Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

cụ thể hoá vị trí kinh tế của chính phủ ở nước chxhcn việt nam trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hiện đại hoá” đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.93 KB, 35 trang )

Tiểu luận kinh tế vĩ mô
lời mở đầu
Kinh tế thị trờng từng là động lực thúc đẩy nền kinh tế t bản phát
triển vô cùng nhanh chóng từ khi nó ra đời.Thực tế đà chứng minh cơ chế
thị trờng làm cho nền kinh tế trở nên năng động và mang lại hiệu quả kinh
tế cao.Nền kinh tế thị trờng luôn là sự cạnh tranh già các hÃng sản xuất với
nhau, do đó họ phải luôn tìm tòi, sáng tạo các phơng thức sản xuất mới để
mang lại lợi nhuận cao trong kinh doanh.Chính vì thế nó làm cho nền kinh
tế của đất nớc ngày càng phát triển và phồn thịnh. Tuy nhiên cơ chế thị trờng không phải là một hoạt động kinh tế hoàn hảo mà nó mang trên mình
mặt trái của nó nh: sự cạnh tranh không hoàn hảo, vấn đề ngoại ứng, sự
phân hoá giaù nghèovà các vấn đề xà hội khác. Chính vì vậy, Nhà nớc đÃ
tham gia vào quá trình hoạt động của nền kinh tế để giảm nhẹ hoặc khắc
phục những hậu quả của nó.Nhng trên thực tế không thể tồn tại một nền
kinh tế chỉ đợc điều hành bằng mệnh lệnh và cũng không có nền kinh tế
nào hoạt động trên cơ sở tự nguyện.Chính phủ ngày càng khẳng định đợc
vai trò của mình trong quá trình hoạt động của nền kinh tế. Đặc biệt là đối
với Việt Nam- một nớc mới chuyển tõ nỊn kinh tÕ tËp trung quan liªu bao
cÊp sang nền kinh tế thị trờng có sự đIều tiết vĩ mô của Nhà nớc nên còn
có nhiều mới mẻ và bỡ ngỡ nên chónh phủ Việt Nam lại càng có vai trò to
lớn trong việc hơng nền kinh tế đi theo đúng mục tiêu đà chọn. Với hiểu
biết của một sinh viên mới đợc hớng dẫn học tập môn này, em xin đợc
trình bày những hiểu biết của mình về vai trò và các chức năng cơ bản
chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế đồng thơì liên hệ đến vị trí
kinh tế của chính phủ ở nớc Cộng hoà XHCN Việt Nam trong giai đoạn
từng bớc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc.


Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Phần I
vai trò và các chức năng cơ bản của chính phủ trong


điều tiết vĩ mô nền kinh tế
1.Mục tiêu của kinh tế vĩ mô:
Các quốc gia đều luôn luôn hớng về mục tiêu chính là: sản lợng cao, công ăn
việc làm đầy đủ, ổn định giá cả và cán cân ngoại thơng
Mục tiêu thứ 1: là sản lợng cao cả trên thực tế lẫn tiềm năng. Ngày nay, thớc đo
cuối cùng để đánh giá thành công kinh tế, là khả năng của một nớc để tạo ra sản lợng cao và tăng nhanh đợc sản lợng hàng hoá và dịch vụ kinh tế
Samuelson>. Có nghĩa là tốc độ tăng trởng kinh tế ở mức cao.
Mục tiêu thứ 2: là công ăn việc làm ở møc cao vµ thÊt nghiƯp thÊp ë møc thÊt
nghiƯp tù nhiên. Bởi vì một quốc gia càng tạo ra đợc nhiều công ăn việc làm thì nền
kinh tế đó đang ở trong thời kỳ phát triển cao.
Mục tiêu thứ 3: là ổn định giá cả và tỷ lệ lạm phát thấp. Ôn định giá cả là làm
cho sự biến động của giá cả là không lớnvà không đột ngột để giới kinh doanh có
thể đoán đợc nhằm định hớng đầu t cho mình. Khi giá cả của tất cả hàng hoá đồng
loạt tăng lên thì ngời ta gọi là lạm phát. Các quốc gia luôn muố duy trì tỷ lệ lạm
phát ở mức một con số hoặc hai con số ở mức thấp có thể chấp nhận đợc, các chính
phủ tìm mọi cách để giữ tỷ lệ lạm phát dao động quanh tỷ lệ lạm phát nói trên.
Mục tiêu thứ 4: Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn địn tỷ giá hối đoái.
Hầu hết nền kinh tế của các nớc đều là nền kinh tế mở cửa, buôn bán với nớc ngoài
do đó luôn tồn tại việc xuất-nhập khẩu hàng hoá hoặc vay mợn giữa các nớc... Cân
bằng cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá hối đoái nhằm làm cho cán cân hơng mại
không có những cú sốc lớn .
2. Các chức năng kinh tế cơ bản của chính phủ:
Khi thảo luận vai trò của chính phủ, chúng ta thờng đơng chấp nhận rằng
chính phủ là ngời đề ra luật lệ đi đờng. Để khẳng định vai trò của mình chính phủ
thực hiện các chức năng của mình.
a- Hiệu quả: Thực tế ở các nớc có nền kinh tế thị trờng trên đôi khi cũng chịu
thất bại thị trờng. Ơ hệ thống kinh tế cạnh tranh, nhiều nhà sản xuất đơn giản
không biết kỹ thuật sản xuất rẻ nhất, và chi phí sản xuất không hạ xuống mức tối
thiểu đợc. Trên thị trờng thực tế, một doanh nghiệp có thể có lÃi bằng cách giữ giá

cao cũng nh bằng cách giữ mức sản xuất cao. Trong nhiều lĩnh vực khác có rất
nhiều tác động bên ngoài, vì ô nhiễm độc hại hoặc vì kiến thức quí giá, đối với các
nhà doanh nghiệp khác hoặc ngời tiêu dùng. Trong mỗi một trờng hợp này, một thất
bại thị trờng dẫn đến sản xuất không hiệu quả hoặc tiêu dùng không hiệu quả, và ở


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
đây, chính phủ có thể đóng vai trò chữa bệnh. Nhng trong khi đánh giá vai trò của
chính phủ chữa bệnh kinh tế, chúng ta cũng phải cảnh giác với những thất bại của
chính phủ - đó là tình huống chính phủ gây thêm bệnh hoặc làm cho bệnh trầm
trọng thêm.
Cạnh tranh không hoàn hảo. Một sai lệch nghiêm trọng của cạnh tranh hoàn
hảo là cạnh tranh không hoàn hảo hoặc nhân tố độc quyền.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ định nghĩa chinnhs xác của nhà kinh tế về ngời
cạnh tranh hoàn hảo . Mới chỉ có một vài địch thủ cha đủ có cạnh tranh hoàn hảo.
Định nghĩa kinh tế về cạnh tranh hoàn hảo trên một thị trờng là có đủ một số lợng
doanh nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh đến mức không có một doanh nghiệp nào có
thể ảnh hởng đến giá cả của hàng hoá đó. Một ngời cạnh tranh không hoàn hảo
là một ngời mà hành động có thể ảnh hởng đến giá của một mặt hàng. Thực tế, điều
này có nghĩa là hầu hết các ông chđ doanh nghiƯp, cã lÏ trõ sè hµng triƯu nhµ nông
mà từng ngời một sản xuất ra một phần không đáng kể trong toàn bộ thu hoạch,
đều là những ngời cạnh tranh không hoàn hảo. Ơ đầu cực cạnh tranh không hoàn
hảo là nhà độc quyền, ngời duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể.
Toàn bộ sinh hoạt kinh tế là sự kết hợp giữa các nhân tố độc quyền và cạnh
tranh. Cạnh tranh không hoàn hảo chứ không phải cạnh tranh hoàn hảo là hình thái
chính. Nhng nói rằng, Một doanh nghiệp có thể tác động tới giá cả sản phẩm của
mình không có nghĩa là độc tài . Phần sau chúng ta sẽ thấy rõ, một doanh nghiệp
không thể định giá hàng hoàn toàn theo ý muốn riêng mà vẫn có lÃi. Doanh nghiệp
đó phải tính đến giá của các hàng có thể thay thế cho hàng của mình. Thậm chí nếu
doanh nghiệp đó sản xuất ra một loại dầu đốt đà có mác với những đặc tính độc

đáo, họ vẫn phải tính đến giá của các loại dầu đốt khác cũng nh giá của củi, khí đốt
và chất cách nhiệt. Nh vậy, sức mạnh kinh tế của những ngời cạnh tranh không
hoàn hảo luôn bị kiềm chế phần nào.
Các ông chủ doanh nghiệp và công nhân vừa a vừa ghét cạnh tranh khi nó
giúp chúng ta më réng thÞ trêng. Nhng chóng ta gäi nã là có tính chất đục đẽo,
không công bằng hoặc tai hại khi đối thủ cạnh tranh của ta làm chúng ta
chúnh ta mất lợi nhuận. Những công nhân sống phụ thuộc vào giá bán sức lao động
của mình trên thị trờng có thể là những ngời đầu tiên la ó khi cạnh tranh nớc ngoài
đe doạ tiền lơng của họ ở trong nớc.
Khi sức mạnh ®éc qun- tøc lµ khi mét doanh nghiƯp lín cã khả năng tác
động đến giá cả ở một thị trờng nào đó- thực sự trở thành quan trọng về kinh tế,
chúng ta sẽ thấy giá cả cao hơn mức hiệu quả, kiểu mẫu méo mó về cầu và sản
xuất, và lợi nhuận siêu thờng. Những lợi nhuận này có thể bị biến thành điều quảng
cáo lừa dối hoặc là thậm chí có thể mua ảnh hởng và sự bảo hộ của ngành lập pháp.
Chính phủ không coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu. Từ những năm
1890 chính phủ Liên bang đà ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để tăng
hiệu lực của hệ thống thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo của chúng ta.


