Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

thực trạng và giải pháp cho nền kinh tế việt nam và vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.04 KB, 36 trang )

Mục lục
Trang
Lời mở đầu 3
Phần I: Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trờng
4
I. Ưu thế và khuyết tật của thị trờng 4
1. Khái niệm cơ chế thị trờng 4
2. Ưu thế của thị trờng 5
3. Những khuyết tật của cơ chế thị trờng 6
II. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trờng 6
1. Mục tiêu của kinh tế vĩ mô 7
2. Chức năng kinh tế của chính phủ 7
3. Các công cụ điều tiết của chính phủ 12
Phần II: Vị trí kinh tế của chính phủ ở nớc CHXHCN Việt Nam trong giai
đoạn từng bớc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nớc 17
I. Vị trí kinh tế của chính phủ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ chế 17
II. Vị trí kinh tế của chính phủ Việt Nam trong giai đoạn từng bớc công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nớc 20
1. Công nghiệp hóa và hiện đạI hóa ở Việt Nam 20
2. Vai trò của chính phủ trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
ở nớc ta 22
3. Các chính sách kinh tế mà chính phủ áp dụng trong giai đoạn
công nghiệp hóa và hiện đại hóa 26
4. Những vấn đề chính phủ phải giải quyết trong giai đoạn
công nghiệp hóa và hiện đại hóa 31
Phần III: Thực trạng và giải pháp cho nền kinh tế Việt Nam và vai trò của
chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở nớc ta trong giai
đoạn hiện nay 33
I. Thực trạng nền kinh tế và vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền
kinh tế 33
1. Thực trạng của nền kinh tế 33


2. Thực trạng quản lý kinh tế của nhà nớc ta 34
II. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của chính phủ 35
Kết luận 37
Danh mục tài liệu tham khảo 38
lời mở đầu
Kinh tế thị trờng từng là động lực thúc đẩy nền kinh tế t bản phát triển vô cùng
nhanh chóng từ khi nó ra đời.Thực tế đã chứng minh cơ chế thị trờng làm cho nền kinh
tế trở nên năng động và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nền kinh tế thị trờng luôn là sự
cạnh tranh giữa các hãng sản suất với nhau do đó họ phải luôn tìm tòi,sáng tạo các ph-
ơng thức sản suất mới để mang lại lợi nhuận cao trong kinh doanh. Chính vì thế nó
làm cho nền kinh tế của đất nớc ngày càng phát triển và phồn thịnh.Tuy nhiên cơ chế
thị trờng không phải là một hoạt động kinh tế hoàn hảo mà nó mang trên mình mặt trái
của nó nh:sự cạnh tranh không hoàn hảo; vấn đề ngoại ứng; sự phân hoá giàu
nghèo và các vấn đề xã hội khác. Chính vì vậy, nhà nớc đã tham gia vào quá trình
hoạt động của nền kinh tế để giảm nhẹ hoặc khắc phục những hậu quả của nó. Nhng
trên thực tế không thể tồn tại một nền kinh tế chỉ đợc điều hành bằng mệnh lệnh và
cũng không có nền kinh tế nào hoạt động trên cơ sở tự nguyện mà không có sự điều
tiết của nhà nớc. Chính phủ ngày càng khẳng định đợc vai trò của mình trong quá trình
hoạt động của nền kinh tế. Đặc biệt là đối với Việt Nam-một nớc mới chuyển từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự điều tiết vĩ mô của
nhà nớc nên còn có nhiều điều mới mẻ và bỡ ngỡ nên chính phủ Việt Nam lại càng có
vai trò to lớn trong việc hớng nền kinh tế đi theo đúng mục tiêu đã chọn.Với hiểu biết
của một sinh viên mới đợc hớng dẫn học tập môn học này, em xin đợc trình bày những
hiểu biết của mình về vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đồng
thời liên hệ đến vị trí kinh tế của chính phủ ở nớc Cộng hoà XHCN Việt Nam trong
giai đoạn từng bớc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc.
phần I : vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị tr-
ờng
I.Ưu thế và khuyết tật của thị trờng:
Để hiểu rõ vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trờng, trớc hết ta phải hiểu

khái niệm về thị trờng và cơ chế thị trờng.
1.Khái niệm cơ chế thị trờng:
a.Thị trờng: Có rất nhiều khái niệm về thị trờng tuỳ theo mỗi quan điểm,mỗi
góc độ khác nhau song một khái niệm tơng đối khái quát nhất là: Thị trờng là một
quá trình trong đó ngời mua và ngời bán một thứ hàng tác động qua lại nhau để xác
định giá cả và số lợng hàng (Paul A.Samuelson).
Thị trờng là yếu tố cơ bản của môi trờng kinh doanh, là nơi hình thành các quan
hệ kinh tế. Các quan hệ kinh tế này là cơ sở quan trọng để hình thành cơ cấu kinh tế.
Thông qua thị trờng các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các khu vực kinh tế mới đợc
biểu hiên. Thị trờng có khả năng dự báo và hớng dẫn ngới sản suất và tiêu dùng trong
hành vi kinh tế. Nói một cách khác,trong nền kinh tế hàng hoá tất nhiên tồn tại một cơ
chế thị trờng.
b.Cơ chế thị trờng (Sự vận động của thị trờng ): Cơ chế thị trờng là một hình
thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân ngời tiêu dùng và các nhà doanh nghiệp tác
động lẫn nhau qua thị trờng để xác định 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế (Paul
A. Samuelson ). Ba vấn đề trung tâm đó là: sản xuất ra cái gì; sản xuất nh thế nào và
sản xuất cho ai.
Sản xuất cái gì: Nhằm thoả mãn nhu cầu của ngời tiêu dùng và còn do khả năng
kỹ thuật và chi phí sản xuất quyết định. Trong nền kinh tế thị trờng,việc sản xuất ra cái
gì khác so với nền kinh tế tự nhiên ở chỗ:trong nền kinh tế tự nhiên họ sản xuất ra
những gì mà họ cần để phục vụ cho mục đích tiêu dùng trực tiếp của mình, còn trong
nền kinh tế thị trờng các nhà doanh nghiệp sản xuất ra những mặt hàng mà thị trờng
cần. Cho nên giá cả chính là tín hiệu tập trung nhất mách bảo cho ngời ta sản xuất ra
cái gì. Ngời tiêu dùng sẽ bỏ phiếu bằng tiền cho những gì cần sản xuất
Sản xuất nh thế nào: Là do cạnh tranh giữa những ngời sản xuất quyết định. Để
có sự cạnh tranh về giá cả và lợi nhuận thì các nhà doanh nghiệp phải biết sử dụng hợp
lý nguồn lực mà mình có để tạo ra chi phí đầu vào thấp và chi phí đầu ra hợp lý mà thị
trờng chấp nhận đợc
Sản xuất cho ai: Trong nền kinh tế thị trờng, các hãng sản xuất ra những loại
hàng hoá và dịch vụ cho những ngời có nhu cầu và có khả năng thanh toán cho những

