn nữa ở nớc ta cha có thị trờng theo đúng nghĩa
của nó: thị trờng ở nớc ta còn là thị trờng ở trình độ thấp, dung lợng thị trờng còn
thiếu và có phần rối loạn. Thực trạng đó của thị trờng nớc ta là hậu quả của nhiều
nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách quan, đó là do trình độ phát triển của phân
công lao động xã hội còn thấp, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc.
Về mặt chủ quan là do những nhận thức cha đúng đắn về nền kinh tế XHCN, do sự
phân biệt duy ý chí giữa thị trờng có tổ chức và thị trờng tự do. Mặc khác, do quản
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
6
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
lý theo chiều dọc- theo chức năng kinh doanh của từng ngành một cách máy móc,
cho nên đã dẫn tới hiện tợng cửa quyền, cắt đứt mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành
dẫn tới thị trờng bị chia cắt và manh mún.
Năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu ngời còn thấp.
Điều này nó phản ánh tổng hợp thực trạng kinh tế hàng hoá còn kém phát triển. Do
trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ còn thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản
xuất và dịch vụ xã hội còn kém, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trờng trong nớc
cha phát triển cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân đầu ngời
ở nớc ta còn rất thấp.
* Đặc trng của cơ chế kinh tế cũ (cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung).
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung có những đặc trng chủ yếu sau:
Nhà nớc quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó
thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do trung ơng giao bằng một hệ thống chỉ tiêu
pháp lệnh từ một trung tâm. Cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập trung nhng lại đợc
điều hành bởi nhiều đầu mối của các ngành chức năng do đó nó mang tính chất
phân tán.
Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt
vật chất đối với các quyết định của mình. ở đây quan hệ kinh tế là quan hệ giao
nộp, thu mua cấp phát. Sản xuất và kinh doanh đợc tiến hành gần nh ở khu vực
hành chính sự nghiệp hay hậu cần quân đội. Hậu quả của điều này là hết sức nặng
nền: nó làm mất sức mạnh của tổ chức thống nhất theo kế hoạch trớc hết đối với
Nhà nớc, sự chỉ huy tập trung theo nhiều mối và can thiệp quá sâu vào các doanh
nghiệp đã gây ra gò bó, vớng mắc, cơ chế tập trung trở thành bất lực và buông lỏng
cho thực tế tự phát, làm suy yếu, triệt tiêu động lực kinh tế, thậm chí gây tác động
nh khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm, lời biếng gây thiệt hại đến tài sản quốc gia, cản
trở sản xuất phát triển. Trong điều kiện tồn tại cơ chế giao nộp và cấp phát, dù có
nói đến bao nhiêu về qui luật giá trị thì đó cũng chỉ là hình thức.
Bỏ qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và
kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ
yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp đợc thực hiện dới các
hình thức. Bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lơng hiện vật và bao cấp qua cấp phát
vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất đối với ngời đợc cấp phát vốn.
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
7
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
Từ những đặc điểm trên đã dẫn đến bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều
cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực
quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhng phong cách thì quan liêu, cửa
quyền.
* Những hạn chế của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Việc quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã giúp chúng ta
giải quyết đợc một số vấn đề kinh tế- xã hội quan trọng, nhất là việc huy động nhân
tài, vật lực phục vụ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nớc, giải phóng miền Nam
thống nhất nớc nhà. Nhng khi đất nớc đã đợc hoà bình, thống nhất và bớc vào thời
kỳ xây dựng, phát triển kinh tế thì cơ chế quản lý này đã bộc lộ nhợc điểm cơ bản là
nó thiếu động lực cho sự phát triển, điều này thể hiện ở những mặt hạn chế sau đây:
- Một là, nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch tập trung không gắn chặt ngời lao
động với t liệu sản xuất và sản phẩm họ làm ra. Việc sản xuất tốt hay xấu không
liên quan gì đến quyền lợi của họ, bởi thế họ chẳng quan tâm đến sản xuất. Sản xuất
xã hội trở nên thiếu động lực phát triển.
- Hai là, vì sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo mệnh lệnh của cấp trên nên ng-
ời lao động và các cơ sở sản xuất kinh doanh không cần thiết phải nghiên cứu, ứng
dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Bởi vậy cơ sở vật chất
kỹ thuật của nền kinh tế vỗn dĩ đã lạc hậu lại càng lạc hậu hơn.
- Ba là, cũng vì làm theo kế hoạch và mệnh lệnh của cấp trên, nên ngời lao
động và các cơ sở sản xuất hoàn toàn thụ động, tính sáng tạo của họ ngày càng bị
thui chột. Những hậu quả của cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung đã đẩy nền
kinh tế nớc ta lâm vào khủng hoảng hết sức trầm trọng suốt một thời gian dài từ
cuối những năm 70 và gần hết thập kỷ 80 của thế kỷ này.
Chính vì vậy đại hội VII của Đảng đã khẳng định: "xoá bỏ triệt để cơ chế quản
lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà n-
ớc bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và công cụ khác. Xây dựng và phát triển
đồng bộ các thị trờng hàng tiêu dùng, vật t, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động thực
hiện giao lu kinh tế thoong suốt trong cả nớc với thị trờng thế giới". Điều đó hoàn
toàn phù hợp với thực tế của nớc ta, phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của
thời đại, với xu thế phát triển kinh tế của thế giới.
* Quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trờng theo định
hớng XHCN.
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
8
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
Từ sự phân tích thực trạng của nền kinh tế nớc ta trớc khi chuyển sang kinh tế
thị trờng có thể rút ra kết luận: thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nớc ta
sang kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN là quá trình kết hợp giữa chuyển nền
kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền
kinh tế thị trờng và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc.
Từ Đại hội VI của Đảng đã khẳng định việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị tr-
ờng chính là quá trình đổi mới nền kinh tế với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập
thể sang nền kinh tế đan thành phần. Các thành phần kinh tế đều đợc bình đẳng trớc
pháp luật.
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn nếu thiếu "đòn bẩy" là kinh tế hàng hoá. Chính CácMác đã coi sự ppt của kinh
tế hàng hoá là xuất phát điểm và là điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu đợc
đối với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất lớn. Về thực chất, đó là việc phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động của nền
kinh tế, mở rộng giao lu hàng hoá, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức
quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trờng. Việc đổi mới ở đây chính là việc tạo môi tr-
ờng và điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá, hình thành thị trờng ngày
càng hoàn chỉnh, giao lu thông suốt trong cả nớc và với nớc ngoài, khắc phục xu h-
ớng trợ cấp, tự túc, khép kín, nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ ché thị trờng d-
ới tác động của các qui luật khách quan mà Nhà nớc phải tôn trọng và vận dụng
đúng đắn để đổi mới kế hoạch hoá và quản lý, điều tiết thị trờng bằng nhiều công cụ
và biện pháp, chủ yếu là biện pháp kinh tế. Nền kinh tế hàng hoá có cơ cấu nhiều
thành phần với nhiều loại hình sở hữu, nhiều hình thức tổ chức kinh tế. Mọi công
dân đợc tự do kinh doanh theo luật pháp, tự lựa chọn hình thức kinh tế và đợc pháp
luật bảo vệ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Mọi đơn vị kinh tế không phân biệt
quan hệ sở hữu và hình thức tổ chức đều bình đẳng trớc pháp luật.