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
Tác động bên ngoài. Một cách thứ hai để cơ chế thị trờng không bị kiềm chế
có thể dẫn đến kết quả không có hiệu quả xuất khẩu khi có nhân tố tác động bên
ngoài.
Nhng trên thực tế, nhiều tác động qua lại diễn ra bên ngoài các thị trờng.
Doanh nghiệp sử dụng tài nguyên hiếm nh không khí hoặc nớc sạch mà không trả
tiền cho những ngời phải sống trong bầu không khí bị ô nhiễm hoặc nớc bị bẩn.
Doanh nghiệpB, đóng ở giữa một khu vực dân c thuê một ngời bảo vệ mặt mũi dữ
tợn canh giữ nhà máy của mình;nh vậy làm cho bọn lu manh vì sợ cũng tránh hành
nghề ở các nhà dân lân cận. Trong những trờng hợp đó, một cái xấu về kinh tế và
một cái tốt về kinh tế đà đợc chuyển giao tới những đối tợng bên ngoài các thị trờng. Tác động bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con ngời tạo ra chi phí lợi

ích cho doanh nghiệp khác hoặc nguời khác mà những doanh nghiệp hoặc con ngời
nào không đợc nhận đúng số tiền cần đợc trả hoặc không phải trả đúng số chi phí
phải trả.
Vì xà hội chúng ta đà trở nên đông dân hơn xa, vì sản xuất ngày càng dựa
trên những quy trình sử dụng chất độc tác động bên ngoài đà từ những phiền toái
nhỏ mà trở thành những mối đe doạ lớn. Kết quả là chính phủ đà sử dụnh đến luật
lệ điều tiết hành vi kinh tế nh là một cách để ngăn chặn những tác động tiêu cực
bên ngoài nh ô nhiễm nớc và không khí, khai thác đến cạn khoáng sản, chất thảigây nguy hiểm thức ăn, uống thiếu an toàn và các chất phóng xạ...
Những ngời phê phán việc quy định luật lệ than phiền rằng hoạt động kinh tế
của chính phủ có tính chất cỡng bức không cần thiết. Chính phủ giống nh cha
mẹ, luôn nói không đợc: Không đợc bán thiếu cân, không đợc sử dụng lao động trẻ
em, không đợc để ống khói nhà máy nhả khói ra bầu trời, không đợc bán hoặc hút
Cocaine.v.v...
Mặt khác, khi kinh doanh, các nhà sản xuất luôn muốn thu đợc lợi nhuận cao
nhất, nguồn vốn quay vòng nhanh... Do đó, một số loại hàng hoá quan trọng cho
việc phát triển kinh tế, cho sự bảo đảm an ninh trật tự cho nền kinh tế lại không đợc
đầu t vì nó không mang lại lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít. Vì thế chính phủ pnải
đầu t vào các loại hàng hoá này. Sự can thiệp của chính phủ vào thị trờng để nâng
cao hiệu quả của nền kinh tế chứng tỏ những việc làm nh thế không phải do ý thích
.(Paul A.Samuel).
b- Công bằng: Cho đến nay chúng ta đà tập trung vào các thiếu sót trong vai trò
chỉ đạo của bàn tay vô hình-những sự thiếu hoàn hảo có lẽ có thể sửa chữa đợc
bằng sự can thiệp đúng đắn. Nhng hÃy tạm cho rằng nền kinh tế hoạt động hoàn
toàn có hiệu quả-luôn ở trên ranh giới khả năng sản xuất và không bao giờ ở bên
trong ranh giới này cả, luôn chọn đúng số lợng hàng hoá công cộng so với hàng
hoá t nhân.v.v... Nhng thậm chí nếu hệ thống thị trờng hoạt động hoàn hảo nh vừa
mô tả thì nhiều ngời vẫn không cho nó là lý tởng. T¹i sao vËy?


Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Thứ nhất, hàng hoá đi theo số phiếu bằng đồng đô la chứ không phải là theo nhu
cầu lớn nhất. Một con mèo của ngời giàu có thể đợc nhận số sữa mà một đứa trẻ
nghèo cần có để đợc khoẻ mạnh. Có phsải là do cung cầu hoạt động kém không?
Hoàn toàn không vì cơ chế thị trờng đang làm đúng chức năng-nó đặt hàng vào tay
ngời có thể trả tiền nhiều nhất, ngời có nhiều phiếu bằng tiền nhất. Những ngời bảo
vệ cơ chế giá cả và những ngời phê phán nó cần thõa nhËn r»ng mét hƯ thèng thÞ trêng cã hiƯu quả có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. Nếu một nớc chi tiêu về thức
ăn cho súc vật làm cảnh nuôi trong nhà nhiều hơn là về giáo dục đại học cho ngời
nghèo thì đó là một khuyết điểm của việc phân phối thu nhập, chứ không phải là
của thị trờng. Nhng, một kết quả nh vậy có thể không chấp nhận đợc về mặt chính
trị hoặc đạo lý. Một xà hội không cần chấp nhận kết quả của những thị trờng có
tính cạnh tranh-sự sống còn của những kẻ sống sót-coi đó là quyền thiêng liêng
hoặc công lý trên đời. Bàn tay vô hình có thể dẫn chúng ta đến giới hạn bên ngoài
của ranh giới khả năng sản xuất nhng không nhất thiết nó phân phối sản lợng đó
một cách có thể chấp nhận đợc. Và một khi xà hội dân chủ không thích sự phân
phối phiếu đô-la trong mức hệ thống thị trờng thả lỏng thì nó có biện pháp thay
đổi kết quả thông qua những chính sách phân phối lại.
Thứ hai, do tỉ suất thuế thấp không thể giúp gì cho những ngời hoàn toàn không
có thu nhập.trong những thập kỷ gần đây chính phủ đà xây dựng một hệ thống hỗ
trợ thu nhập: Giúp đỡ cho ngời già, ngời mù, ngời bị tàn tật, cũng nh bảo hiểm thất
nghiệp cho những ngời không có công ăn việc làm. Hệ thống trả tiền chuyển dịch
này tạo ra một mạng lới an toàn bảo vệ những ngời không may khỏi bị huỷ hoại
về kinh tế. Cuối cùng, chính phủ đôi khi trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu
nhập thấp. Nhờ quá trình tăng trởng kinh tế và những chơng trình phúc lợi tạo ra
mức sống tối thiểu, phần lớn cảnh túng quẫn ghê gớm và dễ nhìn thấy của chủ
nghĩa t bản thế kỷ 19 đà bị xoá bỏ, một kiểu nghèo đói dai dẳng hơn của thế kỷ 20
còn tồn tại .
c- ổn định. Ngoài vai trò thúc đẩy hiệu quả và công bằng, chính phủ cũng tham
gia vào chức năng kinh tế vĩ mô là thúc đẩy sự ổn định kinh tế. Từ khi ra đời, chủ
nghĩa t bản đà từng gặp phải những thăng trầm chu kỳ của lạm phát (giá cả lên) và
suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tợng này rất dữ dội, nh thời

kỳ siêu lạm phát ở Đức trong những năm 1920, đến mức tiếp sau đó là rối loạn xÃ
hội, cách mạng và chiến tranh. Đôi lúc, nh thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ trong những
năm 1930, khó khăn gian khó kéo dài một thập kỷ vì các nhà lÃnh đạo chính trị
không có đủ hiểu biết kinh tế để có biện pháp phục hồi kinh tế. Gần đây hơn, đầu
những năm 1980, chính phủ Mỹ và các nớc khác đà có biện pháp nhằm giảm tỷ lệ
lạm phát cao. Những biện pháp này đà dẫn đến thất nghiệp cao và lạm phát thì
giảm. Nhng trong thành công lại có hạt giống của thất bại. Bằng cách bảo đảm một
thời kỳ nhiều công ăn việc làm và tăng trởng nhanh, nhiều nớc đà vô tình nuôi dỡng
một nền kinh tế trong đó nhân dân bắt đầu cho rằng phồn vinh là lẽ đơng nhiên.


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
Nhiều nớc đảm bảo cho công nhân và ngời hởng thu nhập định kỳ mức sèng trong
®iỊu kiƯn thêi tiÕt xÊu nh møc sèng chØ có thể có đợc với thời tiết tốt. Trong các hệ
thống giá cả, tiền lơng và hỗ trợ thu nhập có những điểm cứng nhắc. Khi những rối
loạn của những năm 1970 xảy ra sau hai lần tăng mạnh giá dầu lửa, mất mùa ngô,
trục trặc trong hệ thống tài chính quốc tế-ngời ta đà không giữ đợc lời hứa. Trong
sự phát triển của mỗi quốc gia, không có một nền kinh tế ở quốc gia nào đều luôn
ổn định mà nó luôn có sự biến động. Có những thời kú nỊn kinh tÕ cùc kú phån
thÞnh nhng cịng cã lúc nền kinh tế nằm trong vùng đại suy thoái do nhiều nguyên
nhân: do lạm phát cao, những thay đổi cđa nỊn kinh tÕ thÕ giíi... Do ®ã chÝnh phđ
gãp phần làm cho nền kinh tế dần dần ổn định bằng cách đa ra những chính sách
hợp lý. Các mục tiêu của đời sống kinh tế vĩ mô không phải là vấn đề để bàn cÃi
gay gắt nữa. Nhng các nớc có thể đạt đợc các mục tiêu đó một tốt nhất nh thế nào?
Một nớc muốn cải tiến thành tựu của mình có thể có những sự lựa chọn gì? Trả lời
cho câu hỏi này nằm một phần trong các công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô .
Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm hai nhóm yếu tố: Cơ chế thị trờng-nhóm yếu tố
chịu sự chi phối của bàn tay vô hình tức các quy luật kinh tế thị trờng . Nhóm
yếu tố này mang tính chất tự điều chỉnh. Nhóm hai là sự quản lý của chính phủ ở
tầm vĩ mô, nhóm này gắn liền với bàn tay hữu hình , tức các công cụ quản lý của

nhà nớc nh: pháp luật, chính sách, kế hoạch... Nh vậy không thể điều tiết sự vận
động cđa nỊn kinh tÕ thÞ trêng khi chØ cã mét trong hai yếu tố trên, điều đó giống
nh ngời ta định vỗ tay bằng một tay
Tóm lại, chính phủ có vai trò thúc đẩy nền kinh tế hớng tới sự công bằng, hiệu
quả và ổn định. Tuy nhiên chính phủ không thể hô hào nhân dân là phải làm thế
này hay thế kia thì mới đạt đợc hiệu quả mà chính phủ phải sử dụng các công cụ
của kinh tế vĩ mô đang có trong tay một cách hữu hiệu nhất để thực hiện vai trò
không thể thiếu đợc đối với nền kinh tế đất nớc .
3.Các công cụ ®iỊu tiÕt cđa chÝnh phđ :
Trong nhiỊu trêng hỵp chÝnh phủ không thể ngồi chờ cơ chế tự ổn định của
kinh tế thị trờng đợc mà phải nhanh chóng, trực tiếp sử dụng các cộng cụ của kinh
tế vĩ mô ®Ĩ ®iỊu tiÕt nỊn kinh tÕ. Mét c«ng cơ chÝnh sách là một biến số kinh tế
chịu sự quản lý trùc tiÕp hay gi¸n tiÕp cđa chÝnh phđ , thay đổi công cụ chính sách
này sẽ có tác động đến một hoặc nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô .
a.Hệ thống luật pháp :
Nó là hành lang an toàn cho các hoạt động kinh tế, đến mọi thành phần kinh
tế ...nhằm tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu t đồng thời đảm bảo trật tự kinh tế
cũng nh ®¶m b¶o trËt tù x· héi ®Ĩ nỊn kinh tÕ phát triển một cách lành mạnh. Bằng
cách đa ra các đạo luật, chính phủ đà buộc mọi ngời dân hay mọi tổ chức kinh tế
phải tuân theo. Hệ thống luật pháp xuyên suốt quá trình phát triển của xà hội và
trong các hoạt động kinh tế. Nó đa xà hội nói chung và nền kinh tế nói riêng vào