nhu cầu đó. Đối với ngời tiêu dùng, giá cả quyết định quy mô tiêu dùng và do đó
quyết định mức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ trong xã hội.
Tóm lại, cơ chế thị trờng là một loại cơ chế kinh tế lấy sự vận động của thị trờng
để biểu hiện, mà sự vận động của thị trờng lại cực kỳ phức tạp, nó bị chi phối, ảnh h-
ởng, tác động qua lại của vô vàn yếu tố. Cơ chế thị trờng có những u thế và khuyết tật
của nó mà ta phải nắm đợc để có biện pháp phát huy những u điểm của nó đồng thời
khắc phục những khuyết tật đó .
2.Ưu thế của thị trờng:
Nền kinh tế thị trờng ra đời là một tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi
quốc gia. Nó mang trên mình những u thế mà không một nền kinh tế nào sánh đợc với
nó.
Thứ 1:Đó là sự tự do về các hoạt động kinh tế. Có nghĩa là có sự đa dạng hoá các
thành phần kinh tế để phát huy đợc hết năng lực tìm tòi và sáng tạo của mỗi doanh
nghiệp nhằm tạo ra đợc lợi nhuận cao nhất góp phần làm đất nớc giàu mạnh.
Thứ 2:Trong nền kinh tế thị trờng thì kinh tế t nhân chiếm u thế bởi vì đại đa số các
loại hình hoạt động kinh tế t nhân có quy mô nhỏ với khả năng thích ứng nhanh, nhạy
trớc những thay đổi của thực tế. Mặt khác, họ không phải chi trả lơng cho bộ máy viên
chức cồng kềnh nh trong quản lý kinh tế quốc doanh, vì thế thu đợc lợi nhuận lớn hơn.
Thứ 3:Phi tập trung hoá các quyền lực kinh tế có nghĩa là sự vận động của nền kinh
tế thị trờng gắn liền với việc tồn tại các loại hình sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất,
với quy luật canh tranh đã làm phân tán quyền lực về mặt kinh tế trong từng ngành
cũng nh trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua cạnh tranh thị trờng dẫn dắt ngời sản
xuất-kinh doanh vào nơi đầu t có lợi nhất. Điều này làm cho cơ cấu sản xuất xã
hội,ngành cũng có sự thay đổi theo yêu cầu của thị trờng.
Thứ 4:Lợi nhuận là động lực cao nhất để thúc đẩy quá trình sản xuất. Từ đó nó trả
lời các câu hỏi sản suất ra cái gì,sản suất nh thế nào và sản xuất cho ai. Nó biết kết hợp
các nguồn lực một cách hợp lýnhất để sản xuất ra một khối lợng sản phẩm lớn nhất với
chi phí thấp nhất,từ đó tối đa hoá đợc lợi nhuận. Nền kinh tế thị trờng vận dụng đợc
năng lực tối đa của nền kinh tế về vốn, kinh nghiệm lao động.
Thứ 5:Trong nền kinh tế thị trờng, tất cả các ngành thuộc các lĩnh vực khác nhau

thì yếu tố chung duy nhất tác động đến doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận. Các doanh
nghiệp chỉ khác nhau ở hình thái quy mô tổ chức. Nhng chúng có điểm giống nhau là
hoạt động trực tiếp với thị trờng. Do đó họ là những ngời dám chịu trách nhiệm trớc
các quyết định của mình, từ đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có trình độ,năng lực tổ
chức kinh doanh.
3.Những khuyết tật của cơ chế thị trờng :
Bên cạnh những u điểm có thể nói là tuyệt vời của nền kinh tế thị trờng thì trong
quá trình vận động thì nó nảy sinh các nhợc điểm sau:
Thứ 1:Sự tác động, điều khiển của bàn tay vô hình mang tính chất tự phát, mù
quáng vì không ai biết trớc đợc cung cầu của xã hội.
Thứ 2:Thị trờng mang trên mình những thông tin không đầy đủ nên dễ dẫn đến mất
cân đối trong nền kinh tế.
Thứ 3:Sự vận động của cơ chế thị trờng dẫn đến sự phân hóa sâu sắc giữa giàu và
nghèo bởi trên thơng trờng chỉ tồn tại những kẻ mạnh ,từ đó có sự mất bình đẳng về
kinh tế-xã hội.
Thứ 4:Thị trờng phát triển dẫn đến độc quyền do đó làm giảm động lực phát triển.
Thứ 5:Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nó gây ra những tệ nạn xã hội nh:
hàng giả, buôn lậu, tham nhũng, hối lộ
Thứ 6:Thị trờng trong nhiều trờng hợp là kìm hãm chứ không phải là thúc đẩy tiến
bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Thứ 7:Hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trờng tàn phá môi sinh một cách ghê
gớm, tình trạng ô nhiễm môi trờng đang ở mức báo động ở nhiều quốc gia.
Chính những khiếm khuyết đó đã gây ra sự lãng phí của cải xã hội, do sự nhận
thức nhu của cầu thị trờng của từng đơn vị là độc lập, là riêng lẻ dẫn đến đầu t trùng
lặp, gây lãng phí. Đồng thời do sự cạnh tranh giành giật lợi nhuận dẫn đến việc chi phí
cho quảng cáo là quá mức cần thiết. Mặt khác, các lĩnh vực thu đợc ít lợi nhuận hoặc
không có lợi nhuận lại không đợc các doanh nghiệp chú ý, mà chính những hàng hoá
đó lại là những cơ sở, tiền đề cho nền kinh tế phát triển, đó chính là cơ sở hạ tầng của
xã hội, mạng lới giao thông,môi trờng sinh thái Chính vì vậy, phải có sự can thiệp
hữu hiệu của nhà nớc để đảm bảo sự công bằng, hiệu quả và ổn định cho nền kinh tế,

