Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

chính sách kinh tế mới(nep) của v.i.lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.75 KB, 24 trang )

Lời mở đầu
Chính sách kinh tế mới của lênin đã tạo điều kiện phát triển lực lượng
sản xuất ở cả thành thị và nông thôn ,vì nó đáp ứng được yêu cầu của quy luật
kinh tế của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa còn mang tính chất hàng hoá và có
nhiều thành phần. Nhờ đó, trong một thời gian ngắn, nhà nước xô viết đã khôi
phục được nền kinh tế quốc dân bị chiến tranh tàn phá. đã tạo ra một bước
phat triển quan trọng biến nước nga đói thành một đất nước có nguồn lương
thực dồi dào. không những thế chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin còn đánh
dấu một bước phát triển mới về lý luận kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo tư
tưởng này nền kinh tế nhiều thành phần , các hình thức kinh tế quá độ, việc
duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá
thể trước hết là của nông dân, là những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc
xây dựng mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Từ đó chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ,trong đó có nước ta. Những quan
điểm kinh tế của đảng ta nhất là từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến
nay đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng quan điểm trong chính sách kinh tế
mới của lênin, tuy nhiên do điều kiện thời gian và không gian cách xa nhau,
trải qua những biến động khác nhau nên nhận thức và vận dung có thể khác
nhau ở nước ta.
Qua đó em muốn tìm hiểu để hiểu rõ hơn chính sách kinh tế mới của
lênin và sự vận dung nó ở Việt Nam. Do thời gian và trình độ có hạn nên chắc
không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong cô giáo giũp em sửa chữa
nhưng thiếu sót mà em mắc phải khi tìm hiểu đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn !
1
MỤC LỤC
I. Chính sách kinh tế mới(NEP) của V.I.Lênin 3
1. Điều kiện ra đời của NEP 3
2. Nội dung và biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới 3
3. ý nghĩa của NEP 4


II. Sự vận dụng ở Viêt Nam 5
1. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.6
2. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ
nghĩa 8
3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 10
4. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân 11
III- THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP 12
1-Về nông nghiệp 12
2-Về chính trị 13
3-Về công nghệ khoa học 14
4-Về tài nguyên thiên nhiên và năng lượng 16
5-Về môi trường 19
6-Về công bằng xã hội 20
KẾT LUẬN 22
Tài liệu tham khảo 24
2
I. Chính sách kinh tế mới(NEP) của V.I.Lênin.
1. Điều kiện ra đời của NEP
Không bao lâu sau cách mạng Tháng Mười năm 1917, việc thực hiện kế
hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của V.I.Lênin bị gián đoạn bởi cuộc nội
chiến 1918-1920. Trong thời kỳ này,Lênin đã áp dụng chính sách cộng sản
thời chiến. Nội dung cơ bản của chính sách cộng sản thời chiến là trưng thu
lương thực thừa của nông dân sau khi giành cho họ mức ăn tối thiểu. đồng
thời , xoá bỏ quan hệ hàng hoá-tiền tệ,xoá bỏ việc tự do mua bán lương thực
trên thị trường,thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy
nhà nước.
Chính sách cộng sản thời chiến đã đóng vai trò quan trọng trong thắng
lợi của nhà nước xô viết. Nhờ đó mà quân đội đủ sức để chiến thắng kẻ thù ,
bảo vệ nhà nước xôviết còn non trẻ của mình.
Tuy nhiên ,khi hoà bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến không

còn thích hợp. Nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Hậu quả chiến tranh đối với nền kinh tế rất nặng nề ,thêm vào đó, chính
sách trưng thu lương thực thừa đã làm mất động lực đối với nông dân. việc
xoá bỏ quan hệ hàng hoá-tiền tệ làm mất tính năng động của nền kinh tế vốn
dĩ mới bước vào giai đoạn phát triển. Vì vậy, khủng hoảng kinh tế chính trị
diễn ra rất sâu sắc .điều đó đòi hỏi phải có chính sách kinh tế thích ứng thay
thế . chính sách kinh tế mới được lênin đề xướng để đáp ứng yêu cầu này
nhằm tiếp tục kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới.
2. Nội dung và biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới.
Một là, thay thế chính sách trưng thu lương thực thừa bằng chính sách
thuế lương thực. Theo chính sách này ,người nông dân chỉ nộp thuế lương
3
thực với một mức cố định trong nhiều năm. mức thuế này căn cứ vào điều
kiện tự nhiên của đất canh tác. nói cách khác , “Thuế là cái nhà nước thu của
nông dân mà không bù lại”. số lương thực còn lại sau khi nộp thuế, người
nông dân được tự do trao đổi, mua bán trên thị trường.
Hai là, tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hoá-
tiền tệ giữa nhà nước và nông dân ,giữa thành thị và nông thôn, giữa công
nghiệp và nông nghiệp.
Ba là, sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành phần, các hình thức kinh tế
quá độ như khuyến khích phát triển sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ
thủ công , khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước, củng cố lại các doanh nghiệp nhà nước ,chuyển sang chế độ hoạch toán
kinh tế. đồng thơì Lênin chủ trương phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh
tế với các nước tư bản phương tây để tranh thủ kỹ thuật, vốn và khuyến khích
kinh tế phát triển.
Như vậy, khác với thời kỳ nội chiến, trong điều kiện hoà bình, nước nga
xô viết đã chủ trương khôi phục và phát triển kinh tế dựa trên nguyên tắc của
nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Rất tiếc là những tư tưởng đó của
Lênin không được những người kế tục sau này phát triển tiếp tục mà lại đưa