So với Liên Xô và các nớc Đông Âu, quá trình chuyển sang nền kinh tế thị tr-
ờng ở nớc ta có nhiều đặc điểm khác biệt: những nớc này đã có nền kinh tế phát
triển, nền kinh tế đã đợc cơ khí hoá, không có tính tự nhiên tự cấp tự túc nh nền kinh
tế nớc ta. Vì vậy, quá trình hình thành nền kinh tế thị trờng ở nớc ta trớc hết là quá
trình chuyển nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác, ở nớc ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ
huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế này nó gần nh đối lập với cơ chế thị
trờng vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nớc ta sang kinh tế thị trờng còn là quá
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
9
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trờng
có sự quản lý của Nhà nớc.
Quá trình chuyển nền kinh tế nớc ta sang cơ chế thị trờng đồng thời cũng là
quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trờng trong nớc với thị trờng
thế giới. Kinh tế "mở" là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà bất kỳ một
quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện của nớc ta, bài học về sự kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự
do trớc đây một lần nữa lại sống động trong công cuộc phát triển đất nớc với bối
cảnh và điều kiện mới.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta đã có nhiều đổi mới quan trọng. Chúng
ta chuyến biến quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn phơng sang đa phơng, quan hệ với tất
cả các nớc không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đối bên cùng có lợi và
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Quá trình đổi mới đó đã thực sự khiến cho nền kinh tế Việt Nam có những
thay đổi về chất. Việc áp dụng tối đa lợi ích so sánh, chính sách mở cửa trong nền
kinh tế thị trờng đã làm cho nền kinh tế quốc dân càng phát triển, đời sống nhân
dân ngày càng đợc nâng cao. Thực tế phát triển của nền kinh tế đã khẳng định con
đờng phát triển mà Đảng ta đã chọn là hoàn toàn đúng đắn.
b. Cơ chế thị trờng và những u, khuyết tật của nó.
Qua việc phân tích trên ta thấy việc chuyển sang nền kinh tế thị trờng ở nớc ta
là một tất yếu khách quan. Cơ chế thị trờng không mang bản chất chế độ, mà chỉ có
chế độ xã hội nào biết hay không biết tận dụng những lợi thế của kinh tế thị trờng
và sử dụng những lợi thế đó để phục vụ chế độ mìh. Thị trờng đợc coi là một phơng
tiện quan trọng để xây dựng và phát triển kinh tế. Vậy cơ chế thị trờng là gì mà nó
nh thế nào?
* Khái niệm cơ chế thị trờng: Kinh tế thị trờng là nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trờng. Đến lợt nó, cơ chế thị trờng là tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ
bản vận động dới sự chi phối của các qui luật thị trờng trong môi trờng cạnh tranh,
nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trờng là cung-cầu và giá cả
thị trờng.
* Đặc trng của cơ chế thị trờng:
Trớc hết, thông qua cơ chế thị trờng mà các vấn đề có liên quan đến việc phân
bổ sử dụng các nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm nh lao động, vốn, tài nguyên
thiên nhiên về cơ bản đợc quyết định một cách khách quan thông qua sự hoạt động
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
10
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
của các qui luật kinh tế đặc biệt là qui luật cung cầu. Thông qua qui luật cung - cầu
mà hình thành nên giá cả thị trờng, giá cả thị trờng lên xuống xung quanh giá trị thị
trờng và nó là kết quả thoả thuận giữa ngời mua với ngời bán, nó tạo lên mức lợi
nhuận trên thị trờng mà từ đó có tác động chuyển dịch cơ cấu đầu t sản xuất vào các
lĩnh vực cho lợi nhuận cao. Mặt khác, trong cơ chế thị trờng,tính tự chủ của các chủ
thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế đợc tự
do liên kết, liên doanh,tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định và kinh tế
hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp, do đó việc tác động của qui luật kinh tế
làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng thu lợi nhuận cao là hoàn toàn khách
quan, nó đồng nghĩa tính tự chủ năng động cảu các chủ thể kinh tế.
Thứ hai, trong cơ chế thị trờng, tất cả các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể
kinh tế đợc tiền tệ hoá. Cơ chế thị trờng tự do cạnh tranh với tính tự chủ cao của các
chủ thể kinh tế đã khiến cho quá trình lu thông hàng hoá diễn ra trôi chảy, các quan
hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đợc tiền tệ hoá thông qua giá cả trên thị trờng,
mọi hoạt động kinh tế trong nền kinh tế đều đợc thực hiện thông qua tiền tệ và chính
điều này làm cho các hoạt động kinh tế phát triển nhanh và dễ dàng hơn.
Thứ ba, cơ chế thị trờng là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy
tăng trởng kinh tế và lợi ích kinh tế đợc biểu hiện tập trung ở mức lợi nhuận. Việc
mở rộng tự do cạnh tranh, nâng cao tính tự chủ của các chủ thể kinh tế đã khiến cho
việc sản xuất và lu thông hàng hoá trở nên dễ dàng hơn, nó hớng hoạt động sản xuất
và lu thông hàng hoá vào những mục tiêu có lai, tạo nên sự đa dạng và phong phú
về số lợng và chủng loại của hàng hoá trên thị trờng. Đồng thời, nó đòi hỏi các chủ
thể kinh tế phải đầu t sản xuất, nâng cao năng suất lao động để thu đợc mức lợi
nhuận cao, đó là động lực của sự phát triển, là cơ sở để thúc đẩy tăng trởng kinh tế.
Thứ t, cơ chế thị trờng tạo cho các chủ thể kinh tế tự do lựa chọn phơng án sản
xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Dựa trên các qui luật kinh tế và tính tự chủ, các nhà
sản xuất, kinh doanh lựa chọn cho mình phơng án sản xuất và kinh doanh phù
hợp nhất để thu đợc lợi nhuận tối đa, và ngời tiêu dùng đợc tự do lựa chọn tiêu dùng
vì các quan hệ kinh tế đã đợc tiền tệ hoá.
Thứ năm, thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế, đặc biệt là sự linh
hoạt của hệ thốn giá cả, nền kinh tế thị trờng luôn duy trì đợc thế cân bằng giữa mức
cung và cầu của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, ít gây ra sự khan hiếm và thiếu
thốn hàng hoá. Qua giá cả thị trờng, hàng hoá sẽ di chuyển từ nơi có giá cao đến nơi
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
11
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
có gí thấp, mở rộng qui mô sản xuất với các mặt hàng, dịch vụ còn thiếu thốn, từ đó
tạo nên sự cân bằng của mức cung và cầu hàng hoá, dịch vụ.
Thứ sáu, cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trờng. Nó tồn tại trên cơ sở
những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập với nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu
của qui luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh
doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có
nhiều lợi nhuận, các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật,
áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao
phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trờng,
cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực
lu thông, hình thức và những biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhng
động lực và mục đích cuối cùng cuả cạnh tranh chính là lợi nhuận. Nh vậy cạnh
tranh là động lực của sản xuất.
Thứ bảy, trong cơ chế thị trờng, cùng với sự phát triển của lực lợng sản xuất,
mối quan hệ giữa mục tiêu tăng cờng tự do cá nhân và mục tiêu và công bằng xã
hội, giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trởng kinh tế và nâng cao chất lợng cuộc sống cũng
có sự phát triển tơng ứng.
