Tải bản đầy đủ (.pdf) (237 trang)

đối chiếu cấu trúc – ngữ nghĩa tục ngữ tiếng hán hiện đại và tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 237 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



PHẠM THANH HẰNG





ĐỐI CHIẾU CẤU TRÚC – NGỮ NGHĨA
TỤC NGỮ TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI
VÀ TIẾNG VIỆT

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 62.22.01.01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN




Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Nguyễn Đức Dân
2. PGS. Chu Xuân Diên






NĂM 2010

THƯ
VIỆN



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và dẫn chứng đưa ra trong luận án là hoàn toàn trung thực và
không sao chép từ bất kì một công trình nào.
Tác giả luận án


iii


QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
1. Trong luận án, các ví dụ về tục ngữ từ tiếng Hán hiện đại được trình bày gồm:
nguyên văn chữ Hán (hình thức giản thể), phần phiên âm Hán Việt, và phần dịch
nghĩa. Trong đó, phần nguyên văn không cho trong ngoặc, phần phiên âm Hán Việt
cho trong ngoặc nháy (‘’), phần dịch nghĩa viết hình thức chữ thường. Trong trường
hợp trích dẫn dài (không phải tục ngữ), luận án không phiên âm Hán Việt mà trực
tiếp dịch nghĩa sang tiếng Việt (đôi chỗ dùng:
Tạm dịch).
2. Số lượng ví dụ quá nhiều, vì thế luận án không đánh số thứ tự.
3. Các bảng được đánh số theo thứ tự trong chương, chẳng hạn: bảng thứ 2 trong
chương 1 được viết là bảng 1.2.











DẪN NHẬP
1. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU VÀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay việc nghiên cứu tục ngữ trong giới ngôn ngữ học của hai nước Việt
Nam và Trung Quốc rất được coi trọng. Số lượng học giả cũng như những thành
quả trong việc nghiên cứu tục ngữ ngày càng nhiều. Hệ quả của điều này là sự
xuất hiện rất đa dạng các chuyên khảo cũng như các từ điển về tục ngữ. Về các
từ điển tục ngữ Hán có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như “Hán ngữ tục
ngữ đại từ điển” do Ôn Đoan Chính chủ biên [132], “Tục ngữ từ điển” của Từ
Tông Tài, Ứng Tuấn Linh [142], v.v. Ở Việt Nam có “Tục ngữ, ca dao, dân ca
Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan [89], “Tục ngữ Việt Nam” của nhóm Chu Xuân
Diên, Lưu Văn Đang, Phương Tri [27],
“Từ điển thành ngữ – tục ngữ Việt Nam”
của Nguyễn Lân [69], “Từ điển thành ngữ - tục ngữ - ca dao Việt Nam” của Việt
Chương [16], v.v.
So với sự xuất hiện rất đa dạng, phong phú các từ điển tục ngữ, những công
trình chuyên về nghiên cứu tục ngữ nói chung cũng như các công trình đối chiếu
tục ngữ Hán - Việt, Việt - Hán còn rất ít. Ngoài một số bài viết và luận án tiến só
có đề cập đến việc so sánh tục ngữ, chẳng hạn, luận án tiến só “Cấu trúc cú
pháp – ngữ nghóa của tục ngữ Việt trong sự so sánh với tục ngữ của một số dân
tộc khác” (2001) của Nguyễn Q Thành, chưa có công trình nào nghiên cứu

chuyên sâu và so sánh ngữ nghóa cũng như cấu trúc giữa tục ngữ Hán và tục ngữ
Việt. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng tiến hành nghiên cứu, đối chiếu tục ngữ
Hán và tục ngữ Việt là việc làm có ý nghóa và có giá trò nhất đònh.
Ngôn ngữ và văn hoá có quan hệ mật thiết với nhau. Hệ thống ngôn ngữ của


2
một dân tộc, trong đó tục ngữ là một bộ phận cấu thành, không những truyền tải
văn hoá của dân tộc đó, xét về góc độ lòch sử, còn là tinh hoa về văn hoá của
dân tộc. Tục ngữ Hán cũng như tục ngữ Việt đều mang đậm tính nhân văn. Nó
phản ánh một cách sâu sắc và toàn diện cuộc sống văn hoá xã hội của dân tộc
Hán và dân tộc Việt. Tục ngữ là kết tinh trí tuệ của quần chúng nhân dân qua
nhiều thế hệ, là sự tổng kết kinh nghiệm sản xuất và cuộc sống xã hội của
quảng đại quần chúng, và còn là sự thể hiện sâu sắc, sinh động văn hoá dân tộc
Việt và Hán. Vò trí đòa lí và lòch sử giao lưu văn hoá lâu đời của nhân dân hai
nước Việt –Trung khiến cho tục ngữ Hán và tục ngữ Việt trong sự phát triển và
hình thành của mình đã có sự ảnh hưởng, thúc đẩy lẫn nhau. Do đó nghiên cứu
tục ngữ Hán và tục ngữ Việt là việc làm có ý nghóa đối với việc nghiên cứu văn
hoá dân tộc hai nước, việc đối chiếu tục ngữ Hán và Việt có giá trò tham khảo
quan trọng.
Việc nghiên cứu tục ngữ Hán cũng như tục ngữ Việt đã được giới nghiên cứu
tiến hành từ lâu và càng ngày càng nhận được nhiều quan tâm. Với nội dung
phong phú, bao quát nhiều lónh vực, với cấu trúc đặc thù, nhiều loại hình, tục
ngữ không chỉ là đối tượng nghiên cứu của ngành văn học dân gian, như quan
niệm của một số tác giả trước đây, mà trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học khác như triết học, dân tộc học, tâm lý học, xã hội học, đặc biệt
là ngôn ngữ học. Tục ngữ không chỉ được tìm hiểu ở phương diện giá trò phản
ánh đời sống, nhận thức; ở những đúc kết kinh nghiệm về tự nhiên, về xã hội mà
còn được khai thác ở nhiều góc độ khác.
Đứng từ phương diện ngôn ngữ học, luận án này xác đònh đối tượng nghiên