nền kinh tế đi sang quỹ đạo của nền kinh tế chỉ huy.
3. ý nghĩa của NEP
Chính sách kinh tế mới của Lênin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, trước
hết nó khôi phục được nền kinh tế xô viết sau chiến tranh . chỉ trong một thời
gian ngắn đã tạo được một bước phát triển quan trọng biến nước nga đói
thành một đất nước có nguồn lương thực dồi dào . từ đó, đã khắc phục được
khủng hoảng kinh tế, chính trị củng cố lòng tin cho nhân dân vào thắng lợi tất
4
yếu và bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội theo những nguyên lý mà Lênin
đã vạch ra.
Chính sách kinh tế mới của Lênin còn đánh dấu một bước phát triển mới
về kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo tư tưởng này, nền kinh tế nhiều thành phần,
các hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hoá-tiền
tệ, quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân, là những vấn đề có tính chất nguyên
tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Do đó đến cuối năm1922 ,liên xô đã vượt qua được nạn đói và đến năm
1925 nông nghiệp liên xô đã vượt mức trước chiến tranh tổng sản lượng
lương thực của liên xô tăng từ 42,2 triệu tấn(năm1921) lên đến 74,6 triệu tấn
(năm1925)
Từ đó chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta. Những quan
điểm kinh tế của đảng ta nhất là từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến
nay đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng quan điểm trong chính sách kinh tế
mới của Lênin. Tất nhiên, do thời gian và không gian cách xa nhau, trải qua
những biến động khác nhau, nên nhận thức và vận dụng có thể có sự khác
nhau, kể cả về bước đi, nội dung và biện pháp cụ thể trong khi tiến hành ở
nước ta.
II. Sự vận dụng ở Viêt Nam.
Sau khi đất nước thống nhất, nước ta đi lên chủ nghĩa xa hội trên cơ sở
thực hiện kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Tuy đã đạt được một số

thành tựu nhất định nhưng nhìn chung tình hình đất nước còn rất khó khăn đời
sống nhân dân còn rất cực khổ vì vậy đại hội đảng VI năm 1986 nước ta tiến
hành đổi mơí . thực chất của quá trình đổi mới của nước ta là sự vận dụng
sáng tạo chính sách kinh tế mới của lênin.
5
1. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳquá độ nhằm xây
dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá hiện đại
hoá đât nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước kinh tế còn lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển. Tuy nhiên, chiến
lược, nội dung , hình thức, bước đi tốc độ biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của mỗi nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải được xuất phát từ lịch sử
cụ thể của mỗi nước và từ bối cảnh quốc tế trong mỗi thời kỳ.
Trong thời đại ngày nay với xu thế quốc tế hoá. Cùng với sự hội nhập
sâu của đất nước đặc biệt là khi nước ta ra nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO. Thì sản xuất ngày càng phát triển. Cách mạng khoa học kỹ thuật trên
thế giới diễn ra như vũ bão đòi hỏi công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại
hoá, với việc đổi mới và nâng cao trình độ văn hoá-giáo dục, khoa học-công
nghệ.
Đầu tiên muốn phát huy nhân tố con người thì chúng ta phải đầu tư trước
hết là cho giáo dục-đào tạo, sau đó là hàng loạt các vấn đề đối với người lao
động như tuyển dụng, sử dụng, quản lý, chính sách đãi ngộ …nghĩa là theo
phương châm từ con người, do con người và vì con người trong tác phẩm
kinh điển của mình Các mác và ăng ghen cho rằng con người phải được đặc
biệt chú trọng vì con người là sản phẩm cao nhất của quá trình phát triển lâu
dài của tự nhiên và xã hội. chính vì vậy đảng và nhà nước ta luôn xác định
con người việt nam vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế
xã hội của đất nước. đảng ta đã khẳng định “lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Do vậy những
chính sách và giải pháp trong giáo dục và đào tạo phải hướng tới hình thành

một nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
6
Trong thời đại ngày nay đó là một nguồn nhân lực bao gồm những con người
có đức có tài ham học hỏi, thông minh sáng tạo, làm việc quên mình vì nền
độc lập và sự phồn vinh của tổ quốc, được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá,
được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, có năng lực quản lý sản xuất
kinh doanh điều hành vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội có trình độ kha học kỹ
thuật vươn lên ngang tầm thế giới.
Khoa học công nghệ ngày nay có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và
tốc độ phát triển của các quốc gia, do vậy chính sách khoa học công nghệ giờ
đây khôn chỉ giới hạn bởi việc xử lý các vấn đề công nghệ và kỹ thuật trong
quá trình phát triển công nghệ. Công cuộc công nghiệp hoá đòi hỏi chúng ta
phải quan tâm xây dựng và phát huy tốt lực lượng nghiên cứu khoa học xã hội
và nhân văn, khoa học tự nhiên, và khoa học kỹ thuật, kết hợp có hiệu quả
thành tựu của những tiến bộ khoa học vào việc giải quyết vấn đề được đặt ra.
Gắn hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ với thực tiễn với nhu cầu
xã hội, thiết lập các quan hệ trực tiếp giữa doanh nghiệp với cơ quan và người
làm công tác nghiên cứu , phát minh sáng chế trên cơ sở hai bên cùng có lợi,
trả công toả đáng tương xứng với hiệu quả kinh tế xã hội của việc áp dụng các
kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ nhằm khuyến khích các nhà khoa học
hăng hái miệt mài sáng tạo để có cuộc sống ngày càng đầy đủ hơn băng trí tuệ
của mình. Đó là một trong những phuơng hướng quan trọng nhất tạo lên động
lực bền vững cho sự phát triển khoa học công nghệ, về phần mình các nhà
khoa học phải nâng cao lòng yeu nước ,xây dựng hoài bão lớn, cống hiến
quyên mình cho sự nghiêp nghiên cứu phát minh, đóng góp tích cực và có
hiệu qủa cho xã hội, cho công cuộc công nghiêp hoá hiên đại hoá đáp ứng sự
tin cậy của đảng nhà nước và nhân dân.
7
2. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.

Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng
quan hệ sản xuất mới không thể thực hiên theo ý muốn chủ quan duy ý trí mà
phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ sự cải biến
nào về mặt quan hệ sở hữu mới ở nước ta phải được phát triển từng bước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước như nước ta,
chế độ sở hữu cần phải đa dạng, cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành
phần. Tư đại hội VI của đảng đã xem xét lại một cách căn bản vấn đề cải tạo
xã hội chủ nghĩa và đưa ra quan điểm mới về nền kinh tế nhiều thành
phần:”đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh kinh tế tập thể, tăng cường
tích luỹ tập trung của nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài, cần có chính
sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác”. Quan điểm
của đảng tavề xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là xuất phát từ thực
trạng kinh tê-xã hội việt nam. Nó cho phép có nhiều hình thức sản xuât kinh
doanh theoquy mô phù hợp với từng khâu của quá trinh tái sản xuất và lưu
thông, nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế. Đảng coi đây
là giải pháp có ý nghĩa chiến lược để giải phóng sức sản xuất và xây dựng cơ
cấu kinh tế hợp lý.Đổi mới doanh nghiệp nhà nước : từng bước mở rộng
quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước đi đôi với xoá bỏ dần chế độ nhà
nước bao cấp tài chính, cung ứng và bao cấp giá vật tư và định giá đối với hầu
hết các sản phẩm do doanh nghiệp nhà nước sản xuất và tiêu thụ chế độ thu
quốc doanh cũng được bãi bỏ thay bằng chế độ thuế. Sắp xếp lại các doanh
nghiệp nhà nước theo hướng giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu
8
quả , thua lỗ kéo dài sáp nhập các doanh nghiệp có liên quan với nhau về
công nghệ và thị trường. Tổ chức lại các công ty các liên hiệp công nghiệp
được thành lập trước đây, thành lập các tổng công ty mới, trong đó nhà nước
bổ nhiệm hội đồng quản trị để điều hành và chịu trách nhiệm trước nhà nước

về hoạt động của công ty. Chuyển sang các hình thức sở hữu khác, cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước thực hiên thí điểm năm 1992 đến năm 1996 mới
có 10 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Từ năm 2000, nhà nước thực hiện
nhiều biện pháp chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang các hình thức sở hữu
và kinh doanh khác như:giao, bán , khoán kinh doanh đối với doanh nghiệp
có quy mô nhỏ. Đổi mới kinh tế hợp tác :giải thể các tập đoàn sản xuất hoă
các hợp tác xã làm ăn kém thua lỗ kéo dài hoặc chỉ tồn tại trên hình thức, giao
khoán hoặc nhượng , bán tư liệu sản xuất cho xã viên để họ trực tiếp quản lý,
sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình , chuyển các hợp tác xã còn hoạt động
kinh doanh thành hợp tác xã cổ phần, hoạt động theo luật hợp tác xã.Phát
triển kinh tế cá thể, tư nhân và các loại hính sở hữu hỗn hợp trước khi đổi mới
khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể vẫn còn tồn tại ở nước ta, chiếm tới
29,1% trong tổng sảnphẩm xã hội. Các hình thức sở hữu liên doanh mới ra
đời .đặc biệt là từ năm 1988 nhà nước ban hành luật đầu tư nước ngoài thì các
liên doanh với nước ngoài phát triển dưới nhiều dạng khác nhau
Điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế bên cạnh coi trọng công nghiệp hoá
nông nghiệp và nông thôn , phát triển hàng xuất khẩu là hàngtiêu dùng ,nội
dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá trong thời kỳ này đã đề ra chủ trương
sử dụng có chọn lọc ,một số cơ sởcông nghiệp năng trong yếu vàhết sức cấp
thiết như năng lượng nhiên liệu , vật liệu xây dựng , công nghiệp chế tạo đóng
và sửa chữa tàu thuỷ , luyện kim , hoá chất. Tranh thủ ứng dụng những thành
tựu mới về khoa học công nghệ của các nước đi trước từng bước phát triển
nền kinh tế tri thức.
9
Đổi mới cơ chế quản lý trước hêt là về công cụ và chính sách quản lý
kinh tế nhà nước xây dựng chiến lược phát triển với các mục tiêu lớn ,các chỉ
tiêu kinh tế chủ yếu và điều tiết nền kinh tế bằng các chính sách , các công cụ
kinh tế vĩ mô dẫn nền kinh tế theo định hướng đề ra cho từng giai đoạn. các
cơ quan quản lý kinh tế nhà nước chú trọng hơn vào việc nghiên cứu chiến
lược , xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn trung hạn , bảo đảm các quan hệ