Thứ tám, cơ chế thị trờng đặt ngời tiêu dùng vào vị trí hàng đầu. Nhờ sự phát
triển sức sản xuất mới và các nhu cầu mới, cơ chế thị trờng có xu hớng thoả mãn
nhu cầu biến đổi không ngừng của các nhóm dân c sao cho phù hợp với lối sống của
họ, thay cho nguyên tắc sản xuất, cung ứng hàng loạt, biết chấp nhận nhu cầu.
Thứ chín, nhà doanh nghiệp là nhân vật trung tâm trong hoạt động thị trờng,
là nhân tố sống động của cơ chế thị trờng. Nhà nớc không đứng ngoài cơ chế thị tr-
ờng. Không có nhà doanh nghiệp thì không có cơ chế thị trờng.
* Vai trò cơ chế thị trờng đối với phát triển kinh tế nớc ta.
ở trên chúng ta đã phân tích và thấy rằng việc chuyển đổi nền kinh tế nớc ta
sang kinh tế thị trờng là một tất yêú khách quan phù hợp với sự phát triển đất nớc,
thế giới. Điều đó cũng có thể đợc giải thích bởi vai trò đặc biệt quan trọng của cơ
chế kinh tế thị trờng đối với phát triển kinh tế ở nớc ta.
Sự hình thành và phát triển thị trờng ở nớc ta gắn liền với quá trình đổi mới
kinh tế từ cơ cấu đến cơ chế quản lý kinh tế, nhất quán chuyển sang kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc,
gắn liền với đổi mới một cách cơ bản chính sách kinh tế vĩ mô nh giá cả, kế hoạch
hoá, tài chính tiền tệ, đầu t thơng mại, chuyển hoạt động sản xuất - kinh doanh và
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
12
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
tiêu dùng xã hội sang kinh tế thị trờng, trong đó giải pháp có ý nghĩa quyết định là
xử lý giá cả. Dù mới là sơ khai, thị trờng đã là môi trờng giải phóng sức sản xuất
với sự bùng nổ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế đối ngoại. Quan hệ
hàng hoá thị trờng ngày càng mở rộng và đi sâu vào các lĩnh vực của quá trình sản
xuất- kinh doanh với sức mạnh tất yếu kinh tế, sức mạnh hồi sinh sau chiến tranh.
Sức sản xuất phát triển làm bật dậy cách tiềm năng, hàng loạt các nhân tố mới xuất
hiện xen lẫn những bề buộn phức tạp của sự chuyển đổi mang tính cách mạng. Hơn
thế nữa, cơ chế thị trờng để làm cho t duy kinh tế thay đổi căn bản: Từ thục động an
bài sang năng động sáng tạo, tự chủ, t duy hiện vật sang t duy giá trị; sự nhạy cảm
về lợi ích, hiệu quả về thang giá trị, đạo đức lối sống v.v
Nh vậy cơ chế thị trờng là nhân tố vô cùng quan trọng để phát triển kinh tế xã
hội của đất nớc, là công cụ để đất nớc tiến lên CNXH, xây dựng đất nớc giàu mạnh,
công bằng văn minh. Nó giải phóng nền kinh tế khỏi cái vòng luẩn quẩn, không
hiệu quả của cơ chế kinh tế tập trung, nó tạo ra môi trờng giao lu kinh tế quốc tế,
phát huy triệt để các lợi thế so sánh của các chủ thể trong nền kinh tế cho phép lựa
chọn phơng thức kinh tế hiệu quả tối đa nhất là môi trờng tốt để phát triển kinh tế
đất nớc.
* Ưu điểm của cơ chế thị trờng:
Việc chuyển đổi nền kinh tế nớc ta sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của
Nhà nớc xuất phát từ việc cơ chế thị trờng có những u điểm có thể giải quyết những
vấn đề bất cập của cơ chế kinh tế tập trung và phát triển nền kinh tế đất nớc. Những
u thế đó là:
Cơ chế thị trờng có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội, tức là sự tự
động phân bổ các nguồn tài nguyên sản xuất vào các khu vực, các ngành kinh tế mà
không cần bất kỳ sự điều khiển từ trung tâm nào. Cơ chế thị trờng kích thích việc áp
dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật,tăng năng suất lao động, năng cao trình độ xã hội
hoá sản xuất. Kinh tế thị trờng lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động,
động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp hạ thấp chi phí lao động cá biệt thấp hơn chi
phí xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở
áp dụng thành tựu mới của khoa học kỹ thuật.
Cơ chế tự động hoá kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trởng kinh tế theo cả
bề rộng và chiều sâu, tăng cờng chuyên môn hoá sản xuất. Điều này đợc thể hiện ở
chỗ cơ chế thị trờng có tính năng động và khả năng thích ứng nhanh, trong nền kinh
tế thị trờng nếu ai đa ra thị trờng một loạt hàng hoá mới và đa ra sớm nhất sẽ thu đ-
ợc lợi nhuận nhiều nhất, điều đó tất yếu đòi hỏi phải năng động thờng xuyên và đổi
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
13
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
mới thờng xuyên. Hơn thế nữa trong nền kinh tế thị trờng hàng hoá rất phong phú
và đa dạng do vậy, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn tốt hơn những nhu
cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn vẹn của mỗi thành viên xã hội.
* Các khuyết tật của cơ chế thị trờng:
Bên cạnh những u điểm của mình, cơ chế thị trờng tự bản thân nó còn có
những khuyết tật cần thấy rõ để khắc phục đó là:
Trong nền kinh tế hàng hoá, hàng hoá vận động theo cơ chế thị trờng, mỗi chủ
thể kinh doanh, mỗi ngành, mỗi địa phơng đều có lợi ích riêng của mình và tìm
mọi cách tối u hoá lợi ích đó. Nhng khi thực hiện các hoạt động nhằm tối u hoá lợi
ích của mình, mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành, mỗi vùng có thể nhìn thấy hoặc không
nhìn thấy sự vi phạm đến lợi ích của ngời khác, của cơ sở, ngành, vùng khác nhau.
Do đó, tất yếu nảy sinh hiện tợng: lợi ích cá nhân hay của bộ phận này tăng lên
làm thiệt hại lợi ích cá nhân, bộ phận khác trong xã hội, xét trên phạm vi tổng thể
nền kinh tế quốc dân. Biểu hiện về mặt xã hội của xu hớng này là các hoạt động
kinh tế chồng chéo cản trở hoặc triệt tiêu lẫn nhau, các quan hệ tỷ lệ kinh tế quốc
dân bị phá vỡ, sự phân bổ các nguồn lực không hợp lý, cơ cấu kinh tế bị đảo lộn,
các vấn đề xã hội, chính trị phát sinh.
Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trờng không thể tách rời ra môi
trờng chính trị, kinh tế, xã hội, đối ngoại. Nếu môi trờng không ổn định, thờng
xuyên có sự đụng độn và xung đột giữa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Các
quan hệ giao dịch mua bán trên thị trờng không lành mạnh, mang tính chất lừa đảo,
bạo lực thì kinh tế không phát triển. Cơ chế thị trờng - cơ chế điều chỉnh hành vi của
cả ngời sản xuất lẫn ngời tiêu dùng theo các qui luật của thị trờng sẽ dẫn tới các sai
lệch, nhợc điểm và khuyết tật của cơ chế thị trờng, sẽ khó có thể khắc phục sẽ đẩy
mạnh môi trờng chính trị, kinh tế xã hội, đối ngoại vào tình trạng rối loạn.