cứu là phương diện ngôn ngữ của tục ngữ và những vấn đề liên quan mật thiết


3
với phương diện này. Những vấn đề cơ bản về tục ngữ như cấu trúc cú pháp, các
mô hình ngữ nghóa, nghóa biểu trưng trong tục ngữ được đặc biệt chú ý. Vì nhiều
lí do, luận án chỉ tập trung tìm hiểu những phương diện trên thể hiện trong tục
ngữ Hán và tục ngữ Việt.
Thông qua luận án này, chúng tôi mong muốn được góp một phần sức lực
vào việc so sánh đối chiếu, tìm ra những nét tương đồng, dò biệt giữa tục ngữ hai
nước Việt – Trung. Chúng tôi hy vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo tin cậây,
có giá trò cho những người muốn nghiên cứu, tìm hiểu tục ngữ Hán. Những nội
dung của luận án cũng sẽ góp phần nhất đònh vào việc gìn giữ sự trong sáng của
tiếng Việt.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Tình hình nghiên cứu tục ngữ ở Trung Quốc
Theo chuyên khảo nghiên cứu tục ngữ tiếng Hán ở thế kỉ XX [135], từ “tục
ngữ” xuất hiện sớm nhất trong “Sử kí” của Tư Mã Thiên. Nếu từ “tục ngữ” trong
“Sử kí” là từ thông thường, chỉ cách nói lưu truyền trong dân gian, thì từ “tục
ngữ” trong “Thuyết uyển” của Lưu Hướng đã mang tính thuật ngữ, chỉ những
ngữ cố đònh lưu truyền trong dân gian. Vào thời Tiên Tần và thời nhà Hán, tục
ngữ và ngạn ngữ thuộc về cùng một khái niệm, cho nên sau này còn có tên gọi
là “tục ngạn”. Nếu tính từ thế kỉ XVIII, có thể nói là việc sưu tầm và chú thích
tục ngữ ở Trung Quốc cũng khá rầm rộ và đạt được những kết quả nhất đònh.
Những đầu sách tiêu biểu là “Thông tục biên”, “Hằng ngôn lục”, “Cổâ dao
ngạn”, “Thường ngữ lục nguyên”, v.v. Tuy nhiên, những sách về tục ngữ của
thời kì này chủ yếu thiên về sưu tầm, thu thập các câu tục ngữ, không mang tính
chất lí luận, nghiên cứu. Ngay cả nhận thức về vấn đề cơ bản nhất “tục ngữ là



4
gì” cũng rất mơ hồ. Nhận đònh về việc nghiên cứu tục ngữ trong giai đoạn này,
tác giả cho rằng: “我国古代的俗语研究虽然取得了不少成就,但总的来说,还
是处在不自觉的朦胧状态 (nghiên cứu tục ngữ thời cổ của nước ta tuy đạt được
một số thành tựu, nhưng tóm lại vẫn ở trong tình trạng mông lung, không rõ
ràng)” [135, tr.32].
Sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời (1949), công việc nghiên
cứu và thu thập, chỉnh lí tục ngữ đạt được rất nhiều thành quả và có những bước
phát triển mới. Những chuyên khảo nghiên cứu lí luận về tục ngữ được triển khai
toàn diện. Có thể kể đến “Ngạn ngữ” của Ôn Đoan Chính [134]; “Tục ngữ” của
Mã Quốc Phàm, Mã Thúc Tuấn [127]; “Trung Hoa ngạn dao nghiên cứu” của
Vũ Chiêm Khôn [138]; “Tục ngữ” của Từ Tông Tài [141] và nhiều bài nghiên
cứu khác đăng trên tạp chí khoa học.
Nhìn chung, phạm vi nghiên cứu tục ngữ ngày nay tương đối sâu, rộng. Các
tác giả không những chỉ chú ý đến tính chất, nội dung và hình thức của tục ngữ
mà còn chú ý nghiên cứu phương diện ngữ dụng nữa.
2.1.1. Nghiên cứu tục ngữ từ góc độ cấu trúc cú pháp
Như trên đã nói, các sách nghiên cứu tục ngữ Hán hiện nay đa số đều đề cập
đến nhiều khía cạnh của tục ngữ. Nhưng cũng có thể nhận thấy khuynh hướng đi
sâu nghiên cứu tục ngữ ở một số lónh vực của một số tác giả. Chú ý phân tích
cấu trúc cú pháp tục ngữ có Mã Quốc Phàm, Mã Thúc Tuấn [127], Vũ Chiêm
Khôn [138]. Đồng tình với quan điểm chung của các nhà Hán học, cho rằng tục
ngữ tương đương với đơn vò câu, tác giả Mã và Vũ đều phân tích tục ngữ theo
quan điểm ngữ pháp truyền thống của tiếng Hán [x. chương 2]. Theo họ, cấu trúc


5
cú pháp tục ngữ cũng có các kiểu câu đơn, câu ghép và một số cấu trúc đặc thù.
Trong các tài liệu chúng tôi khảo sát không thấy có ý kiến khác biệt, không thấy
khuynh hướng nghiên cứu khác về cấu trúc cú pháp tục ngữ, các nhà nghiên cứu

hoặc không phân tích sâu, hoặc đều phân tích chúng theo cấu trúc cú pháp
truyền thống.
2.1.2. Nghiên cứu tục ngữ từ góc độ ngữ nghóa
Các nhà Hán học nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nắm vững ngữ nghóa
tục ngữ vì nó liên quan trực tiếp đến việc lí giải và vận dụng tục ngữ một cách
chính xác. Ngoài ra họ còn đề cập cụ thể đến những vấn đề như: nghóa mặt chữ
và nghóa thực tế của tục ngữ; tính đơn nghóa và tính đa nghóa của tục ngữ; tục
ngữ đồng nghóa và tục ngữ phản nghóa.
Theo Ôn Đoan Chính [134], nghóa mặt chữ (字面意义 tự diện ý nghóa) của
tục ngữ là nghóa được suy ra trực tiếp từ những từ và quan hệ ngữ pháp bao hàm
trong tục ngữ. Nghóa thực tế (实际意义 thực tế ý nghóa)của tục ngữ chỉ nghóa
được sử dụng trong thực tế của tục ngữ. Sau khi phân tích mối quan hệ giữa
nghóa mặt chữ và nghóa thực tế, tác giả phân chúng thành ba nhóm sau:
(1) Nghóa mặt chữ và nghóa thực tế giống nhau, nghóa mặt chữ là nghóa đen.
(2) Nghóa mặt chữ và nghóa thực tế không giống nhau. Nghóa mặt chữ không
có tác dụng biểu ý, nghóa thực tế trong câu mới là nghóa được sử dụng.
(3) Có hai nghóa thực tế, một nghóa giống nghóa mặt chữ, còn một nghóa là
nghóa phái sinh.
Về tính đơn nghóa và đa nghóa của tục ngữ, tác giả Ôn cho rằng tục ngữ đơn
nghóa là một câu tục ngữ chỉ truyền thụ tri thức ở một lónh vực nào đó, những tri


6
thức đó được xác nhận và chỉ có một cách giải thích. Tục ngữ đa nghóa là tục ngữ
có từ hai ý nghóa trở lên. Trong tục ngữ không hiếm hiện tượng “nhất ngữ đa
ngôn”, có tục ngữ có hai nghóa thực tế – nghóa đen và nghóa phái sinh, từ đó hình
thành hiện tượng cùng tồn tại tầng nghóa bề mặt (浅层义 thiển tầng nghóa) và
tầng nghóa bên trong (深层义 thâm tầng nghóa). Tuy có thể đa nghóa, nhưng
khi sử dụng trong ngữ cảnh cụ thể, mỗi câu tục ngữ thường cũng chỉ mang một
nghóa nhất đònh.