TiĨu ln kinh tÕ vÜ m«
khu«n khỉ theo ý mn chđ quan cđa chÝnh phđ. HƯ thèng lt ph¸p ë mỗi nớc là
có thể khác nhau và có thể sửa ®ỉi, bỉ sung ë mäi thêi ®iĨm ®Ĩ phï hỵp với từng
giai đoạn của mỗi nớc.
b. Chính sách tài khoá:
Chính sách tài khoá bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế.
Chi tiêu của chính phủ:

Các chính phủ không thể không chi tiêu bởi vì để tạo hiệu quả cho nền kinh tế
thì chính phủ phải bỏ tiền ra để xây dựng đờng xá, các ngành công nghiệp quan
trọng nh điện..., đồng thời phải chi trả lơng cho cán bộ viên chức, quân đội. cảnh
sát, trợ cấp... Chi tiêu của chính phủ cũng tơng tự nh việc đầu t của các doanh
nhgiệp nhng khác ở chỗ là chính phủ không thu đợc lợi nhuận trong cuộc đầu t này.
Nhng bù lại nó nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, làm cho xà hội có sự công bằng
hơn. Bởi vì chi tiêu của chính phủ là một bộ phận của tổng cầu do đó nó làm cho
tổng sản phẩm quốc dân thay đổi. Trong trờng hợp sản lợng của nền kinh tế còn dới
mức sản lợnh tiềm năng thì chính phủ tăng cờng chi tiêu đẻ làm tăng tổnh cầu từ đó
làm cho sản lợng tiến gần sản lợng tiềm năng. Trong trờng hợp ngợc lại, sản lợng vợt qua sản lợng tiềm năng hay trong thời kì lạm phát cao, chính phủ cắt giảm chi
tiêu của mình để cùng với các công cụ vĩ mô khác làm giảm lạm phát. Điều đó
chứng tỏ chính phủ không thể chi tiêu một cách lÃng phí nguồn ngân sách mà vấn
đề là chi tiêu thế nào cho hợp lí trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, chính phủ cần phải
kiểm soát chặt chẽ nhu cầu chi tiêu của mình để hạn chế tối đa việc thâm hụt ngân
sách. Trong trờng hợp thiếu hụt ngân sách chính phủ phải vay tiền dân chúng hoặc
vay nớc ngoài để bù đắp ngân sách.
Tóm lại, tất cả các chính phủ ở các quốc gia đều phải chi tiêu nhng không phải
tự nhiên có tiền để chi tiêu mà phải có nguồn thu. Nguồn thu chủ yếu của ngân
sách nhà nớc là thuế, còn các nguồn thu khác là không đáng kể.
Thuế khoá :
Thuế khoá là khoản đóng góp mang tính pháp lệnh mà nhà nớc bắt buộc mỗi
công dân và các tổ chức kinh tế phải nộp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính
phủ. Tất cả các quốc gia đều quy định mức thuế suất với mỗi loại thuế và buộc mọi
ngời phải tuân theo. Các loại thuế đều làm giảm thu nhập của ngời dân dẫn tới mức
chi tiêu cho tiêu dùng của các hộ gia đình giảm. Thuế còn ảnh hởng đến việc đầu t
của mỗi doanh nghiệp, nếu thuế cao sẽ không khuyến khích đầu t, việc giảm các
sắc thuế đánh vào các khoản bổ sung cho đầu t hoặc kinh doanh máy móc thiết bị
mới sẽ kích thích đầu t ở nhiều ngành từ đó làm tăng nguồn vốn của nền kinh tế
dẫn đến GDP sẽ tăng lên trong tơng lai. Ngoài ra, thuế còn ảnh hởng đến việc xuấtnhập khẩu ở mỗi nớc. Nếu các sắc thuế đánh vào các mặt hàng nhập khẩu cao thì sẽ
hạn chế đợc việc nhập khẩu các mặt hàng đó, tơng tự đối với xuất khẩu, từ đó chính

phủ điều tiết đợc lợng hàng hoá nội địa và nhập ngoại. Nh vậy, khi chính phủ muốn
bảo hộ một loại mặt hàng nào đó ở trong nớc thì chỉ cần tăng thuế xuất-nhập khẩu

.

.


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
của mặt hàng đó lên cao đến mức các doanh nghiệp không muốn nhập khẩu loại
mặt hàng đó nữa.
Nh vậy, để ổn định sản lợng gần với sản lợng tiềm năng thì chính phủ có thể sử
dụng chính sách tài khoá bằng cách: Nếu các bộ phận của tổng cầu hạ thấp
một
cách không bình thờng thì chính phủ phải kích thích nhu cầu bằng cách giảm thuế
hoặc tăng chi tiêu hoặc là kết hợp cả hai cách. Trong trờng hợp các bộ phận của
tổng cầu cao hơn mức bình thờng thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc giảm chi tiêu
hoặc kết hợp cả hai cách.
c. Chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là một cônh cụ kinh tế vĩ mô đợc dùng tơng đối phỉ biÕn cđa
chÝnh phđ. ChÝnh s¸ch tiỊn tƯ chđ u tác động đến đầu t t nhân, hớng nền kinh tế
vào mức sản lợng và việc làm mong muốn.
Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lợng cung về tiền và lÃi suất. Thực
chất của chính sách tiền tệ là chính phủ thông qua ngân hàng trung ¬ng kiĨm so¸t
viƯc cung øng tiỊn tƯ cho nỊn kinh tế. Ngân hàng trung ơng kiểm soát bằng cách
tăng hoặc giảm lợng cung ứng tiền trong lu thông thông qua lÃi suất hoặc chứng
khoán... Thông thờng trong những thời kỳ lạm phát cao, ngân hàng trung ơng nâng
lÃi suất lên cao (chính sách thắt chặt tiền tệ)để thu hút một khối lợng lớn tiền vào
ngân hàng làm cholợng tiền trong lu thông giảm. Hay trong thời kỳ nới lỏng tiền
tệ,ngân hàng trung ơng giảm lÃi suất hay mua chứng khoán của dân chúng để tăng

khối lợng tiền trong lu thông. Nh vậy, bằng cách thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ sẽ
làm ảnh hởng đến đầu t,từ đó sẽ ảnh hởng đến toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, tuy chính
sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thực tế về
mặt ngắn hạn. Song do tác động đến đầu t, nên nó cũng có ảnh hởng lớn đến tổng
sản phẩm quốc dân tiềm năng về mặt dài hạn.
d. Chính sách thu nhập:
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các công cụ mà chính phủ sử dụng
nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả... để kìm chế lạm pháp.
Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp cứng rắn nh:đồng lơng,đồng giá;
những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá-lơng-tiền..., đến các biện pháp linh
hoạt nh: việc hớng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập...
Chính sách thu nhập chỉ đặc biệt có ý nghĩa trong thời kỳ lạm phát cao. Thực
chất của chính sách thu nhập là chính sách về giá-lơng-tiền. Trong thời kỳ lạm phát
cao chính phủ thực hiện chính sách đônh giá và đông tiền lơng, tức là cố định giá
cả và tiền công trong một thời gian nhất định nhằm giảm bớt lợng tiền.
e. Chính sách kinh tế đối ngoại:
Trong nền kinh tế mở cửa thì không thể không có chính sách kinh tế đối ngoại
để sự trao đổi mua bán giữa các nớc đợc thuận lợi. Chính sách kinh tế đối ngoại bao
gồm nhiều loại công cụ nh: quản lý tỷ giá hối đoái, chính sách ngoại thơng, trợ giá,
hàng rào thuế quan, hạn nghạch. Việc tác động đến hàng hoá xuất-nhập khẩu vào


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
giá cả hàng hoá đó đều thông qua các công cụ này.Chẳng hạn nh để khuyến khích
xuất khẩu thì chính phủ có thể tác động đến tỷ giá bằng cách hạ thấp tỷ giá xuống
làm cho giá ngoại tệ giảm,điều đó là rất thuận lợi cho xuất khẩu, hoặc có thể tác
động bằng cách hạ thuế suất các mặt hàng xuất khẩu, hoặc trợ giá... làm cho chi phí
xuất khẩu hạ xuống từ đó làm giá thành hạ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh
tranh với các hÃng sản xuất cùng loại mặt hàng ở các nớc khác. Nh vậy, những biện
pháp này nhằm duy trì sự cân bằng trên thị trờng ngoại hối và giữ cho xuất-nhập

khẩu theo nh mong muốn của chính phủ .
Tóm lại, đây là các công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của chính phủ, ngoài ra
còn có các công cụ khác nh các kế hoạch, các chơng trình phát triển...Việc sử dụng
các công cụ kinh tế vĩ mô này trong từng thời kỳ hay ở mỗi quốc gia là không
giống nhau. Vì vậy, khi sử dụng chúng cần phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể ở quèc gia m×nh .


Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Phần II
Cụ thể hoá vị trÝ kinh tÕ cđa ChÝnh phđ ë níc Céng hoµ
x· hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc.
I- vị trí của Chính phủ Việt Nam trong cơ chế quản lý
quốc gia.

1. Nhà nớc.
Hệ thống chính trị của Việt Nam thay đổi đáng kể nhằm hỗ trợ cho chế
độ pháp quyền cũng nh tăng cờng tính đại diện và trách nhiệm giải trình. Về
nguyên tắc, Việt Nam có một cơ cấu quản lý quốc gia mang tính thống nhất
trong đó quyền lực chính trị tËp trung vµo Qc héi vµ mét hƯ thèng chÝnh trị
một đảng. Hiến pháp năm 1992 chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lợng
lÃnh đạo Nhà nớc xà hội (điều 4). Hiến pháp năm 1992 cũng quy định Quốc
hội là cơ quan quyền lực cao nhất đại diện cho nhân dân. Quốc hội cũng là cơ
quan lập pháp cao nhất và thực hiện quyền kiểm soát tối cao đối với tất cả
mọi hoạt động của Nhà nớc. Tất cả các cơ quan Nhà nớc nh Chính phủ, Toà ¸n
nh©n d©n tèi cao, ViƯn KiĨm s¸t nh©n d©n tèi cao đều chịu trách nhiệm trớc
Quốc hội và đợc Quốc hội uỷ quyền. Chính phủ là cơ quan hành pháp của
Quốc hội và cũng là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nớc.

