lời mở đầu
Lạm phát và giảm phát là những vấn đề phức tạp cả về nhận thức lý luận và
thực tiễn. Nhiều nhà kinh tế đã cảnh báo về nguy cơ giảm phát toàn cầu bởi vì
giảm phát đợc hiểu là việc giảm liên tục nếu không khắc phục sẽ gây ra những
tác hại lớn hơn cả lạm phát, cụ thể là nó làm chậm lại tốc độ tăng trởng kinh tế.
Do vậy, nghiên cứu về vấn đề giảm phát đòi hỏi một quá trình lâu dài, một sự
phân tích mạch lạc, khách quan bởi chính bản chất phức tạp và kéo dài của giảm
phát. Trên thực tế, trừ trờng hợp các cuộc khủng hoảng chu kỳ hồi thế kỷ 19,
giảm phát rất ít khi là một hiện tợng tự phát, mà thờng là các biện pháp cố tình
của Nhà nớc nhằm hạn chế mạnh cầu và qua đó giảm những mất cân đối rất lớn.
Ngày nay, giảm phát lại đang là trở lực kéo nền kinh tế của nhiều nớc vào vòng
xoáy suy thoái. Vấn đề này đã và đang làm đau đầu nhiều nhà kinh tế học và các
nhà lãnh đạo trên thế giới, mặc dù đã có nhiều sự cố gắng suy nghĩ to lớn.
Trong một thế giới không có ranh giới, trong điều kiện thơng mại quốc tế,
kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển mạnh mẽ, Việt Nam cũng không thể tránh
khỏi những tác động khủng hoảng có tính chu kỳ và dây chuyền của kinh tế các
nớc. Tuy giảm phát ở nớc ta mới chỉ là nhất thời khó kèo dài với mức độ trầm
trọng song nếu không thoát khỏi vòng xoáy giảm phát thì triển vọng phát triển
về trung và dài hạn là hết sức khó khăn. Kích cầu là một biện pháp tất yếu phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong nớc nhằm thúc đẩy tiêu dùng, thúc đẩy
tăng trởng kinh tế, đồng thời kiểm soát đợc một cách chặt chẽ các yếu tố gây tác
động đến giá cả thị trờng theo hớng tích cực. Những vấn đề đợc nêu ra có thể
nắm bắt đợc bằng trực giác nhng việc đi sâu nghiên cứu những mối quan hệ có
tính định lợng thờng xuyên giữa tiền tệ, sự tăng trởng và giá cả là một việc làm
còn quá nhiều mạo hiểm. Vì vậy, trong khuôn khổ một bài nghiên cứu khoa học,
những vấn đề đợc trình bày dới đây không nhằm kết thúc một sự phân tích ngắn
gọn về giảm phát và các biện pháp kích cầu mà chỉ để nhận thức đợc vai trò, tầm
quan trọng của chúng trong những mối liên kết của nền kinh tế hiện đại.
Trong quá trình thực hiện, bài viết của em không tránh khỏi có nhiều khiếm
khuyết do sự hiểu biết còn hạn hẹp, vì vậy em rất mong có sự đóng góp ý kiến
của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thuỳ Vinh đã tạo điều kiện cho
em thực hiện tốt bài nghiên cứu khoa học này.
1
phần I
tổng quan về giảm phát và kích cầu
I - / Giảm phát - các nguyên nhân và hậu quả
1-/ Giảm phát là gì?
Từ trớc thế kỷ 20, cha một nhà kinh tế nào nhắc đến giảm phát trong nền
kinh tế Quốc dân, ngời ta mới chỉ nói đến lạm phát nh một cơn lốc cuốn đi của
cải của nền kinh tế sau những cuộc khủng hoảng xuất hiện có tính chu kỳ của
nền kinh tế TBCN. Cho đến giữa hai cuộc cạnh tranh thế giới, cuộc đại khủng
hoảng 1929 - 1933 diễn ra, các nhà kinh tế mới quan niệm đợc rằng có một tình
trạng giảm phát, tức là tình trạng trái ngợc với tình trạng lạm phát. Ngời ta đã
từng căn cứ vào tơng quan giữa khối lợng hàng hoá dịch vụ và khối lợng tiền tệ
trong phơng trình Irving Fisher. Nếu vì một lý do nào mà khối lợng tiền tệ giảm
bớt, tất nhiên giá hàng hoá giảm sút và dẫn đến một số xí nghiệp lỗ vốn, phá sản
và sa thải công nhân. Nh vậy nếu cân bằng có tái lập giữa hai khối hàng hoá và
tiền tệ thì phải là một thế cân bằng khiếm dụng.
Tình trạng giảm phát còn đợc nhận diện rõ ràng hơn qua học thuyết của
John Mayhard Keynes. Theo học thuyết này thì khi ngân hàng tung thêm tiền tệ
mà không làm cho vật giá tăng thêm, tức là trong nền kinh tế lúc đó có khuynh
hớng giảm bớt. Không nên nhầm lẫn giảm lạm phát với giảm phát; giảm phát là
giảm giá nói chung trong khi giảm lạm phát là làm giảm mức tăng giá. Trong sự
điều hành của bộ máy kinh tế, lạm phát và giảm phát có thể coi là hai cực, mà
các chính sách kinh tế vĩ mô cần hớng vào thế cân bằng giữa khối lợng hàng hoá
và tiền tệ.
Theo thuyết lạm phát lu thông tiền tệ thì cho giảm phát là do việc đa tiền
vào lu thông ít hơn mức cần thiết, khiến sản xuất và lu thông bị nghẹt vì thiếu
tiền làm chất bôi trơn.
2-/ Nguyên nhân gây ra giảm phát.
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tốc độ tăng trởng kinh tế của
một - 2 -nớc bị chậm lại.
Nguyên nhân thứ nhất thuộc tổng cầu: Tổng cầu xã hội giảm, thể hiện cụ
thể là vốn đầu t nớc ngoài giảm, đầu t trong nớc thấp. Thu nhập thực tế của ngời
dân giảm làm cho sức mua kém, thêm vào đó cầu từ nớc ngoài giảm do ảnh hởng
của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Nguyên nhân thứ hai thuộc tổng cung: lợng tiền cung ứng không đủ cho
lu thông. Hàng hoá nhiều, giá liên tục giảm nhng lợng ngời mua ít, cung hàng
hoá vẫn ở trong tình trạng lớn hơn cầu hàng hoá, hàng hoá ở trong tình trạng d
thừa không có thị trờng tiêu thụ. Bên cạnh đó, hàng nhập lậu trốn thuế từ bên
ngoài vào với số lợng lớn, giá rẻ hơn thoả mãn nhu cầu thị hiếu đã làm giảm sút
nhu cầu đối với hàng nội địa, chèn ép sản xuất trong nớc, làm gián đoạn thị tr-
ờng.
2
3-/ Hậu quả của giảm phát.
Bên cạnh khía cạnh tích cực của giảm phát là phản ánh sự tiến bộ trong công
nghệ sản xuất thì nỗi lo do các tác động xấu của giảm phát lớn hơn nhiều: nhu cầu
tiêu dùng suy giảm, năng lực sản xuất giảm giảm phát cũng làm tăng gánh nặng
của các khoản nợ của từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Đối với một nền kinh tế có hiện tợng giảm phát, điều dễ nhận thấy là tất cả
các khâu của quá trình tái sản xuất gồm: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu
dùng đều ở trong trạng thái trì trệ. Các doanh nghiệp chỉ sản xuất cầm chừng,
sản phẩm làm ra ứ đọng. Sức cạnh tranh trên thị trờng yếu ớt.
Giảm phát sẽ gây cho nền kinh tế những tác hại to lớn. Ngời tiêu dùng sẽ trì
hoãn việc mua hàng với hy vọng giá ngày mai sẽ thấp hơn giá hôm nay. Tâm lý
trì hoãn mua hàng sẽ làm giảm mức cầu xã hội, buộc các nhà sản xuất phải tiếp
tục giảm giá hàng. Nếu tình hình ấy kéo dài, nhiều doanh nghiệp sẽ phải ngừng
sản xuất hoặc sập tiệm. Giá hàng hạ làm tăng mức d nợ thực tế của các doanh
nghiệp không trả đợc nợ ngân hàng, kéo theo ngân hàng đến bờ phá sản. Giá hạ
còn làm cho các khoản thu ngân sách giảm sút, làm cho tốc độ tăng trởng kinh tế
chậm lại. Nguy hại hơn cả là giảm phát có thể vô hiệu hoá chính sách lãi suất,
một công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
II-/ Kích cầu - nguyên nhân và giải pháp:
1-/ Kích cầu là gì?
Trớc khi trả lời câu hỏi này, ta cần phân biệt đợc cung cầu hàng hoá, dịch
vụ với cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế thị trờng.
Cung hàng hoá và dịch vụ là kết quả hoạt động kinh doanh của các ngành
sản xuất hàng hoá và dịch vụ cung ứng cho thị trờng. Nếu xét riêng từng loại
hàng hoá, dịch vụ, thì chỉ gọi là cung hàng hoá, dịch vụ cá biệt. Nếu xét trên
tổng thể cả nền kinh tế, thì gọi là tổng cung hàng hoá và dịch vụ.
Cầu hàng hoá và dịch vụ là sức tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có khả năng
thanh toán bằng tiền. Cũng nh trên, có thể xét cầu từng hàng hoá, dịch vụ cá biệt
và có thể xét trên tổng thể nền kinh tế gọi là tổng cầu.
Cung cầu tiền tệ lại có một sắc thái khác. Cung tiền tệ lớn hơn cầu tiền tệ có
nghĩa là trên thị trờng thừa tiền, thừa sức mua có khả năng thanh toán, nhng cầu
tiền tệ thực tế lại bé hơn. Cung tiền tệ lớn hơn cầu tiền tệ thờng gắn chặt và nói
đúng hơn là do lạm phát gây ra, lúc đó tiền mất giá, giá cả các hàng hoá dịch vụ
tăng lên.
Ngợc lại, khi cầu tiền tệ lớn hơn cung tiền tệ thì nền kinh tế sẽ xảy ra giảm
phát, tiền tệ lên giá và giá cả hàng hoá, dịch vụ bị tụt xuống.
Giữa cung cầu hàng hoá, dịch vụ và cung cầu tiền tệ có sự khác nhau, nhng
lại gắn chặt với nhau.
Tổng cung hàng hoá, dịch vụ lớn hơn tổng cầu hàng hoá dịch vụ có nghĩa là
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ thừa hay nói đúng hơn là tổng sức mua có khả
năng thanh toán bằng tiền và khi tổng cung bé hơn tổng cầu thì ngợc lại. Nói đến
3
sản xuất thừa cũng cần đợc hiểu là: có thể sản phẩm tạo ra nhiều hơn cái mà con
ngời cần, hoặc là sản phẩm tạo ra không đáp ứng đợc nhu cầu thị hiếu, giá cả,
chất lợng của khách hàng trong và ngoài nớc.
Vậy kích cầu là gì ? Nói một cách đơn giản là kích thích nhu cầu tiêu dùng
hàng hoá và dịch vụ tạo ra. Nói theo mối quan hệ cung cầu hàng hoá, dịch vụ với
cung cầu tiền tệ, thì kích cầu chính là giải pháp nâng sức mua có khả năng thanh
toán bằng tiền của nền kinh tế nói chung và của nhân dân nói riêng.