xã hội .
II.Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trờng:
Ta đã xem xét những u, nhợc điểm của cơ chế thị trờng. Tuy cơ chế thị trờng
vẫn tồn tại tính hai mặt nhng hiện nay vẫn đợc tất cả các quốc gia trên thế giới tiến
hành. Tại sao vậy? Bởi vì không một quốc gia nàolà không có sự điều tiết của chính
phủ đối với nền kinh tế. Chính sự điều tiết đó đã làm giảm bớt hoặc khắc phục những
hậu quả của cơ chế thị trờng làm cho cơ chế thị trờng u việt hơn hẳn so với các cơ chế
kinh tế khác và chính phủ dễ dàng hơn trong việc hớng nền kinh tế đi đúng mục tiêu
mà mình đã đề ra.
1.Mục tiêu của kinh tế vĩ mô:
Các quốc gia đều luôn luôn hớng về mục tiêu chính là: sản lợng cao, công ăn
việc làm đầy đủ, ổn định giá cả và cán cân ngoại thơng
Mục tiêu thứ 1:là sản lợng cao cả trên thực tế lẫn tiềm năng. Ngày nay, thớc đo
cuối cùng để đánh giá thành công kinh tế, là khả năng của một nớc để tạo ra sản lợng
cao và tăng nhanh đợc sản lợng hàng hoá và dịch vụ kinh tế <Paul Samuelson>.Có
nghĩa là tốc độ tăng trởng kinh tế ở mức cao.
Mục tiêu thứ 2:là công ăn việc làm ở mức cao và thất nghiệp thấp ở mức thất
nghiệp tự nhiên. Bởi vì một quốc gia càng tạo ra đợc nhiều công ăn việc làm thì nền
kinh tế đó đang ở trong thời kỳ phát triển cao.
Mục tiêu thứ 3:là ổn định giá cả và tỷ lệ lạm phát thấp. Ôn định giá cả là làm cho
sự biến động của giá cả là không lớnvà không đột ngột để giới kinh doanh có thể đoán
đợc nhằm định hớng đầu t cho mình. Khi giá cả của tất cả hàng hoá đồng loạt tăng lên
thì ngời ta gọi là lạm phát. Các quốc gia luôn muố duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức một
con số hoặc hai con số ở mức thấp có thể chấp nhận đợc, các chính phủ tìm mọi cách
để giữ tỷ lệ lạm phát dao động quanh tỷ lệ lạm phát nói trên.
Mục tiêu thứ 4: Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn địn tỷ giá hối đoái. Hầu
hết nền kinh tế của các nớc đều là nền kinh tế mở cửa, buôn bán với nớc ngoài do đó
luôn tồn tại việc xuất-nhập khẩu hàng hoá hoặc vay mợn giữa các nớc Cân bằng cán
cân thanh toán và ổn định tỷ giá hối đoái nhằm làm cho cán cân hơng mại không có
những cú sốc lớn .

2.Chức năng kinh tế của chính phủ:
Khi thảo luận vai trò của chính phủ, chúng ta thờng đơng chấp nhận rằng chính
phủ là ngời đề ra luật lệ đi đờng. Để khẳng định vai trò của mình chính phủ thực hiện
các chức năng của mình.
Hiệu quả,nh đã nói ở trên, các nền kinh tế trên thực tế đôi khi chịu thất bại thị
trờng. Ơ hệ thống kinh tế cạnh tranh, nhiều nhà sản xuất đơn giản không biết kỹ thuật
sản xuất rẻ nhất, và chi phí sản xuất không hạ xuống mức tối thiểu đợc. Trên thị trờng
thực tế, một doanh nghiệp có thể có lãi bằng cách giữ giá cao cũng nh bằng cách giữ
mức sản xuất cao. Trong nhiều lĩnh vực khác có rất nhiều tác động bên ngoài, vì ô
nhiễm độc hại hoặc vì kiến thức quí giá, đối với các nhà doanh nghiệp khác hoặc ngời
tiêu dùng. Trong mỗi một trờng hợp này, một thất bại thị trờng dẫn đến sản xuất
không hiệu quả hoặc tiêu dùng không hiệu quả, và ở đây, chính phủ có thể đóng vai
trò chữa bệnh. Nhng trong khi đánh giá vai trò của chính phủ chữa bệnh kinh tế,
chúng ta cũng phải cảnh giác với những thất bại của chính phủ - đó là tình huống
chính phủ gây thêm bệnh hoặc làm cho bệnh trầm trọng thêm.
Cạnh tranh không hoàn hảo. Một sai lệch nghiêm trọng của cạnh tranh hoàn
hảo là cạnh tranh không hoàn hảo hoặc nhân tố độc quyền.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ định nghĩa chinnhs xác của nhà kinh tế về ngời
cạnh tranh hoàn hảo . Mới chỉ có một vài địch thủ cha đủ hco cạnh tranh hoàn hảo.
Định nghĩa kinh tế về cạnh tranh hoàn hảo trên một thị trờng là có đủ một số lợng
doanh nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh đến mức không có một doanh nghiệp nào có thể
ảnh hởng đến giá cả của hàng hoá đó. Một ngời cạnh tranh không hoàn hảo là một
ngời mà hành động có thể ảnh hởng đến giá của một mặt hàng. Thực tế, điều này có
nghĩa là hầu hết các ông chủ doanh nghiệp, có lẽ trừ số hàng triệu nhà nông mà từng
ngời một sản xuất ra một phần không đáng kể trong toàn bộ thu hoạch, đều là những
ngời cạnh tranh không hoàn hảo. Ơ đầu cực cạnh tranh không hoàn hảo là nhà độc
quyền, ngời duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể.
Toàn bộ sinh hoạt kinh tế là sự kết hợp giữa các nhân tố độc quyền và cạnh
tranh. Cạnh tranh không hoàn hảo chứ không phải cạnh tranh hoàn hảo là hình thái
chính. Nhng nói rằng, Một doanh nghiệp có thể tác động tới giá cả sản phẩm của mình