cân đối tổng hợp trong nền kinh tế và xây dựng chính sách và biên pháp để
thực hiện kế hoạch nhà nước đặt ra. Nhà nước cũng có thể triển khai thực hiên
kế hoạch thông qua các trương trình mục tiêu, dự án cụ thể. Xoá bỏ bao cấp
tự do hoá giá cả , khôi phục các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Trong nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung trước đây nhà nước quy định giá cả thu mua nông sản
của nông dân, giá cả đối với hầu hết các loại hàng hoá vật tư nguyên liệu
nhiên liệu là đầu vào của sản xuất và quản lý phân phối các loại hàng hoá naỳ
thông qua hệ thống cung ứng vật tư nhà nứoc . giá cả hàng hoá tiêu dùng nói
chung đều do nhà nước quy định và được phân phối bằng tem phiếu và thông
qua mạng lưới mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán đến nay đã được
xoá bỏ .
Đổi hệ thống chính sách tiền tệ , tài chính:.nhà nước ban hành bổ sung
nhiều luật thuế , từ năm 1988 hệ hống ngân hàng được tổ chứ thành 2 cấp là
ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại., tạo lập và từng bước hình
thành đồng bộ các yếu tố của thị trường. Kiện toàn và nâng cao nă ng lực ,
hiệu quả quan lý kinh tê của nhà nước.
3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Đại VI đã chỉ rõ cùng với việc mở rộng xuất nhập khẩu, tranh thủ viện
trợ và vay dài hạn cần vận dung nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế
đối ngoại. thực hiện chủ trương đó nhà nước đã ban hành chính sách mở cửa
10
để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ
kinh tế dối ngoại từng bước gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới,
thị trường trong nứơc với thị trương quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng cùng
có lợi,bảo đảm độc lập ,chủ quyền dân tộc an ninh quốc gia.
Về ngoại thương , cải cách ngoại thương đựơc thực hiện theo hướng
từng bước mở cửa và hội nhập quốc tế nhà nước xoá bỏ bao cấp và bù lỗ
trong kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp, nhà nước từ bỏ
độc quyền ngoại thương, điều chỉnh tỷ giá hối đoái để kích thích xuất khẩu,
tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài .nhà nước đã ban hành luật đầu tư

nước ngoài , quy định không quốc hữu hoá doanh nghiệp nhà nước, các nhà
đầu tư được quyền chuyển về nước các khoản:lợi nhuận , tiền cung cấp kỹ
thuật , dịch vụ ,tiền gốc và lãi các khoản cho vay đầu tư và tài sản hợp pháp…
nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài như đơn
giản hoá các thủ tục hành chính, xây dựng các khu chế xuất cơ sở hạ tầng
thuận tiện các hình thức và các lĩnh vực đầu tư nước ngoài từng bước được
mở rộng…
4. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Đây là nhiệm vụ phản ánh mục đích cuối cùng của phát triển kinh tế
nhằm tạo tiến bộ và công bằng xã hội trong những năm qua tuy còn nhiều khó
khăn nhưng nhìn chung đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải
thiện một cách rõ rệt. Số lượng lao động có việc làm trong nền kinh tế đã tăng
nhanh, trong những năm 1995-2000 trung bình mỗi năm tạo ra 1,3 triệu việc
làm mới thu nhập của dân cư tăng bình quân 10% trong 16 năm đổi mới. GDP
bình quân đầu người đạt gần 400 USD mỗi năm.cùng với đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân cũng được nâng nên đáng kể chỉ số phát triển con
người của việt nam đã tăng từ o,464 năm1992 lên 0,671 năm 2000 xếp thứ
11
108 trong 174 nước được xếp hạng. những thành tựu knh tế xã hội là do
đường lối đổi mới và áp dụng một cách sáng tạo chính sách kinh tế mới của
lênin của đảng ta.
III- THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP
1-Về nông nghiệp.
Kết quả nghiêm cứu , triển khai và đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào
sản xuất không tương ứng với tiềm năng và rất khác biệt ở hai miền Nam,
Bắc. Tuy chỉ chiếm 1/4 về số lượng và gần 1/3 về lực lượng lao động so với
miền bắc , song các cơ quan nghiêm cứu giống lúa ở nam bộ ,từ năm 1991-
1995, đã tạo ra 70% số giống lúa được công nhận mở rộng trong sản xuất và
gần 80% số giống lúa được phép khu vực hoá. Như vậy vấn đề nổi cộm rút ra
từ thực trạng trên là hệ thống nghiêm cứu ứng dụng vào sản xuất ở các địa

phương.
Tiếp theo là về lực lương cán bộ khoa học công nghệ .Khoa học công
nghệ không tự nó trở thành hiện thực .Vai trò động lực của nó chỉ được phát
huy khi có những điều kiện nhất định , trong đó trước hết phải kể đến yếu tố
con người . Khi đề cập đến khoa học kỹ thuật với tính cách là một phương
tiện quan trọng để phát triển kinh tế xã hội , F.ănghen đã nhấn mạnh tính thiết
yếu của sự phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng
những phương tiện đó .Năng lực đó không chỉ là sự sáng tạo ra sức mạnh của
khoa học công nghệ , mà còn là khả năng sử dụng và chuyển hoá nó thành
động lực của sự phát triển
Nếu khoa học công nghệ đóng vai trò động lực , là đầu tầu thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước thì đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ
chính là lực lượng vận hành nguồn động lực đó.Sự lớn mạnh của lực lượng
này đặc biệt quan trọng trong bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền
12
kinh tế công nghiệp, hơn nữa trong quá trình tiếp cận và bắt nhịp với nền kinh
tế tri thức đang gần
Thực tế cho thấy , hầu hết các vùng nông thôn , nhất là miền núi, đang
rất thiếu cán bộ khoa học công gnhệ, người ta tính rằng để vùng đồng bằng
sông cửu long đạt được con số lý tưởng về mật độ kỹ sư trên diện tích canh
tác như nông trường sông hậu (1kỹ sư/40ha và 1thạc sỹ/1100ha) thì trường
đại học Cần Thơ (mỗi năm đào tạo 640 sinh viên) phải mất 141 niên khoá
.Còn nếu ở mức 1 kỹ sư /xã thì trường này cũng mất ít nhất hai niên khoá để
đào tạo mới lấp được khoảng trống mênh mông đó . Rõ ràng tình trạng mỏng
về lực lượng , thiếu hụt về đội ngũ kế cận, không có cơ chế hợp lý để sử dụng
cán bộ khoa học công nghệ đặt ra bức xúc trong khu vực nông nghiệp , nông
thôn. Đó thực sự là một thách thức , bởi vì không thể nói đến công gnhiệp hoá
, hiện đại hoá đất nước trong thời đại văn minh trí tuệ , thời đại sinh thái hoá
mà thiếu đội ngũ cán bộ khoa học giỏi
Tiếp đến là vấn đề về thị trường khoa học , công nghệ ở nông thôn .