Kích cầu hàng hoá và dịch vụ phải đợc thực hiện đối với cả hàng hoá là t
liệu sản xuất, hàng hoá là t liệu tiêu dùng, cả dịch vụ sản xuất và dịch vụ phục vụ
đời sống con ngời về mọi mặt. Kích cầu hàng hoá, dịch vụ cho sản xuất là kích
thích đầu t vốn vào xây dựng cơ sở vật chất và tăng vốn lu động vào sản xuất
kinh doanh, trong đó chủ yếu là sức mua về các t liệu sản xuất. Kích cầu về hàng
hoá và dịch vụ cho đời sống con ngời là kích thích sức mua để nâng mức tiêu
dùng, trong đó chủ yếu là hàng hoá tiêu dùng.
2-/ Nguyên nhân phải kích cầu:
Trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế đã có nhiều lí luận về kích
cầu để giải quyết tình trạng khủng hoảng kinh tế kể từ khi nổ ra cuộc khủng
hoảng kinh tế đầu tiên ở nớc Anh vào năm 1825.
Thomas Robert Malthus (1766-1834) là nhà kinh tế học ngời Anh thuộc
trào lu trọng cầu. Ông cho rằng khủng hoảng kinh tế xảy ra là do có sự giảm sút
trong cầu, bởi vì, nhà t bản thì tiết kiệm quá mức, còn công nhân thì tiền lơng
không đủ để tiêu dùng hết hàng hoá sản xuất ra. Muốn thoát khỏi khủng hoảng
thì phải kích cầu.
Jean Charles Leonard Simonde de Sismondi (1773-1842) là một nhà kinh tế
ngời Pháp thuộc trờng phái kinh tế chính trị tiểu t sản. Khi phân tích khủng hoảng
kinh tế, ông đứng trên quan điểm trọng cầu. Ông cho rằng, khủng hoảng kinh tế
xảy ra là do tiêu dùng lạc hậu so với sản xuất, bởi vì có sự phân phối thu nhập
không công bằng. Ngoài ra tiêu dùng sụt giảm còn do: (1) Sự phá sản của những
ngời sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, tiểu thơng, tiểu chủ ) khiến cho thu
nhập của họ giảm sút nên tiêu dùng của họ cũng giảm theo; (2) Tình trạng thất
nghiệp càng gia tăng khiến cho thu nhập của ngời bị thất nghiệp lẫn ngời tại nghiệp
bị giảm thấp, do đó mức cầu của họ cũng bị sụt giảm; (3) Những nhà t bản lại có
khuynh hớng gia tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng vì muốn tích luỹ t bản nhiều
hơn. Từ những phân tích trên ông cho rằng muốn thoát khỏi khủng hoảng kinh tế
thì phải tăng mức cầu (kích cầu).
Phát triển lý thuyết trọng cầu là nhà kinh tế học nổi tiếng ngời Anh - John
Maynard Keynes (1883-1946). Với phơng pháp tiếp cận vi mô khi phân tích các
vấn đề của nền kinh tế, Keynes đa ra khái niệm cầu tổng hợp (tổng cầu) và cung
tổng hợp (tổng cung) và cho rằng trong nền kinh tế không có một sự tự quân
bình giữa tổng cung và tổng cầu, không thể có một sự tự điều chỉnh trong nền
kinh tế. Theo ông, trong quá trình vận động của nền kinh tế, tổng cầu thờng
4
không theo kịp tổng cung, mà tổng cầu là nhân tố tích cực, nó quyết định tổng
cung chứ không phải ngợc lại. Việc tổng cầu không theo kịp tổng cung ảnh h-
ởng đến tình hình sản xuất, thu hẹp đầu t và làm gia tăng thất nghiệp. Để giải
quyết tình trạng này cần phải có sự tác động của nhà nớc để làm gia tăng tổng
cầu, tổng cầu gia tăng sẽ làm tổng cung tăng theo, khối lợng công ăn việc làm
cũng tăng, thu nhập xã hội cũng tăng, nền kinh tế tăng trởng và sẽ thoát khỏi tình
trạng suy thoái, trì trệ.
Giảm phát xảy ra, nền kinh tế cung ứng cha đủ lợng tiền tệ cần thiết cho lu
thông hàng hoá và dịch vụ ở thị trờng trong nớc. Điều cần làm là phải kích cầu
tiêu dùng và kích cầu đầu t để tăng lợng tiền cung ứng cho lu thông hàng hoá và
dịch vụ trong nớc.
Giảm phát đợc hiểu là việc giảm liên tục mức giá chung của hàng hoá và dịch
vụ. Từ các hậu quả của giảm phát ta thấy việc kích thích nhu cầu tiêu dùng hàng
hoá và dịch vụ tạo ra của dân chúng (kích cầu) là biện pháp tối u để giúp khôi phục
lại nền kinh tế.
3-/ Các biện pháp kích cầu:
- Quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển:
Theo Malthus, phải phục hồi mức cầu của những ngời không sản xuất nh:
viên chức, quân nhân, thầy tu, là những ngời không đè nặng lên chi phí sản
xuất của các nhà kinh doanh. Ông gọi đây là lớp ngời mua thứ ba, ngoài nhà t
bản và công nhân, để chống khủng hoảng sản xuất thừa. Lý luận của Malthus đ-
ợc J.M.Keynes đánh giá rất cao và coi nh là ngời mở đầu cho chủ nghĩa trọng
cầu. Nhng quan điểm trên của Malthus lại bị Sismondi phê phán.
Theo Sismondi, cần phải có lớp ngời mua thứ ba để tăng sức mua của xã
hội. Nhng khác với Malthus, lớp ngời thứ ba của Sismondi là những ngời sản
xuất nhỏ, chứ không phải là những ngời phi sản xuất. Nh vậy việc tăng thu nhập
cho nông dân, thợ thủ công, tiểu thơng, tiểu chủ, là một điều cần thiết để tăng
cầu trong nền kinh tế. Muốn vậy, theo Sismondi, nhà nớc phải can thiệp để tạo
công ăn, việc làm cho họ, hạn chế sự cạnh tranh gây phá sản hàng loạt cho ngời
sản xuất nhỏ, thực hiện sự phân phối công bằng hơn giữa các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội.
Theo Keynes, việc kích cầu là vai trò của nhà nớc. Điều này trớc đây
Malthus và Sismondi cũng đã đề cập đến khi nói lên một cách dè dặt về hiệu quả
của bàn tay vô hình của A.Smith, nhng không phân tích kỹ nh Keynes.
Trong lý thuyết của mình Keynes đa ra mô hình số nhân đầu t để chứng
minh cho việc gia tăng đầu t có tác động khuếch đại thu nhập tăng lên số nhân lần.
Đóng vai trò quan trọng trong số nhân là khuynh hớng tiêu dùng cận biên (MPC-
Marginal Propensity to Consume) và khuynh hớng tiết kiệm cận biên (MPS-
Marginal Propensity to Save). Đó là những khuynh hớng tâm lý xã hội thể hiện mối
quan hệ giữa gia tăng tiêu dùng và gia tăng tiết kiệm so với gia tăng thu nhập.
Khuynh hớng tiêu dùng cận biên càng tăng thì số nhân đầu t càng lớn, do đó độ
khuếch đại của gia tăng đầu t đối với thu nhập, sản lợng và công ăn việc làm càng
lớn và ngợc lại, khuynh hớng tiết kiệm cận biên càng tăng thì sự dò dỉ trong chi tiêu
5
càng lớn nên số nhân càng nhỏ, do đó độ khuếch đại thu nhập, sản lợng, công ăn
việc làm của gia tăng đầu t càng nhỏ. Có thể khái quát mô hình số nhân đầu t của
Keynes bằng các công thức sau:
k =
( )
IYf
eq
;
Từ đó: Y = k . I mà trị số k đợc xác định bằng công thức:
k =
( ) ( )
MPSf
eq
MPCf
eq
;11;1
=
Trong đó:
- k : số nhân đầu t
- Y : gia tăng thu nhập, sản lợng
- I : gia tăng đầu t.
- MPC : khuynh hớng tiêu thụ cận biên =
( )
d
YCf
eq
;
với C là gia tăng tiêu
dùng còn Y
d
là gia tăng thu nhập đợc quyền sử dụng.
- MPS : khuynh hớng tiết kiệm cận biên =
( )
d
YSf
eq
;
với S là gia tăng tiết
kiệm.
Theo Keynes, muốn đầu t có sự gia tăng thì nhà đầu t phải có lợi nhuận tăng
thêm khi đầu t thêm. Ông gọi đó là thu hoạch tơng lai của t bản. Thu hoạch tơng
lai là thu nhập của doanh nhân sau khi trừ đi phí tổn thay thế (phí tổn thay thế là
giá cung của t bản, đó chính là lãi suất). Quan hệ giữa thu hoạch tơng lai và phí
tổn thay thế để sản xuất thêm một đơn vị sản lợng đợc gọi là hiệu quả cận biên
của t bản (the marginal productivity of capital). Các nhà đầu t khi quyết định một
cuộc đầu t nào đều so sánh hiệu quả cận biên của t bản với lãi suất. Nếu chừng nào
hiệu quả cận biên của t bản còn lớn hơn lãi suất thì các nhà đầu t còn tiếp tục đầu t,
mở rộng sản xuất làm thu nhập gia tăng, sản lợng gia tăng, công ăn việc làm gia
tăng và ngợc lại, khi hiệu quả cận biên của t bản bằng hoặc thấp hơn lãi suất thì tình
hình đầu t sẽ sụt giảm, mà điều đó thì không có lợi cho nền kinh tế. Keynes cho
rằng, hiệu quả cận biên của t bản có xu hớng giảm sút, ảnh hởng xấu đến tình hình
đầu t và làm cho nạn thất nghiệp tăng cao. Từ đó, cần phải giảm lãi suất để kích
thích đầu t. Muốn giảm lãi suất thì nhà nớc phải dùng chính sách tăng cung tiền tệ.
Theo Keynes, khối lợng tiền mặt trong lu thông càng nhiều hơn nhu cầu về
tiền mặt thì sẽ làm cho lãi suất giảm xuống. Keynes chủ trơng lạm phát là quốc
sách để thúc đẩy nền kinh tế tăng trởng, giải quyết nạn thất nghiệp, bởi vì thất
nghiệp là căn bệnh nguy hiểm cho nền kinh tế chứ không phải lạm phát. Ông cho
rằng phát hành tiền càng nhiều sẽ làm thu nhập bằng tiền tăng lên, cầu về hàng hoá
tiêu dùng sẽ tăng, giá cả sẽ tăng, nhng giá đầu t (lãi suất) lại giảm và do đó sẽ mang
lại nhiều lợi nhuận cho nhà đầu t nên họ gia tăng đầu t. Vậy lạm phát tăng, dẫn đến
cầu gia tăng, sản xuất gia tăng để thoả mãn cầu, sản xuất tăng sẽ giải quyết đợc nạn
thất nghiệp. Công ăn việc làm gia tăng nên thu nhập xã hội gia tăng, cầu tổng hợp
gia tăng, cung tổng hợp, do đó cũng gia tăng làm cho nền kinh tế cũng tăng trởng
6
theo. Đó là hiệu ứng số nhân của Keynes, và đợc các nhà kinh tế đánh giá nh một
mô hình kinh điển về số nhân.