Hiện nay vẫn còn tồn tại những thách thức tơng đối lớn trên con đờng
tiến tới cơ chế thị trờng ở mức độ cao hơn trên phơng diện tạo ra sự nhất trí rõ
ràng hơn về hớng đi và tốc độ của cải cách cũng nh năng lực của các cơ quan
Chính phủ và của cán bộ để thực hiện có hiệu quả cải cách. Chính phủ đang cố
gắng bảo đảm sự cân bằng giữa lý tởng x· héi chđ nghÜa vỊ mét sù c«ng b»ng
cho tÊt cả mọi ngời mà điều đó cần sự can thiệp nhiều hơn của Nhà nớc với
t cách là ngời bảo vệ quyền lợi của nhân dân với nhng đòi hái mang tÝnh thùc
dơng cđa nỊn kinh tÕ híng theo thị trờng mà ở đó các quy luật thị trờng sẽ
điều hành nền kinh tế còn Nhà nớc có xu hớng chỉ tập trung vào khuôn khổ
chính sách, các chiến lợc chung, bảo đảm thuận lợi cho phát triển và làm
nhiệm vụ giám sát. Hiện vẫn còn cha có sự phân biệt rõ ràng giữa chức năng
cầm lái (can thiệp thông qua chính sách) và chức năng chèo thuyền (can
thiệp trực tiếp bằng hành động) trong vai trò của Nhà nớc. Tuy nhiên, để các
lực lợng sản xuất đợc huy động tốt hơn và việc phân bổ các nguồn lực hợp lý
hơn, điều quan trọng là vai trò can thiệp trực tiếp của Nhà nớc vào nền kinh tế
phải tiếp tục giảm bớt và tăng cờng hơn nữa vai trò hoạch định chính sách và
xây dựng khuôn khổ pháp lý của Nhà nớc . Mặc dụ đà liên tục đạt đợc tiến bộ


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
trong việc sửa đổi các bộ luật cũ và soạn thảo các bộ luật mới, song Việt Nam
vẫn cần phải xây dựng một khuôn khổ pháp lý toàn diện hơn, rõ ràng và thuận
lợi nhằm tạo cơ sở cho sự ra đời và phát triển của một khu vực t nhân và một
xà hội dân sự lành mạnh để cuối cùng có thể chia sẻ trách nhiệm với Chính
phủ, ở mức độ tiin cậy cao, ®èi víi sù nghiƯp ph¸t triĨn cđa ®Êt níc.
ChÝnh phđ đà nhận thức đợc các vấn đề nh tham nhũng, lạm dụng chức
quyền và nhu cầu tôn trọng cácc quyền công dân và đòi hỏi giải quyết các
vấn đề này một cách toàn diện trong khuôn khổ của quá trình cải cách. Tham
nhũng phần nào đó là kết quả của việc trả lơng cha gắn với kết quả làm việc
cũng nh của việc bố trí công tác. Chính phủ đà bắt tay vào giải quyết các vấn

đề này. Ngoài ra còn có một số thách thức khác nh tăng cờng tính công khai
minh bạch và nâng cao nhận thức của quần chúng về công tác chính trị cũng
nh khuyến khích họ tham gia vào công tác này.
Mặc dù có nhiều bộ luật đà đợc ban hành song trong nhiều trờng hợp
việc thực hiện có hiệu quả và nhất quán vẫn còn hạn chế. Có những vấn đề
nảy sinh trong quá trình xây dựng các quy định thi hành luật cũng nh trong
quá trình triển khai thi hành trên thực tế. Việc khuyến khích tăng cờng tham
khảo các cơ quan có liên quan ở bên ngoài trong quá trình phân tích chính
sách và luật pháp có thể nâng cao tính công khai minh bạch của quá trình này
cũng nh đảm bảo sự tham gia đóng góp của nhiều đối tợng hơn. Điều đó còn
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện và chấp hành tốt những bộ luật sau
khi ban hành.
Để tăng cờng tính công khai minh bạch và khả năng tiếp cận của luật
pháp. Chính phủ đà thể hiện mong muốn đẩy mạnh hơn nữa công tác phổ biến
và tuyên truyền về hệ thống pháp lý cũng nh khuyến khích sự tham gia của
quần chúng. Để thực hiện điều đó, các kỳ hợp Quốc hội giờ đây đà đợc truyền
hình hai chỉ thị về phổ biến luật pháp và Luật Khiếu nại Tố cáo đà đợc ban
hành năm 1998; và các chơng trình hỗ trợ pháp lý ở cấp cộng đồng đà đợc xây
dựng. Tuy nhiên, vẫn cần phải tăng cờng mạng lới thông tin và hệ thống tuyên
truyền phổ biến về pháp luật cũng nh đảm bảo mở rộng các mạng lới và hệ
thống này tới những nơi xa xôi nhất.
Việc chia sẽ những thông tin tin cậy, dễ hiểu và hữu dụng trong các tầng
lớp xà hội là đặc biệt quan trọng đối với sự tham gia tích cực của nhân dân.
Việc này không chỉ giới hạn trong việc phổ biến và tuyên truyền pháp luật mà
còn cần mở rộng sang các lĩnh vực thông tin khác. Việc công bố ngân sách
năm 1999 là một bớc quan trọng hớng tới sự chia sẽ thông tin. Tuy nhiên, vẫn
còn nhiều việc phải làm. Tăng cờng và huấn luyện ngời dân tham gia sẽ làm
cho các cuộc thảo luận chính sách trở nên có ý nghĩa hơn. Đến lợt m×nh, viƯc



Tiểu luận kinh tế vĩ mô
thảo luận chính sách đợc cải thiện sẽ làm cho quá trình ra quyết định và bản
thân quyết định tốt hơn. Nh vậy tăng cờng chất lợng chia sẻ thông tin sẽ đẩy
mạnh hơn nữa tính công khai minh bạch, cho phép mọi tác nhân trở nên có
trách nhiệm và trách nhiệm giải trình cao hơn trong công tác quản lý Nhà nớc
và quản lý phát triển ở Việt Nam. Trong quá trình chia sẻ thông tin, các phơng
tiện thông tin đại chúng phải đảm bảo rằng họ vơn tới đợc những bộ phận dân
c xa xôi nhất. Họ phải thực sự là kênh truyền thông tin qua lại một cách hiệu
quả giữa công dân và các cơ qua Nhà nớc.
Chính quyền địa phơng không thể thực hiện bất cứ một chức năng quản
lý hành chính nào nếu những trách nhiệm đó không đợc quy định cụ thể rõ
ràng trong luật pháp quốc gia. Trên tinh thần đó, tiếp theo những qui định của
hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân
(năm 1994) và Pháp lệnh về Nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Hội đồng
Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân các cấp (1996) đà đợc ban hành nhằm tạo ra
khuôn khổ pháp lý cơ bản cho tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phơng. Luật Ngân sách (1996, 1998) đà chính thức phân cấp quản lý tài chính
giữa các cấp chính quyền, giao những trách nhiệm quan trọng về quản lý ngân
sách cho chính quyền địa phơng, đặc biệt là cấp tỉnh.
Quan hệ giữa các cấp chính quyền mang tính phức tạp ở nhiều khía cạnh.
Thứ nhất, Hội đồng Nhân dân ở tất cả các cấp chịu sự giám sát và chỉ đạo cđa
ban Thêng vơ Qc héi vµ ChÝnh phđ . Thứ hai, Uỷ ban Nhân dân chịu
trách nhiệm trớc Hội đồng Nhân dân cùng cấp cũng nh trớc cơ quan hành
pháp ở cấp cao hơn (có thể là Uỷ ban Nhân dân cấp cao hơn hoặc Chính phủ,
tuỳ theo cấp của Uỷ ban Nhân dân đó). Thứ ba, một số Bộ có cơ quan chi
nhánh đặt ở mỗi địa phơng. Những cơ quan này vừa chịu sự quản lý hành
chính của Uỷ ban nhân dân địa phơng lại vừa chịu sự quản lý về chức năng
chuyên môn của cơ quan cấp cao hơn trực thuộc Bộ chủ quản. Thứ t, hầu hết
các nguồn thu từ thuế thuộc quyền quản lý của Chính phủ Trung ơng. Chính
quyền địa phơng, về lý thuyết, đợc phân bổ các nguồn thu theo chỉ tiêu do
Trung ơng quy định. Tuy nhiên, trên thực tế, việc phân bổ các nguồn thu và

các khoản chi ở địa phơng không phải đợc quyết định một cách nghiêm ngặt
từ trung ơng mà thờng đợc quyết định sau một loạt cuộc đàm phán giữa các
cấp chính quyền.
Cải cách hành chính.
Trên tinh thần thể chế hoá công tác quản lý quốc gia nhằm đảm bảo tính
giải trình trong các chi tiêu công cộng, cải cách hành chính là cần thiết nhằm
cải thiện việc cung cấp các dịch vụ công cộng của các cơ quan Nhà nớc thuộc
tất cả các cấp chính quyền. Cải cách hành chính bao gồm tổ chức lại quá trình
làm việc, nâng cao năng lực công chức để có tính chuyên môn cao hơn, các