Trong bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp nông thôn sang sản xuất hàng
hoá nhu cầu về khoa học công nghệ ở khu vực này trong thời gian gần đây là
một đề tài khá lớn. Để phát triển sản xuất trong điều kiện nền kinh tế thị
trường , người lao động không những bước đầu tự giác chấp nhận mà còn chủ
động đòi hỏi tiến bộ khoa học công nghệ.
2-Về chính trị .
Nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất của đảng ta trong thời kỳ này là xây
dựng và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi thành phần mọi
tầng lớp nhân dân trong nước và người VN sinh sống ở nước ngoài đồng tâm
nhất trí,nỗ lực phấn đấu góp phần đẩy tới một bước CNH-HĐH đất nước.
Muốn vậy phải xây dựng đảng thật trong sạch, vững mạnh, có bản lĩnh chính
13
trị thật vững vàng , tầm nhìn sâu rộng ,tổ chức chặt chẽ , nghiêm minh, năng
lực lãnh đạo giỏi, đề ra và thực hiện những đường lối, chính sáchđúng đắn,
giữ vững ổn định chính trị xã hội, tranh thủ thời cơ đẩy mạnh phát triển kinh
tế , đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thử thách , trở thành một nước công
nghiệp tromg vòng ba thập kỷ tới.Cán bộ đảng viên phải có giác ngộ sâu sắc
về lý tưởng, vừa có kiến thức và năng lực chuyên môn, gương mẫu, sáng tạo,
cần kiệm trong lao động , sản xuất và trong sinh hoạt, biết tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính sách của đảng và nhà nước.
Cần tập trung nghiêm cứu xác định đúng vai trò, chức năng nhiệm vụ
của nhà nước trong cơ chế mới. Trên cơ sở đó chấn chỉnh, đổi mới tổ chức và
cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy gọn nhẹ, trong sạch,
cán bộ tinh thông nghiệp vụ, tận tuỵ với công việc, làm việc có hiệu lực và
hiệu quả. Kiên quýêt bài trừ nạn tham nhũng, thói xa hoá , lãng phí tệ quan
liêu, ức hiếp dân, tình trạng thiết lập kỷ luật , kỷ cương đang gây ra thất thoát
nghiêm trọng, làm xói mòn lòng tin nhân dân, làm suy yếu khối thống nhất ý
chí và hành động của nhân dân .
Phải coi vấn đề xây dựng giai cấp công nhân và công tác công đoàn là
một nhiệm vụ trọng tâm của toàn đảng toàn dân trong thời kỳ phát triển

mới,bởi vì chỉ với một giai cấp công nhân trưởng thành về chính trị , có trình
độ tổ chức, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, mới có thể là nòng cốt để
liên minh với nông dân trí thức, tập hợp và đoàn kết các thành phần khác,
phấn đấu cho thành công của sự nghiệp CNH-HĐH.
3-Về công nghệ khoa học.
Hiện đại hoá đất nước theo định hướng trên đây về thực chất là quá trình
đầu tư theo chiều sâu để phát triển công nghệ nhằm làm thay đổi căn bản cơ
cấu của nền kinh tế. Ngay trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hoá, phải
14
coi nguồn nhân lực là yếu tố quýêt định. Phải coi con người là mục đích chứ
không phải là phương tiện, không hy sinh con người cho sự nghiệp hiện đại
hoá đất nước , trong các khấu hao phải tính đến khấu hao con người. Theo
tinh thần đó, giáo dục khoa học và công nghệ có vai trò và vị trí cực kỳ quan
trọng. Sự xuống cấp của hệ thống giáo dục trong thời gian qua kể từ khi nền
kinh tế chuyển sang kinh tế thị trườngthể hiện sự hiểu biết kém cỏi của chúng
ta về những thách thức của thời đại, nếu không có những biện pháp đặc biệt
để khắc phục thì nó sẽ trở thành hiểm hoạ thật sự đối với tương lai của đất
nước, tiền đồ của dân tộc.
Cùng với giáo dục, khoa học cũng là động lực của quá trình hiện đại hoá
đất nước, không chỉ tạo ra tri thức mới để thúc đẩy sự phát triển mà còn có
nhiệm vụ đặt nóvào vị trí nền tảng của những giá trị văn hoá và đạo đức, bảo
đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Công nghệ gắn bó hữu cơ với giáo dục và khoa học, là đòn mẩy mạnh
mẽ nhất đưa các thành tựu khoa học và giáo dục vào cuộc sống. Từ lâu công
nghệ đã được công nhận là yếu tố cực kỳ quan trọng trong xây dựng tiềm lực
kinh tế và thúc đẩy sự tăng trưởng, là cơ sở để sử dụng có hiệu quả nhất các
nguồn lực của quốc gia, góp phần chủ yếu tạo nên năng xuất lao động cao.
Vì nhiều nguyên nhân, VN đã tụt hậu so với các nước trong khu vực trên
nhiều phương diện kinh tế, mà thực chất là tụt hậu về khoảng cách công
nghệ.Do năng lực đổi mới công nghệ của đất nước còn nhiều hạn chế, để phát