Cùng quan điểm trên còn có Từ Tông Tài [141], ngoài việc đề cập tới tính
đơn nghóa và đa nghóa của tục ngữ, ông còn đưa ra một loại nữa là tính thiên
nghóa (偏义性). Tục ngữ thiên nghóa là dạng thức tục ngữ do hai bộ phận tạo
thành, trong đó một bộ phận là chính, một bộ phận là phụ. Bộ phận chính biểu
thò nghóa chính của tục ngữ, bộ phận phụ biểu thò nghóa phụ, nó có tác dụng so
sánh và làm rõ nghóa mà tục ngữ muốn biểu đạt. Câu tục ngữ “饭多伤胃,话多
伤人 phạn đa thương vò, thoại đa thương nhân” (cơm nhiều hại dạ dày, lời nhiều
hại người), trong đó cơm nhiều hại dạ dày là nghóa phụ để nhấn mạnh, làm nổi
rõ nghóa chính lời nhiều hại người.
Thực ra, nghóa mặt chữ hay nghóa thực tế (dùng theo thuật ngữ các nhà Hán
học) cũng tương đương với nghóa đen hay nghóa bóng hoặc nghóa biểu trưng trong
tục ngữ Việt (x. 2.2). Thiết nghó, đó cũng là những đặc điểm chung về mặt ngữ
nghóa của tục ngữ nhiều dân tộc.
2.2. Tình hình nghiên cứu tục ngữ ở Việt Nam
Việc sưu tầm biên soạn tục ngữ ở Việt Nam cũng xuất hiện từ rất sớm. Chỉ


7
tính trong khoảng 40 năm nửa đầu thế kỉ XX, khá nhiều sách về tục ngữ được
biên soạn, xuất bản. Cuốn sách biên soạn tục ngữ in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên
là “Tục ngữ cổ ngữ gia ngôn”, tác giả là Huỳnh Tònh Của, xuất bản năm 1896
[dẫn theo 68, tr.28]. Ngoài ra có thể kể đến một số sách khác như “Nam ngạn
chích cẩm” của Phạm Quang Sán (1918), “Việt Nam ngạn ngữ phương ngôn
thư” của Nguyễn Văn Lễ (1931), v.v. Những sách này chủ yếu dừng lại ở mức
thu thập, biên soạn, cùng lắm là có thêm phần chú giải tục ngữ. Tuy nhiên,
những tư liệu thu thập tục ngữ đó rất có giá trò về phương diện bảo tồn phong tục
tập quán, nói rộng hơn là bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt.
Chúng ta có thể nhận thấy điều này trong lời tựa của “Nam âm sự loại”: “Nước
Nam ta phương ngôn tục ngữ cùng là lời ca, câu dở, câu hay cũng đều truyền cả.
Câu hay để cho người bắt chước, câu dở để cho người răn chừa, không mất tiền

mua, đáng trăm quan quý” [dẫn theo 74, tr. 509].
Năm 1975, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất. Trang sử mới của
nước nhà tạo cơ hội tốt cho sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên cũng
như xã hội. Nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu tục ngữ và một số
công trình chuyên khảo về tục ngữ được ra đời. Những chuyên khảo này không
đơn thuần chỉ là sưu tầm và chú giải tục ngữ, mà còn tìm hiểu tục ngữ từ nhiều
khía cạnh, trong đó cấu trúc và ngữ nghóa của tục ngữ được các tác giả đi sâu
khai thác, nghiên cứu.
Chúng ta có thể kể đến những công trình nghiên cứu về tục ngữ như: “Tục
ngữ Việt Nam” của nhóm Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri [27];
“Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc & thi pháp” của Nguyễn Thái Hòa [59], “Tìm hiểu
thi pháp tục ngữ Việt Nam” của tác giả Phan Thò Đào [35] và hàng loạt các bài


8
nghiên cứu tục ngữ đăng trong các tạp chí: Ngôn ngữ, Văn hoá dân gian, Văn học
cùng một số luận án tiến só nghiên cứu về tục ngữ trong mấy năm gần đây.
Ở Việt Nam, có thể thấy cách tiếp cận nghiên cứu tục ngữ theo các khuynh
hướng sau:
2.2.1. Tiếp cận cấu trúc cú pháp tục ngữ theo quan điểm ngữ pháp chức năng
Theo quan điểm ngữ pháp chức năng, cấu trúc câu là mô hình Đề –Thuyết.
Quan điểm phân tích cú pháp tục ngữ theo mô hình đề thuyết đầu tiên có thể kể
đến tác giả Cao Xuân Hạo trong Ngữ pháp chức năng tiếng Việt [54]. Theo ông,
mô hình đề thuyết có thể phân nhỏ thành câu một bậc (kiểu câu mà cả Đề lẫn
Thuyết đều không thể chia tiếp thành hai phần đề và thuyết ở bậc thấp hơn) và
câu nhiều bậc (kiểu câu mà Đề hoặc/ và Thuyết bậc trên được cấu tạo bằng một
cấu trúc đề thuyết bậc dưới). Ông dùng biểu đồ hình cây biểu diễn cấu trúc cú
pháp tiếng Việt trong đó bao gồm cấu trúc cú pháp tục ngữ Việt [54, tr.72,73].
Ngoài ra để có thể dễ dàng phân đònh ranh giới giữa Đề và Thuyết, các tác giả
còn đưa ra một số từ giữ vai trò là phương tiện phân giới Đề – Thuyết. Đó chủ

yếu là các từ “thì”, “là”, “mà”.
Nguyễn Đức Dương trong “Tìm về linh hồn tiếng Việt” [32] cùng một quan
điểm về mô hình đề-thuyết. Ông đã sử dụng cách biểu diễn cấu trúc cú pháp
bằng biểu đồ hình cây của Cao Xuân Hạo để tiến hành phân tích cấu trúc cú
pháp tục ngữ. Theo ông, vận dụng mô hình đề-thuyết giúp nhận diện cấu trúc cú
pháp của mọi đơn vò tục ngữ dễ dàng, mau lẹ.
Có thể tìm thấy cùng chung cách tiếp cận tục ngữ từ góc độ ngữ pháp chức
năng trong luận án tiến só “So sánh cấu trúc – chức năng của thành ngữ và tục
ngữ tiếng Việt” của Hoàng Diệu Minh [79]. Theo tác giả trong tiếng Việt, câu có