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
dịch vụ công cộng có tính hớng đích cao hơn với qui trình làm việc đơn giản
hơn và minh bạch hơn; hiệu quả hơn về chi phí và mang tính phục vụ cao hơn.
Chơng trình cải cách hành chính của Chính phủ đợc công bố vào tháng 3 năm
1995 và tập trung vào 3 lĩnh vực: cải cách về thể chế, cải cách bộ máy Nhà nớc và cải cách ngành công chức. Báo cáo mới đây của Chính phủ về công tác
cải cách hành chính có đoạn viết: Nhiệm vụ cần đợc u tiên trong công tác cải
cách hành chính là tập trung lại tất cả mọi nhiệm vụ xây dựng quy chế và
phân cấp quyết định về các lĩnh vực kinh tế, xà hội cho chính quyền địa phơng (Ban TCCB Chính phủ, 1998). Cải cách hành chính đà đợc đa lên hàng
đầu trong chơng trình cải cách của Chính phủ và tất cả các Bộ cũng nh các
tỉnh đà thành lập Ban Cải cách hành chính của riêng mình. Vào cuối năm
1998, Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, do Thủ tớng Chính phủ
làm Trởng ban, đợc thiết lập để hớng dẫn và giám sát các hoạt động trong lĩnh
vực này. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ đóng vai trò Uỷ viên thờng trực của
Ban Chỉ đạo và đợc phân công là cơ quan đầu mối về cải cách hành chính của
Chính phủ. Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ơng Đảng Cộng sản Việt
Nam tháng 8 năm 1999 đà kết luận về nhu cầu cấp bách xem xét và thay đổi
chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu của các cơ quan Chính phủ, các ban ngành
cấp tỉnh, xoá bỏ một cách hợp lý một số cấp trong Chính phủ.
Công tác cải cách hành chính đà đạt đợc những tiến bộ đáng lu ý. Nhiều

bộ luật cũng nh pháp lệnh đà đợc Quốc hội thông qua và triển khai thực hiện.
Các văn bản pháp quy đà đợc rà soát lại và điều chỉnh sao cho dễ hiểu và đảm
bảo tính nhất quán. Các thủ tục hành chính đà đợc hợp lý hoá, đơn giản hoá và
phổ biến. Cơ chế một cửa, một con dấu đà đợc ¸p dơng ë mét sè tØnh vµ
thµnh phè. ChÝnh phđ đà yêu cầu quần chúng nhân dân và giới kinh doanh
đóng góp ý kiến để tiếp tục cải tiến về mặt hành chính. Toà án hành chính đÃ
đợc thiết lập. Năm 1995, các Bộ đà giảm từ 27 xuống còn 22 và hiện nay có
kế hoạch tiếp tục giảm nữa. Việc giảm nhẹ bộ máy hành chính cũng nh đợc
thực hiện ở cấp địa phơng. Ngoài ra, một số tổng công ty đà đợc thiết lập để
đảm nhận hầu hết nhiệm vụ quản lý những doanh nghiệp Nhà nớc chủ chốt
mà trớc đây là trách nhiệm của các Bộ chủ quản để các Bộ này có thể tập
trung thực hiện chức năng quản lý về mặt chính sách của mình. Tuy nhiên, sức
mạnh độc quyền tiềm tàng và tính kém hiệu quả của các doanh nghiệp đang
tạo ra những vấn ®Ị cho chÝnh hä. Nhµ níc ®· ban hµnh quy chế về Công
chức, hiện đang tiến hành hiện đại hoá công nghệ thông tin ở các cơ quan Nhà
nớc cũng nh đà tiến hành các hoạt động đào tạo nhằm xây dựng năng lực.
Mặc dù đà đạt đợc kết quả đáng kể về một số lĩnh vực trong công tác cải
cách hành chính, song một trong những khó khăn chính cản trở việc thực hiện
trọn vẹn công cuộc cải cách này là cho đến nay vẫn cha có một cách nhìn toàn
diện và một chiến lợc cải cách hành chính tổng thể xác định rõ các bớc cần


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
tiến hành để đổi mới vài trò của Chính phủ trong nền kinh tế hớng hơn về thị
trờng. Hậu quả là tạo ra khoảng cách giữa công tác xây dựng chính sách và
thực hiện chính sách về cải cách hành chính. Vấn đề này đà trở nên tồi tệ hơn
bởi năng lực thực hiện còn yếu kém. Chính vì cha có một chiến lợc cải cách
hành chính rõ ràng nên mức độ nhất trí và quyết tâm thực hiện cong cuộc cải
cách này còn thấp và đà taọ điều kiện thuận lợi để cho những cơ chế không
chính thức tồn tại song song với những cơ chế chính thức gây ảnh hởng xấu

tới việc thực hiện mục tiêu cải cách.
Một khó khăn nữa là trong nhiều trờng hợp các cán bộ công chức còn
thiếu những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết cho việc thực hiện cải cách
hành chính một cách hiệu quả. Thiếu động cơ và hiệu quả trong công việc;
thiếu tinh thần thái độ phục vụ cũng là những vấn đề tồn tại. Những vấn đề
này cùng với việc không thực hiện nghiêm chỉnh những chính sách đổi mới
một phần xuất phát từ lý do thu nhập và lợi ích thấp. Chính phủ đà coi việc trả
lơng theo kết quả công tác nh một công cụ quản lý tốt, tuy nhiên việc đa công
cụ đó vào trong kế hoạch quản lý nguồn nhân lực sẽ là một phần trong cuộc
thảo luận của Chính phủ tiếp theo Hội nghị TƯ 7 bàn về cơ cấu tiền lơng và
chính sách công chức.
2. Khu vực t nhân.
Không có nớc nào trên thế giới có thể phát triển thành công mà không
cần đến một khu vực t nhân khoẻ khoắn và năng động nh là động lực chính tạo
ra công ăn việc làm, thu nhập, tiết kiệm trong nớc, đầu t và tăng trởng. Khu
vực t nhân, bao gồm cả nông nghiệp, chiếm khoảng 60% GDP, chủ yếu tập
trung vào các khu vực tạo ra giá trị gia tăng thấp với thu nhập thấp. Kết quả là
GDP chung của Việt Nam thấp với giá trị khoảng 352 đô la Mỹ trên đầu ngời
một năm. (Thậm chí nếu dùng cách tính thu nhập bằng đồng đô la ngang b»ng
søc mua th× ViƯt Nam vÉn xÕp thø 133 trong 174 nớc về thu nhập bình quân
đầu ngời). Xuất phát từ những tiến bộ trong những năm gần đây cho thấy việc
tạo điều kiện để khu vực t nhân tham gia nhiều hơn vào quá trình phát triển
mở ra mét sè triĨn väng rÊt lín cho sù ph¸t triển nhanh chóng và bền vững.
Hiện đà có một khu vực t nhân trong nớc làm về chế tạo tuy còn nhỏ nhng
đang lớn dần lên. Tuy nhiên, khu vực này đang bị hạn chế vì không tiếp cận đợc với nguồn vốn cả trong lẫn ngoài nớc, vì một môi trờng pháp lý cha phát
triển và nhiều biến động, vì rủi ro cao và không ổn định của môi trờng đầu t.
Những thay đổi về chính sách và thể chế kể từ khi công cuộc đổi mới đợc phát
động vào năm 1986 và sự tăng trởng mạnh của nền kinh tế và đi kèm với nó là
thu nhập vào những năm 90 đà dần dần cải thiện phạm vi phát triển của khu
vực t nhân vào lĩnh vực xuất khẩu có giá trị gia tăng cao. Khu vực t nhân đÃ

chiếm 98% giá trị gia tăng trong nông nghiệp và khoảng 70% giá trị gia tăng
trong ngành dịch vụ (không kể các dịch vụ quản lý hành chính, y tế và giáo


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
dục). Mặc dù khu vực Nhà nớc tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong sản xuất
công nghiệp, chiếm khoảng một nửa giá trị gia tăng của ngành này, song khu
vực t nhân trong nớc đà đóng vai trò quan trnjg trong một số ngành công
nghiệp nhẹ hiện đang phát triển nhanh chóng. Hơn nữa, các công ty do nớc
ngoài đầu t hiện chiếm tỷ trọng lớn nhất về gia trị gia tăng trong một số ngành
nh dầu khí và lắp ráp ô tô.
Những bớc cải cách gần đây đà phản ánh quyết tâm ngày càng cao của
Chính phủ trong việc phát triển khu vực t nhân trong nớc. Bộ luật Doanh
nghiệp mới, đợc Quốc hội thông qua tháng 5 năm 1999, là một bớc tiến quan
trọng theo hớng tạo ra sân chơi bình đẳng cho tất cả mọi doanh nghiệp. Bộ
luật này không những thay thế cho hầu hết các văn bản luật quy định riêng
cho các loại hình kinh doanh khác nhau mà còn đề nghị cho phép hình thành
các mối quan hệ đối tác, cho phép các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nớc hoạt
động nh công ty. Bộ luật mới gửi tới khu vực t nhân một thông điệp quan
trọng, đó là Chính phủ thực sự khuyến khích đầu t của khu vực t nhân. Thực
hiện luật này một cách hiệu quả là điều rất quan trọng. Tuy nhiên, trớc mắt
các doanh nghiệp Nhà nớc, trong đó có những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ,
vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và nh vậy làm chậm lại quá trình cải
cách.
Nếu Chính phủ muốn chuyển một cách hiệu quả sang một nền kinh tế hớng về thị trờng nhiều hơn, ngay cả khi các doanh nghiệp Nhà nớc vẫn giữ vai
trò chủ đạo trong một số lĩnh vực nhất định, thì khuôn khổ pháp lý cần đợc
tiếp tục tăng cờng hơn nữa để cho phép khu vực t nhân gánh vác trách nhiệm
của nó và trở thành động lực tăng trởng của đất nớc. Một khu vực t nhân thịnh
vợng có thể là lối thoát và con đờng để thu nhận những công chức d thừa vào
các hoạt động kinh tế. Bằng cách đó nó hỗ trợ cho công cuộc cải cách hành

chính và tinh giản bộ máy Nhà nớc. Chuyển giao cho khu vực t nhân một số
chức năng hiện đang đợc đảm nhiệm bởi Chính phủ với chi phí cao không
những tạo động lực cho khu vực t nhân mà còn tiết kiệm và sử dụng hiệu quả
hơn các nguồn kinh phí công cộng.
Thách thức chủ yế đối víi ChÝnh phđ trong viƯc khun khÝch khu vùc t
nh©n là làm sao đảm bảo đối xử công bằng giữa khu vực này với khu vực Nhà
nớc. Khi nguyên tắc này đà đợc đa vào trong khuôn khổ pháp lý, thì vấn đề
cấp bách là đối xử công bằng phải đợc thực hiện trên thực tế, chẳng hạn trong
lĩnh vực cho vay tÝn dơng.
3. X· héi d©n sù.
N©ng cao qun lực và sự tham gia của dân.