huy lợi thế của đất nước đi sau trong một thế giới mà tốc độ phát triển công
nghệ mới ngày càng gia tăng, con đường tối ưu để hiện đại hoá đất nước là
chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
nhanh quá trình đổi mới và chuyển giao công nghệ. Kế hoạch của nước ta đến
năm 2000 là phải tập trung mọi nỗ lực đẩy nhanh quá trình chuyển giao công
15
nghệ từ bên ngoài vào thông qua các luồng chủ yếu như : đầu tư trực tiếp với
100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh , đặc biệt chú ý đến đội ngũ chuyên gia
công nghệ VN ở nước ngoài. Quá trình này cần được đẩy nhanh hơn nữa, cụ
thể và thiết thực hơn, bởi công nghệ nói chung là sản phẩm thương mại ,một
loại hàng hoá đặc biệt nhiều khi có tiền vị tất đã mua được. Cho nên không
thể hy vọng tìm kiếm các công nghệ cần thiết để hiện đại hoá đất nước theo
lối tự phát mà phải tính toán chu đáo công nghệ gì cần mua, cái gì có thể tự
làm lấy và phải có đầu tư vốn, có chính sách tương ứng để tạo ra năng lực
công nghệ môi sinh theo 4 cấp độ : khả năng thực hành, khả năng lĩnh hội,
khả năng thích ứng và khả năng sáng tạo.
Trong hơn hai năm qua, kể từ khi luật đầu tư và pháp lệnh chuyển giao
công nghệ nước ngoài vào VN được ban hành, quá trình chuyển giao công
nghệ theo một nghĩa nào đó cũng diễn ra ở nước ta nhưng hầu hết các luồng
chuyển giao công nghệ mới chỉ dừng ở mức chuyển dịch kỹ thuật và có rất ít
trương hợp quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra đúng nghĩa với khái niệm
này.Có nhiều nguyên nhân song theo em, trở ngại chính trên con đường
chuyển giao công nghệ nước ngoài vào nước ta là môi trường thể chế còn tù
mù giữa cũ và mới. Trong môi trường thể chế như vậy, lợi nhuận không sinh
ra từ năng suất, chất lượng nhờ đổi mới công nghệ và cải tiến quản lý, mà chủ
yếu từ mua rẻ, bán đắt , trốn lậu thuế, lừa đảo. Môi trường đó xô đẩy con
người chạy theo lợi ích trước mắt và lối sống tiêu xài lãng phí, không khuyến
khích đầu tư dài hạn và do đó không thể khuyến khích chuyển giao công
nghệ.
4-Về tài nguyên thiên nhiên và năng lượng.

Nước ta chậm đề ra chiến lược năng lượng toàn diện và lâu dài, phù hợp
với đặc điểm của VN. Thực tế cho thấy, chúng ta chỉ mới tập trung đầu tư cho
16
thuỷ điện lớn và dầu khí, than coi nhẹ các dạng năng lượng khác. Thuỷ điện
lớn cần nhiều vốn , thi công lâu và khó khăn về kỹ thuật, trong khi thuỷ điện
vừa và nhỏ vốn đầu tư ít, thi công nhanh, kỹ thuật không phức tạp, đội ngũ
cán bộ khoa học kỹ thuật cũng như thiết bị ta đều có trong nước. Theo thống
kê chưa đầy đủ, ta có hơn 400 vị trí thuận lợi cho việc xây dựng các trạm thuỷ
điện với công suất 100kđến 20000k. Nếu tính đến việc xây dựng cả những
trạm thuỷ điện công suất dưới 100k , số lượng sẽ cao lên gấp nhiều. Các trạm
thuỷ điện này rất cần cho việc chạy máy bơm nước, máy xay xát, chế biến
nông sản thực phẩm và thắp sáng ở nông thôn và miền núi.
Khai thác than và dầu khí là cần thiết, ta có thể khai thác trong quy mô
lớn và sử dụng trực tiếp dễ dàng,nhưng nó đòi hỏi nhiều vốn, thời gian và
chúng không thể tái tạo được , mà tiềm năng của ta về than và dầu mỏ cũng
rất hạn chế, điều kiện khai thác ở VN lại có nhiều khó khăn, nơi khai thác lại
ở rất xa nơi tiêu thụ, than và dầu mỏ lại gây ô nhiễm môi trường nặng , không
những thế trình độ khoa học công nghệ của nước ta lại rất lạc hậu gây khó
khăn rất lớn cho việc khai thác. Do vậy, nên ta không thể coi nhẹ việc khai
thác và tận dụng các dạng năng lượng khác như: ánh sáng mặt trời, địa nhiệt
khí sinh học, gió,biển được tái tạo thường xuyên và được sử dụng ở nhiều
nơi, không gây ô nhiễm môi trường và rất thích hợp với việc sản xuất phân
tán, quy mô nhỏ ở VN.
Tổn thất và lãng phí trong khai thác và sử dụng năng lượng còn rất phổ
biến và nghiêm trọng như tình trạng khai thác than bất hợp pháp và bừa bãi
của một số “cai đầu dài” và một số tư nhân, một số ngành địa phương đã gây
lang phí lớn về tài nguyên và gây khó khăn cho việc khai thác mỏ sau này.
Công tác vận hành lưới điện truyền tải chưa tốt, hiện tượng cháy biến
thế, đứt dây vỡ sứ xảy ra còn nhiều, gây mất điện ở nhiều khu vực.Tổn thất
17