Xu hớng hoà nhập nền kinh tế của mỗi nớc vào thị trờng thế giới ngày càng
cao. Những diễn biến kinh tế trong từng nớc và giữa các nớc gây ảnh hởng rõ rệt
đến lợi ích của nhau. Việc ngăn ngừa hay khắc phục những bất lợi cũng nh việc khai
thác và sử dụng những tác động có lợi, đòi hỏi phải có vai trò của Nhà nớc và không
một tổ chức nào có thể thay thế đợc. Vai trò quản lý về kinh tế của Nhà nớc không
chỉ là sự điều tiết, khống chế, định hớng bằng pháp luật, các đòn bẩy kinh tế, các
chính sách, biện pháp kích thích mà còn bằng thực lực kinh tế của Nhà nớc- tức sức
mạnh của hệ thống kinh tế quốc doanh.
* Vai trò kinh tế của Nhà nớc:
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
14
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
Việc khai thác các u điểm, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trờng để tạo
điều kiện thuận lợi cho cơ chế này hoạt động có hiệu quả không thể thiếu đợc vai trò
của Nhà nớc với t cách là chủ thể của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhà nớc thực
hiện chức năng quản lý kinh tế là đòi hỏi khách quan, là nhu cầu nội tại của nền
kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trờng. Vai trò đó bao gồm:
Thứ nhất, Nhà nớc với vai trò định hớng phát triển kinh tế xã hội và hớng dẫn
hoạt động kinh tế. Tuỳ theo đặc điểm của mỗi nớc, mỗi giai đoạn mà có mức độ can
thiệp khác nhau. Vai trò định hớng của Nhà nớc là rất quan trọng và cần thiết trong
mỗi giai đoạn phát triển kinh tế. Việc định hớng đúng đắn sẽ làm cho nền kinh tế
phát triển không ngừng và ngợc lại. Việc định hớng phát triển kinh tế nhằm xác
định hớng phân bổ tài nguyên, tạo ra cơ cấu kinh tế mới hợp lý, bảo đảm sử dụng có
hiệu quả nhất của đất nớc. Chức năng định hớng các hoạt động kinh tế đợc thực hiện
bằng những công cụ sau:
- Kế hoạch hoá với chức năng định hớng phát triển kinh tế xã hội. Chính phủ
các nớc thờng thông qua các đờng lối phát triển của đất nớc để xác định phơng hớng
phát triển. Song việc xác định phơng hớng phát triển không thể chung chung mà
phải đa ra các chỉ tiêu phản ánh mức độ và cơ cấu của sự phát triển. Để cho các
công cụ của kinh tế vĩ mô hoạt động có hiệu quả Chính phủ cần biết các dự báo về
sự diễn biến trong tơng lai và các biện pháp tác động đến sự diễn biến ấy. Mức độ
quan trọng của kế hoạch hoá ở các nớc khác nhau và các giai đoạn khác nhau là
khác nhau. Ngày nay điều có thể khẳng định trong nền kinh tế thị trờng dới chủ
nghĩa t bản hay chủ nghĩa xã hội thì kế hoạch hoá đều tồn tại nh một tất yếu khách
quan cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô.
- Tạo môi trờng để hớng dẫn sự hoạt động của nền kinh tế: sản xuất hàng hoá
muốn phát triển đòi hỏi phải có môi trờng thuận lợi bao gồm môi trờng kinh tế và
môi trờng pháp luật. Môi trờng kinh tế phải đảm bảo cho đầu vào và đầu ra của sản
xuất hàng hoá luôn đợc thông suốt. Môi trờng pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự do,
quyền bình đẳng của các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng nh bảo đảo quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội.
- Tổ chức chỉ đạo các hoạt động của nền kinh tế. Nhà nớc chỉ đạo hoạt động
của nền kinh tế thông qua các doanh nghiệp quốc doanh. Nhà nớc là chủ, các doanh
nghiệp quốc doanh tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là
những xí nghiệp quan trọng giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế. Bởi vì, mà thông
qua hoạt động của các xí nghiệp này mà Nhà nớc chỉ đạo sự hoạt động của các xí
nghiệp, thành viên khác.
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
15
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
Thứ hai, Nhà nớc với vai trò điều tiết sản xuất kinh doanh: nền kinh tế thị tr-
ờng bên cạnh những u điểm của nó còn có những mặt hạn chế đáng quan tâm,
trong đó quan trọng nhất là sự phát triển tự do vô Chính phủ ngày càng tăng và sự
phân hoá về kinh tế trong xã hội ngày càng lớn. Trách nhiệm của Nhà nớc, đặc biệt
là Nhà nớc xã hội chủ nghĩa, là phải điều tiết mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế đi đúng quĩ đạo đã định và thực hiện từng bớc sự công bằng trong
đời sống kinh tế xã hội của đất nớc. Sự điều tiết này chủ yếu đợc thực hiện thông
qua hệ thống đòn bẩy kinh tế, trong đó quan trọng nhất là chính sách thuế, chính
sách lãi suất, lơng, bảo trợ và bảo hiểm đối với sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, bên cạnh vai trò trên, Nhà nớc còn phải có vai trò kiểm soát nền kinh
tế để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hớng kế hoạch của Nhà nớc. Nhà
nớc có trách nhiệm kịp thời phát hiện những sai sót, ách tắc, đổ vỡ của quá trình
phát triển kinh tế quốc dân trong tơng lai. Hiện nay, để tăng cờng vai trò đòi hỏi
Nhà nớc phải có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn, đào tạo đội ngũ cán bộ có
chuyên môn và đạo đức tốt, phải thờng xuyên đánh giá, kiểm điểm và đề ra trách
nhiệm , nhiệm vụ trớc mắt.
II- Đặc trng của nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Cùng với sự đi lên của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế nớc ta chuyển sang cơ
chế thị trờng tự do cạnh tranh nh một tất yếu lịch sử. Song khác với các nớc khác,
chúng ta xây dựng cơ chế thị trờng mang bản sắc riêng của Việt Nam, theo định h-
ớng XHCN với những đặc trng riêng phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế đất nớc.
Những đặc điểm đó là:
1. Sự phát triển kinh tế phải gắn liền với việc phát triển xã hội , giải quyết
các vấn đề xã hội.
Trớc hết cần khẳng định kinh tế thị trờng ở Việt Nam sẽ đợc phát triển theo
định hớng XHCN. Đó là định hớng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ
vào sự giàu có và hạnh phúc của dân c. Xã hội không còn chế độ ngời bóc lột ngời,
dựa trên cơ sở nhân dân lao động làm chủ, con ngời đợc giải phóng khỏi áp bức, bóc
lột, bất công làm theo năng lực hởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao
trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lợng sản xuất hiện đại. Cũng xuất phát từ bản
chất của nền kinh tế thị trờng nớc ta là nền kinh tế mà ở đó kinh tế thị trờng đợc sử
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
16
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
dụng nh một công cụ, một phơng tiện phát triển lực lợng sản xuất, phát triển kinh tế
phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động nhằm mục tiêu dân giàu, nớc mạnh xã
hội công bằng văn minh.