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
Bên cạnh việc cải tổ cơ cấu và chức năng của Chính phủ và tạo môi trờng
thuận lợi cho khu vực t nhân, việc nâng cao chất lợng quản lý quốc gia còn
phụ thuộc vào việc tăng cờng sự tham gia của dân ở tất cả các cấp. Để thực
hiện điều này, Chính phủ đà giành u tiên cao cho việc nâng cao tính công khai
minh bạch trong các cơ chế và chức năng của mình cũng nh việc tăng cờng sự
tham gia của những công dân bình thờng vào công tác quản lý quốc gia. Nghị
định 29/CP về quy chế dân chủ ở cơ së (1998) ®· giao cho chÝnh qun cÊp x·
nhiƯm vơ quan trọng là đảm bảo việc thực hiện các quyền của công dân. Nghị
định cũng hớng tới việc tăng cờng tính minh bạch của chính quyền cấp cơ sở,
yêu cầu cung cấp cho các hộ gia đình các thông tin về hoạt động của chính
quyền cơ sở và tài chính. Việc thực hiện nghị định này mới ở bớc đầu và vẫn
còn nhiều lĩnh vực phải triển khai trong việc tăng cờng sự tham gia cũng nh
nâng cao quyền lực của công chúng, đặc biệt đối với những ngời trớc đây
không có điều kiện tham gia đóng góp ý kiến và tiếp cận với các hệ thống
quản lý quốc gia. Yếu tố mấu chốt đề xây dựng các hệ thống quản lý quốc gia
có hiệu quả và bền vững là tạo ra một môi trờng thuận lợi cho sự phát triĨn

cđa x· héi d©n sù cịng nh sù tham gia của tất cả mọi thành viên trong xà hội,
kể cả phụ nữ và đồng bào các dân tộc ít ngời.
Chính sách mở cửa của Việt Nam và một số kết quả đổi mới quan trọng
gần đây cũng đang góp phần tạo ra môi trờng thuận lợi hơn cho sự lớn mạnh
của xà hội dân sự. Những kết quả đổi mới đó bao gồm:
- Việc xây dựng hệ thống pháp quyền, đặc biệt là bộ luật Dân sự.
- Xu hớng tiến tới xây dựng một Chính phủ có tính trách nhiệm, công
khai minh bạch và dựa vào sự tham gia của dân ở mức độ cao hơn.
- Cải cách các doanh nghiệp Nhà nớc làm cho ngời lao động và các nhà
quản lý trở thành những ngời chủ của doanh nghiệp.
- Sù xt hiƯn cđa mét x· héi th«ng tin.
- Héi nhập kinh tế thế giới; và
- Xu hớng tăng cờng dân chủ ở cơ sở.
Kết quả của những chuyển biến đó là tạo ra ngày càng nhiều các nhóm
ngoài quốc doanh hay c¸c tỉ chøc b¸n phi chÝnh phđ (c¸c tổ chức phi Chính
phủ Việt Nam) đóng vai trò trụ cét chÝnh cđa x· héi d©n sù ë ViƯt Nam. Hầu
hết các nhóm này đợc thiết lập sau năm 1990 và đợc củng cố thông qua công
cuộc đổi mới. Song hầu hết do tầng lớp trí thức ở đô thị thành lập, trong khi đó
chính các vùng nông thôn và vùng khó khăn là nới có xu thế tập trung nhiều
hơn những nhóm đối tợng có cùng sở thích và nhu cầu. Mặc dù cha có nhiều
tổ chức phi chính phủ hoạt động ở nông thôn, song các nhóm tiết kiệm và các


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
hợp tác xà kiểu mới, xuất hiện sau khi ban hành Luật Hợp tác xà năm 1997,
điều đó có chung một số mục đích phục vụ và hoạt động trên cơ sở phân nhóm
đối tợng có cùng sở thích và nhu cầu.
Sự xuất hiện của rÊt nhiỊu tỉ chøc phi ChÝnh phđ ë ViƯt Nam là một bớc
chuyển biến đáng khích lệ, song những tổ chức này còn trẻ và còn bị hạn chế
bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế và xà hội cũng nh bởi việc thiết một môi trờng pháp lý phù hợp. Vì vậy các tổ chức này cha phát triển đợc hết các tiềm

năng của nó để tham gia tích cực vào công cuộc phát triển đất nớc.
Sự nghiệp phát triển bền vững của Việt Nam phụ thuộc vào mối quan hệ
tơng hỗ mang tính cực và xây dựng giữa Chính phủ, khu vực t nhân và xà hội
dân sự. X· héi d©n sù ë ViƯt Nam chØ cã thĨ thực sự phát triển nếu chính phủ
coi đó nh là một đối tác quan trọng trong quá trình phát triển và tạo ra môi trờng thuận lợi để xà hội dân sự phát huy vai trò của mình.
Vấn đề giới trong vai trò quản lý quốc gia.
Bình đẳng một khái niệm cơ sở về quản lý quốc gia tốt là coi trọng
sự tham gia bình đẳng của nam và nữ trong các cơ quan quản lý cũng nh các
biện pháp quản lý mang tính nhạy cảm về giới. Sự bình đẳng nam nữ về mọi
phơng diện đà từ lâu đợc hiến pháp Việt Nam chính thức công nhận. Về phơng
diện tham gia vào cơ cấu chính trị. Việt Nam đà đạt đợc kết quả đáng kể trong
việc thực hiện mục tiêu của Chính phủ về việc tăng số lợng cán bộ nữ ở tất cả
các cấp chính quyền. Hiện nay, số đại biểu nữ trong Quốc hội đà tăng từ
18,5% (trong khoá trớc) lên 26,2%, cao hơn so với một số nớc phát triển. Mặc
dù vị thế của phụ nữ cũng nh mức độ công nhận vai trò tham gia và quyền lợi
của phụ nữ trong cơ cấu quản lý quốc gia đà đợc nâng cao nhờ có quyết tâm
chính trị mạnh mẽ và nhất quán, song vẫn tồn tại một khoảng cách khá lớn
giữa nam và nữ. Tuy sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan của Đảng cũng
nh các cơ quan lập pháp, hành pháp và t pháp đà tăng lên, song nam giới vẫn
chiếm hầu hết những vị trí có mức độ ảnh hởng lớn nhất. Trong công tác quản
lý công cộng, tỷ lệ tham gia của nữ cũng rất thấp. Điều đáng lu ý là càng
xuống gần cấp cơ sở ở dới thì sự tham gia của phụ nữ vào các cơ cấu quản lý
càng giảm. Cần phải tiếp tục thay đổi các thể chế và thái độ nhằm đáp ứng
những kỳ vọng nêu ra trong kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Bên cạnh việc giải quyết tình trạng bất cân đối về giới trong cơ cấu quản
lý quốc gia, còn phải lu ý các vấn đề giới liên quan tới quy trình quản lý quốc
gia. Các chơng trình phát triển của quốc gia cần phải mang tính nhạy cảm về
giới trên cơ sở cải tiến việc thiết kế và xác định mục tiêu của chơng trình, các
hoạt động dự án cụ thể, cơ chế cũng nh tổ chức thực hiện. Những chơng trình
này cũng cần phải khuyến khích sự tham gia đầy đủ của phụ nữ trong các hoạt

động lập kế hoạch, thiết kế, thực hiện, giám sát và đánh giá.


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
4.Vấn đề cần giải quyết.
- Tiếp tục làm rõ vai trò của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng, củng cố
vai trò định hớng, ra chính sách và giám sát (cầm lái) của Nhà nớc và chuyển
một phần chức năng thực hiện (chèo thuyền) cho các khu vực khác để Nhà nớc có thể tập trung đa ra định hớng rõ ràng hơn cho quá trình cải cách.
- Khuyến khích đối thoại chính sách nhiều hơn giữa các trụ cột trong hệ
thống quản lý quốc gia để các bên có thể hiểu rõ hơn nữa vai trò của mình
trong một nền kinh tế hớng nhiều hơn nữa về thị trờng và đảm đơng tích cực
trách nhiệm với sự phát triển và tăng trởng của đất nớc.
- Tăng cờng năng lực của các bên để thực hiện các nghĩa vụ xà hội của
mình.
a) Nhà nớc.
- Xây dựng và thực hiện một chiến lợc cải cách hành chính chung để tiếp
tục sắp xếp lại tổ chức, tinh giản và tăng cờng hiệu quả tính công khai minh
bạch của bộ máy chính phủ, đặc biệt chú trọng đến việc nghiên cứu toàn diện
về thể chế, tính hiệu quả về chi phí, phân cấp và chất lợng cung ứng các dịch
vụ công cộng ở cả trung ơng và địa phơng.
- Thúc đẩy phân cấp qua việc trao quyền ra quyết định, và trao các nguồn
lực cần thiết để thực hiện các quyết định đó, tới các cấp chính quyền thích
hợp, đơn giản hoá thủ tục báo cáo, và tăng cờng năng lực của đội ngũ cán bộ
chính quyền địa phơng.
- Tăng cờng chất lợng phân tích chính sách, hoạch định chính sách và lập
kế hoạch ở trung ơng và địa phơng.
b) Khu vực t nhân.
- Công nhận và khẳng định một cách chính thức rõ ràng vai trò đặc biẹt
quan trọng của khu vực t nhân đối với công ăn việc làm, thu nhập, tiết kiệm
trong nớc và sự phát triển bền vững trong tơng lai là cần thiết để xoá bỏ các

rủi ro và tính không ổn định mà công tác kinh doanh đang phải đối mặt.
- Cải cách và phát triển một hệ thống ngân hàng dựa và thị trờng và có
tính hiệu quả nhằm bảo đảm tín dụng đợc phân bổ vào các doanh nghiệp bền
vững, hoạt động có lÃi và tạo ra đợc công ăn việc làm.
- Tiếp tục cải cách doanh nghiệp Nhà nớc, đặc biệt là hạn chế việc cung
cấp tín dụng ngân hàng theo chỉ đạo của Nhà nớc cho các doanh nghiệp này
nhằm giải phòng vốn, đất đai và nguồn nh©n lùc cã tay nghỊ cao cho khu vùc
t nh©n.


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
- Tăng đáng kể đầu t vào công tác đào tạo các kỹ năng kinh doanh và các
khoá đào tạo thực hành liên quan tới vấn đề này.
- Qua việc tiếp tục hỗ trợ chính sách, soạn thảo và thực thi luật, tạo một
môi trờng thuận lợi cho đầu t t nhân trong nớc và nớc ngoài và khuyến khích
vai trò của khu vực t nhân nh là động lực tăng trởng kinh tế và tạo công ăn
việc làm.
- Tăng cờng năng lực của các tổ chức của khu vực t nhân nh Phòng Thơng mại và Công nghiệp để tham gia một cách tích cực vào các cuộc thảo luận
chính sách.
- Thúc đẩy quan hệ đối tác giữa Chính phủ và các tổ chức thuộc khu vực
t nhân.
c) XÃ hội dân sự.
- Tăng cờng vai trò và năng lực của các tổ chức xà hội dân sự, nh các tổ
chức phi chính phủ, các tổ chức ngành nghề, công đoàn, các viện nghiên cứu
và các trờng đại học.
- Khuyến khích đối thoại và nhất trí trên cơ sở hợp tác giữa Nhà nớc và
xà hội dân sự, đặc biệt trong lĩnh vực xà hội hoá các dịch vụ xà hội cơ bản.
- Đầu t vào các phơng tiện thông tin và truyền thông ở cấp địa phơng, ví
dụ thông qua hỗ trợ các phơng tiện thông tin đại chúng và các tờ báo tiếng địa
phơng ở cộng đồng, nhằm thúc đẩy hơn nữa sự tham gia của cộng đồng vào

công tác quản lý quốc gia.
- Thể chế hoá các cơ cấu đảm bảo nam nữ ở mọi cấp (từ cấp xà lên cấp
trung ơng) và từ tất cả các nguồn gốc dân tộc thiểu số, ngời tàn tật, và ngời
rất nghèo - đợc tham gia vào thiết kế và thực hiện các hoạt động phân cấp và
quản lý quốc gia.
* Tiếp tục củng cố Nhà nớc pháp quyền bằng cách:
- Tăng cờng năng lực của cơ quan lập pháp (Quốc hội) và t pháp (Toà án
và Viện kiểm sát).
- Cải thiện chất lợng của quá trình soạn thảo luật, đặc biệt là hình thành
các mối quan hệ trực tiếp với quá trình phân tích chính sách nhờ tham khảo ý
kiến bên ngoài, và cải tiến quá trình thẩm định và đánh giá.
- Giảm phạm vi hiểu luật một cách tuỳ tiện của cơ quan Nhà nớc nhờ
những hớng dẫn rõ ràng hơn cách áp dụng luật ở các cấp, và giám sát chặt chÏ
h¬n cđa Qc héi.