9
cấu trúc đề-thuyết, tục ngữ cũng vậy. Hoàng Diệu Minh dùng cách phân tích câu
và dựa vào các dấu hiệu hình thức và các tác tử phân giới thì, là, mà để phân
tích và phân loại tục ngữ theo cấu trúc câu đơn, câu ghép. Vấn đề được nghiên
cứu trong luận án về ngữ pháp chức năng đối với cú pháp tục ngữ là sự tiếp thu
những thành tựu các công trình đi trước. Bằng cách nhìn của phương pháp nghiên
cứu ngôn ngữ học hiện đại, liên quan chặt chẽ với lí thuyết ngữ pháp chức năng,
luận án giúp chúng ta có thể nhận rõ mối quan hệ tất yếu giữa ba bình diện: Kết
học, Nghóa học và Dụng học. Đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức,
mục đích và phương tiện.
Cách tiếp cận cấu trúc cú pháp tục ngữ Việt theo quan điểm ngữ pháp chức
năng có nhiều thuận lợi và cũng có những cơ sở thuyết phục (như các tác giả đã
chứng minh), nhất là đối với những kiểu chuỗi câu rút gọn thường xuất hiện trong
tục ngữ như: Chó treo mèo đậy; Nhất vợ, nhì trời; Bố gậy tre, mẹ gậy vông, v.v.
2.2.2. Tiếp cận cú pháp tục ngữ từ góc độ cấu trúc lôgích - ngữ nghóa
Đi theo hướng khảo sát, phân tích tục ngữ từ góc độ lôgích, Nguyễn Đức
Dân [25] gợi mở hướng nghiên cứu cấu trúc tục ngữ theo quan điểm lô gích –
ngữ nghóa. Tác giả đưa ra những dẫn chứng cụ thể cho thấy rằng tục ngữ có
những cấu trúc đặc thù ít thấy ở câu thông thường. Bằng những cấu trúc lô gích -

ngữ nghóa khái quát, tác giả chứng minh rằng một số câu tục ngữ tuy dùng những
phương thức biểu đạt ngôn ngữ khác nhau nhưng lại có cấu trúc lô gích như nhau.
Giải mã nghóa tục ngữ theo kiểu này tương đối chặt chẽ và chuẩn xác.
Chúng ta có thể hiểu rằng cấu trúc lô gích là bất biến ngữ nghóa của hai hay
nhiều câu tục ngữ. Đặc trưng của mối quan hệ giữa các quan hệ và thuộc tính
của chúng đã tạo ra nghóa cơ bản của tục ngữ. Thực tế cho thấy một số câu tục


10
ngữ là những biến thể ngôn ngữ của một bất biến ngữ nghóa, bất biến ngữ nghóa
chính là nghóa khái quát hay nghóa biểu trưng của tục ngữ.
Gần đây, Nguyễn Q Thành trong luận án tiến só Cấu trúc cú pháp – ngữ
nghóa của tục ngữ Việt trong sự so sánh với tục ngữ của một số dân tộc khác [95]
tập trung nghiên cứu cấu trúc cú pháp tục ngữ xuất phát từ đặc điểm nội dung
khái quát nhất của tục ngữ để tìm hiểu các cấu trúc đặc thù một cách có hệ
thống. Từ việc phân tích nội dung, hình thức của từng câu tục ngữ Việt, tiếp thu
quan điểm của cấu trúc lôgích – ngữ nghóa, tác giả rút ra ba cặp mệnh đề ngữ
nghóa khái quát nhất phản ánh nhận thức chung của dân gian về thế giới. Đó là:
(1) Cái này thì có/ không có đặc điểm này; (2) Cái này thì tương đương/ không
tương đương cái kia; (3) Cái này thì dẫn tới cái kia tương hợp/ không tương hợp.
Theo tác giả, ba cặp mệnh đề ngữ nghóa khái quát này có thể gọi là cấu trúc
cú pháp – ngữ nghóa (cấu trúc nghóa lô gích trong mối quan hệ với cấu trúc cú
pháp của tục ngữ). Mỗi cấu trúc nghóa khái quát lại bao gồm các mệnh đề lô
gích ngữ nghóa cụ thể hơn. Các mệnh đề ngữ nghóa khái quát được thể hiện trong
các hình thức cú pháp chứa đựng tín hiệu đònh hướng nghóa, có thể gọi là những
cấu trúc ngữ nghóa – cú pháp của tục ngữ. Tác giả trình bày trong luận án của
mình 116 mô hình ngữ nghóa - cú pháp của tục ngữ Việt.
Luận án của tác giả đã đưa ra một hướng tiếp cận mới, có tính khả thi đối
với việc phân tích cấu trúc ngữ nghóa của tục ngữ.
2.2.3. Tiếp cận cú pháp tục ngữ từ các kiểu khuôn hình tục ngữ

Nguyễn Thái Hòa trong “Tục ngữ Việt Nam – cấu trúc & thi pháp” [59] phân
tích cú pháp tục ngữ theo những yếu tố hình thức của tục ngữ: vần, nhòp, kiến
trúc sóng đôi. Về ngữ nghóa tục ngữ, tác giả cho rằng một phần gắn với quan hệ