Hiện nay, cơ chế thị trờng tự do cạnh tranh cùng với sự hội nhập nền kinh tế
quốc tế đã đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm, nảy sinh nhiều tiêu cực xã hội mà đòi
hỏi Nhà nớc phải chú trọng để giải quyết. Cùng với sự phát triển về kinh tế do cơ
chế thị trờng đem lại thì thực trạng bức xúc về mặt xã hội cũng ngày càng có chiều
hớng gia tăng: Đó là việc chạy theo lợi nhuận, chạy theo đồng tiền mà làm phai mờ
các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, các nạn tham ô, tham nhũng, làm hàng
giả, buôn lậu; xuất hiện trong tầng lớp dân c một số ngời ăn chơi chác táng sa hoa,
không phù hợp với văn hoá Việt Nam, từ đó dẫn đến nạn trộm cắp, cớp giật, mại
dâm, ma tuý v.v Đó là những khuyết tật, những hạn chế của cơ chế thị trờng đem
lại chúng làm mất ổn định tình hình an ninh -chính trị xã hội, đi ngợc với mục đích
phát triển mà Đảng và Nhà nớc đề ra.
Xuất phát từ bản chất của cơ chế thị trờng ở nớc ta và những thực trạng bức
xúc về mặt xã hội đó, đòi hỏi Nhà nớc phải có các chính sách gắn phát triển kinh tế
với phát triển xã hội. Chúng ta tận dụng những lợi thế của kinh tế thị trờng kế thừa
những thành tựu của loài ngời trong việc thực hiện kinh tế thị trờng để phục vụ chế
độXHCN nhng biết hạn chế những khuyết tật của nó. Sử dụng cạnh tranh làm động
lực phát triển nhng không cạnh tranh dã man, tăng trởng kinh tế đi đôi với công
bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn với xoá đói giảm nghèo và khắc phục sự
phân cực giàu nghèo, gia tăng mức sống nhng vẫn giữ gìn đợc bản sắc văn hoá dân
tộc. Hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trờng nớc ta đợc chủ động kết hợp
với nhau ngay từ đầu thông qua pháp luật, chính sách kinh tế và chính sách xã hội
trên tầm quản lý vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô, Nhà nớc dùng hiệu quả KT-XH là
mục tiêu quản lý nhằm thực hiện tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội. Nhà nớc
cũng có các biện pháp điều tiết mức thu nhập của các tầng lớp dân c nhằm thực hiện
một xã hội văn minh.
Nh vậy, nền kinh tế thị trờng ở nớc là nền kinh tế có sự lãnh đạo của Đảng và
có sự quản lý điều tiết của Nhà nớc sao cho vừa bảo đảm phát triển kinh tế vừa đảm
bảo phát triển xã hội và con ngời.
2. Trong nền kinh tế thị trờng, phát triển kinh tế ở nớc ta phải là phát
triển bền vững.
Từ thực tế phát triển của nền kinh tế thị trờng ở các nớc trên thế giới đã chỉ ra
rằng: trong nền kinh tế thị trờng khi không có sự quản lý của Nhà nớc, các hoạt
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
17
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
động sản xuất kinh doanh lấy lợi nhuận tối đa làm mục tiêu, cạnh tranh gay gắt
giữa các hãng sản xuất sẽ dẫn đến việc sản xuất thừa, đẩy nền kinh tế vào tình trạng
khủng hoảng, lạm phát cao. Trong khi mức tăng trởng kinh tế vừa đợc một chút thì
qua mỗi lẫn khủng hoảng kinh tế nó lại dìm nền kinh tế xuống, thậm chí còn thấp
hơn cả mức trớc đó. Khủng hỏng kinh tế còn đi đôi với việc thất nghiệp,lạm phát,
làm suy giảm các vấn đề xã hội, chính trị, gây mất ổn định xã hội, mất niềm tin vào
sự phát triển của đất nớc. Từ thực tế đó Đảng và Nhà nớc ta đã chỉ ra rằng phát triển
kinh tế ở nớc ta đi đôi với sự bền vững. Chúng ta tiến lên XHCN bỏ qua giai đoạn
CNTB trong điều kiện xuất phát điểm hết sức thấp, là một nớc nông nghiệp lạc hậu
chịu hâu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh, do đó phải theo kịp thời đại, chúng
ta tiến thẳng vào cơ chế thị trờng hiện đại, sử dụng nó nhh là một công cụ để khai
thác các lợi thế so sánh để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nền kinh tế đất nớc lên
CNXH. Do vậy việc phát triển kinh tế ở nớc ta là việc phát triển ổn định, tránh tình
trạng khủng hoảng kinh tế, có cơ chế mới đẩy nền kinh tế nớc ta theo kịp nớc khác,
từng bớc xây dựng cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, nâng cao đời sống của nhân
dân. Hơn thế nửa, việc phát triển bền vững xuất phát từ bản chất XHCN của nhà nớc
ta, có phát triển bền vững mới tạo niềm tin cho nhân dân, giữ đợc ổn định về kinh
tế, chính trị, xã hội.
Phát triển bền vững ở đây bao gồm cả tăng trởng kinh tế đi đôi với việc phát
triển xã hội, nâng cao đời sống nhân dân và việc phát triển ở đây phải ổn định. Để
đất nớc có thể phát triển bền vững đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nớc. Bên
cạnh "bàn tay vô hình" của cơ chế thị trờng với các quy luật kinh tế khách quan, các
quy luật giá cả đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nớc để điều tiết hoạt động sản xuất
kinh doanh trong nền kinh tế thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô, tạo
môi trờng ổn định cho sự phát triển kinh tế, bảo vệ môi trờng sinh thái của đất nớc,
áp dụng các chính sách tài khoá quốc gia để ổn định tỷ giá, ổn định nền kinh tế,
chống lạm phát, từ đó mới có cơ sở ổn định để nền kinh tế phát triển ổn định và
ngày càng cao. Nhà nớc điều tiết hoạt động của nền kinh tế đồng thời đề ra các biện
pháp để phát triển xã hội khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trờng, mang lại sự
phát triển theo đúng nghĩa của nó cho toàn xã hội. Cuộc đấu tranh gian khổ và tr-
ờng kỳ của nhân dân ta dới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhằm giải phóng nhân dân lao động đem lại hạnh phúc và sự giàu có cho
nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tơng lai
phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân lao động,
của toàn xã hội, của toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghĩa,
là sự phát triển hiện đại, phát triển bền vững.
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
18
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
3. Nền kinh tế thị trờng ở nớc ta là nền kinh tế phải đạt tốc độ tăng trởng
cao, là nền kinh tế có trình độ phát triển cao.