- Kế tục quan điểm trọng cầu, các nhà kinh tế học hiện đại đã phát triển lý
thuyết tổng cầu của Keynes. Theo họ, tổng cầu (AD) bao gồm các thành phần cơ
học sau: chi tiêu của cá nhân hộ gia đình (C), đầu t t nhân của các doanh nghiệp
(I), chi tiêu của chính phủ (G), và xuất khẩu ròng (NX-là hiệu số của xuất khẩu và
nhập khẩu). Nh vậy, AD = C+I+G+NX. Thật sự thì các thành tố trên của tổng cầu
đã đợc Keynes đề cập đến rồi và họ chỉ làm rõ thêm mà thôi. Để tăng tổng cầu thì
có thể tác động làm tăng các yếu tố của nó, nghĩa là, có thể gia tăng tiêu dùng, gia
tăng đầu t, gia tăng chi tiêu của chính phủ và gia tăng xuất khẩu ròng (tăng xuất
khẩu và giảm nhập khẩu). Mô hình số nhân đầu t của Keynes cũng đợc phát triển
thành mô hình số nhân của tổng cầu, nghĩa là hiệu ứng số nhân có ý nghĩa đối với
tất cả các thành phần của tổng cầu, chứ không phải chỉ có đối với đầu t. Có thể
khái quát lý luận trên bằng các công thức sau: k =
( )
ADYf
eq
;
do đó Y = k .
AD. ở đây trị số của k đợc xác định bằng công thức sau:
k =
( )( )
ADMPMYMPItMPCf
eq
+ ;11;1
Trong đó:
- t: thuế suất là tỷ lệ phần trăm của lợng thuế tính trên thu nhập (Y)
- MPI: khuynh hớng đầu t cận biên =
( )
YIf
eq
;
với I là gia tăng đầu t
còn Y là gia tăng thu nhập.
- MPM: khuynh hớng nhập khẩu cận biên =
( )
YMf
eq
;
với M là gia tăng
nhập khẩu.
Mẫu số trong số nhân (k) đợc gọi là suất rò rỉ cận biên. Nh vậy, nếu suất rò
rỉ cận biên càng nhỏ khi khuynh hớng tiêu dùng cận biên càng tăng, thuế suất
càng giảm, khuynh hớng đầu t cận biên càng tăng và khuynh hớng nhập khẩu
cận biên càng giảm thì số nhân càng lớn, độ khuếch đại thu nhập của gia tăng
tổng cầu sẽ càng lớn và ngợc lại, nếu suất rò rỉ cận biên càng lớn khi khuynh h-
ớng tiêu dùng cận biên càng giảm, thuế suất càng tăng, khuynh hớng đầu t cận
biên càng giảm và khuynh hớng nhập khẩu cận biên càng tăng thì số nhân sẽ
càng nhỏ, độ khuếch đại thu nhập của tổng cầu sẽ càng nhỏ.
Từ những lý thuyết cơ bản trên, chúng ta thấy rằng việc gia tăng thu nhập,
sản lợng, công ăn việc làm phải có những giải pháp nhằm làm tăng độ lớn của số
nhân (k) cũng nh các giải pháp làm tăng tổng cầu (AD = C+I+G+NX). để
gia tăng tổng cầu cần kích thích sự gia tăng tiêu dùng, gia tăng đầu t, gia tăng chi
tiêu của chính phủ và đẩy mạnh xuất khẩu so với nhập khẩu. Để giảm suất rò rỉ
cận biên thì cần kích thích khuynh hớng tiêu dùng biên, đầu t biên và giảm thuế
suất cũng nh giảm khuynh hớng nhập khẩu biên.
Nh vậy, để kích cầu ta cần thực hiện một số biện pháp sau:
7
+ Dựa vào phơng trình Y
d
= Y - T
d
- T
R
Y
d
: thu nhập có thể sử dụng
Y : thu nhập quốc dân
T
d
: thuế trực thu
T
R
: các khoản trợ cấp
Muốn kích thích tiêu dùng thì phải tăng thu nhập có thể sử dụng. Mà muốn
tăng Y
d
thì phải giảm T
d
. Vậy để tăng thu nhập đợc quyền sử dụng của các tầng
lớp dân c thì phải giảm thuế thu nhập và các khoản đóng góp khác.
Để kích cầu còn cần giảm các khoản thuế gián thu nhằm giảm giá bán của
hàng hoá phù hợp với sức mua còn thấp của thị trờng.
+ Đối với chính sách lu thông tiền tệ, tín dụng ngân hàng. Trong điều kiện
một nền kinh tế đang có giảm phát thì Nhà nớc nên dùng chính sách tiền tệ mở
rộng nhằm giảm lãi suất để kích thích đầu t và tiêu dùng. Lãi suất hạ, nhà đầu t
sẽ thấy rằng việc gửi tiền trong ngân hàng với lãi suất thấp không có lợi bằng
việc đầu t vào sản xuất nên họ sẽ mở rộng đầu t, tạo thêm công ăn việc làm, thu
nhập gia tăng. Lãi suất gửi tiền thấp, ngời dân sẽ mở rộng tiêu dùng vì việc tiêu
dùng lúc này có lợi hơn là việc gửi tiền ở các tài khoản tiết kiệm. Nh vậy, cần
thực hiện các giải pháp nhằm tăng khối lợng tiền trong lu thông nh: hạ lãi suất
chiết khấu, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành thêm tiền vào lu thông để thu
nhập bằng tiền cho xã hội Tất cả những việc này sẽ làm lạm phát gia tăng, nh-
ng nó lại kích thích sản xuất tăng trởng, công ăn việc làm gia tăng, tiêu dùng gia
tăng và nền kinh tế tăng trởng theo. Vấn đề đặt ra ở đây là xác định tỷ lệ lạm
phát vừa phải, đừng để lạm phát tăng cao tác động xấu đến nền kinh tế.
+ Đối với chính sách thơng mại: cần tăng xuất khẩu hàng trong nớc, giảm dần
nhập khẩu. Tăng xuất khẩu có tác động tăng việc làm, tăng thu nhập, tăng tiêu dùng
và kinh tế nội địa phát triển. Muốn vậy Nhà nớc phải có chính sách bảo hộ xuất
khẩu, giảm thuế xuất khẩu (có thể giảm xuống bằng 0%).
+ Nhà nớc phải tăng cờng đầu t trong nớc.
+ Ngoài các giải pháp nêu trên còn một vấn đề quan trọng nữa là cần
khuyến khích tâm lý tiêu dùng hàng nội địa. Bởi vì nếu khuyến khích tiêu dùng
mà ngời dân chỉ thích tiêu dùng hàng ngoại nhập thì lại không có tác động làm
gia tăng sản xuất trong nớc, tăng công ăn việc làm trong nớc mà ngợc lại nó làm
sản xuất trong nớc bị thu hẹp và công ăn việc làm bị thu hẹp, thu nhập sẽ bị giảm
thấp.
8
phần II
Thực trạng giảm phát ở Việt Nam - nguyên nhân
và kinh nghiệm từ một số nớc
I-/ Kinh nghiệm từ các nớc trong khu vực:
1-/ Kích cầu ở Trung Quốc - bài học cho Việt Nam
Bớc sang năm 1998, Trung Quốc chịu sức ép ngày càng gia tăng và rõ nét
của khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, xuất hiện nhiều mầm mống của sự
tăng trởng không bền vững. Đầu t nớc ngoài, xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm,
sản xuất trong nớc rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hoá ứ đọng nhiều, sức tiêu thụ
giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh. Tính đến hết tháng 7 - 1999 giá hàng tiêu
dùng tiếp tục giảm sang tháng thứ 16 nếu tính 6 tháng đầu năm nay thì giá bán lẻ
giảm 3,2%. Mức tăng trởng kinh tế đang chậm lại, nhập khẩu phát triển 16,6%
trong khi đó xuất khẩu giảm 4,6%. Đầu t nớc ngoài so 4 tháng đầu năm 98 thì
đầu t nớc ngoài giảm 12,6%. Trong khi đó Trung Quốc lại muốn duy trì sự ổn
định của đồng nhân dân tệ. Đứng trớc sức ép từ trong và ngoài nớc nêu trên.
Trung Quốc đã buộc phải lựa chọn những giải pháp tháo gỡ, chủ yếu là kích cầu
với quy mô lớn trong cả nớc để đảm bảo tăng trởng GDP 8% nh mục tiêu đã đề
ra trong năm 1999. Chơng trình kích cầu của Trung Quốc gồm 2 vấn đề lớn là
kích thích nhu cầu đầu t và tiêu dùng trong nớc và khuyến khích đầu t nớc ngoài
và hoạt động xuất nhập khẩu. Cụ thể:
- Kích thích nhu cầu đầu t và tiêu dùng trong nớc:
+ Chơng trình kích cầu với quy mô lớn của Trung Quốc đợc bắt đầu từ công
nghiệp xây dựng với điểm khởi đầu là xây dựng nhà ở tháng 6 năm 1998 Trung
Quốc quyết định chấm dứt bao cấp nhà ở cho công nhân viên chức và thực hiện
chính sách thơng mại hoá nhà ở. Chính phủ Trung Quốc dành một khoản 12 tỷ
USD để xây dựng nhà ở cho công nhân viên chức có nhu cầu mua trớc trả góp
sau. Đến tháng 7 năm 1999 Trung Quốc đã đa ra một loạt các biện pháp kích
thích tài chính nhằm khuyến khích các nhà kinh doanh bất động sản đầu t vào
khu vực nhà ở nh miễn thuế đánh vào các công ty nớc ngoài đang tìm cách đầu t
vào các dự án nhà ở hoặc văn phòng cao cấp, hoặc các nhà đầu t sẽ đợc vay ngân
hàng với lãi suất thấp nhất có thể. Bên cạnh đó Trung Quốc đã đẩy mạnh t nhân
hoá việc xây dựng nhà cửa và coi xây dựng nhà ở mới là động lực mới nhằm kích
thích tăng trởng kinh tế, cùng với việc cải cách chế độ nhà ở, Trung Quốc đã đẩy
mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng và chấp nhận với quy mô lớn. Trong năm 1998, các
ngân hàng đã cho vay 100 tỷ nhân dân tệ dùng vào việc đầu t xây dựng cơ bản.
Trong những tháng cuối năm 1998 Trung Quốc đã phát hành thêm 100 tỷ nhân
dân tệ để hỗ trợ tập trung vốn xây dựng hạ tầng cơ sở. Hàng loạt các chơng trình
đờng xá, cầu cống đã đợc khởi công xây dựng. Có thể nói trong những tháng
cuối năm 1998 và đầu năm 1999, đẩy mạnh xây dựng hạ tầng cơ sở đã đợc Trung
Quốc coi nh đầu tầu để kích cầu trong nớc, lôi kéo các ngành khác cùng phát
triển.