không có nghĩa là độc tài . Phần sau chúng ta sẽ thấy rõ, một doanh nghiệp không
thể định giá hàng hoàn toàn theo ý muốn riêng mà vẫn có lãi. Doanh nghiệp đó phải
tính đến giá của các hàng có thể thay thế cho hàng của mình. Thậm chí nếu doanh
nghiệp đó sản xuất ra một loại dầu đốt đã có mác với những đặc tính độc đáo, họ vẫn
phải tính đến giá của các loại dầu đốt khác cũng nh giá của củi, khí đốt và chất cách
nhiệt. Nh vậy, sức mạnh kinh tế của những ngời cạnh tranh không hoàn hảo luôn bị
kiềm chế phần nào.
Các ông chủ doanh nghiệp và công nhân vừa a vừa ghét cạnh tranh khi nó giúp
chúng ta mở rộng thị trờng. Nhng chúng ta gọi nó là có tính chất đục đẽo, không
công bằng hoặc tai hại khi đối thủ cạnh tranh của ta làm chúng ta chúnh ta mất
lợi nhuận. Những công nhân sống phụ thuộc vào giá bán sức lao động của mình trên
thị trờng có thể là những ngời đầu tiên la ó khi cạnh tranh nớc ngoài đe doạ tiền lơng
của họ ở trong nớc.
Khi sức mạnh độc quyền- tức là khi một doanh nghiệp lớn có khả năng tác động
đến giá cả ở một thị trờng nào đó- thực sự trở thành quan trọng về kinh tế, chúng ta sẽ
thấy giá cả cao hơn mức hiệu quả, kiểu mẫu méo mó về cầu và sản xuất, và lợi nhuận
siêu thờng. Những lợi nhuận này có thể bị biến thành điều quảng cáo lừa dối hoặc là
thậm chí có thể mua ảnh hởng và sự bảo hộ của ngành lập pháp.
Chính phủ không coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu. Từ những năm
1890 chính phủ Liên bang đã ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để tăng
hiệu lực của hệ thống thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo của chúng ta.
Tác động bên ngoài. Một cách thứ hai để cơ chế thị trờng không bị kiềm chế có
thể dẫn đến kết quả không có hiệu quả xuất khẩu khi có nhân tố tác động bên ngoài.
Nhng trên thực tế, nhiều tác động qua lại diễn ra bên ngoài các thị trờng. Doanh
nghiệp sử dụng tài nguyên hiếm nh không khí hoặc nớc sạch mà không trả tiền cho
những ngời phải sống trong bầu không khí bị ô nhiễm hoặc nớc bị bẩn. Doanh
nghiệpB, đóng ở giữa một khu vực dân c thuê một ngời bảo vệ mặt mũi dữ tợn canh
giữ nhà máy của mình;nh vậy làm cho bọn lu manh vì sợ cũng tránh hành nghề ở các
nhà dân lân cận. Trong những trờng hợp đó, một cái xấu về kinh tế và một cái tốt về
kinh tế đã đợc chuyển giao tới những đối tợng bên ngoài các thị trờng. Tác động bên

ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con ngời tạo ra chi phí lợi ích cho doanh nghiệp
khác hoặc nguời khác mà những doanh nghiệp hoặc con ngời nào không đợc nhận
đúng số tiền cần đợc trả hoặc không phải trả đúng số chi phí phải trả.
Vì xã hội chúng ta đã trở nên đông dân hơn xa, vì sản xuất ngày càng dựa trên
những quy trình sử dụng chất độc tác động bên ngoài đã từ những phiền toái nhỏ mà
trở thành những mối đe doạ lớn. Kết quả là chính phủ đã sử dụnh đến luật lệ điều tiết
hành vi kinh tế nh là một cách để ngăn chặn những tác động tiêu cực bên ngoài nh ô
nhiễm nớc và không khí, khai thác đến cạn khoáng sản, chất thải-gây nguy hiểm thức
ăn, uống thiếu an toàn và các chất phóng xạ
Những ngời phê phán việc quy định luật lệ than phiền rằng hoạt động kinh tế
của chính phủ có tính chất cỡng bức không cần thiết. Chính phủ giống nh cha
mẹ, luôn nói không đợc: Không đợc bán thiếu cân, không đợc sử dụng lao động trẻ
em, không đợc để ống khói nhà máy nhả khói ra bầu trời, không đợc bán hoặc hút
Cocaine.v.v
Mặt khác, khi kinh doanh, các nhà sản xuất luôn muốn thu đợc lợi nhuận cao
nhất, nguồn vốn quay vòng nhanh Do đó, một số loại hàng hoá quan trọng cho việc
phát triển kinh tế, cho sự bảo đảm an ninh trật tự cho nền kinh tế lại không đợc đầu t
vì nó không mang lại lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít. Vì thế chính phủ pnải đầu t vào
các loại hàng hoá này. Sự can thiệp của chính phủ vào thị trờng để nâng cao hiệu quả
của nền kinh tế chứng tỏ những việc làm nh thế không phải do ý thích .(Paul
A.Samuel).
Công bằng. Cho đến nay chúng ta đã tập trung vào các thiếu sót trong vai trò chỉ
đạo của bàn tay vô hình-những sự thiếu hoàn hảo có lẽ có thể sửa chữa đợc bằng sự
can thiệp đúng đắn. Nhng hãy tạm cho rằng nền kinh tế hoạt động hoàn toàn có hiệu
quả-luôn ở trên ranh giới khả năng sản xuất và không bao giờ ở bên trong ranh giới
này cả, luôn chọn đúng số lợng hàng hoá công cộng so với hàng hoá t nhân.v.v Nhng
thậm chí nếu hệ thống thị trờng hoạt động hoàn hảo nh vừa mô tả thì nhiều ngời vẫn
không cho nó là lý tởng. Tại sao vậy?
Thứ nhất, hàng hoá đi theo số phiếu bằng đồng đô la chứ không phải là theo nhu
cầu lớn nhất. Một con mèo của ngời giàu có thể đợc nhận số sữa mà một đứa trẻ nghèo