điện năng lớn, có nơi lên đến 40%-50%, đặc biệt là nạn ăn cắp điện xảy ra
khá phổ biếnvà nghiêm trọng, chỉ mới được khắc phục rất ít.
Nói chung vấn đề tiết kiệm năng lượng chưa trở thành một vấn đề quốc
sách nên đã để xẩy ra lãng phí lớn về điện, xăng dầu, than Việc bảo vệ tài
nguyên và bảo vệ môi trường còn nhiều thiếu sót.Những quy định trong pháp
lệnh và nghị định về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cũng chưa được chấp hành
nghiêm chỉnh, Luật bảo vệ môi trường vừa được ban hành cũng chưa đi vào
cuộc sống.Tình hình trên đây là đáng lo ngại , cần có những giảy pháp kịp
thời và có hiệu quả để đảm bảo vững chắc và ngày càng tốt hơn cho sự nghiệp
CNH-HĐH trước mắt cũng như trong tương lai
Thực hiện những mục tiêu trên đây trên cơ sở từng bước hiện đại hoá
ngành năng lượng, và bằng các giải pháp chủ yếu sau đây:
Trước hết ta cần xây dựng chiến lược năng lượng toàn diện và lâu dài,
phù hợp với đặc điểm và nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
Hai là, xây dựng qui hoạch dài hạn và kế hoạch trung hạn, ngắn hạn để
thực hiện chiến lược năng lượng.
Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ
tiên tiến trong việc thăm dò, khai thác, chế biến các tài nguyên năng lượng.
Bốn là, nghiên cứu để có chính sách mềm dẻo về nhập khẩu và xuất
khẩu dầu mỏ, than, khí đốt. Việc tiếp tục xuất khẩu dầu thô, than (và sau này,
cả khí đốt) là cần thiết nhưng cần nâng cao chất lượng than xuất khẩu và
nhanh chóng xây dựng nhà máy lọc dầu và hoá dầu để không phải xuất dầu
thô, mà xuất dầu đã lọc và các sản phẩm đi theo chúng nếu trong nước dùng
không hết.
18
Năm là, đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật ngang tầm nhiệm vụ,
duy trì và phát triển lực lượng công nhân kỹ thuật năng lượng giỏi tay nghề,
có sức khoẻ và đời sống ngày càng được cải thiện. Có kế hoạch nâng cao chất
lượng đào tạo các kỹ sư địa chất, mỏ, dầu khí, điện , đẩy mạnh công tác sau
đại học để nhanh chóng hình thành một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và

quản lý tíên kịp trình độ thế giới, một đội ngũ chuyên gia đủ sức giải quyết
các vấn đề phức tạp về khoa học kỹ thuật và quản lý trong ngành năng lượng.
Sáu là, phát động một phong trào quần chúng sâu rộng lôi cuốn tất cả các
ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế và toàn dân, toàn quân tham
gia thực hiện chiến lược và quy hoạch, kế hoạch về năng lượng, đóng góp trí
tuệ, công sức và tiền vốn nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra cho từng thời kỳ,
dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của chính quyền, nhằm khai thác
toàn diện và có hiệu quả mọi dạng năng lượng, sử dụng tiết kiệm năng lượng
và bảo vệ tốt tài nguyên môi trường:
5-Về môi trường.
Trong quá trình tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài, cần chú ý khía cạnh
nhân văn kèm theo xã hội, khuyến khích công nghệ không ô nhiễm, tạo việc
làm mà không hại sức khoẻ con người, quan tâm đến điều kiện lao động của
phụ nữ, trẻ em, chú ý chia sẻ thành quả của quá trình phát triển cho nông thôn
miền núi. Chính sách tiết kiệm tài nguyên bảo vệ môi trường phải được quán
triệt trong việc lựa chọn cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp, nhằm giảm thiểu
chi phí năng lượng, chi phí vật liệu trên một đơn vị thu nhập quốc dân. Các
ngành công nghệ cao cùng cần được áp dụng để điều tra thăm dò phát hiện
các nguồn tài nguyên mới, khôi phục các môi trường đã bị ô nhiễm và bảo vệ
môi trường sinh thái.
19
6-Về công bằng xã hội.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, sự kết hợp hai mặt đó vấp phải những
khó khăn không dễ vượt qua. Một mặt, chủ nghĩa bao cấp vừa bình quân, vừa
đặc quyền còn để lại nhiều di chứng, không những trong đời sống vật chất mà
cả trong ý thức con người. Mặt khác, quá trình chuyển sang kinh tế thị
trường,bên cạnh những yếu tố tích cực còn chứa không ít yếu tố độc quyền,
lũng đoạn, vô chính phủ, tự phát, làm cho kinh tế thị trường tuy có kích thích
tính năng động của con người trong hoạt động kinh tế, nhưng cũng tạo nên
một tâm lý xã hội của lối sống hãnh tiến, chạy theo đồng tiền một cách mù