9
+ Song song với việc đẩy mạnh đầu t từ ngân sách Nhà nớc Trung Quốc đã
áp dụng hàng loạt các biện pháp về tài chính - tiền tệ nhằm kích thích đầu t vào
sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của ngời dân, mà hai biện pháp chính là điều
chỉnh lãi suất và hớng ngời dân đầu t vào thị trờng chứng khoán. Chỉ trong vòng
3 năm từ 1996 - 1999 Trung Quốc đã 7 lần hạ lãi suất. Đặc biệt trong năm 1998
Trung Quốc đã 3 lần giảm lãi suất. Việc giảm lãi suất liên tục nh vậy có tác dụng
bơm tiền gửi trong hệ thống ngân hàng và kích thích đầu t của t nhân và doanh
nghiệp. ở Trung Quốc, tình trạng tiền gửi trong ngân hàng rất lớn song ngân
hàng lại không dám cho vay hoặc đầu t vì sợ không thu hồi đợc vốn. Do đó giảm
lãi suất ngân hàng cùng với đánh thuế lãi tiền gửi tiết kiệm sẽ không khuyến
khích ngời dân tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng mà dùng tiền đó để đầu t vào sản
xuất, tiêu dùng, mua nhà ở
+ Trung Quốc đã liên tục đa ra các biện pháp nhằm làm sôi động thị trờng
chứng khoán. Mục tiêu là hớng ngời dân đầu t vào cổ phiếu và thông qua đó gián
tiếp góp vốn cho doanh nghiệp. Các biện pháp đó cụ thể là:
Cho các nhà đầu t nớc ngoài đầu t vào thị trờng chứng khoán, cho phép các
nhà môi giới phát triển quy mô vốn trên thị trờng thứ cấp.
Giảm thuế giao dịch trên thị trờng chứng khoán.
Cho phép các công ty t nhân phát hành cổ phiếu B bằng ngoại tệ mạnh
và chào bán cho ngời nớc ngoài mà trớc đây chỉ có các doanh nghiệp
Nhà nớc mới đợc phép phát hành cổ phiếu B.
Những biện pháp trên đã thu hút một lợng tiền mặt đáng kể vào thị tr-
ờng chứng khoán.
+ Một biện pháp nữa mà Trung Quốc áp dụng để kích thích nhu cầu tiêu dùng
trong nớc là tăng lợng hàng loạt cho cán bộ công nhân viên chính phủ Trung Quốc
đã chi một khoản tiền khổng lồ và hy vọng có thể kích thích nhu cầu tiêu dùng
trong nớc. Để có khoản tiền trên, Trung Quốc quyết định phát hành 60 tỷ nhân dân
tệ công trái trong đó 30 tỷ nhân dân tệ dùng cho tăng lơng.
- Khuyến khích đầu t nớc ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu:
Song song với việc khuyến khích mở rộng nhu cầu đầu t và tiêu dùng trong
nớc Trung Quốc ra sức thu hút tối đa nguồn vốn nớc ngoài. Trung Quốc khuyến
khích thơng nhân nớc ngoài đầu t vào nông nghiệp, kỹ thuật cao, xây dựng cơ sở
hạ tầng môi trờng sinh thái và các ngành xuất khẩu thu ngoại tệ. Phát triển các
dự án thu hút ngời lao động. Khuyến khích các công ty xuyên quốc gia đầu t.
Tạo điều kiện cho công ty nớc ngoài sử dụng ngoại tệ bằng nới lỏng những hạn
chế về ngoại hối. Đồng thời Trung Quốc thực hiện từng bớc tự do hoá khu vực tài
chính tiền tệ thông qua các biện pháp nh cho phép ngân hàng nớc ngoài mở rộng
kinh doanh đồng nhân dân tệ, cho phép các ty nớc ngoài kinh doanh chứng
khoán đợc tham gia trong thị trờng Trung Quốc Có thể nói khuyến khích đầu t
nớc ngoài cũng là một cách để Trung Quốc phát triển càng thu hút vốn đầu t cho
sản xuất.
10
Bên cạnh đó Trung Quốc cũng hết sức nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu bằng các
biện pháp nh nâng mức hoàn thuế, tăng cờng tín dụng xuất khẩu, duy trì tỷ giá
đồng nhân dân tệ.
Chơng trình kích cầu với quy mô lớn của Trung Quốc đã duy trì đợc tốc độ
tăng trởng tơng đối cao. Nhu cầu đầu t và tiêu dùng đều tăng lên. Nhờ chơng
trình này Trung Quốc đã giảm thiểu tối đa tác động, áp lực từ bên trong và bên
ngoài nền kinh tế, duy trì sự ổn định của đồng NDT.
2-/ Kinh nghiệm từ các nớc khác.
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, tốc độ tăng trởng
kinh tế của hầu hết các nớc trong khu vực đều giảm sút nghiêm trọng, đầu t
giảm, sản xuất thu hẹp, sức mua kém Để thoát khỏi tình trạng trên, một trong
số các giải pháp mà các nớc đều đã áp dụng là kích cầu trong nớc cả sản xuất lẫn
tiêu dùng để không lệ thuộc vào thị trờng bên ngoài.
- ở Thái Lan: Chính phủ đã đa ra nhiều chơng trình trọn gói với giá trị lên
đến vài tỷ USD để thúc đẩy kinh tế, kích thích tiêu dùng. Để giảm giá cả hàng
hoá, tăng sức mua của dân chúng, chính phủ Thái Lan sẵn sàng chấp nhận giảm
ngân sách 1,8 tỷ USD để giảm thuế GTGT đối với một số ngành từ 10% xuống
7% trong 2 năm (ban đầu từ 1/4/1999 đến 31/3/2000). Bên cạnh đó chính phủ
cũng quy định giảm giá điện, dầu khí đốt, (vì những khoản này, ngân sách giảm
700 triệu USD/năm) giảm thuế thu nhập cá nhân để tăng sức mua để thu hút
vốn nhàn rỗi trong dân, chính phủ đã phát hành nhiều đợt trái phiếu Nhờ những
biện pháp kích cầu trên mà Thái Lan đã giải quyết đợc hàng triệu lao động, tiêu
dùng nhiều mặt hàng phát triển hơn, kích thích sản xuất tăng trởng - số lợng xe
hơi bán ra trên thị trờng năm 1998 tăng vọt, số lợng ngời Thái đi du lịch sang
Mỹ, sang Tây Âu tăng gấp đôi
- ở Nhật Bản: Chính phủ đã thực hiện cắt giảm thuế và tung ra các chơng
trình hàng trăm tỷ USD để kích thích tiêu dùng. ở Nhật ngời ta thực hiện nhiều
chơng trình Marketing đặc biệt để tăng lợng sản phẩm tiêu thụ nh những đợt
giảm giá trong tháng, trong tuần, những lời quảng cáo rất hấp dẫn Anh là gì?
Chúng tôi sẽ nói cho anh biết phải tiêu dùng hàng gì? Tất cả nhằm mục đích
thúc đẩy ngời tiêu dùng chi sài nhiều hơn nữa. Nhờ những biện pháp đó mà trong
quý I/1999 tiêu dùng của Nhật Bản đã tăng 2,2%. Sức tiêu thụ một số mặt hàng
đắt tiền nh nhà ở, ô tô, máy tính đã tăng 1,2% sau 4 quý giảm liên tục.
- ở Philipin : Chính phủ lập quỹ phát triển cơ sở hạ tầng, tiếp tục thực hiện
lãi suất cho vay thấp để khuyến khích sản xuất, khuyến khích tiêu dùng
II-/ Thực trạng và nguyên nhân gây ra giảm phát ở Việt Nam
1-/ Thực trạng nền kinh tế Việt Nam:
Là một nớc có nền kinh tế đang phát triển, hệ thống tài chính tín dụng đang
còn non trẻ. Việt Nam cũng không tránh khỏi vòng cuốn lốc của cơn bão khủng
hoảng kinh tế diễn ra vào tháng 7 năm 1997 vừa qua, trên phạm vi toàn cầu. Tuy
mức độ ảnh hởng không to lớn nh nhiều nớc song hậu quả của nó đối với nền
kinh tế rất nặng nề. Để thoát khỏi tình trạng trên Đảng và Nhà nớc cùng toàn thể
11
nhân dân cả nớc đang từng bớc khắc phục khó khăn bằng các biện pháp, chính
sách kinh tế vĩ mô chống suy giảm kinh tế đang xảy ra, ngăn chặn giảm phát.
Xét trên toàn cảnh, tình hình suy giảm kinh tế là rõ rệt, nổi cộm lên là vấn
đề giảm phát đang liên tục xảy ra và kéo dài gây ra nhiều hậu quả làm cản trở
tăng trởng kinh tế, làm cản trở quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của Việt
Nam.
Sự suy giảm kinh tế diễn ra liên tục trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực: công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, Chỉ số GDP năm 1999 chỉ tăng 4,7-5%, đây là tỷ
lệ thấp nhất trong mời năm trở lại đây. Tốc độ tăng trởng kinh tế trong 6 tháng
đầu năm 99 chỉ đạt 4,3% cũng là mức thấp nhất trong vòng 6, 7 năm trở lại đây
không bằng đợc mục tiêu 5-6% đã đợc đề ra hồi đầu năm 1999. Cụ thể trong
từng ngành:
Nông nghiệp:
Trong lĩnh vực này những năm gần đây nớc ta đã đạt đợc những con số
đáng mừng. Với mức tăng trởng 5%, sản xuất nông nghiệp và đặc biệt là sản
xuất lơng thực đợc mùa lớn, đạt 31 triệu tấn năm 1999. Tổng sản lợng lơng thực
trong năm 1999 đạt 33,8 triệu tấn trong 2 triệu so với năm 1998. Xuất khẩu gạo
đạt mức kỷ lục 4,3 triệu tấn. Có thể nói sản xuất lơng thực, thực phẩm trong năm
1999 đã đảm bảo an toàn lơng thực, thực phẩm và đạt mức xuất khẩu cao. Chăn
nuôi năm 1999 tăng từ 100 đến 106% so với 1998. Tuy nhiên sức tiêu thụ của
nhiều cây công nghiệp và chăn nuôi thấp do giá cả cao, chất lợng cha đáp ứng đ-
ợc yêu cầu.
Công nghiệp:
Năm 1999 giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10,3% so với năm 1998. Trong
đó doanh nghiệp Nhà nớc tăng 4,6%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 8,2%,
khu vực doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tăng 19,1%. Một số ngành có tốc
độ tăng trởng cao nh dầu thô tăng 20,5%, chế biến thuỷ sản tăng 13,8%, sứ vệ
sinh tăng 39,8%, may mặc tăng 13%, sản xuất động cơ diegen tăng 2 lần, sản
xuất xe đạp tăng 22%. Bên cạnh đó là hầu hết các ngành đều giảm hoặc tăng tr-
ởng chậm, đáng chú ý là sản xuất ti vi giảm 33,9%, so với năm 1998 than giảm
19,4%, máy công cụ giảm 23,7%.
Giao thông vận tải:
Mời tháng đầu năm 1999 khối lợng vận chuyển hàng hoá và hành khách có
mức tăng trởng tơng ứng 6,6% và 4,3% vận chuyển hàng hoá theo đờng hàng
không tiếp tục giảm 8,5% so với cùng kỳ năm 1998.