cần có để đợc khoẻ mạnh. Có phsải là do cung cầu hoạt động kém không? Hoàn toàn
không vì cơ chế thị trờng đang làm đúng chức năng-nó đặt hàng vào tay ngời có thể
trả tiền nhiều nhất, ngời có nhiều phiếu bằng tiền nhất. Những ngời bảo vệ cơ chế giá
cả và những ngời phê phán nó cần thừa nhận rằng một hệ thống thị trờng có hiệu quả
có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. Nếu một nớc chi tiêu về thức ăn cho súc vật làm
cảnh nuôi trong nhà nhiều hơn là về giáo dục đại học cho ngời nghèo thì đó là một
khuyết điểm của việc phân phối thu nhập, chứ không phải là của thị trờng. Nhng, một
kết quả nh vậy có thể không chấp nhận đợc về mặt chính trị hoặc đạo lý. Một xã hội
không cần chấp nhận kết quả của những thị trờng có tính cạnh tranh-sự sống còn của
những kẻ sống sót-coi đó là quyền thiêng liêng hoặc công lý trên đời. Bàn tay vô hình
có thể dẫn chúng ta đến giới hạn bên ngoài của ranh giới khả năng sản xuất nhng
không nhất thiết nó phân phối sản lợng đó một cách có thể chấp nhận đợc. Và một khi
xã hội dân chủ không thích sự phân phối phiếu đô-la trong mức hệ thống thị trờng thả
lỏng thì nó có biện pháp thay đổi kết quả thông qua những chính sách phân phối lại.
Thứ hai, do tỉ suất thuế thấp không thể giúp gì cho những ngời hoàn toàn không có
thu nhập.trong những thập kỷ gần đây chính phủ đã xây dựng một hệ thống hỗ trợ thu
nhập: Giúp đỡ cho ngời già, ngời mù, ngời bị tàn tật, cũng nh bảo hiểm thất nghiệp
cho những ngời không có công ăn việc làm. Hệ thống trả tiền chuyển dịch này tạo ra
một mạng lới an toàn bảo vệ những ngời không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế.
Cuối cùng, chính phủ đôi khi trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu nhập thấp.
Nhờ quá trình tăng trởng kinh tế và những chơng trình phúc lợi tạo ra mức sống tối
thiểu, phần lớn cảnh túng quẫn ghê gớm và dễ nhìn thấy của chủ nghĩa t bản thế kỷ 19
đã bị xoá bỏ, một kiểu nghèo đói dai dẳng hơn của thế kỷ 20 còn tồn tại .
Ôn định. Ngoài vai trò thúc đẩy hiệu quả và công bằng, chính phủ cũng tham
gia vào chức năng kinh tế vĩ mô là thúc đẩy sự ổn định kinh tế. Từ khi ra đời, chủ
nghĩa t bản đã từng gặp phải những thăng trầm chu kỳ của lạm phát (giá cả lên) và suy
thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tợng này rất dữ dội, nh thời kỳ siêu
lạm phát ở Đức trong những năm 1920, đến mức tiếp sau đó là rối loạn xã hội, cách
mạng và chiến tranh. Đôi lúc, nh thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ trong những năm 1930,
khó khăn gian khó kéo dài một thập kỷ vì các nhà lãnh đạo chính trị không có đủ hiểu