Phát triển nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế đã đợc Đảng ta khẳng định. Nền kinh tế thị trờng trớc hết và chủ yếu là tiến
hành các hoạt động kinh tế theo quan hệ cung cầu trên thị trờng, theo giá cả thị tr-
ờng và chấp nhận cạnh tranh. Bất cứ nền kinh tế thị trờng nào cũng đều phát triển
thông qua cạnh tranh. Mục tiêu phát triển của nền kinh tế nớc ta phải là nền kinh tế
có tốc độ tăng trởng cao bởi vì nền kinh tế nớc ta vẫn là một nớc nghèo, lạc hậu so
với các nớc trên thế giới chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện xuất
phát điểm thấp, do đó tốc độ tăng trởng kinh tế cao là nhân tốt bắt buộc phải có để
chúng ta đẩy nhanh nền kinh tế đất nớc theo kịp với thời đại. Nền kinh tế thị trờng
nớc ta có khả năng đạt hiệu quả kinh tế cao, bởi vì nó đòi hỏi phân bố và sử dụng
tốt nhất nguồn lực của đất nớc, tính toán và lựa chọn tối u các quyết định kinh tế từ
đó tạo đợc khả năng để tăng trởng cao, làm cho dân giàu, nớc mạnh. Tuy nhiên,
cũng còn thấy rằng, trong nền kinh tế thị trờng, vì động cơ chạy theo lợi nhuận một
cách mù quáng, thì sẽ dẫn tới hậu quả nh: doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, bị phá sản,
số ngời thất nghiệp, sự phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trờng sinh thái ngày càng
tăng, những yêu cầu phát triển khu vực công cộng, bình đẳng, công bằng xã hội
không đợc đảm bảo, con ngời không phát triển toàn diện Thực tiễn phát triển nền
kinh tế thị trờng ở nớc ta những năm qua cho thấy vai trò điều tiết của Nhà nớc là
một đòi hỏi khách quan. Nhà nớc phải tiến hành các hoạt động điều tiết vĩ mô chính
là nhằm hạn chế và khắc phục những khuyết tật những mặt trái của thị trờng, của
các hoạt động kinh tế vĩ mô. Việc tham gia điều tiết nền kinh tế thị trờng của Nhà
nớc chính là nhằm đẩy mạnh hoạt động nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trởng
cao và ổn định. Hớng các mục tiêu phát triển kinh tế vào mục tiêu phát triển xã hội.
Nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta là nền kinh tế phát
triển cao. Nếu nh kinh tế trì trệ, kém phát triển, tổng sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân kém dẫn tới mức thu nhập bình quân của dân c còn thấp, không có tích luỹ
từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hớng xã hội chủ nghĩa đợc. Đành
rằng nếu chỉ có nội dung này thì cha đủ, bởi vì nhiều nớc có nền kinh tế phát triển
cao nhng đó lại không phải là nền kinh tế định hớng kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Để có tốc độ tăng trởng kinh tế cao thì đòi hỏi nền kinh tế nớc ta phải là nền
kinh tế dân tộc hoà nhập với kinh tế quốc tế. Xu hớng phát triển kinh tế mở, nội
dung này có ý nghĩa rất lớn, một mặt nó phát huy đợc lợi thế so sánh của nền kinh
tế nớc ta về vị trí địa lý, về lao động và về tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác nó làm
cho nền kinh tế nớc ta từng bớc hoà nhập vào kinh tế khu vực và thị trờng thế giới,
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
19
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
từ đó có điều kiện tiếp thu những thành tựu mới của khoa học - kỹ thuật, công nghệ
trên thế giới, thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc. Tuy nhiên
trong tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay, việc mở rộng hợp tác giao lu
với bên ngoài cần phải có sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta hoà nhập chứ không hoà
tan, tiếp tục phát huy các giá trị văn hoá dân tộc tốt đẹp, thực hiện phát triển kinh tế
đi đôi với bảo vệ đất nớc, giữ dìn toàn vẹn lãnh thổ.
4. Định hớng xã hội chủ nghĩa còn đợc thể hiện trong nền kinh tế nớc ta.
Để có định hớng xã hội chủ nghĩa, trong cơ cấu kinh tế tổng hợp nhiều thành
phần, kinh tế Nhà nớc phát huy vai trò chủ đạo, nó cùng với kinh tế hợp tác là nền
tảng của nên kinh tế.
Trớc đây nền kinh tế nớc ta vận hành theo cơ chế tập trung, làm xuất hiện các
hiện tợng quan liêu, bao cấp, cửa quyền, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn,
nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy thoái. Từ đại hội VI của Đảng
cộng sản Việt Nam chúng ta đã nhìn thẳng vào sự thật, thấy đợc những hạn chế của
cơ chế quản lý cũ và quyết tâm đổi nền kinh tế sang nền kinh tế hàng hoá vận động
thoe cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Việc chuyển đổi đó hoàn toàn
mang ý nghĩa khách quan vì nó phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ,
kinh tế hàng hoá trong cơ chế thị trờng lại có u điểm rõ rệt so với kinh tế cũ, hơn
nữa sự phát triển của lực lợng sản xuất, trình độ sản xuất và phân công lao động đã
đến sự chín muồi, hoàn toàn đủ cơ sở để chúng ta chuyển sang nền kinh tế hàng
hoá. Thực tiễn phát triển cho thấy việc chuyển đổi này của Đảng và Nhà nớc ta là
hoàn toàn đúng đắn và mang tính chất lịch sử, nền kinh tế đất nớc đã từng ngày đợc
nâng cao, đời sống nhân dân đợc nâng cao cả về chất lẫn tinh thần.
Bớc vào nền kinh tế hàng hoá, Đảng và Nhà nớc ta đã khẳng định cơ cấu kinh
tế nớc ta gồm năm thành phần sau đây: thành phần kinh tế Nhà nớc, thành phần
kinh tế hợp tác, thành phần kinh tế t bản Nhà nớc, thành phần kinh tế cá thể và
thành phần kinh tế t bản t nhân, trong đó kinh tế Nhà nớc đóng vai trò chủ đạo. Sở
dĩ có điều đó bởi vì thành phần kinh tế Nhà nớc là thành phần nắm trong tay các vị
trí then chốt của nền kinh tế, Nhà nớc thông qua thành phần kinh tế này của mình
để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hớng các thành phần kinh tế khác theo một quỹ đạo
đã định sẵn. Bên cạnh việc u tiên phát triển thành phần kinh tế Nhà nớc, Nhà nớc
cần đầu t phát triển các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo ra
việc làm trong dân c và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành phần
kinh tế đợc phát triển một cách bình đẳng với nhau.
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
20
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
ở đây, vai trò của thành phần kinh tế Nhà nớc (kinh tế quốc doanh) đợc củng
cố ở các vị trí then chốt, có liên quan đến toàn bộ hoạt động nền kinh tế, cũng nh an
ninh, quốc phòng và các lĩnh vực cần thiết mà các thành phần kinh tế khác không có
điều kiện, hoặc không muốn đầu t vì không sinh lãi hoặc lãi ít. Thông qua hoạt
động của thành phần kinh tế này, Nhà nớc thực hiện các chính sách vĩ mô điều tiết
nền sản xuất của xã hội, sự ổn định và phát triển của thành phần kinh tế Nhà nớc là
cơ sở để bảo đảm cho vai trò quản lý xã hội và điều tiết nền kinh tế quốc dân của
Nhà nớc. Do đó, trong các thành phần kinh tế thì kinh tế Nhà nớc đóng vai trò chủ
đạo để gắn kinh tế quốc doanh với cơ chế thị trờng phải tách quyền sở hữu tài sản
công hữu và quyền kinh doanh tài sản. Và do cơ cấu kinh tế nh vậy đòi hỏi phải
giải quyết vấn đề phân phối thu nhập một cách công bằng. Ngoài tiền lơng, tiền
công, ngời lao động còn đợc hởng thu nhập từ các nguồn hữu sản của họ thông qua
phân phối theo tài sản (hay theo vốn), ngời lao động làm theo năng lực và hởng theo
lao động. Cơ cấu kinh tế mới đợc hình thành một phần do sự điều chỉnh của các
quan hệ thị trờng, một phần do Nhà nớc điều tiết. Phát triển kinh tế nhiều thành
phần sẽ tạo đợc một môi trờng cạnh tranh và huy động tối đa những nguồn lực của
xã hội vào việc phát triển kinh tế - xã hội.