11
cú pháp và phần khác gắn liền với cảnh huống giao tiếp cụ thể, tương đương với
kết cấu vừa bề mặt, vừa bề sâu thường thấy của một câu tục ngữ. Trên cơ sở
phân tích cơ cấu ngữ nghóa – cú pháp, kết hợp với cấu trúc đặc thù của tục ngữ,
Nguyễn Thái Hoà đi sâu phân loại tục ngữ theo các kiểu khuôn hình tục ngữ, cụ
thể là ba kiểu câu cơ bản của những khuôn hình tục ngữ: kiểu câu có quan hệ
hạn đònh trực tiếp; kiểu câu so sánh; kiểu câu phối thuộc. Trong mỗi kiểu lại còn
có thể chia thành những kiểu nhỏ hơn.
Tuy nghiên cứu cú pháp tục ngữ theo những khuôn hình cơ bản riêng, nhưng
tác giả vẫn phần nào gắn kết các kiểu câu với cấu trúc cú pháp truyền thống
(cấu trúc C - V). Phương pháp mô hình hoá cấu trúc tục ngữ của tác giả cho thấy
các câu tục ngữ đa số được triển khai theo các khuôn hình sẵn có, từ giản đơn
đến phức hợp. Hướng nghiên cứu này vừa có tính vó mô vừa có tính vi mô, từ
những mô hình khái quát, tường tận đến cả những mô hình mang tính chất cá
biệt. Tục ngữ gắn liền với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân, để thống
kê đầy đủ kho tàng tục ngữ dân tộc và qui nạp theo từng mô hình thứ, bậc là một
việc làm hết sức công phu và đòi hỏi nhiều thời gian mới có thể chu đáo được.
2.2.4. Tiếp cận nghiên cứu tục ngữ từ góc độ ngữ nghóa
Tục ngữ đặc biệt phong phú trong lónh vực đúc kết kinh nghiệm sống, kinh
nghiệm sản xuất. Nhiều câu tục ngữ có tính khái quát cao, mang đậm nét triết lí,
thậm chí có những câu tục ngữ còn được coi như chân lí, là kim chỉ nam soi rọi
và dẫn dắt con người trong lónh vực đối nhân xử thế. Chu Xuân Diên trong cuốn
“Tục ngữ Việt Nam” [27, tr.149] khẳng đònh: “Mỗi câu tục ngữ là nội dung của
một kinh nghiệm nhất đònh”. Song không phải trong bất cứ trường hợp nào, nội
dung kinh nghiệm của một câu tục ngữ cũng được hiểu một cách bất biến. Trong



12
quá trình vận dụng, những nội dung mà tục ngữ biểu đạt thường được mở rộng
“khiến cho ý nghóa của kinh nghiệm ấy có khả năng bao hàm được cả nhận thức
về bản chất và tính qui luật của nhiều hiện tượng trong thế giới khách quan” [27,
tr.142]. “Nội dung nhất đònh” mà tác giả đề cập đến có thể hiểu đó chính là
nghóa đen của tục ngữ, còn “kinh nghiệm có khả năng bao hàm được cả nhận
thức về bản chất và tính qui luật của nhiều hiện tượng trong thế giới khách
quan” có thể hiểu đó là nghóa bóng của tục ngữ. Tác giả kết luận: “Trong vốn
tục ngữ của người Việt, bên cạnh những câu có một nghóa – nghóa đen, còn có
rất nhiều câu có hai nghóa – nghóa đen và nghóa bóng” [27, tr.142].
Từ góc độ ngữ nghóa học, Hoàng Văn Hành [50, tr.59] nhận đònh rằng trong
mỗi câu tục ngữ không chỉ có cấu trúc ngữ pháp, mà còn có cấu trúc ngữ nghóa.
Cấu trúc này bao gồm cả những yếu tố thuộc về nội dung miêu tả hiện thực
(chức năng đònh danh) cũng như dụng ý thông báo (chức năng thông tin). Theo
tác giả, cấu trúc ngữ nghóa của tục ngữ giống với cấu trúc ngữ nghóa của mọi câu
nói thông thường vì với nghóa đen nó cũng biểu thò một cảnh huống (các sự vật
hay hiện tượng trong những mối quan hệ với nhau), sự khác nhau giữa chúng là
nghóa đen của tục ngữ thường chỉ dừng lại ở sự đúc kết kinh nghiệm trong lónh
vực sản xuất, thiên văn, v.v. Nhưng ở nhiều trường hợp, ngữ nghóa tục ngữ sẽ
được chuyển hóa trong những câu tục ngữ có khả năng ẩn dụ, ngữ nghóa những
câu tục ngữ thuộc loại này đã không chỉ dừng lại ở tầng nghóa cơ sở (tầng nghóa
đen) mà còn được hiểu theo nghóa bóng. Cũng theo Hoàng văn Hành “tục ngữ
nào càng miêu tả đúng những chi tiết, những sự kiện và hoàn cảnh điển hình, thì
giá trò tổng kết của nó càng cao và phạm vi ứng dụng của nó càng rộng. Bởi vì
chi tiết và hoàn cảnh điển hình do tục ngữ miêu tả ở tầng nghóa cơ sở trong


13

trường hợp đó đã tạo tiền đề cho những mối liên hội ngữ nghóa về sau,. khiến
người ta liên hội từ những mối quan hệ tất yếu giữa các sự kiện cụ thể trong
thiên nhiên đến những mối quan hệ tương tự trong đời sống xã hội” [50, tr.59]. Ở
đây chúng ta có thể thấy, tuy không biểu đạt một cách cụ thể nhưng tác giả cũng
đã gián tiếp thừa nhận tính nhiều nghóa của tục ngữ, chí ít cũng là nghóa đen
(tầng nghóa cơ sở) và nghóa bóng (nghóa liên hội).
Bàn về nghóa của tục ngữ, xuất phát từ những tiêu chí khác nhau, các nhà
nghiên cứu cũng đưa ra kết quả phân loại nghóa tục ngữ theo quan điểm của
riêng mình. Song tựu trung lại, đa số đều thống nhất về tính hai tầng nghóa của
tục ngữ. Theo họ, nghóa các câu câu tục ngữ phần lớn mang hai tầng nghóa:
nghóa đen và nghóa bóng, cũng có học giả còn chỉ ra nghóa khái quát, nghóa biểu
trưng của tục ngữ.
Trần Mạnh Thường trong “Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc” nhận đònh:
“Về hình thức, tục ngữ thường dùng hình ảnh, sự việc, hiện tượng cụ thể có thực
trong đời sống xã hội và thiên nhiên để khái quát thành ý niệm trừu tượng. Nói
khác đi, tục ngữ thường dùng cái riêng lẻ, cá biệt để nói lên cái phổ biến. Do đó
mỗi câu tục ngữ bao giờ cũng bao hàm hai nghóa: nghóa đen và nghóa bóng. Cái
cụ thể riêng lẻ sẽ tạo thành nghóa đen, cái trừu tượng, phổ biến tạo thành nghóa
bóng” [98, tr. 5].
Cùng quan điểm với Trần Mạnh Thường, Hoàng Tiến Tựu và Bùi Mạnh Nhò
nhấn mạnh đến tính đa nghóa của tục ngữ. Hoàng Tiến Tựu, trong “Văn học dân
gian Việt Nam” [104, tr.132], viết: “Có những câu tục ngữ chỉ có một nghóa, [ ]
nhưng bộ phận tục ngữ đa nghóa chiếm tỉ lệ khá lớn, chất lượng khá cao và là bộ
phận tiêu biểu nhất của thể loại này”. Theo ông, có loại tục ngữ được dùng với