biết kinh tế để có biện pháp phục hồi kinh tế. Gần đây hơn, đầu những năm 1980,
chính phủ Mỹ và các nớc khác đã có biện pháp nhằm giảm tỷ lệ lạm phát cao. Những
biện pháp này đã dẫn đến thất nghiệp cao và lạm phát thì giảm. Nhng trong thành
công lại có hạt giống của thất bại. Bằng cách bảo đảm một thời kỳ nhiều công ăn việc
làm và tăng trởng nhanh, nhiều nớc đã vô tình nuôi dỡng một nền kinh tế trong đó
nhân dân bắt đầu cho rằng phồn vinh là lẽ đơng nhiên. Nhiều nớc đảm bảo cho công
nhân và ngời hởng thu nhập định kỳ mức sống trong điều kiện thời tiết xấu nh mức
sống chỉ có thể có đợc với thời tiết tốt. Trong các hệ thống giá cả, tiền lơng và hỗ trợ
thu nhập có những điểm cứng nhắc. Khi những rối loạn của những năm 1970 xảy ra
sau hai lần tăng mạnh giá dầu lửa, mất mùa ngô, trục trặc trong hệ thống tài chính
quốc tế-ngời ta đã không giữ đợc lời hứa. Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, không
có một nền kinh tế ở quốc gia nào đều luôn ổn định mà nó luôn có sự biến động. Có
những thời kỳ nền kinh tế cực kỳ phồn thịnh nhng cũng có lúc nền kinh tế nằm trong
vùng đại suy thoái do nhiều nguyên nhân: do lạm phát cao, những thay đổi của nền
kinh tế thế giới Do đó chính phủ góp phần làm cho nền kinh tế dần dần ổn định bằng
cách đa ra những chính sách hợp lý. Các mục tiêu của đời sống kinh tế vĩ mô không
phải là vấn đề để bàn cãi gay gắt nữa. Nhng các nớc có thể đạt đợc các mục tiêu đó
một tốt nhất nh thế nào? Một nớc muốn cải tiến thành tựu của mình có thể có những
sự lựa chọn gì? Trả lời cho câu hỏi này nằm một phần trong các công cụ của chính
sách kinh tế vĩ mô .
Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm hai nhóm yếu tố: Cơ chế thị trờng-nhóm yếu tố
chịu sự chi phối của bàn tay vô hình tức các quy luật kinh tế thị trờng . Nhóm yếu
tố này mang tính chất tự điều chỉnh. Nhóm hai là sự quản lý của chính phủ ở tầm vĩ
mô, nhóm này gắn liền với bàn tay hữu hình , tức các công cụ quản lý của nhà nớc
nh: pháp luật, chính sách, kế hoạch Nh vậy không thể điều tiết sự vận động của nền
kinh tế thị trờng khi chỉ có một trong hai yếu tố trên, điều đó giống nh ngời ta định
vỗ tay bằng một tay
Tóm lại, chính phủ có vai trò thúc đẩy nền kinh tế hớng tới sự công bằng, hiệu quả
và ổn định. Tuy nhiên chính phủ không thể hô hào nhân dân là phải làm thế này hay
thế kia thì mới đạt đợc hiệu quả mà chính phủ phải sử dụng các công cụ của kinh tế vĩ

mô đang có trong tay một cách hữu hiệu nhất để thực hiện vai trò không thể thiếu đợc
đối với nền kinh tế đất nớc .
3.Các công cụ điều tiết của chính phủ :
Trong nhiều trờng hợp chính phủ không thể ngồi chờ cơ chế tự ổn định của kinh
tế thị trờng đợc mà phải nhanh chóng, trực tiếp sử dụng các cộng cụ của kinh tế vĩ mô
để điều tiết nền kinh tế. Một công cụ chính sách là một biến số kinh tế chịu sự quản lý
trực tiếp hay gián tiếp của chính phủ , thay đổi công cụ chính sách này sẽ có tác động
đến một hoặc nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô .
a.Hệ thống luật pháp :
Nó là hành lang an toàn cho các hoạt động kinh tế, đến mọi thành phần kinh tế
nhằm tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu t đồng thời đảm bảo trật tự kinh tế cũng nh
đảm bảo trật tự xã hội để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh. Bằng cách đa ra
các đạo luật, chính phủ đã buộc mọi ngời dân hay mọi tổ chức kinh tế phải tuân theo.
Hệ thống luật pháp xuyên suốt quá trình phát triển của xã hội và trong các hoạt động
kinh tế. Nó đa xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng vào khuôn khổ theo ý muốn
chủ quan của chính phủ. Hệ thống luật pháp ở mỗi nớc là có thể khác nhau và có thể
sửa đổi, bổ sung ở mọi thời điểm để phù hợp với từng giai đoạn của mỗi nớc.
b.Chính sách tài khoá:
Chính sách tài khoá bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế.
.Chi tiêu của chính phủ:
Các chính phủ không thể không chi tiêu bởi vì để tạo hiệu quả cho nền kinh tế thì
chính phủ phải bỏ tiền ra để xây dựng đờng xá, các ngành công nghiệp quan trọng nh
điện , đồng thời phải chi trả lơng cho cán bộ viên chức, quân đội. cảnh sát, trợ cấp
Chi tiêu của chính phủ cũng tơng tự nh việc đầu t của các doanh nhgiệp nhng khác ở
chỗ là chính phủ không thu đợc lợi nhuận trong cuộc đầu t này. Nhng bù lại nó nâng
cao hiệu quả của nền kinh tế, làm cho xã hội có sự công bằng hơn. Bởi vì chi tiêu của
chính phủ là một bộ phận của tổng cầu do đó nó làm cho tổng sản phẩm quốc dân thay
đổi. Trong trờng hợp sản lợng của nền kinh tế còn dới mức sản lợnh tiềm năng thì
chính phủ tăng cờng chi tiêu đẻ làm tăng tổnh cầu từ đó làm cho sản lợng tiến gần sản
lợng tiềm năng. Trong trờng hợp ngợc lại, sản lợng vợt qua sản lợng tiềm năng hay