quáng và vô sỉ: “tiền là tiên là phật, là sức bật tuổi trẻ” “ tiền là tất cả ”
Chúng ta cần có kinh tế thị trường như một môi trường thuận lợi cho các
hoạt động kinh tế, nhưng đó phải là một nền kinh tế thị trường văn minh, với
những hoạt động sinh lợi thật sự và được pháp luật kiểm soát chặt chẽ, có lợi
cho quốc kế dân sinh. Hơn nữa, bản thân kinh tế thị trường không tự động bảo
đảm cho công bằng xã hội. Phải có những điều tiết của xã hội thông qua nhà
nước để phân phối lại những kết quả hoạt động kinh tế theo hướng bảo đảm
công bằng xã hội ở mức cần thiết tối thiểu.ở nước ta, những sự điều tiết như
vậy do nhiều nguyên nhân chưa đủ mạnh.
Không thể đồng ý với quan niệm cho rằng nếu coi trọng công bằng xã
hội thì khó lòng tập trung các nguồn lực bên trong và bên ngoài để phát triển
kinh tế. Đứng về ngắn hạn thì như vậy, nhưng nếu xét theo triển vọng lâu dài
thì quan niệm này rất có hại. Hãy lấy một ví dụ: vấn đề đầu tư. Tất nhiên,
trước mắt cần tập trung phần lớn các nguồn lực rót vào giáo dục, y tế, trợ cấp
xã hội. Nhưng, nếu ngày nay không đầu tư thích đáng cho những lĩnh vực này
thì liệu trong vòng 10 – 15 năm nữa, chúng ta có thể đảm bảo nguồn nhân lực
có chất lượng cho sự phát triển kinh tế không? Hay lúc đó, nhân lực dồi dào
20
của nước ta sẽ trở thành một gánh nặng, vì thế học vấn, thiếu trình độ nghề
nghiệp, và không đủ sức khoẻ. Đó là chưa nói với thực trạng đó, đất nước sẽ
không thể phát triển nhanh, mạnh, đủ sức tham gia sự cạnh tranh ngày càng
gay gắt giữa các nước trong khu vực và trên thế giới trong một sự hòa mang
tính năng động mạnh mẽ, nhưng cũng đầy thách thức đối với nước nào hụt
hơi trong cuộc chạy đua đường dài.
Theo tư duy kinh tế mới, đầu tư cho các lĩnh vực xã hội cũng là trực tiếp
đầu tư cho kinh tế, nhất là xét theo triển vọng dài hạn. Đầu tư cho cấu trúc hạ
tầng không thể chỉ bó hẹp vào những cấu trúc hạ tầng kinh tế mà phải mở
rộng ra những cấu trúc hạ tầng xã hội mà cốt lõi của nó không có gì khác hơn
là con người
21

KẾT LUẬN
Với chính sách kinh tế mới của V.I.Lê nin cùng những nỗ lực của đảng
và nhân dân ta, sự nghiệp xây dựng một xã hội văn minh giầu đẹp ở nước ta
đã có những bước phát triển rõ rệt.
Việc đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước trước hết xuất phát từ mục tiêu, con
đường đi tới chủ nghĩa xã hội mà đảng và nhân dân ta lựa chọn. Việc thiết kế
thi công và thực hiện thành công mô hình chủ nghĩa xã hội ở VN là một quá
trình phấn đấu lâu dài, gian khổ nhưng nhất định phải làm. Nó đòi hỏi toàn
đảng toàn dân ta đồng tâm hiệp lực, có đường đi nước bước rõ ràng, có ý chí
và bản lĩnh vững vàng để sẵng sàng tạo lập, nắm bắt và vận dụng thời cơ,
vượt qua thách thức, đưa đất nước vượt lên “sánh vaivới các cường quốc năm
châu” như Bác Hồ đã nói “công nghiệp hoá hiện đại hoá là mơ ước ngàn đời
của ông cha ta, là sự giao phó của lịch sử VN hàng ngàn năm văn hiến và hiển
hách chiến công cho thế hệ hôm nay tiếp nối thực hiện bằng được”, đây cũng
là khát vọng của nhân dân ta hiện nay, mong muốn đất nước ta có tiềm lực to
lớn, đủ khả năng xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc,tự do cho toàn dân, xã
hội công bằng văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc , hội nhập
với cộng đồng quốc tế.
Thành công trong quá trình đổi mới ở VN những năm qua đã chứng
minh tính đúng đắn của những bước đầu tiên và hứa hẹn nhiều tiềm năng cho
phát triển. Tuy nhiên, vì là một nước có điểm xuất phát thấp, vẫn còn là nước
nghèo và môi trường sinh thái cũng ở ngưỡng suy thoái, VN nhất thiết phải
22
theo đuổi chiến lược : tăng trưởng nhanh về kinh tế kết hợp với bền vững xã
hội, bảo vệ môi sinh, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Bên cạnh thận lợi về vị trí địa lý ,một phần về tài nguyên thiên hiên thì
nguồn lực con người VN là yếu tố quan trọng nhất cho phát triển. Nếu có một
chiến lược dài hạn đúng đắn cùng những chính sách, biện pháp hữu hiệu thì
chính nguồn lực này sẽ đưa VN bắt kịp nhịp điệu phát triển của vùng Châu á -
Thái bình dương, và sẽ trở thành một nước công nghiệp mới theo định hướng

xã hội chủ nghĩa.
Với chính sách kinh tế mới của Lê nin chắc chắn nước ta sẽ vững bước
vượt qua thời kỳ quá độ và tiến vào thiên niên kỷ mới với một nền kinh tế
phồn thịnh.
23
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình kinh tế chính trị.
2.Giáo trình lịch sử kinh tế.
3.Các thời báo kinh tế việt nam.
4.Đảng cộng sản việt nam-văn kiện hội nghị lần thứV ban chấp hành
trung ương khoá VIII.
5.Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa-mã hồng NXB quốc gia
6.Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước-vũ hiền
7.Thị trường-giá cả vật tư số 68,thứ năm ngày 3-4-2008.
24

×