Tài chính tiền tệ:
- Trong 9 tháng đầu năm 1999 thu ngân sách tăng 6% so với cùng kỳ năm tr-
ớc, trong đó thu thuế và phí bằng 78,2% dự toán năm và giảm 8,5% so với cùng kỳ.
Chi ngân sách Nhà nớc đến cuối tháng 9 năm 1999 tăng 6,5%.
- Trong hệ thống ngân hàng: năm 1999, ngoài công tác điều hành tỷ giá,
quản lý ngoại hối ngân hàng Nhà nớc đã chủ động điều chỉnh giảm trần lãi suất
12
4 lần (từ 1,25%/tháng xuống 0,85%/tháng ở thành thị) giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc. Tuy nhiên tổng d nợ vẫn ở mức thấp lợng vốn tồn đọng trong hệ thống
ngân hàng là lớn.
Xuất nhập khẩu: Tỷ lệ nhập siêu tuy ở mức thấp song đó là dấu hiệu
biểu hiện một cách rõ rệt sự chững lại của nền kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu 10
tháng đầu năm đạt 9.127 triệu USD tăng 18% so với cùng kỳ. Kim ngạch nhập
khẩu 10 tháng đạt 9.166 triệu USD giảm 3,6% so với năm 1998.
Lĩnh vực đầu t : (là lĩnh vực có tốc độ giảm nhanh.) Vốn đầu t xây dựng cơ
bản của Nhà nớc, theo ớc tính của Tổng cục thống kê, năm 1999 chỉ đạt 97,2% kế
hoạch năm. Đầu t trực tiếp nớc ngoài ớc tính đến tháng 10 mới có 191 dự án đợc
cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký 1.457 triệu USD. Giảm 14% về số dự án và
giảm 38% vốn đăng ký so với cùng kỳ. Tình hình đầu t sụt giảm gây ra nhiều tác
động xấu đến nền kinh tế Việt Nam nh hiện tợng giảm phát liên tục, giảm tốc độ
tăng trởng kinh tế
Lực l ợng lao động:
Hiện nay cả nớc có khoảng trên 40 triệu lao động, trong đó lao động nông
thôn khoảng 30 triệu chiếm 75% tổng lao động cả nớc. Với tình hình kinh tế hiện
nay lạm phát liên tục giảm thì thất nghiệp tăng là một điều khó tránh khỏi. Tỉ lệ thất
nghiệp của lực lợng lao động ở độ tuổi cao, đặc biệt là tại các thành phố lớn nh Hà
Nội 10,31%, TP. Hồ Chí Minh là 7,04%. Thất nghiệp gia tăng càng gây cản trở đối
với một nền kinh tế đang phát triển, đó là sự giảm sút về sản xuất, thu nhập dân c
giảm sút,
Với thực trạng trên, nền kinh tế Việt Nam đang lâm vào một thời kỳ khó khăn
đặc biệt trong lĩnh vực thị trờng và giá cả. Nếu nh nhiều nớc trên thế giới sự sụt
giảm giá chung bắt đầu có mầm mống xuất hiện từ năm 1996 là sự d thừa cung, do
sản xuất phát triển cung vợt quá cầu thì tại Việt Nam, một nớc có nền sản xuất còn
non trẻ, cha có sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng quá lớn trong dân c, thì tình
trạng cung vẫn thừa mà cầu vẫn tăng là một vấn đề đáng lo ngại. Giá cả liên tục tục
giảm để giải quyết hàng hoá ế thừa trong các ngành gây ra hiện tợng giảm phát kéo
dài nhất trong lịch sử, làm chao đảo thị trờng tài chính tiền tệ,
Trong lĩnh vực thị trờng và giá cả: năm 1999 sự tăng trởng chậm, trì trệ của
các ngành, các lĩnh vực, hoạt động sản xuất bị lâm vào bế tắc do hàng hoá ứ đọng
nhiều, sức mua giảm ở cả thành phố lẫn nông thôn. Điều đó làm giảm sức hấp dẫn
của môi trờng đầu t. Mức lạm phát đạt đến mức thấp nhất trong những năm gần
đây. Mức lạm phát trong 8 tháng đầu năm là 0,8% theo tổng cục thống kê mức tăng
trởng và lạm phát đợc thể hiện nh sau:
Năm Tăng trởng (GDP) Lạm phát (CPI)
1995 9,5 12,7
1996 9,3 4,5
1997 8,2 3,7
1998 5,8 9,2
1999 4,8 0,1
Mức độ lạm phát giảm liên tục nằm ngoài mong đợi của các nhà hoạch định
chính sách. Sự sụt giảm lạm phát dẫn đến tình trạng giảm rõ rệt tốc độ tăng trởng
13
GDP. Hơn thế nữa tình trạng chuyển hoá nhanh liên tục và đột ngột của tình
trạng lạm phát từ năm 1998 và 2 tháng đầu quý I năm 1999 sang giảm phát suốt
8 tháng liền từ tháng 3 đến tháng 10 trong năm là điều đáng lo ngại trong nền
kinh tế. Tình trạng giảm phát đã diễn ra trong nền kinh tế thể hiện ở chỗ mặt
bằng giá giảm liên tục cùng với sự suy giảm tốc độ tăng trởng kinh tế. Theo số
liệu Tổng cục thống kê thì tốc độ tăng trởng kinh tế và chỉ số giá tiêu dùng qua
các năm nh sau:
Năm Tăng trởng (GDP) Lạm phát (CPI)
1994 8,8 14,4
1995 9,5 12,7
1996 9,3 4,5
1997 8,2 3,6
1998 5,8 9,2
Riêng năm 1999 tình hình trở nên trầm trọng khi chỉ số GDP tăng 4,7-5%,
đây là tỷ lệ thấp nhất gần 10 năm trở lại đây. Mặt bằng giá giảm liên tục chỉ số
giá chỉ tăng vào 2 tháng đầu năm là những tháng tết Nguyên Đán, nhu cầu tiêu
dùng của các tầng lớp dân c tăng cao: tháng 1 tăng 1,7%, tháng 2 tăng 1,9%. Sau
đó từ tháng 3 trở đi giá giảm liên tục:
Tháng/99 Chỉ số giá giảm (%)
3 -0,7
4 -0,6
5 -0,4
6 -0,3
7 -0,4
8 -0,6
9 -1
10 0,4
Với mức giảm bình quân 0,55%/tháng. Trong tháng 8, trong 11 nhóm hàng
hoá dịch vụ tiêu dùng chỉ có 5 nhóm giá tăng là dợc phẩm, y tế tăng 0,8%, đồ
uống và thuốc lá tăng 0,3%, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,2%, may mặc tăng
0,1%, phơng tiện đi lại, bu điện tăng 0,1%. Còn 4 nhóm hàng hoá và dịch vụ
giảm là: lơng thực giảm 1,3%, thực phẩm giảm 0,7%, thiết bị và đồ dùng gia
đình giảm 0,2%, hàng hoá và dịch vụ khác là 0,2%.
Với tình hình trên nền kinh tế Việt Nam đang tồn tại nhiều mâu thuẫn:
- Hàng hoá ế thừa trong khi nhu cầu tiêu dùng trong dân c tăng. Theo số
liệu của tổng cục điều tra dân số Việt Nam năm 1999 thì hiện trên 70% dân số
sống trong khu vực nông nghiệp có mức sống thấp, đồ dùng và vật dụng nh: sắt
thép, xi măng, ti vi mầu, quạt điện, giấy viết, vải vóc, quần áo hàng ngày hầu nh
thiếu. Ngợc lại lợng hàng hoá này lại tồn kho rất nhiều tại doanh nghiệp.
14
- Trong nền kinh tế đang rất cần vốn cho đầu t phát triển thì hệ thống ngân
hàng lại tồn đọng một lợng vốn lớn, giải ngân chậm, có ngân hàng đã phải ngừng
huy động các nguồn vốn ngắn hạn.
- Năng lực sản xuất của nhiều doanh nghiệp vẫn còn nhng cha sử dụng hết
công suất do cha có cơ chế quản lý thích hợp để thúc đẩy sản xuất, đồng thời sản
xuất sản phẩm không có chỗ tiêu thụ nên họ tự co lại. Ví dụ: nhà máy đờng chỉ
sử dụng 50% công suất.
- Giá cả hàng hoá và dịch vụ giảm là một biểu hiện tích cực có lợi cho ngời
tiêu dùng nếu nó đợc xây dựng trên cơ sở giá thành giảm, năng suất lao động
tăng, khả năng cạnh tranh cao của sản phẩm, Còn ở đây giá cả giảm là do sức
mua giảm sút, hàng hoá trở lên ế ẩm, khả năng thanh toán thấp, Giá cả hàng
hoá, dịch vụ giảm ảnh hởng đến thu ngân sách, huy động và cho vay vốn của
ngân hàng, đầu t của doanh nghiệp, cá nhân giảm, sản xuất thu hẹp làm giảm tốc
độ tăng trởng của nền kinh tế. Nh vậy nghịch lý ở đây là giá cả tiêu dùng giảm
trong khi tốc độ tăng trởng kinh tế thấp, nhập siêu giảm, bội chi ngân sách
giảm,
- Trong khi năng lực sản xuất của doanh nghiệp và nhiều công trình xây
dựng lớn của Nhà nớc vẫn còn có thể thu hút đợc một lực lợng lao động nhất
định thì do tổng cầu giảm, sản xuất trì trệ và bị thu hẹp đã làm cho tỷ lệ thất
nghiệp tăng cao, số lao động mất việc làm đã chiếm trên 10% số lao động hiện
có. Thêm vào đó, số ngời đến tuổi lao động, số học sinh ra trờng ngày càng tăng,
tạo sức ép việc làm rất lớn.
Với những mâu thuẫn trên, nền kinh tế Việt Nam đang gặp khó khăn. Giá
cả giảm sút do sức mua, khả năng thanh toán thấp và giảm. Thị trờng trong nớc
bị thu hẹp và kém sôi động, lợng tồn đọng sản phẩm hàng hoá tại doanh nghiệp
lớn, khó tiêu thụ, doanh nghiệp sản xuất cầm chừng. Khu vực doanh nghiệp Nhà
nớc chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp đứng vững làm ăn có lãi, số còn lại gặp
khó khăn và thua lỗ.
2-/ Nguyên nhân gây ra tình trạng trên:
Thứ nhất: Cung hàng hoá cha hẳn lớn so với cầu không phải là nguyên nhân
chủ yếu của tình trạng giảm phát. Với một nớc kém phát triển nh nớc ta, sản xuất
trừ một số ngành nh lơng thực, thực phẩm, là đáp ứng đủ nhu cầu của ngời dân
và xuất khẩu còn lại là cha đáp ứng đợc. Vậy nguyên nhân của sự ứ đọng hàng
hoá không có thị trờng tiêu thụ ở chỗ:
+ Hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp thấp, đặc biệt là kinh tế quốc
doanh, sử dụng yếu tố đầu vào không hợp lý cha hoặc chậm đổi mới công nghệ,
cha tiết kiệm chi phí yếu kém trong quản lý kinh tế Dẫn đến tình trạng giá
thành cao, thậm chí nhiều loại còn cao hơn giá quốc tế nên không phù hợp với
thị trờng trong nớc, nơi mà thu nhập của đại bộ phận dân c còn thấp.