trong thời kì lạm phát cao, chính phủ cắt giảm chi tiêu của mình để cùng với các công
cụ vĩ mô khác làm giảm lạm phát. Điều đó chứng tỏ chính phủ không thể chi tiêu một
cách lãng phí nguồn ngân sách mà vấn đề là chi tiêu thế nào cho hợp lí trong từng thời
kỳ. Bên cạnh đó, chính phủ cần phải kiểm soát chặt chẽ nhu cầu chi tiêu của mình để
hạn chế tối đa việc thâm hụt ngân sách. Trong trờng hợp thiếu hụt ngân sách chính
phủ phải vay tiền dân chúng hoặc vay nớc ngoài để bù đắp ngân sách.
Tóm lại, tất cả các chính phủ ở các quốc gia đều phải chi tiêu nhng không phải tự
nhiên có tiền để chi tiêu mà phải có nguồn thu. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà
nớc là thuế, còn các nguồn thu khác là không đáng kể.
.Thuế khoá :
Thuế khoá là khoản đóng góp mang tính pháp lệnh mà nhà nớc bắt buộc mỗi công
dân và các tổ chức kinh tế phải nộp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Tất cả
các quốc gia đều quy định mức thuế suất với mỗi loại thuế và buộc mọi ngời phải tuân
theo. Các loại thuế đều làm giảm thu nhập của ngời dân dẫn tới mức chi tiêu cho tiêu
dùng của các hộ gia đình giảm. Thuế còn ảnh hởng đến việc đầu t của mỗi doanh
nghiệp, nếu thuế cao sẽ không khuyến khích đầu t, việc giảm các sắc thuế đánh vào
các khoản bổ sung cho đầu t hoặc kinh doanh máy móc thiết bị mới sẽ kích thích đầu
t ở nhiều ngành từ đó làm tăng nguồn vốn của nền kinh tế dẫn đến GDP sẽ tăng lên
trong tơng lai. Ngoài ra, thuế còn ảnh hởng đến việc xuất-nhập khẩu ở mỗi nớc. Nếu
các sắc thuế đánh vào các mặt hàng nhập khẩu cao thì sẽ hạn chế đợc việc nhập khẩu
các mặt hàng đó, tơng tự đối với xuất khẩu, từ đó chính phủ điều tiết đợc lợng hàng
hoá nội địa và nhập ngoại. Nh vậy, khi chính phủ muốn bảo hộ một loại mặt hàng nào
đó ở trong nớc thì chỉ cần tăng thuế xuất-nhập khẩu của mặt hàng đó lên cao đến mức
các doanh nghiệp không muốn nhập khẩu loại mặt hàng đó nữa.
Nh vậy, để ổn định sản lợng gần với sản lợng tiềm năng thì chính phủ có thể sử dụng
chính sách tài khoá bằng cách: Nếu các bộ phận của tổng cầu hạ thấp một cách
không bình thờng thì chính phủ phải kích thích nhu cầu bằng cách giảm thuế hoặc
tăng chi tiêu hoặc là kết hợp cả hai cách. Trong trờng hợp các bộ phận của tổng cầu
cao hơn mức bình thờng thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết
hợp cả hai cách.

c.Chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là một cônh cụ kinh tế vĩ mô đợc dùng tơng đối phổ biến của
chính phủ. Chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến đầu t t nhân, hớng nền kinh tế vào
mức sản lợng và việc làm mong muốn.
Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lợng cung về tiền và lãi suất. Thực
chất của chính sách tiền tệ là chính phủ thông qua ngân hàng trung ơng kiểm soát việc
cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Ngân hàng trung ơng kiểm soát bằng cách tăng hoặc
giảm lợng cung ứng tiền trong lu thông thông qua lãi suất hoặc chứng khoán Thông
thờng trong những thời kỳ lạm phát cao, ngân hàng trung ơng nâng lãi suất lên
cao(chính sách thắt chặt tiền tệ)để thu hút một khối lợng lớn tiền vào ngân hàng làm
cholợng tiền trong lu thông giảm. Hay trong thời kỳ nới lỏng tiền tệ,ngân hàng trung -
ơng giảm lãi suất hay mua chứng khoán của dân chúng để tăng khối lợng tiền trong lu
thông. Nh vậy, bằng cách thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ sẽ làm ảnh hởng đến đầu t,từ
đó sẽ ảnh hởng đến toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, tuy chính sách tiền tệ có tác động quan
trọng đến tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thực tế về mặt ngắn hạn. Song do tác động
đến đầu t, nên nó cũng có ảnh hởng lớn đến tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng về mặt
dài hạn.
d.Chính sách thu nhập:
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các công cụ mà chính phủ sử dụng nhằm
tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để kìm chế lạm pháp.
Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp cứng rắn nh:đồng lơng,đồng giá; những
quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá-lơng-tiền , đến các biện pháp linh hoạt nh-
:việc hớng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập
Chính sách thu nhập chỉ đặc biệt có ý nghĩa trong thời kỳ lạm phát cao. Thực chất
của chính sách thu nhập là chính sách về giá-lơng-tiền. Trong thời kỳ lạm phát cao
chính phủ thực hiện chính sách đônh giá và đông tiền lơng, tức là cố định giá cả và
tiền công trong một thời gian nhất định nhằm giảm bớt lợng tiền.
e.Chính sách kinh tế đối ngoại:
Trong nền kinh tế mở cửa thì không thể không có chính sách kinh tế đối ngoại để
sự trao đổi mua bán giữa các nớc đợc thuận lợi. Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm

nhiều loại công cụ nh: quản lý tỷ giá hối đoái, chính sách ngoại thơng, trợ giá, hàng
rào thuế quan, hạn nghạch. Việc tác động đến hàng hoá xuất-nhập khẩu vào giá cả
hàng hoá đó đều thông qua các công cụ này.Chẳng hạn nh để khuyến khích xuất khẩu
thì chính phủ có thể tác động đến tỷ giá bằng cách hạ thấp tỷ giá xuống làm cho giá
ngoại tệ giảm,điều đó là rất thuận lợi cho xuất khẩu, hoặc có thể tác động bằng cách
hạ thuế suất các mặt hàng xuất khẩu, hoặc trợ giá làm cho chi phí xuất khẩu hạ
xuống từ đó làm giá thành hạ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh với các hãng
sản xuất cùng loại mặt hàng ở các nớc khác. Nh vậy, những biện pháp này nhằm duy
trì sự cân bằng trên thị trờng ngoại hối và giữ cho xuất-nhập khẩu theo nh mong muốn
của chính phủ .
Tóm lại, đây là các công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của chính phủ, ngoài ra còn
có các công cụ khác nh các kế hoạch, các chơng trình phát triển Việc sử dụng các
công cụ kinh tế vĩ mô này trong từng thời kỳ hay ở mỗi quốc gia là không giống nhau.
Vì vậy, khi sử dụng chúng cần phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở quốc gia
mình .
Sự khác biệt giữa điều tiết của nhà nớc trongnền kinh tế chỉ huy và nền kinh tế
thị trờng ở chỗ :
Nền kinh tế là nền kinh tế mà chính phủ ở nớc đó trực tiếp giải quyết ba vấn đề cơ
bản của nền kinh tế. Còn trong nền kinh tế thị trờng có sự điều tiết của nhà nớc (nền
kinh tế hỗn hợp)thì cả chính phủ và thị trờng đều tham gia giải quyết ba vấn đề cơ bản
của nền kinh tế, có ngiã là kết hợp cả hai yếu tố là sự dung hoà của nhà nớc và thị tr-
ờng. Cách giải quyết đó là :
Sản xuất ra cái gì: Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nớc trực tiếp phân bố các nguồn
lực (đất đai, lao động, vốn, kỹ thuật )cho các ngành, các địa phơng, các đơn vị kinh tế
(các xí nghiệp, các công ty ), chính phủ quyết định cho công ty này sản xuất ra cái gì
và bao nhiêu. Còn trong nền kinh tế thị trờng, chính phủ để tự các doanh nghiệp sản
xuất ra những mặt hàng gì mang lại lợi nhuận cho họ, chính phủ tham gia sản xuất ra
những hàng công cộng hay còn gọi là xây dựng hạ tầng cơ sở để phục vụ cho nền kinh
tế, đồng thời nhà nớc kiểm soát một tỷ phần đáng kể của sản lợng thông qua việc đánh
thuế, tham gia vào việc định giá , chính phủ cũng tham gia vào việc sản xuất ra hàng