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
- Cải tiến việc phổ biến pháp luật, khuyến khích sự tuân thủ pháp luật và
củng cố việc thực thi pháp luật.
* Tăng cờng tính công khai và trách nhiệm giải trình trớc dân đối với mọi
cấp chính quyền thông qua việc cải thiện các công cụ lập kế hoạch, giám sát
và báo cáo (chẳng hạn nh chơng trình đầu t công cộng, đánh giá chỉ tiêu công
và khuôn khổ chi tiêu trung hạn), cải tiến công tác thu thập và xử lý số liệu,
tăng cờng công tác kiểm toán một cách có hệ thống và qua việc chia sẻ thông
tin dữ liệu cho công chúng thờng xuyên. Đồng thời tiếp tục đấu tranh chống
tham nhũng và sai phạm trong quản lý để xây dựng lòng tin vào hệ thống quản
lý quốc gia.
II. Vị trí kinh tế của Chính phủ trong giai đoạn"Công
Nghiệp và hiện đạI hoá -" đất nớc:


1. Vai trò Chính phủ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nớc ra.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trớc đây, Chính phủ quyết định
tất cả. Có ngời đà lầm tởng rằng trong một nền kinh tế thị trờng, Chính phủ
không có vai trò đáng kể, mọi hoạt động sẽ chỉ do thị trờng quyết định. Đúng
là đà có những nền kinh tế thị trờng nh vậy, nhng đó là những nền kinh tế thị
trờng tồn tại cách đây nhiều thế kỷ trớc khi chủ nghĩa t bản độc quyền xuất
hiện. Kể từ khi chủ nghĩa t bản độc quyền xuất hiện, thì chính các độc quyền
đà tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế. Sau chiến tranh thế giới th hai,
chính phủ tham gia điều tiết các hoạt động và mức độ tham gia ngày càng
nhiều tới mức ngày nay ở nhiều nớc phơng Tây ngời ta phải chủ trơng giảm
bớt sự điều tiết của Chính phủ, phi nhà nớc hoá. Nh vậy, cho đến nay tồn tại
song hành hai cơ chế, cơ chế thị trờng (bàn tay vô hình), và cơ chế điều tiết
của Chính phủ (bàn tay hữu hình). Gọi là hai cơ chế nếu chúng ta muốn tách
để xem xét chúng một cách tơng đối độc lËp. Trªn thùc tÕ, chóng cã quan hƯ
víi nhau rÊt chặt chẽ. Trong cơ chế thị trờng, cạnh tranh và độc quyền là hai
yếu tố chủ yếu chi phối. Cạnh tranh là một động lực phát triển của kinh tế thị
trờng nhng cũng có những khuynh hớng cạnh tranh phi kinh tế , dùng những
thủ đoạn bẩn thỉu để bóp chết lẫn nhau. Những khuynh hớng cạnh tranh không
lành mạnh nh vậy phải đợc ngăn chặn. Độc quyền đà có tác dụng tích cực thúc
đẩy quá trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển, nhng độc quyền có
mặt thối nát của nó là bóp chết các sáng kiến. Nếu để cho thị trờng tự do tác
động, thì các khuynh hớng tích cực và tiêu cực cùng tác động, do vậy đà gây
ra các tác động không tốt cho sự phát triển của nền kinh tế. Những cuộc
khủng hoảng nghiêm trọng và đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
diễn ra vào năm 1929 1933 lµ mét vÝ dơ nỉi bËt. Sù can thiƯp cđa Chính
phủ chính là lạm hạn chế những tác động tiêu cực đó và hớng nền kinh tế phát


Tiểu luận kinh tế vĩ mô

triển có hiệu quả. Từ đó liên hệ tới vai trò của Chính phủ Việt Nam đặc biệt là
trong giai đoạn từng bớc công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Ai cũng thấy số nớc đạt đợc các thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế
không nhiều. ĐÃ có nhiều cách giải thích khác nhau về sự thần kỳ kinh tế
của Nhật Bản, về các thành tựu kinh tế của NICs. Có ngời đà nhấn mạnh đến
yêu tố về sự kết hợp giữa công nghệ phơng Tây và truyền thống của Nhật Bản.
Có ngời nhấn mạnh đến tinh thần lao động cần cù, miệt mài, sáng tạo của ngời
Nhật Bản. Cũng có ngời đà nhấn mạnh tới tài ba của những nhà quản lý Nhật
Bản. Nhng trong đó, nguyên nhân của những thành công về kinh tế của các
quốc gia trớc hết phải nói tới vai trò của Chính phủ với t cách là ngời lÃnh đạo
quản lý nền kinh tế quốc dân. Nếu Chính phủ không mạnh, nghĩa là không có
khả năng vạch ra đợc các chiến lợc phát triển, các chính sách kinh tế, luật
pháp đúng đắn, không có khả năng thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu
quả các chiến lợc, chính sách và luật pháp đó, thì nền kinh tế không thể nào
phát triển có hiệu quả và thu đợc những thành tựu nổi bật đợc.
Một nhà kinh tế học nổi tiếng đà nhận xét: Chính phủ tồi đà làm tàn lụi
cả một châu lục. Một ví dụ thực tế: Sự suy giảm của nền kinh tế Ghana ở
Châu Phi da đen trong hai thập kỷ 60 và 70. Năm 1957 Ghana đợc xem là nớc
giàu nhất Châu Phi da đen với bình quân đầu ngời 490 đô la Mỹ, nhng đến
đầu những năm 80 thu nhập quốc dân đầu ngời đà giảm xuống còn 400 đô la
Mỹ, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng khác đều giảm. Các quốc gia Châu Phi da
đen khác cũng ở trong tình trạng tơng tự. Cả một châu lục tàn lụi. Lý do
chính là sự lÃnh đạo yếu kém của các chính phủ ở các quốc gia này. Những
yếu kém này đà thể hiện ở chỗ xác định chiến lợc, chính sách, pháp luật
không đúng; họ càng thực thi các chính sách sai lầm đó tích cực và nghiêm
túc thì tại hoạ suy thoái càng lớn. Do vậy đà có câu nền kinh tế chỉ tăng trởng
vào ban đêm khi chính phủ ngủ say.
Các quốc gia nh Nhật Bản và NIEs, sự thành công của họ gắn chặt với
vai trò to lớn của Chính phủ. Nhật Bản đà tạo dựng đợc một Nhà nớc mạnh,
Nhà nớc đà kết hợp đợc kỹ thuật phơng Tây và truyền thống Nhật Bản, khuyến

khích và phát triển đợc tài năng quản lý của các xí nghiệp, động viên đợc nhân
dân Nhật Bản làm việc hết mình. Đó chính là nguyên nhân của mọi nguyên
nhân. Vai trò quan trọng nhất của Chính phủ là vai trò định hớng nền kinh tế
thông qua việc hoạch định các chiến lợc, chÝnh s¸ch, lơat ph¸p v.v...
Thùc tÕ ë ViƯt Nam cho thấy trong nhiều năm trớc Đại hội VI Đảng
Cộng sản Việt Nam, Chính phủ đà định hớng nền kinh tế không đúng, dờng
nh chỉ phát triển hớng nội xem nhẹ các ngành hớng vào xuất khẩu; u tiên phát
triển công nghiệp nặng kém hiệu quả, không chú trọng tới các ngành có khả
năng tăng trởng nhanh, hiệu quả lớn; chỉ chó träng ph¸t triĨn më réng khu vùc


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
kinh tế Nhà nớc, tập thể, xoá bỏ kinh tế t nhân, cá thể; ptkt kế hoạch, xoá bỏ
kinh tế thị trờng v.v... Với một hớng đi lệch lạc nh vậy, kinh tế Việt Nam đÃ
hoạt động kém hiệu quả và rời vào tình trạng lạm phát phi mà và khủng hoàng
sâu sắc. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam mới bớc đầu nắn lại híng ®i cđa
nỊn kinh tÕ: chun híng thùc hiƯn 3 chơng trình kinh tế: sản xuất lơng thực
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; chuyển mạnh sang kinh tế
thị trờng trên cơ sở đa dạng hoá hình thức sở hữu, xoá bỏ cơ chế kinh tế kế
hoạch tËp trung, bao cÊp, v.v... nỊn kinh tÕ míi bíc ®Çu chun sang mét híng
®óng, ta ®· thÊy xt hiƯn các yếu tố năng động tích cực và thấy rõ hớng đi
lên thoát khỏi khủng hoảng của nền kinh tế.
Trong ®iỊu kiƯn hiƯn nay ë níc ta, vai trß cđa Chính phủ đặc biệt quan
trọng. Chính phủ không đơn thuần là ngời trọng tài, ngời định hớng, định luật
chơi mà mức độ can thiệp, mức độ tác động trực tiếp của Chính phủ là mạnh
và rộng hơn. Trong giai đoạn từng bớc công nghiệp hoá và hiện đại hoá này,
điều kiện quan trọng cho những thành công kinh tế của Việt Nam là Việt Nam
phải có một Chính phủ mạnh về trí tuệ có khả năng định hớng đúng đắn sự
phát triển của nền kinh tế đất nớc.
Vấn đề đặt ra là trong khi nhấn mạnh vai trò tất yếu và hết sức quan

trọng của Chính phủ trong quản lý kinh tế, chúng ta không chỉ khẳng định sự
can thiệp của chiến lợc đối với các quá trình kinh tế, mà phải xác định rõ
Chính phủ thực hiện vai trò quản lý của mình nh thế nào, bằng cách thức nào
để nhận thức rõ ranh giới quyền lực của mình, không xâm phạm quyền tự chủ
kinh doanh của doanh nghiệp, tức là đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp.
Điều đó liên quan đến việc xác định những chức năng cũng nh nội dung
quản lý mà Chính phủ phải đảm nhiệm thực hiện. Trong giai đoạn hiện nay
Chính phủ thực hiện vai trò vai trò quản lý của mình thông qua ba chức năng
cơ bản sau:
- Điều khiển vĩ mô nền kinh tế.
- Quản lý ngân sách Nhà nớc.
- Hoạt động kinh tế.
Trong số các chức năng trên thì chức năng đầu là quan trọng nhất, có ý
nghĩa quyết định phát triển kinh tế, đặc biệt trong cơ chế thị trờng.
Nghiên cứu về vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy tăng trởng công
nghiệp ở các nớc đang phát triển, hai nhà nghiên cứu ngời Anh là Helen
Shapiro Lance Taylor đà khái quát chiến lợc quản lý của Chính phủ đối với
công nghiệp trong 11 điểm sau:


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
- Trong mọi trờng hợp, Chính phủ chỉ nên định hớng chung mà không
trực tiếp tham gia vào các quyết định của các doanh nghiệp.
- Chính phủ tập trung thông tin và chia sẻ một c¸ch cã chän läc cho c¸c
doanh nghiƯp.
- ChÝnh phđ cung cấp vốn liên doanh cho các xí nghiệp mới, thờng là ở
các lÃi suất thuận lợi đối với họ.
- Chính phủ hỗ trợ cho các ngành công nghiệp đột phá.
- Sự hỗ trợ cần phải đợc cân nhắc và xử lý cụ thể từng trờng hợp. Chính
phủ phải có quyền lực (và cả ý chí) cắt bỏ sự u đÃi nếu nh doanh nghiệp không

đáp ứng đợc những tiêu chuẩn đề ra.
- Bản thân các tiêu chuẩn phải rõ ràng và không phức tạp.
- Lợi ích của những ngời gánh chịu các khoản chi phí do thực hiện các
chính sách cần phải đợc chú ý.
- Có sự phân công sản xuất giữa xí nghiệp công cộng, xí nghiệp t nhân và
cá thể các công ty xuyên quốc gia. Xí nghiệp công cộng tốt nhất là hoạt động
trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, các ngành công nghiệp cơ sở và các lĩnh vực
có những đặc biệt trong thực hiện.
- Chú ý tới đào tạo và y tế.
- Có sự liên kết hỗ trợ về vốn giữa khu vực Nhà nớc và khu vực t nhân.
Các chơng trình đầu t của Nhà nớc phải đợc thiết kế nhằm tăng hiệu quả của
cả hai khu vực Nhà nớc và t nhân.
- Tránh mọi sự không rõ ràng.
Chính phủ tạo điều kiện để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đợc
phát triển nhanh chóng bằng cách:
Chính phủ tạo chỗ làm việc, giải toả sức ép về công ăn việc làm, lao động
đang có xu hớng tăng lên trong nền kinh tế. Công nghiệp hoá nh là một phơng
thức làm thay đổi cơ cấu kinh tế của đất nớc có một sứ mạng hết sức quan
trọng trong việc phát huy nguồn nhân lực rất tiềm tàng hiện còn cha đợc toàn
dụng và đang trở thành một sức ép lớn đối với nền kinh tế. Trong điều kiện cụ
thể của nớc ta trong những năm đầu của quá trình công nghiệp hoá, sự chuyển
dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hớng mạnh vào những ngành sản xuất và dịch vụ
cần nhiều lao động để có thể thu hút và giải toả sức ép về công ăn việc làm
đang căng thẳng trong xà hội, để rồi khi sức ép này không còn gay gắt nữa ,
trọng tâm của chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hớng mạnh vào các ngành


Tiểu luận kinh tế vĩ mô
khác, loại công nghệ khác. Quan điểm nh vậy sẽ tác động trực tiếp tới việc
hoạch định chính sách công nghệ trong lĩnh vực sản xuất.

Chính phủ hớng vào cơ cấu nghiên cứu nhiều tầng với sự định hớng vào
những công nghệ mũi nhọn, tiên tiến một cách hiệu quả. Quá trình công
nghiệp hoá đất nớc một mặt hớng vào giải quyết những vấn đề nóng bỏng, cấp
bách hiện tại , nhng đồng thời cũng phải hớng tới và chuẩn bị những tiền đề
cần thiết cho tơng lai gần (10-20 năm) và tơng lai xa (20-30 năm). Định hớng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá bao gồm xây dựng cơ
cấu công nghệ nhiều quy mô, nhiều trình độ, hớng hiện đai. Cơ cấu xà hội,
phân công lao động xà hội không chỉ là chất kết dính các ngành kinh tế với
nhau, mà còn cả các tầng công nghệ với t cách là một bộ phận cấu thành quan
trọng của cơ cấu ngành kinh tế. Về phần mình, sự phát triển của công nghệ,
đặc biệt là công nghệ tiên tiến sẽ có tác dụng thúc đẩy quá trình phân công lao
động xà hội. Trình độ phân công lao động xà hội có ảnh hởng quyết định đối
với sự hình thành và định hớng phát triển cơ cấu công nghệ. Do thực trạng sản
xuất còn nhỏ, phân tán, lao động chủ yếu còn thủ công, thiếu thốn nghiêm
trọng, 75% lực lợng lao động xà hội tập trung ở nông thôn và mức độ trang bị
công cụ lao động, trình độ tay nghề còn thấp, sự tích luỹ vốn trong các hộ gia
đình còn ít ỏi thì nhìn chung, trong những năm trớc mắt vẫn cần phát triển
những công nghệ đơn giản, dễ tiếp thu và rẻ, mang lại hiệu quả kinh tế xÃ
hội nhanh. Những công nghệ nh vậy đợc kết hợp với nguồn lao động xà hội
còn đang d thừa lớn sẽ tạo ra công ăn việc làm, làm những sản phẩm đáp ứng
ngay chính những nhu cầu đơn giản của thị trờng trong nớc.
Chính phủ đà phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế.
Khác với trớc đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp với sự hiển
diện về cơ bản chỉ một thành phần kinh tế, hiện nay công nghiệp hoá ở nớc ta
đang tiến hành dới tác động của cơ chế thị trờng với sự tham gia của nhiều
thành phần kinh tế. Nền kinh tế mở đang thu hút ngày càng nhiều sự tham gia
của các nhà đầu t nớc ngoài. Trong nhiều năm tới, chúng ta vẫn chủ yếu phải
dựa vào nguồn cung cấp các công nghệ tiên tiến bên ngoài thì một môi trờng
đầu t phát triển công nghệ hấp dẫn và thuận lợi cho cả các nhà đầu t trong nớc
và các nhà đầu t nớc ngoài là một yếu tố quan trọng của công cuộc công

nghiệp hoá đất nớc. Điều cần chú ý ở đây không chỉ ở sự khuyến khích đầu t
trong nớc và đầu t của níc ngoµi. Kinh nghiƯm qc tÕ vµ níc ta cho thấy
rằng, một đồng vốn ngoại tệ đầu t bao giờ cũng đòi hỏi một lợng tơng đơng
tiền trong nớc đi kèm.
Chính phủ có biện pháp nhằm thống nhất hiệu quả kinh tế và hiệu quả xÃ
hội. Công nghiệp hoá trong điều kiện kinh tế thị trờng đặt ra một loạt vấn đề
xà hội cần đợc xử lý giải quyết. Công nghiệp hoá là phơng thức để phát triển
kinh tế. Sự phát triển có thể có một mục tiêu cơ bản là nâng cao mức sống cho


TiĨu ln kinh tÕ vÜ m«
mäi ngêi trong x· héi nhất là những ngời nghèo. Vấn đề lớn nhất đặt ra trong
quá trình công nghiệp hoá là phân phối kết quả của phát triển kinh tế thông
qua công nghiệp hoá đến đợc với mọi ngời dân trong xà hội, mọi vïng, mäi
khu vùc cđa ®Êt níc. Quan ®iĨm vỊ sù thống nhất giữa hiệu quả kinh tế và
hiệu quả xà hội đồng thời cũng nhấn mạnh sự cần thiết tất yếu nâng cao vai
trò tích cực của Nhà nớc trong việc điều tiết quá trình công nghiệp hoá.
2. Quá trình chuyển đổi
Sau thống nhất hai miền Nam Bắc, đất nớc đà phải đơng đầu với hai
thách thức to lớn: Khắc phục hậu quả chiến tranh và thống nhất về kinh tế.
Trong những năm sau đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung, đà từng thực hiện ở
miền Bắc, đợc mở rộng trong cả nớc với ý kiến t vấn và hỗ trợ của Liên Xô
(cũ) và các nớc khác trong Hội đồng tơng trợ Kinh tế.
Đến giữa thập kỷ 80, những yếu kém của mô hình kế hoạch hoá tập trung
đà bắt đầu hiện rõ. Đất nớc bớc vào một thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xà hội
và tình hình ngày trở lên nghiêm trọng hơn vì nguồn viện trợ từ các nớc trong
Hội đồng tơng trợ Kinh tế dần dần bị cạn kiệt. Để đối phó với cuộc khủng
hoảng này, năm 1986 Đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản Việt Nam đà quyết
định đa Việt Nam vào con đờng đổi mới, nhằm cải tổ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung và phân cấp quản lý Nhà nớc.

Về mặt kinh tế, quá trình đổi mới có hai trọng tâm chính:
- Thực hiện tự do hoá thị trờng ở mức độ đáng kể và thực hiện chính sách
mở cửa về thơng mại, đầu t trực tiếp nớc ngoài và viện trợ phát triển chính
thức.
13 Năm sau khi phát động sự nghiệp đổi mới, nền kinh tế đợc kích thích
bởi những biện pháp cải cách theo định hớng thị trờng đà giúp Việt Nam khắc
phục đợc cú sốc sau khi các nớc trong Hội đồng tơng trợ Kinh tế chấm dứt
viện trợ, vợt qua cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng trong những năm 80
và đi vào giai đoạn tăng trởng kinh tế nhanh chóng trong những năm 90. Đối
với nhân dân Việt Nam, sự nghiệp hiện đại hoá, tăng trởng kinh tế và công
nghiệp hoá nhìn chung đà góp phần nâng cao mức sống của họ. Đáng ghi
nhận nhất là tình trạng nghèo đói đà giảm từ mức khoảng 70% vào giữa thập
kỷ 80 xuống còn 58% năm 1993 và còn khoảng 38% năm 1998, tính theo mức
chuẩn nghèo quốc tế của Ngân hàng thế giới. Tuy vậy, Việt Nam vẫn là một
trong những nớc nghèo nhất trên thế giới, với mức GDP tính theo đầu ngời là
352 USD năm 1998. Mức sống giữa thành thị và nông thôn ngày càng chênh
lệch, miền núi và vùng xa nơi các dân tộc ít ngời sinh sống đợc hởng rất ít từ
công cuộc phát triển.
3. Chính sách và tình hình kinh tế vĩ mô


×