+ Chất lợng sản phẩm còn kém, không đủ sức cạnh tranh với hàng xuất
khẩu. Hiện nay trên thị trờng hàng hoá nhập khẩu của Trung Quốc có nhiều mặt
hàng chất lợng khá tốt mà giá chỉ bằng một nửa giá của hàng hoá nội địa. Với
15
chất lợng kém hoặc cha phù hợp với thị trờng của ngời tiêu dùng thì giá cả lại
cao là nguyên nhân của sự ế đọng hàng hoá tại doanh nghiệp.
+ Lợng hàng hoá trốn thuế nhập lậu xe gắn máy, đờng, xe đạp, quần áo may
sẵn, đang trôi nổi với số lợng lớn trên thị trờng có u thế về giá cả và khả năng
đáp ứng nhu cầu của ngời tiêu dùng đã đóng vai trò không nhỏ làm tăng cung và
giảm nhu cầu hàng nội địa, chèn ép sản xuất trong nớc và dối loạn thị trờng.
Thứ hai - vốn:
+ Tình trạng thiếu vốn trầm trọng là những khó khăn lớn đối với các doanh
nghiệp, các cơ sở sản xuất. Các doanh nghiệp đã hoàn toàn có lý khi làm phép so
sánh: chỉ số giá tiêu dùng liên tục giảm trong khi lãi suất vay ngân hàng vẫn ở
mức cao, nh vậy chắn chắn hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là
kém và khó có thể đảm bảo đợc khả năng thanh toán, sản xuất cầm chừng, tắc
nghẽn, hàng hoá kém lu thông dẫn đến giá tiếp tục giảm.
+ Cung ứng tiền tệ không đạt kế hoạch đầu năm. Lợng tiền đa vào lu thông
ít hơn mức cần thiết khiến sản xuất và lu thông tắc nghẽn. Việc điều hành chính
sách tiền tệ tín dụng kém hiệu quả của hệ thống ngân hàng. Do sản xuất kinh
doanh trì trệ trong 5 tháng đầu năm ngân hàng Nhà nớc đã 2 lần giảm lãi suất
cho vay với ý đồ kích cầu tín dụng. Nhng do sức hấp thụ vốn của nền kinh tế thị
trờng có hạn, chủ trơng kích cầu tín dụng không đạt đợc kết quả nh mong muốn.
Trong 5 tháng đầu năm, tốc độ tăng d nợ cho vay chỉ đạt 5,2% trong khi tốc độ
huy động vốn đạt 9,3% so với cuối năm 1998. Tình hình này nói lên tiền trong lu
thông bị hút vào trong ngân hàng khá nhiều và nằm đọng tại đó. Mặc dù ngân
hàng thơng mại đã hạ lãi suất đầu vào nhng vẫn còn cao hơn nhiều tỷ lệ lạm phát
trong cùng thời kỳ (0,75%/0,17%/tháng). Thêm vào đó, nhân dân có xu hớng
giảm đầu t để gửi tiết kiệm vào kho bạc Nhà nớc. Đã vậy, trong tháng 2 năm
1999 ngân hàng Nhà nớc đã phát hành 600 tỷ đồng kỳ phiếu để rút bớt tiền về,
trong quí II năm 1999 ngân hàng Đầu t - phát triển nông thôn đã phát hành 2.000
tỷ đồng trái phiếu dài hạn thu đợc 1.900 tỷ đồng, kho bạc Nhà nớc phát hành
4.000 tỷ đồng công trái quốc gia. Kết quả huy động vợt mức kế hoạch. Lợng tiền
huy động vào kho bạc và ngân hàng tăng lên bao nhiêu thì quỹ tiêu dùng xã hội
giảm đi tơng ứng. Tiền thu hút vào kho bạc ngân hàng phải sau một thời gian
mới đầu t ra dần dần đó là một trong những nguyên nhân làm cho thị trờng khan
hiếm tiền.
+ Chính sách tỷ giá và quản lý xuất nhập khẩu cha phù hợp khiến nớc ta
liên tục nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu. Mặc dù nhập siêu trong 8 tháng đầu
năm 1999 đã giảm chỉ còn 1,3 kim ngạch xuất khẩu nhng nhập khẩu giảm chủ
yếu là do giảm sút phần nhập khẩu từ nguồn vốn FDI.
Thứ ba - thu nhập: thu nhập của ngời Việt Nam ở mức thấp so với thế giới.
Trên 70% lao động ở nông thôn với mức thu nhập rất thấp khoảng 2 triệu
đồng/năm Theo kết quả điều tra của Bộ NN & PTNN. Do giá cả thị trờng lơng
thực, thực phẩm đang giảm liên tục nên thu nhập của bộ phận này bị ảnh hỏng
giảm đáng kể. Thu nhập thực tế của khu vực hành chính sự nghiệp và những ngời
hởng quỹ lơng từ ngân sách Nhà nớc bị thị trờng điều tiết giảm đáng kể do chỉ số
giá cả đã tăng sấp sỉ 30% (trừ 20% đã đợc bù). Với mức thu nhập giảm nh vậy,
16
đặc biệt ở khu vực nông thôn chỉ đảm bảo mức sinh hoạt tối thiểu hàng ngày,
không có khả năng mua sắm các loại hàng hoá khác để phục vụ cuộc sống tốt
hơn. Ngời dân thành phố có nhu cầu và khả năng thanh toán cao hơn song do thị
hiếu đối với chất lợng hàng hoá, giả cả của các loại hàng hoá nội địa thấp hơn so
với hàng ngoại nhập nên giữa cung và cầu trên thị trờng Việt Nam vẫn còn nhiều
bế tắc. Đó là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tợng giảm phát trên.
Thứ t - thất nghiệp: Tình trạng thất nghiệp lớn đặc biệt là ở thành thị làm
giảm mức sống trung bình của ngời dân. Ngời đi làm với thu nhập đã thấp lại
phải nuôi thêm một lợng ngời nhàn rỗi càng làm cho mức sinh hoạt xã hội giảm.
Ngoài ra thất nghiệp tăng không chỉ ảnh hởng trực tiếp làm giảm sức mua của
ngời dân mà còn gây ra nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết.
Thứ năm - đầu t : là 1 trong những nguyên nhân gây ra giảm phát. Các nhà
đầu t nớc ngoài luôn e ngại trớc môi trờng luật pháp ở Việt Nam bởi lý do nh cơ
cấu đầu t kém hiệu quả ngày càng mất an toàn (vốn đầu t t nhân, FDI giảm; vốn
đầu t ngân sách Nhà nớc và đi vay tăng), thủ tục hành chính phiền hà, thời gian
cấp phép chậm, cộng với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khiến tình
trạng rút lui đầu t nớc ngoài diễn ra phổ biến.
Trong khi đó đầu t trong nớc cũng liên tục giảm do tình trạng sản xuất trì
trệ hàng hoá ế đọng, vấn đề trốn nợ diễn ra nhiều nơi nên một bộ phận dân c
không dám cho vay trong t nhân, hay liên kết đầu t, bỏ vốn ra kinh doanh và làm
dịch vụ mà chọn cách gửi tiền vào ngân hàng hoặc mua trái phiếu kho bạc, công
trái Nhà nớc để hởng lãi suất ổn định và không lo thua lỗ bên cạnh tình hình
giảm đầu t là việc triển khai chậm trễ các nguồn vốn đầu t. Tổng vốn đầu t toàn
xã hội đợc thực hiện trong 6 tháng đầu năm 99 xấp xỉ 40.000 tỷ đồng đạt 35,7%
kế hoạch năm trong đó vốn ngân sách đạt 41%, vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài đạt
35%.
Mặc dù mức tiết kiệm và đầu t trên GDP của Việt Nam còn thấp so với các
nớc trong khu vực và so với cả nhu cầu cần thiết để đẩy nhanh tăng trởng kinh tế
song mức lãi suất và thuế suất lại tỏ ra khá cao trong mặt bằng chung về kết quả
kinh doanh cả nớc càng làm hạn chế đầu t và tiêu dùng.
Thứ sáu: Các hoạt động dịch vụ nhằm mở rộng và phát triển thị trờng của
Việt Nam còn sơ khai, cha đợc coi trọng đúng mức cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô.
Nên đôi lúc doanh nghiệp cha tìm ra đợc thị trờng của mình hoặc cha tìm đợc
cách mở rộng nên không tiêu thụ đợc hàng hoá dẫn đến tình trạng hàng hoá bị ứ
đọng.
Thứ bẩy: do xu hớng giảm giá xảy ra có tính chất chu kỳ trên phạm vi toàn
cầu đã ảnh hởng không nhỏ tới sự sụt giá chung ở Việt Nam. Đến cuối năm
1998, giá nguồn nhiên liệu trên thế giới đã giảm gần 30%, nông sản phẩm giảm
20%, các mặt hàng nông sản phẩm lại là hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của Việt
Nam do vậy Việt Nam liên tục phải giảm giá các mặt hàng xuất khẩu để tăng
khả năng cạnh tranh trên thị trờng thế giới. Theo số liệu của các cơ quan chức
năng thì giá xuất khẩu FOB nhiều loại hàng hoá Việt Nam năm 1999 đã giảm
nhiều so với năm 1998 nh: gạo giảm 22%, chè giảm 21%, hạt tiêu giảm 9%, cà
phê giảm 7%.
17
Mặt khác, giá cả thị trờng thế giới giảm nên hàng hoá nớc ngoài đã dễ dàng
tràn qua biên giới và đánh bại hàng hoá nội địa ngay trên thị trờng trong nớc.
III-/ Việt nam một năm kích cầu:
Nh trên đã nêu, ở tất cả các nớc, khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm thức
tỉnh một điều là không thể chỉ dựa vào ngoại lực, mà điều quan trọng là phải h-
ớng mạnh vào thị trờng trong nớc, tức là phát huy nội lực một cách tối đa. Vì chỉ
có nh vậy, nền kinh tế mới có những bớc đi vững chắc, căn bản, sớm khắc phục
đợc những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ để lại.
Trớc bối cảnh nền kinh tế giảm sút có tính xu thế chung, ở Việt Nam hiện t-
ợng giảm phát diễn ra liên tục trong một thời gian dài, sản xuất thì cầm chừng,
hàng hoá d thừa không phải so với khả năng thanh toán của xã hội, mà chính là
do cha có cơ chế kích thích khả năng tiêu dùng, dù là khả năng tối thiểu trong
khi nhu cầu tiêu dùng thực sự của dân, của nền kinh tế còn lớn, mặt bằng về cầu
có thể nâng cao. Chính vì vậy, tại phiên họp thờng kỳ vào tháng 4/1999 tại Hà
Nội vừa qua, chính phủ đã nêu phải phát huy nội lực, tăng khả năng đầu t, kích
thích mạnh sản xuất và nâng cao tiêu dùng hợp lý là một giải pháp đúng đắn kịp
thời, mang tính chiến lợc, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế Việt Nam.
Để thực hiện đợc việc đó thì kích cầu là một trong nhiều giải pháp hợp lý.