14
cả hai nghóa song song (nghóa đen – nghóa trực tiếp và nghóa bóng – nghóa gián
tiếp). Một số không nhiều câu tục ngữ có thể lúc đầu chỉ mang nghóa đen, nhưng
về sau lại chủ yếu được dùng với nghóa bóng. Ông cho rằng loại tục ngữ nói về

các hiện tượng và qui luật tự nhiên có tính khái quát cao, phần lớn đều có thể
được dùng theo nghóa bóng để nói về những hiện tượng và qui luật xã hội, đến
đây tác giả cũng có những gợi ý về nghóa ngữ dụng của tục ngữ “[ ] Nói chung
tính chất ngụ ý không nằm trong dụng ý sáng tác ban đầu của tác giả dân gian,
mà nảy sinh về sau trong cách hiểu của người sử dụng”, “Nội dung ý nghóa của
mỗi câu tục ngữ không chỉ lệ thuộc vào cách hiểu của những người sáng tác ban
đầu, mà còn lệ thuộc rất nhiều vào quan niệm và cách dùng của những người sử
dụng về sau”, nhưng ông cũng chú thích thêm rằng “hiện tượng này chỉ có thể
diễn ra đối với những câu có tiềm ẩn khả năng mở rộng nghóa”. “Tiềm ẩn khả
năng mở rộng nghóa” mà ông nói ở đây chính là nói đến nghóa khái quát (nghóa
bóng) của tục ngữ, có thể được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh cụ thể khác nhau.
Chia sẻ với quan điểm của Hoàng Tiến Tựu, Bùi Mạnh Nhò

[86, tr.243] đưa ra ý
kiến của mình: “Nghóa bóng đã tạo cho tục ngữ khả năng vận dụng năng động
vào các trường hợp, và cứ mỗi lần được sử dụng ở những văn cảnh khác nhau thì
nội dung, ý nghóa, kinh nghiệm, những lớp nghóa nằm bên trong và bên ngoài từ
ngữ của nó lại giàu thêm ”. Cũng theo ông, một câu tục ngữ có thể ứng dụng
trong hàng ngàn trường hợp cụ thể khác nhau. Quá trình vận dụng tục ngữ là quá
trình tạo nghóa không ngừng.
Phan Thò Đào trong “Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam” [35, tr.117] khi
bàn về nghóa của tục ngữ cũng khẳng đònh “Mỗi câu tục ngữ có ít nhất là một
nghóa. Những câu có một nghóa thì hầu hết là nghóa đen [ ] Phần còn lại của tục


15
ngữ là những câu đa nghóa [ ] trong quá trình giao tiếp, nghóa được sử dụng của
chúng là nghóa bóng [ ] nghóa đen chỉ là nền để nẩy sinh nghóa bóng, để hiểu
nghóa bóng mà thôi”, tác giả cũng nhấn mạnh ý nghóa khái quát của tục ngữ.
Đương nhiên tục ngữ không chỉ mang ý nghóa khái quát khô khan, sở dó tục ngữ

đi vào lòng người và có sức sống mãnh liệt qua các thời đại còn bởi ngôn ngữ
giàu hình tượng và tính nhân văn sâu sắc của nó.
Không đồng ý với quan điểm tục ngữ nhiều nghóa hoặc đa nghóa như hầu hết
các nhà nghiên cứu tục ngữ nêu trên, Nguyễn Xuân Đức trong một số bài viết
đăng trong Tạp chí Văn hóa dân gian [34, 35, 36] đã kiên trì quan điểm của mình
là nên coi tục ngữ chỉ có một nghóa (nghóa gắn liền với môi trường ứng dụng).
Tiếp cận tục ngữ từ bình diện ngữ dụng học, tác giả cho rằng tục ngữ là một hiện
tượng đặc biệt xét từ tính ứng dụng. Qua phân tích nghiên cứu của một số học
giả ông cho rằng tuy nói tục ngữ mang nhiều nghóa (đa nghóa) nhưng những tác
giả này cũng chỉ đưa ra được hai nghóa mà thôi (nghóa đen và nghóa bóng). Cũng
theo ông việc xác đònh nghóa của câu tục ngữ trên văn bản không phải bao giờ
cũng đạt được kết quả chính xác và đầy đủ bởi nghóa tục ngữ còn gắn liền với
ngữ cảnh lúc phát ngôn, tục ngữ gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân
dân hơn cả, tuy nhiên nghóa tục ngữ của mỗi lần sử dụng chỉ là một trong tổng
thể nghóa của nhiều lần phát ngôn, như vậy một tục ngữ có thể được ứng dụng
trong hàng ngàn trường hợp khác nhau, quá trình vận dụng tục ngữ là quá trình
tạo nghóa không ngừng. Ông kết luận: “Không nên nói tục ngữ có nhiều nghóa,
lại càng không nên nói tục ngữ đa nghóa [ ]. Tục ngữ trên văn bản có từ một
đến hai nghóa, nhưng xét trong môi trường ứng dụng, tức là trong môi trường lưu
truyền và tồn tại đích thực thì với mỗi lần phát ngôn chỉ có một nghóa (có thể là


16
nghóa đen hay nghóa bóng) – tức là nghóa đang được ứng dụng theo mục đích
phát ngôn”. Về việc tính một nghóa của tục ngữ gắn với từng hoàn cảnh phát
ngôn cụ thể như quan điểm của Nguyễn Xuân Đức không phải là không có lí.
Bùi Mạnh Nhò [86, tr.246] đã từng khẳng đònh nhiều hình ảnh trong tục ngữ là
những quan sát khoa học, nhưng những hình ảnh này còn mở ra ý nghóa về sự
tương xứng, phù hợp giữa hiện tượng với hoàn cảnh, môi trường và ý nghóa này sẽ
được người sử dụng tục ngữ dùng để nói về nhiều trường hợp trong các văn cảnh

khác nhau. Cái thực cụ thể ban đầu đã uyển chuyển đi tới những cái thực tương
đồng khác. Hoàng Tiến Tựu [104, tr.133] cũng đã chỉ ra: Hầu hết những câu tục
ngữ nhiều nghóa đều có phần “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời). Mà cái phần “ý ở
ngoài lời” lại là phần chính thức của những câu tục ngữ ấy. “Ý nghóa mở phù
hợp với hoàn cảnh” của Bùi Mạnh Nhò, hoặc “ý ở ngoài lời” của Hoàng Tiến
Tựu xét cho cùng cũng chính là nghóa ngữ dụng mà Nguyễn Xuân Đức đề cập. Ở
đây có thể hiểu rằng các nhà nghiên cứu đã tiếp cận tục ngữ từ các góc độ, các
bình diện khác nhau.
Nguyễn Văn Nở với luận án tiến só Biểu trưng trong tục ngữ Việt Nam [88] đã
tiếp cận nghóa tục ngữ từ góc độ nghóa biểu trưng. Tác giả đi sâu nghiên cứu về
nghóa và các biện pháp tạo nghóa biểu trưng thường dùng trong tục ngữ qua các
chất liệu dùng làm tín hiệu biểu trưng trong tục ngữ Việt. Với hướng nghiên cứu
này, tác giả đã tiến hành khảo sát một cách có hệ thống những loại hình ảnh
thường được dùng làm tín hiệu biểu trưng trong tục ngữ.
Đóng góp mang ý nghóa thực tiễn của luận án tập trung ở phần khảo sát biểu
trưng trong tục ngữ qua môi trường vận dụng, qua đó còn thấy được sự mở rộng
nghóa, những nét nghóa biểu trưng khác nhau của tục ngữ trong từng trường hợp