5. Vai trò quản lý của Nhà nớc.
Cơ chế thị trờng với những u điểm của nó còn có những khuyết tật cần phải
quan tâm để khắc phục. Vai trò quản lý của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng là
một tất yếu cần thiết để khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trờng, là nhân tố
đóng vai trò quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế đất nớc. Nhà nớc
quản lý nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta là Nhà nớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là Nhà nớc của dân, do dân, vì dân. Thành tố quan
trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trờng hiện đại là Nhà nớc tham gia
vào các quá trình kinh tế. Nhng khác với Nhà nớc của nhiều nền kinh tế thị trờng
trên thế giới, Nhà nớc ta là Nhà nớc của đại đa số nhân dân lao động đặt dới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới
để bảo đảm giữ vững định hớng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh tế thị tr-
ờng hiện đại ở nớc ta. Sự khác biệt về bản chất Nhà nớc là một nội dung và là một
điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trờng ở
nớc ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trờng khác trên thế giới. ở đây vai trò quản
lý của Nhà nớc là việc định hớng nền kinh tế đất nớc phát triển theo định hớng xã
hội chủ nghĩa, Nhà nớc phát huy cao độ mặt tích cực của nền kinh tế thị trờng để
phát triển kinh tế, Nhà nớc nắm vững thị trờng để điều tiết kinh tế và hạn chế những
mặt trái của kinh tế thị trờng. Đồng thời thông qua các chính sách, công cụ, Nhà n-
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
21
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
ớc giảm đến mức thấp nhất mặt tiêu cực và hậu quả KT-XH do cạnh tranh gây ra
nhằm bảo đảm phúc lợi xã hội cũng nh công bằng xã hội và bảo bệ môi sinh môi tr-
ờng.
Nh vậy, dới sự lãnh đạo của Nhà nớc, sự can thiệp điều tiết vào nền kinh tế thị
trờng, nền kinh tế vừa tăng trởng và xã hội ngày càng phát triển toàn diện, đời sống
nhân dân ngày càng đợc nâng cao. Trong nền kinh tế thị trờng vai trò quản lý của
Nhà nớc là một vai trò đặc biệt, tất yếu và cần thiết, là cơ sở, điều kiện để phát triển
bền vững nền kinh tế và xã hội.
III- Mục tiêu và các chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nớc.
1. Mục tiêu:
Mọi quốc gia, trong các trờng hợp kinh tế phát triển thành công hay suy thoái,
trì trệ, đều tìm thấy nguyên nhân chủ yếu của vai trò Nhà nớc. ở nớc ta, quản lý
Nhà nớc về kinh tế là sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nớc, là điều kiện đủ
bên cạnh điều kiện cần là kinh tế thị trờng để phát triển đất nớc, tiến lên CNXH.
Quản lý vĩ mô của Nhà nớc trong nền kinh tế hiện nay nhằm hớng tới các mục tiêu
sau:
Thứ nhất, cần thúc đẩy các yếu tố đảm bảo sự phát triển ổn định kinh tế. ổn
định kinh tế là yếu tố hàng đầu của sự phát triển. Để đi đến ổn định, cần phải bảo
đảm sự ổn định về mặt chính trị, xã hội. Nhà nớc thông qua các cơ quan quản lý
chức năng để đảm bảo cho đất nớc có môi trờng chính trị, xã hội ổn định, ít biến
động để tạo môi trờng thuận lợi cho việc đầu t phát triển sản xuất, tạo niềm tin cho
các nhà đầu t nớc ngoài đầu t vào thị trờng trong nớc. Bên cạnh đó, Nhà nớc cần
đổi mới công tác kế hoạch hoá nhằm phục vụ thị trờng, phân rõ chức năng quản lý
kinh tế với chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà n-
ớc. Xác lập một hệ thống chính sách và công cụ quản lý kinh tế để làm sao vừa bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mô, vừa tác động đến cầu và cung trên thị trờng, đồng thời
phải thi hành nhất quán các chính sách, các thể chế để tạo sự ổn định trong quá trình
phát triển kinh tế. Song song với đó, mục tiêu của quản lý vĩ mô của Nhà nớc là xây
dựng hệ thống pháp luật kinh tế phù hợp với việc dân chủ hoá nền kinh tế theo cơ
chế thị trờng. Nền kinh tế thị trờng của nớc ta không phải là nền kinh tế tự do, vô
Chính phủ, mà nó phải đảm bảo ổn định trên cơ sở pháp luật. Do đó, cần sớm xoá
bỏ những luật lệ không phù hợp, từng bớc qui định đầy đủ các quan hệ nảy sinh
trong nền kinh tế thị trờng, lấy luật pháp để ổn định quá trình phát triển các doanh
nghiệp, từ đó mà ổn định nền kinh tế.
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
22
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
Thứ hai, Nhà nớc quản lý vĩ mô nền kinh tế nhằm mục tiêu bảo đảm hiệu quả
KT-XH. Trong điều kiện hiện nay Nhà nớc ta phải thực hiện một lúc hai nhiệm vụ:
vừa tạo lập thị trờng, vừa điều tiết sự vận động của cơ chế thị trờng. Nhà nớc xuất
phát từ các quan điểm, chính sách, để tạo lập thị trờng, tạo lập môi trờng các điều
kiện cơ sở để nền kinh tế hàng hoá có khả năng phát triển tốt hơn, thúc đẩy tăng tr-
ởng kinh tế đạt hiệu quả cao. Cùng với đó, Nhà nớc với các chính sách kinh tế vĩ mô
để định hớng, điều tiết tổng thể nền kinh tế, hớng sức mạnh thị trờng đi đúng hớng,
dựa vào luật pháp để tạo ra hành lang lao động, có trật tự cho các chủ thể kinh
doanh, xác định mục tiêu phát triển, tác động gián tiếp thông qua công cụ chính
sách kinh tế nhằm mục tiêu gắn tăng trởng kinh tế với công bằng xã hội.
Thứ ba, Nhà nớc quản lý nền kinh tế nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề nảy
sinh trong quá trình phát triển, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trờng, trong
đó quan trọng nhất là vấn đề giải quyết việc làm xã hội và phân phối thu nhập, nó
vừa vấn để bức thiết trớc mắt, vừa là vấn đề lâu dài để ổn định và tăng trởng kinh tế.
Giải quyết việc làm không chỉ là nhiệm vụ của kinh tế Nhà nớc, mà phải khuyến
khích mọi thành phần kinh tế, mọi gia đình, mọi thành viên cùng tham gia giải
quyết. Thực hiện việc phân phối theo lao động và phải bảo đảm tính công bằng
trong quá trình phân phối. Bên cạnh đó, một mục tiêu nữa là nâng cao đời sống tinh
thần cho nhân dân. Phát triển văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao
dân trí, phát triển nhân tài và nhân lực cho đất nớc. Văn hoá và giáo dục phải tạo
điều kiện cho con ngời phát triển toàn diện, vì đó là nguồn lực quyết định sự tăng tr-
ởng và phát triển của đất nớc. Đi đôi với việc phát triển văn hoá, giáo dục hiện đại
phải đảm bảo tính kế thừa, phát huy, nâng cao, hiện đại hoá truyền thống và bản
sắc dân tộc Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố quan trọng để đánh giá sự
phát triển KT-XH.
2. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nớc.
Nhà nớc thực hiện vai trò kinh tế của mình không chỉ bằng việc xây dựng và
quản lý khu vực kinh tế Nhà nớc mà quan trọng hơn là tổ chức và quản lý toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Để quản lý nền kinh tế quốc dân, Nhà nớc với bộ máy của
mình phải thực hiện rất nhiều công việc khác nhau, những công việc này hình thành
nên chức năng quản lý của Nhà nớc. Nó bao gồm:
Thứ nhất, tạo môi trờng và điều kiện cho sản xuất kinh doanh. Nhà nớc đảm
bảo sự ổn định về chính trị, KT-XH cho mọi ngời yên tâm sản xuất kinh doanh.
Duy trì luật pháp, trật tự và an toàn xã hội, thi hành nhất quán các chính sách và thể
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
23
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
chế theo hớng đổi mới, ổn định môi trờng kinh tế vĩ mô: khống chế làm phát, điều
tiết thị trờng, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu.
Nhà nớc xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh
tế: cơ sở hạ tầng các khu dân c (nh giao thông, điện, nớc, thông tin dự trữ quốc
gia ), hệ thống tài chính -tiền tệ, hệ thống pháp chế, cơ sở hạ tầng văn hoá xã hội
(giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế ).
Thứ hai, dẫn dắt và hỗ trợ những nổ lực phát triển thôngqua kế hoạch và các
chính sách kinh tế, sử dụng có trọng điểm các nguồn tài lực và lực lợng dự trữ. Nhà
nớc thông qua các chính sách kinh tế để phân bổ các nguồn tài nguyên thiên nhiên
phục vụ cho sản xuất, cơ cấu lại lực lợng lao động trong các cơ sở sản xuất, đồng
thời có các chính sách u tiên phát triển về vốn, t liệu sản xuất cho các doanh nghiệp,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, tăng trởng kinh tế.
Thứ ba, Nhà nớc thực hiện chức năng phát huy kinh tế quốc doanh. Kinh tế
quốc doanh có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trờng nớc ta, nó mở
đờng và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy phát triển sự
tăng nhanh và lâu bền của nền kinh tế, là một công cụ có sức mạnh vật chất để Nhà
nớc điều tiết và hớng dẫn nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN. Do vậy, bên
cạnh việc khai thác triệt để các lợi thế so sánh giữa các thành phần kinh tế, Nhà nớc
phải bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Để làm đợc điều đó Nhà nớc
phải chọn lọc, sắp xếp lại, khẳng định phạm vi hợp lý cần nắm giữ ở những lĩnh vực
thật cần thiết để làm vai trò dẫn dắt, mở đờng. Chỉ phát triển những lĩnh vực then
chốt, vốn lớn, kỹ thuật cao, góp phần bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh tế
quốc dân, đảm nhận những yêu cầu đặc biệt về quốc phòng an ninh, dịch vụ quan
trọng, kết cấu hạ tầng. Để kinh tế quốc doanh hoạt động có hiệu quả cần đặt nó hoạt
động trong cơ chế thị trờng cạnh tranh, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác
trong pháp luật, đồng thời xây dựng đội ngũ giám đốc và quản lý kinh doanh có
chuyên môn cao. Để thực hiện vai trò chủ đạo điều tiết nền kinh tế của mình, đòi
hỏi kinh tế quốc doanh phải luôn luôn chịu sự quản lý của bộ máy Nhà nớc, tuy
nhiên việc xây dựng và phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nớc tuỳ
thuộc vào rất nhiều vào chất lợng hoạt động của bộ máy Nhà nớc
Thứ t, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nớc còn thể hiện ở việc hoạch định
và thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm sự thống nhất giữa phát triển kinh tế và
phát triển xã hội. Nhà nớc quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia nhằm
bảo tồn và phát triển các tài sản đó, trong đó có bộ phận tài sản giao cho kinh tế
quốc doanh. Trong quá trình thực hiện các chức năng quản lý của Nhà nớc cần phân
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
24
Đề án kinh tế chính trị SV: Phạm Thái Sơn
biệt quản lý Nhà nớc về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, ở đó có sự khác biệt giữa tầm vĩ mô và vi mô, giữa phạm vi hoạt động và
điều chỉnh của các quy phạm pháp luật tuy nhiên cũng cần thấy hai mặt đó không
tách rời nhau một cách máy móc, mà kết hợp với nhau, thống nhất với nhau trong hệ
thống kinh tế và cơ chế quản lý của Nhà nớc.
IV - Các giải pháp cơ bản để đổi mới và tăng cờng vai trò
kinh tế của Nhà nớc ở nớc ta hiện nay.
Khi chuyển từ cơ chế kinh tế cũ sang cơ chế kinh tế mới, Đảng ta đã khẳng
định "chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa và có sự
quản lý của Nhà nớc". Vai trò kinh tế của Nhà nớc là rất quan trọng và cần thiết
trong mỗi giai đoạn phát triển. Nhà nớc sử dụng các công cụ kinh tế, các chính sách
vĩ mô để tác động mạnh mẽ, làm lành mạnh các quan hệ thị trờng. Sự tác động đó
rất đa dạng, phong phú, trong giai đoạn hiện nay ở nớc ta, để tăng cờng vai trò kinh
tế của Nhà nớc cần thực hiện các giải pháp sau:
1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế.
a. Vai trò của pháp luật: Pháp luật trong kinh tế có một vai trò đặc biệt quan
trọng. Nhà nớc thực hiện các chính sách công cụ kinh tế vĩ mô để hớng sức mạnh thị
trờng đi theo đúng hớng, bằng cách dựa vào luật pháp tạo ra hành lang năng động,
có trật tự tự do các chủ thể kinh doanh, xác định mục tiêu phát triển, tác động gián
tiếp thông qua các công cụ chính sách kinh tế nhằm mục tiêu gắn tăng trởng kinh tế
với công bằng xã hội.
b. Thực trạng pháp luật kinh tế ở nớc ta hiện nay: Hiện nay, pháp luật kinh tế
của nớc ta cha đảm bảo đầy đủ quyền tự do kinh doanh và cha đợc khẳng định bằng
các thể chế và chủ trờng giải phóng triệt để sức lao động. Tuy đã có sự khuyến khích
các thành phần kinh tế phát triển, quy định sự bình đẳng của các thành phần kinh tế,
nhng các định chế hiện hành vẫn còn phân biệt đối xử, vẫn có sự dè dặt đối với kinh
tế t nhân. Cơ chế chính sách pháp luật trong kinh tế còn cồng kềnh, rờm rà, nhiều
thủ tục. Có nhiều văn bản không có tính khả thi, trong thời gian qua, có những văn
bản pháp luật sau khi ban hành lại phải đình chỉ thi hành hoặc thi hành rất khó.
Trong nhiều luật lệ còn có những quy định không cần thiết, vì không có ý nghĩa
trong việc bảo vệ quyền lợi của ngời kinh doanh, cũng nh việc quản lý Nhà nớc.
Pháp luật Việt Nam hiện nay dùng nhiều nguyên tắc của luật hành chính hơn là các
nguyên tắc của luật dân sự. Hầu hết các quy định trong pháp luật kinh tế đề nhằm
Vai trò kinh tế của Nhà nớc
25