Bởi vì mặt lý thuyết, kích cầu là một giải pháp kích thích, khuyến khích tiêu dùng
và mục tiêu cuối cùng là làm tăng tổng cầu, tổng cung hàng hoá xuất khẩu để thúc
đẩy sản xuất phát triển. Mà tiêu dùng theo nghĩa rộng bao gồm cả tiêu dùng cho
sản xuất và tiêu dùng cho sinh hoạt, đời sống. Do mối tác động qua lại cùng chiều
của tiêu dùng và sản xuất nên kích cầu phải đợc xây dựng trên nguyên tắc phát
huy nội lực, kích thích sản xuất trong nớc, từ đó kích thích tiêu dùng. Tuy nhiên
không phải là cầu nào cũng kích mà chỉ kích thích những cầu làm cho sản xuất
trong nớc phát triển, chẳng hạn nh cầu hàng tiêu dùng nhập khẩu thì không thể
kích đợc. Đồng thời phải lựa chọn các ngành, sản phẩm để kích, các ngành hoặc
sản phẩm không có tính cạnh tranh, ế thừa, kém hiệu quả thì không nên, hoặc
công nghiệp dịch vụ đã có mức tăng trởng cao hơn nhiều so với nông nghiệp nay
lại đợc kích thích mạnh trong khi nông nghiệp không đợc kích đủ liều lợng để hấp
thụ hết sản phẩm của công nghiệp - dịch vụ thì sẽ dẫn đến tình trạng cung lớn hơn
cầu và lại đẩy nền kinh tế rơi vào một vòng luẩn quẩn.
Để thúc đẩy sản xuất phát triển trớc hết phải gia tăng đầu t cho các doanh
nghiệp 1/2/1999 chính phủ đã hạ lãi suất cho vay của ngân hàng từ 1,2% chỉ còn
1,15% và gần đây lại tiếp tục giảm xuống chỉ còn 1,05%. Các doanh nghiệp đợc
hỗ trợ lãi suất cho vay ngân hàng từ nhiều nguồn kinh phí nếu sản xuất của
doanh nghiệp thuộc 5 lĩnh vực u tiên của thành phố và phải đạt mức tăng trởng
liên tục từ năm 1996 đến nay về nộp ngân sách và không bị thua lỗ. Ngoài ra
doanh nghiệp còn đợc hỗ trợ sản xuất bằng cách mua trả góp, chậm đối với thiết
bị, vật t trong nớc.
Để kích cầu, tăng vốn đầu t xâu dựng cơ bản là một trong các biện pháp
quan trọng và có ý nghĩa lớn cả về kinh tế và xã hội, chẳng những tạo ra nhiều
công trình xây dựng mới, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đổi mới thiết bị công nghệ,
từng bớc hiện đại hoá đất nớc mà còn giải quyết đầu ra cho nhiều ngành sản xuất
18
đang trong tình trạng ứ thừa, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao sức
mua cho ngời lao động. Để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, thực hiện
chủ trơng lớn của chính phủ, một trong những yêu cầu cấp bách là kiên cố hoá
hệ thống kênh mơng, nâng cấp mặt bằng, đờng giao thông nông thôn, xây dựng
và phát triển hệ thống điện kể cả công trình nguồn cũng nh mạng lới điện về các
thôn, xã, xây dựng nhà ở các vùng bị ngập lũ. Tất cả những khoản trên đòi hỏi
tăng nguồn kinh phí lớn. Để thực hiện kích cầu đầu t, trong thời gian qua chính
phủ đã thực hiện một số biện pháp nh tăng bội chi ngân sách, dành một khoản
tiền để trợ giúp hơn 1000 xã nghèo nhất ở vùng cao, đầu t xây dựng cơ sở hạ
tầng và phúc lợi xã hội, thanh toán khoản nợ khối lợng xây dựng cơ bản đã thực
hiện vợt mức kế hoạch năm 1996 - 1997. Mở rộng diện cho vay đối với các
thành phần kinh tế trong những lĩnh vực u tiên: trồng cây công nghiệp, chế biến
nông lâm thuỷ sản xuất khẩu với lãi suất hành lý và lấy công trình làm điều kiện
thế chấp. Cho phép bán cổ phần cho nhà đầu t nớc ngoài cũng là một cách để
phát triển đầu t. Đầu t nớc ngoài cũng là một giải pháp nhằm kích cầu sản xuất
trong nớc và phát triển kinh tế. Chính phủ đã ban hành luật cho phép doanh
nghiệp đợc đầu t ra nớc ngoài không hạn chế về máy móc, nguyên vật liệu cho
phép các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng địa bàn sản xuất kinh doanh, thu lợi
nhuận, tăng sức cạnh tranh trên trờng Quốc tế, tạo điều kiện tiêu thụ đợc lợng
sản phẩm ế thừa. Đồng thời cũng góp phần giải quyết công ăn việc làm cho ngời
lao động, tăng thu nhập, tăng tiêu dùng trong nớc.
Để thực hiện kích cầu đầu t cho sản xuất, giải pháp phát triển cùng thu hút
vốn tiềm tàng trong dân có một ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy nội lực trong
điều kiện vốn đầu t nớc ngoài đang trên đà giảm sút. Từ đó phải đẩy mạnh tiết
kiệm, chống tham nhũng và buôn lậu. Trong đó chính sách tiết kiệm đợc thực
hiện trên ba mặt: chống lãng phí, khai thác tối đa công suất, hiệu quả của các ch-
ơng trình đầu t, tiết kiệm chi tiêu ngân sách Chính phủ và tiết kiệm tiêu dùng xã
hội trong mọi gia đình, mọi cá nhân. Tiết kiệm không có nghĩa là hà tiện bởi nếu
không sẽ ảnh hởng xấu đến chủ trơng kích cầu tiêu dùng. Hiện nay có nhiều ý
kiến cho là mâu thuẫn khi Chính phủ một mặt kêu gọi tiết kiệm, một mặt lại có
hàng loạt các giải pháp để kích cầu. Tuy nhiên trên thực tế, hoàn toàn không có
sự mâu thuẫn giữa các chủ trơng tiết kiệm, chống lãng phí và các giải pháp kích
cầu. Bởi tiết kiệm bản chất là với chi phí hoặc hao phí ít hơn hoặc nh cũ nhng
làm đợc nhiều việc hơn, kết quả là hiệu quả hơn. Tiết kiệm là yêu cầu bắt buộc
của mọi miền kinh tế. Trong khi đó kích cầu là sự phát huy nội lực, kích thích
sản xuất trong nớc, từ đó kích thích tiêu dùng. Do đó hai việc có quan hệ hữu cơ
và hỗ trợ cho nhau.
Để giải quyết tình trạng hàng tồn kho và giảm giá Chính phủ đã giảm thuế cho
các hàng hoá và dịch vụ. Nghị định 78/NĐ-CP ngày 20/08/1999 sửa đổi bổ sung
giảm 50% mức thuế cho 18 nhóm sản phẩm hàng hoá, bổ sung đối tợng và qui định
tỷ lệ khấu trừ đầu vào cho một số hàng hoá, dịch vụ mua hoặc khai thác không có
hoá đơn. Giải quyết hàng tồn kho tại thời điểm 31/12/1998, qui định thời gian nộp
thuế giá trị gia tăng, thay "tiền kiểm" bằng "hậu kiểm" thuế GTGT đối với hàng hoá
xuất nhập khẩu.
19
Để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra do các giải pháp kích cầu
trên, Chính phủ đã có một số biện pháp kích thích tiêu dùng của các tầng lớp dân
c, tăng sức mua xã hội bằng việc nâng thu nhập xã hội ở thành thị cũng nh nông
thôn thông qua các biện pháp tạo công ăn việc làm, giảm thuế, giảm các khoản
đóng góp, mở rộng tín dụng với lãi suất u đãi, kèm theo là thủ tục vay mợn dễ
dàng. Nâng cao thu nhập của ngời lao động bằng cách cải tiến từng bớc chính
sách tiền lơng, thực hiện khoán chi hành chính, rút ngắn thời gian làm việc
xuống 40 giờ/tuần. Chính phủ cũng đã khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao nhằm huy động mọi nguồn
lực trong nhân dân, vận động và tổ chức sự tham gia của toàn xã hội vào sự phát
triển các sự nghiệp đó, từng bớc nâng cao mức hởng thụ về vật chất và tinh thần
của nhân dân.
Chính phủ cũng đã tích cực cải thiện cán cân thơng mại, tăng xuất khẩu, giảm
nhập khẩu. Nhà nớc đã có nhiều chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu, tìm
thị trờng mới góp phần tăng xuất khẩu, tăng công ăn việc làm, tăng thu nhập và tiêu
dùng.
Bên cạnh đó Chính phủ cũng đã và đang áp dụng các giải pháp nh "chính
sách nới lỏng tiền tệ", "chính sách tiền tệ mở rộng", chấp nhận lạm phát trong
khả năng kiểm soát bội chi ngân sách và tín dụng có chọn lọc.
Quyết định về giờ làm việc 40 giờ/tuần và chủ trơng kê khai nhà cửa, đất
đai mới đây của Chính phủ cũng có tác dụng tới kích cầu bởi sẽ tạo điều kiện
cho ngời dân mua sắm nhiều hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho ngời dân có
những giấy tờ hợp pháp về chủ quyền về nhà đất để họ có thể vay tiền ở các tổ
chức tín dụng để sản xuất kinh doanh và mua sắm.
Nói tóm lại trong năm 1999, có thể nói các giải pháp của Chính phủ đã bao
quát đợc toàn bộ các vấn đề đang nổi cộm, bức thiết của nền kinh tế và đã đạt đ-
ợc một số kết quả. Tuy nhiên sự hoàn thiện của hệ thống chính sách lại đợc gắn
với các mục tiêu cụ thể, thêm vào đó những tác nhân tồn tại khách quan đã cản
trở chính sách kinh tế do đó trong nền kinh tế vẫn có những hậu quả của tình
trạng suy giảm kinh tế do giảm phát gây ra cha đợc khắc phục, nền kinh tế cha
có dấu hiệu thực sự tốt đẹp. Chính vì vậy cần phải có nhiều thay đổi trong giải
pháp của Chính phủ để cải thiện tình thế.
20
Phần Iii
Đề xuất một số giải pháp
1-/ Mở rộng thị trờng cho các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh
nghiệp vay vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc hạ lãi suất trần phải đi kèm với các giải pháp cải tổ lại doanh nghiệp
nhà nớc, tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá, không ngừng đổi mới công nghệ hạ giá
thành sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, tìm kiếm thị trờng mới, thay đổi
mẫu mã, tăng chất lợng sản phẩm, không ngừng nâng cao tính cạnh tranh của
doanh nghiệp. Nếu không việc hạ trần lãi suất chẵng những làm cho doanh
nghiệp có t tởng ỷ lại, trông chờ mà còn làm cho đồng vốn không hấp thụ hết
hoặc sử dụng kém hiệu quả. Đẩy mạnh sức tiến thơng mại cả trong nớc và ngoài
nớc, cho phép các thành phần kinh tế đợc tham gia sản xuất trực tiếp và tìm kiếm
thị trờng tiêu thụ ở nớc ngoài. Bên cạnh đó phải tổ chức lại mạng lới bán hàng,
hạ giá bán một số sản phẩm đang bị tồn đọng, khuyến khích tiêu dùng hàng nội
địa thông qua các cuộc bình chọn "hàng Việt Nam chất lợng cao". Kiên quyết
không cho các ngành, các doanh nghiệp có sản phẩm hàng hoá, dịch vụ độc
quyền, tự ý nâng giá làm ảnh hởng đến sản xuất, tiêu dùng trong nớc cũng nh
xuất khẩu. Cần có sự phối hợp giữa Chính phủ với các ban ngành để điều hành
thị trờng, từ đó có những biện pháp tác động kịp thời nhằm đẩy nhanh tốc độ tiêu
thụ hàng hoá ở thị trờng nội địa.