17
vận dụng cụ thể và cụ thể hoá được biểu trưng của tục ngữ trong những tình
huống giao tiếp nhất đònh.
Riêng về lónh vực so sánh, đối chiếu tục ngữ Việt với tục ngữ Hán thì các công
trình nghiên cứu vẫn còn khá khiêm tốn. Việc đối chiếu giữa tục ngữ Hán và tục
ngữ Việt có thể thấy được chủ yếu tập trung ở phần giới thiệu trong một vài cuốn
từ điển tục ngữ Hán - Việt như “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Hoa - Việt” của Lê
Khánh Trường, Lê Việt Anh [103]; “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Hán - Việt” của
Nguyễn Bích Hằng, Trần Thanh Liêm [52]. Về cơ bản, nội dung các công trình
này chủ yếu là dòch nghóa các câu tục ngữ, thành ngữ từ tiếng Hán sang tiếng Việt,
chưa chuyên sâu nghiên cứu cấu trúc cú pháp cũng như đặc điểm ngữ nghóa của

chúng. Luận án tiến só của Nguyễn Quý Thành [95] nghiên cứu về cấu trúc, ngữ
nghóa của tục ngữ Việt trong sự so sánh với tục ngữ của một số dân tộc, trong đó
có dân tộc Hán. Mặc dù có phần so sánh với tục ngữ Hán (Hoa), nhưng luận án
cũng chỉ dừng ở mức độ minh hoạ chứ chưa tiến hành chuyên sâu đối chiếu.
Chúng tôi hy vọng công trình nghiên cứu của mình sẽ tạo thêm một bước tiến mới
trong lónh vực đối chiếu cấu trúc – ngữ nghóa giữa tục ngữ Hán với tục ngữ Việt,
góp phần tích cực vào công việc nghiên cứu tục ngữ nói chung và công việc đối
chiếu so sánh tục ngữ Hán, tục ngữ Việt nói riêng. Hoàn thành nhiệm vụ đặt ra,
luận án sẽ là tài liệu tham khảo có giá trò cho những công trình kế tiếp và những
công trình nghiên cứu hữu quan khác.
3. NHIỆM VỤ LUẬN ÁN
Sau khi xác đònh rõ đối tượng nghiên cứu, với tinh thần kế thừa các thành tựu
nghiên cứu về tục ngữ Hán và tục ngữ Việt đồng thời trên cơ sở vận dụng líù


18
thuyết ngôn ngữ học hiện đại, nhiệm vụ luận án đặt ra:
(i) Khảo sát cấu trúc cú pháp tục ngữ Hán hiện đại và tục ngữ Việt trên cơ
sở cấu trúc cú pháp của tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt, trong đó nhấn mạnh
đến một số cấu trúc cú pháp đặc thù của tục ngữ.
(ii) Đối chiếu cấu trúc cú pháp tục ngữ Hán hiện đại và tục ngữ Việt để tìm
những nét tương đồng dò biệt.
(iii) Khảo sát ngữ nghóa tục ngữ Hán hiện đại và tục ngữ tiếng Việt trên cơ
sở nghóa biểu trưng của tục ngữ. Luận án đặt trọng tâm vào các kiểu nghóa biểu
trưng của tục ngữ Hán hiện đại và tục ngữ Việt.
(iv) Đối chiếu ngữ nghóa giữa tục ngữ Hán hiện đại và tục ngữ Việt để tìm
những nét tương đồng, dò biệt thông qua nghóa biểu trưng; từ đó có thể thấy được
bức tranh văn hóa của hai dân tộc thể hiện qua tục ngữ.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU
4.1. Phương pháp nghiên cứu

Với đối tượng và nhiệm vụ được xác đònh như trên, luận án chủ yếu sử dụng
các phương pháp sau:
4.1.1. Phương pháp thống kê
Thông qua phương pháp thống kê, luận án khảo sát nguồn dữ liệu tục ngữ
Hán và tục ngữ Việt để tìm hiểu cấu trúc khái quát và ý nghóa biểu trưng đặc thù
của tục ngữ từng dân tộc; thống kê các dạng thức, mô hình cấu trúc cũng như các
nhóm nghóa của tục ngữ hai nước. Phương pháp này nhằm nâng cao tính khách
quan trong việc miêu tả để đưa ra những kết luận mang tính khoa học đáng tin cậy.


19
Luận án có đưa ra một số bảng, biểu thống kê số lượng, tỉ lệ về cấu trúc
cũng như các loại hình ảnh biểu trưng khi đối chiếu cấu trúc – ngữ nghóa tục ngữ
Hán và tục ngữ Việt.
4.1.2. Phương pháp miêu tả - phân tích
Từ nguồn dữ liệu thu thập được, luận án tiến hành miêu tả - phân tích các
loại cấu trúc cú pháp cũng như nghóa biểu trưng, hình ảnh biểu trưng, từ đó rút ra
được những nét tương đồng, dò biệt về cấu trúc cú pháp, ngữ nghóa của tục ngữ
hai dân tộc.
4.1.3. Phương pháp qui nạp
Trên cơ sở thống kê, phân tích ngữ liệu, luận án hướng tới việc khái quát,
tổng hợp các loại hình cấu trúc cú pháp, ngữ nghóa của tục ngữ, đồng thời tập
hợp lại những loại câu có cùng cấu trúc, cùng hình ảnh biểu trưng, cùng nội dung
ngữ nghóa; hoặc cùng nội dung ngữ nghóa nhưng hình ảnh biểu trưng khác nhau;
hoặc cùng hình ảnh biểu trưng nhưng nội dung ngữ nghóa khác nhau.
4.1.4. Phương pháp đối chiếu
Đối chiếu là phần trọng tâm của luận án. Sử dụng phương pháp đối chiếu,
luận án nhằm rút ra những nét tương đồng, dò biệt về cấu trúc cũng như ngữ nghóa
giữa tục ngữ Hán và tục ngữ Việt. Khi tiến hành đối chiếu, chúng tôi lấy cấu trúc,
ngữ nghóa tục ngữ tiếng Hán hiện đại làm cơ sở để từ đó so sánh với cấu trúc, ngữ

nghóa của tục ngữ Việt.
4.2. Nguồn ngữ liệu
Lấy đối tượng nghiên cứu những vấn đề gắn với phương diện ngôn ngữ của
tục ngữ Hán và tục ngữ Việt (như đã xác đònh ở mục 1), luận án tập trung vào