- Đẩy mạnh công tác chống tham nhũng, buôn lậu để giúp cho hàng hoá
trong nớc không bị chèn ép bởi giá cả dẫn đến ứ thừa, sản xuất bị co hẹp, dẫn tới
chính sách đầu t sẽ không đạt hiệu quả.
2-/ Thu nhập:
Cần phải có điều chỉnh về thu nhập để tạo điều kiện cho kích cầu đạt hiệu
quả cao. Cụ thể:
- Đối với những ngời có thu nhập thấp trớc hết phải chú ý đến các giải pháp
tạo công ăn việc làm nhằm tăng thu nhập cho họ. Ngoài ra Chính phủ nên xem
xét để nâng lơng hoặc bù giá vào lơng cho cán bộ công nhân viên, những ngời
làm công tác giáo dục, những ngời hu trí v.v
- Đối với những ngời có thu nhập cao, nhu cầu đối với những sản phẩm thiết
yếu về ăn, mặc, ở dờng nh đã bão hoà, ngời ta đã có những nhu cầu về sản phẩm,
dịch vụ cao cấp. Cần khuyến khích họ đầu t trực tiếp vào sản xuất kinh doanh
bằng cách đa dạng hoá các thành phần kinh tế, đơn giản hoá thủ tục lập doanh
nghiệp và các chính sách u đãi về tín dụng, giá cả, thuế v.v Đồng thời cần
khuyến khích họ dùng tiền nhiều hơn để chi tiêu mua sắm các phơng tiện tiêu
dùng hiện đại nh trang trí nội thất, điện tử cao cấp v.v cần mở rộng và xây dựng
mới các khu vui chơi giải trí, tăng cờng mở rộng các chuyến du lịch trong và
ngoài nớc.
3-/ Đầu t:
21
Cơ sở hạ tầng: Cần có sự đầu t hơn nữa về cơ sở hạ tầng, nhà ở, khuyến
khích ngời dân thành thị chi dùng nhiều hơn cho xây dựng nhà cửa và trang trí
nội thất có thể bằng cách đổi nhà cũ thuê của Nhà nớc lấy nhà mới của Công ty
xây dựng nhà ở, đổi nhà lấy đất Nhằm vừa tăng tính hợp lý chỗ ở và làm việc,
vừa tăng thu nhập xã hội: thu nhập của ngời bán vật liệu xây dựng, thu nhập của
những ngời thợ xây từ đó dẫn đến tăng cầu tiêu dùng. Đối với nông thôn cần
tăng cờng đầu t phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội nh: mạng lới điện, giao
thông, bu chính viễn thông, y tế, giáo dục nhằm tạo điều kiện cho lu thông
hàng hoá phát triển, nâng mức sống và thu nhập vốn thấp của ngời dân. Đồng
thời tăng cờng trang thiết bị kỹ thuật nhằm tăng năng suất lao động, tạo ra sản l-
ợng cũng nh chất lợng hàng hoá cao hơn.
Cần mở rộng đầu t trong nớc và nớc ngoài để tạo công ăn việc làm, tăng
thu nhập, tăng sức mua bằng cách giúp đỡ doanh nghiệp có nhiều thông tin về thị
trờng trong và ngoài nớc. Nhà nớc nêu miễn giảm thuế đối với nhà đầu t mới,
thực hiện tín dụng u đãi, hạ lãi suất cho vay bởi vì hiện nay lãi suất vẫn cha thực
sự có lợi cho nhà đầu t. Không phân biệt các nhà đầu t trong nớc và nớc ngoài vì
hiện nay các nhà đầu t trong nớc cho rằng Nhà nớc chỉ quan tâm u đãi cho các
nhà đầu t nớc ngoài. Ví dụ nh nâng mức chịu thuế thu nhập cho ngời nớc ngoài
mà không thực hiện đối với ngời Việt Nam.
Trong việc thực hiện vốn đầu t, đặc biệt là vốn ODA cần lựa chọ dự án quan
trọng đợc tài trợ có thể trả lơng sớm với sự u tiên cân đối vốn ứ đọng từ nguồn
ngân sách Nhà nớc.
4-/ Chính sách tài khoá.
Để làm tăng thu nhập xã hội nhằm gia tăng tổng cầu, Nhà nớc cần tăng chi
tiêu ngân sách để kích thích tăng trởng kinh tế. Đồng thời phải nâng cao hiệu
quả sự chi tiêu của Chính phủ, chú trọng các công trình trọng điểm, công trình
có tính chiến lợc quốc gia. Thực hiện tiết kiệm thông qua việc kiên quyết cắt
giảm các khoản chi phí mang tính bao cấp cho viên chức Nhà nớc, cho doanh
nghiệp Nhà nớc. Hạn chế thất thoát trong đầu t xây dựng cơ bản do tham nhũng,
móc ngoặc, mua bán công trình, do yếu kém trong quản lý. Cần quản lý chặt chẽ
việc sử dụng tài sản công sao cho an toàn, có hiệu quả. Kiểm soát và cắt giảm
các khoản chi tiêu hành chính công vụ. Hỗ trợ vốn lu động cho các doanh nghiệp
nhằm hạ giá thành sản phẩm, thực hiện hỗ trợ giá cho hàng hoá nông sản.
Đối với thuế khoá và các khoản phí: Cần giảm thuế thu nhập và các khoản
thu khác nhằm tăng thu nhập đợc quyền sử dụng của các tầng lớp dân c. Hiện
nay mức thu nhập chịu thuế tại Việt Nam là cha hợp lý. Mức thu nhập bắt đầu
chịu thuế là 2 triệu đồng trên tháng đối với nông thôn là quá cao trong khi ở
thành thị lại là thấp. Do đó cần thay đổi cách tính thuế thu nhập thoe hớng
khuyến khích tiêu dùng tức là dựa trên mức thu nhập ròng sau khi trừ đi các
khoản đã tiêu dùng. Điều đó sẽ khuyến khích tiêu dùng vì ngời nào tiêu dùng ít
số thu nhập ròng sau khi trừ đi các khoản đã tiêu dùng sẽ cao và họ sẽ phải nộp
thuế thu nhập nhiều hơn. Ngoài ra cần giảm các khoản thuế gián thu nhằm giảm
giá bán thừa với sức mua quá thấp hiện nay.
22
5-/ Chính sách lu thông tiền tệ.
Chính phủ nên dùng chính sách tiền tệ mở rộng để giảm lãi suất nhằm
khuyến khích đầu t và tiêu dùng, chấp nhận lạm phát trong khả năng kiểm soát
bằng cách bội chi ngân sách và chính sách tài trợ bằng vay nợ.
6-/ Một số giải pháp khác:
Ngoài các giải pháp trên một vấn đề cực kỳ quan trọng nữa cần khuyến
khích tiêu dùng hàng nội địa. Hiện nay tâm lý thích tiêu dùng hàng ngoại ăn sâu
trong các tầng lớp dân c, kể cả các lãnh đạo cao cấp. Cần phải kêu gọi tinh thần
yêu nớc trong mọi từng lớp dân c, phải phát động phong trào "nhà nhà dùng hàng
nội, ngời ngời dùng hàng nội" mà đi đầu là các cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nớc,
các Đảng viên để làm gơng cho quần chúng nhân dân. Tất nhiên, từ phía các
doanh nghiệp cần phải nâng cao chất lợng sản phẩm nội địa, cải tiến mẫu mã mặt
hàng và giá cả để có thể cạnh tranh đợc với hàng ngoại nhập.
23
Lời kết
Với nỗ lực của Chính phủ và nhân dân ta, sau năm 1999 tình hình nền kinh
tế đã có nhiều dấu hiệu khả quan hơn. Tình trạng sụt giảm giá liên tục trong
nhiều tháng đã kéo theo những hậu quả nghiêm trọng nh sản xuất đình trệ, sức
mua ngời dân giảm Giải pháp kích cầu đã đợc Chính phủ sử dụng nh một giải
pháp quan trọng nhằm giải quyết tình trạng hàng hoá tồn đọng, qua đó kích thích
hoạt động sản xuất kinh doanh. Những chỉ số thống kê về tình hình kinh tế
tháng 7, 7 tháng cho thấy giải pháp kích cầu đã đang phát huy một số tác động
ban đầu. Điều đó thể hiện sự sáng suốt, đúng đắn trong sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nớc ta trớc mọi tình hình khó khăn của đất nớc. Tuy nhiên chỉ nên coi kích
cầu là một giải pháp tình thế bởi nó chỉ mang lại các tác dụng ngắn hạn đối với
tăng trởng kinh tế. Nếu sử dụng biện pháp này lâu dài có thể làm giảm tính năng
động của các doanh nghiệp, thậm chí phá vỡ thế cân bằng của nền kinh tế. Vì
Chính phủ phải kéo dài thời gian bảo hộ đối với một bộ phận doanh nghiệp, làm
tăng mặt bằng giá cả trong khi chất lợng và sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất
ra không đợc nâng cao một cách tơng ứng, gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế
nớc ta trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực toàn cầu. Chính vì vậy Thủ tớng
Chính phủ đã tuyên bố "không thể kéo dài các chính sách bảo hộ vì nh thế là có
tội đối với dân khi mà dân đang phải mua hàng vơí giá cao hơn trong khi thu
nhập còn thấp". Điều này nói lên tính đúng đắn trong đờng lối chính sách của
Nhà nớc ta và sự quan tâm của Đảng và Nhà nớc đối với ngời dân lao động.
Chính vì lẽ đó tất cả chúng ta phải cùng nhân dân cả nớc thực hiện tốt các biện
pháp của Chính phủ, nỗ lực góp phần đa đất nớc thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng, giữ vững và phát huy các thành kinh tế xã hội mà nớc ta đã đạt đợc sau
những năm đổi mới bằng cách tăng cờng sử dụng hàng nội địa, tẩy chay hàng
ngoại nhập.
24
Danh mục tài liệu tham khảo
1-/ Tiền tệ, ngân hàng và thị trờng tài chính - F.S. MISHKIN
2-/ Kinh tế vĩ mô - ĐHKTQD.
3-/ Tạp chí Thị trờng TC-TT số 8 + 9/1999, số 2/2000.
4-/ Tạp chí ngân hàng số 14+ 16 +18/1999.
5-/ Tạp chí TT- GC số 9 +10/1999, số 1+2/2000.
6-/ Tạp chí Phát triển kinh tế số 106/1999
7-/ Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 255 (tháng 8)/1999.
8-/ Tạp chí Thông tin tài chính số 13/1999.
9-/ Tạp chí Tài chính số 7 + 8 + 9 + 12 /1999.
25