20
việc khai thác nguồn ngữ liệu ở vốn tục ngữ Hán và tục ngữ Việt hiện đại. Nhìn
chung, nguồn ngữ liệu lựa chọn khảo sát được lấy ở các từ điển tục ngữ Hán, tục
ngữ Việt hiện hành. Trong đó, các số liệu dùng để khảo sát, thống kê trong luận
án chủ yếu dựa vào Từ điển tục ngữ (tiếng Hán) của Từ Tông Tài, Ứng Tuấn
Linh [142] với 10.300 câu tục ngữ Hán và Tổng tập văn học dân gian người Việt
(tập 1, 2: chuyên về tục ngữ) của tác giả Nguyễn Xuân Kính (chủ biên) [68] với
10. 625 câu tục ngữ Việt.
Đây là hai công trình sưu tầm tục ngữ tiếng Hán và tục ngữ tiếng Việt xuất
bản trong thời gian gần đây nhất và chúng có số lượng khá lớn: trên mười nghìn
câu tục ngữ. Chúng tôi nghó, việc thống kê, phân tích trên số liệu như vậy sẽ có
những thuận lợi nhất đònh và kết quả đạt được sẽ có tính khách quan và độ tin
cậy cao hơn.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
5.1. Đóng góp lý luận
Luận án đưa ra cái nhìn tổng quan về việc nghiên cứu tục ngữ và những vấn
đề hữu quan.
Khác với hướng tiếp cận của các công trình nghiên cứu về tục ngữ trước
đây – hoặc nghiên cứu cấu trúc cú pháp từ góc độ ngữ pháp chức năng/ đề-
thuyết (Cao Xuân Hạo, Nguyễn Đức Dương, Hoàng Diệu Minh), hoặc từ góc độ
cấu trúc lôgích - ngữ nghóa (Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quý Thành), hoặc từ các
khuôn mẫu cấu trúc (Nguyễn Thái Hòa) – luận án này nghiên cứu cấu trúc cú
pháp tục ngữ từ quan điểm của ngữ pháp truyền thống (cấu trúc C – V). Ngoài ra
luận án cũng khảo sát một số cấu trúc đặc thù (cấu trúc điệp và đối, cấu trúc vần)



21
của tục ngữ Hán và tục ngữ Việt.
Luận án chọn khảo sát, thống kê một số hình ảnh thường được dùng làm chất
liệu biểu trưng trong tục ngữ về bốn phương diện: động vật (thú), thực vật, món
ăn, đồ dùng. Qua đó có thể thấy được bức tranh đậm nét bản sắc văn hóa của
mỗi dân tộc ẩn chứa trong tục ngữ.
Từ phương diện ý nghóa biểu trưng, thông qua các ví dụ cụ thể, luận án đã so
sánh ngữ nghóa tục ngữ Hán và tục ngữ Việt. Cách làm này có thể cho ta dễ
dàng nhận biết được nét tương đồng và dò biệt về ngữ nghóa giữa tục ngữ hai dân
tộc Việt, Hán, cũng không khó khăn để nhận biết được những tục ngữ Việt và
Hán đồng nghóa với nhau mặc dù hình ảnh biểu trưng của chúng khác nhau.
Qua khảo cứu, luận án thống kê được một số lượng không nhỏ (267 câu) tục
ngữ âm Hán – Việt, đồng thời đưa ra những phân tích cụ thể để chứng minh
người Việt đã từng dùng âm Hán – Việt để sáng tạo tục ngữ.
5.2. Đóng góp thực tiễn
Luận án chỉ ra được những nét khác biệt và tương đồng về cấu trúc và ngữ
nghóa giữa tục ngữ Hán và tục ngữ Việt. Điều này sẽ đóng góp thiết thực và có ý
nghóa nhất đònh cho việc học tập cũng như giảng dạy ngôn ngữ hai dân tộc. Hy
vọng luận án là tài liệu đáng tin cậy cho những người quan tâm, hoặc có thể là
cơ sở cho những bước nghiên cứu tiếp theo. Phần phụ lục của luận án cũng có
thể coi là nguồn ngữ liệu tham khảo có ích cho những nghiên cứu chuyên sâu về
tục ngữ sau này.
6. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Với đề tài “Đối chiếu cấu trúc – ngữ nghóa tục ngữ tiếng Hán hiện đại và


22
tiếng Việt”, căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ đặt ra, luận án được sắp xếp thành

các phần sau: phần chính văn có dung lượng 200 trang, bao gồm phần dẫn nhập,
kết luận, ba chương nội dung và tài liệu tham khảo (chương 2, chương 3 là hai
chương trọng tâm của luận án); ngoài ra còn 30 trang phụ lục. Trình tự sắp xếp
các phần của chính văn được tóm tắt như sau:
Phần Dẫn nhập: trình bày đối tượng nghiên cứu và lí do chọn đề tài; lòch sử
vấn đề; phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu; nhiệm vụ của luận án; đóng
góp của luận án; bố cục luận án.
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương này chủ yếu điểm lại khái quát các quan điểm về tục ngữ và một số
khái niệm hữu quan của các nhà Hán học và Việt học. Ngoài ra còn nêu ra một
số đặc điểm của tục ngữ. Đó là tính lòch sử, tính dân tộc, tính biến thể.
Chương 2: Đối chiếu đặc điểm cấu trúc cú pháp tục ngữ Hán hiện đại và tục
ngữ Việt
Trước khi tiến hành so sánh cấu trúc cú pháp tục ngữ Hán và tục ngữ Việt,
để có cái nhìn khái quát về cấu trúc cú pháp hai ngôn ngữ, luận án giới thiệu
một cách sơ lược cấu trúc cú pháp của tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt. Tiếp
theo, luận án lần lượt trình bày cấu trúc cú pháp tục ngữ Hán và tục ngữ Việt rồi
mới tiến hành đối chiếu.
Chương 3: Đối chiếu đặc điểm ngữ nghóa tục ngữ Hán hiện đại và tục ngữ Việt
Chương này được triển khai theo hai phần. Phần một (3.1) giới thiệu các
kiểu loại ngữ nghóa tục ngữ. Luận án đi sâu phân tích nghóa biểu trưng của tục

×