t nhân: sắt, thép
Sản xuất nh thế nào: Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nớc quy định công nghệ, kỹ
thuật sản xuất, quyết định mô hình và cách thức sản xuất. Việc thay đổi cũng phải đợc
sự đồng ý của nhà nớc. Trong nền kinh tế thị trờng chính phủ vì lợi ích chung của toàn
xã hội mà sẵn sàng nhập những công nghệ tốt và can thiệp những tổ chức, những công
ty nhập những công nghệ có hại cho cộng đồng.
Sản xuất cho ai: Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nớc quyết định phân chia tổng sản
phẩm quốc dân cho từng ngành, từng gia đìnhvà từng cá nhân. Có nghĩa là các đơn vị
sản xuất giao nộp hàng hoá đã sản xuất cho chính phủ, từ đó chính phủ phân phối đều
các mặt hàn đến các ngành, các gia đình thông qua tem phiếu. Trong nền kinh tế thị tr-
ờng thì cả nhà nớc và thị trờng tham gia vào việc phân phối. Nhà nớc thực hiện chế độ
trợ cấp cho những ngời nghèo, ngời về hu , trợ cấp cho những vùng bị thiên tai. Đối
với một số hàng hoá nhà nớc khuyến khích bằng cách giảm thuế, trợ cấp theo giá cả
(trợ giá) .
Qua đây ta thấy, nền kinh tế chỉ huy hoạt động kém hiệu quả hơn hẳn so với
nền kinh tế thị trờng có sự điều tiết của chính phủ do chỉ đợc điều hành bằng mệnh
lệnh, sản xuất không thông qua cung- cầu trên thị trờng, bên cạnh đó hệ thống cơ quan
nhà nớc rất đồ sộ làm cho nhà nớc phải có chi phí quá lớn vào hẹe thống này. Trên
thực tế cơ chế kinh tế chỉ huy này đã đợc áp dụng ở các nớc XHCN trớc đây và nó đã
bị tan rã .
Tuy nhiên, sự điều tiết của chính phủ trong nền kinh tế thị trờng không phải là
không có mặt trái của nó. Chẳng hạn nh: Đối với thuế quan, nó có tác động làm giảm
lợng hàng nhập khẩu và chính phủ thu đợc một khoản tiền từ loại thuế này, tăng lợng
hàng sản xuất trong nớc. Tuy nhiên, nó sinh ra chi phí ròng mà xã hội phải chịu để bù
đắp cho doanh nghiệp sản xuất thêm đồng thời ngời tiêu dùng phải cắt giảm tiêu dùng
khi có thuế quan hay nói cách khác nó là phần thiệt hại do ngời tiêu dùng phải cắt
giảm tiêu dùng. Hơn nữa, chính phủ dùng thuế quan để bảo vệ một số ngành trong n-
ớcbằng cách định mức thuế xuất-nhập khẩu hàng hoá nào đó cao đến mức chấm dứt
việc nhập khẩu hàng hoá đó, do vậy ngành sản xuất loại hàng hoá tơng tự ở nội địa đ-
ợc bảo hộ. Điều này làm cho ngành đó không có tính cạnh tranh, không tìm kiếm

những phơng thức sản xuất mới để giảm chi phí dẫn đến hiệu quả sản xuất giảm .
Về hạn ngạch (quota) là giới hạn số lợng hàng nhập khẩu quota do chính phủ cấp
và tuỳ từng tình hình mà chính phủ cho phép nhập khẩu từng loại hàng hoá là bao
nhiêu. Tác động của quota cũng giống nh của thuế quan nhng khác một điều là phần
thuộc về chính phủ khi có thuế quan thì bây giờ lại thuộc về những ngời có quota. Do
vậy có sự tranh giành nhau để có quota nhập khẩu dẫn đến xuất hiện các tệ nạn xã hội
nh tham nhũng, hối lộ
Về chính sách tiền tệ có tỷ giá hối đoái thả nổi: Khi chính phủ thực hiện chính sách
thắt chặt tiền tệ (để chống lạm phát) làm cho lãi suất tăng lên, do đó việc đầu t vào nớc
này là rất hấp dẫn dẫn đến mức cầu về đồng tiền đó tăng, nên làm cho xuất khẩu giảm,
hàng nhập khẩu rẻ hơn (do giá trị đồng tiền nớc đó cao), làm cho xuất khẩu ròng giảm
từ đó tổng cầu (AD) giảm nên công ăn việc làm giảm, cán cân thơng mại bị thâm hụt.
Việc định giá đồng tiền quá cao cùng với tỷ giá hối đoái thả nổi làm ảnh hởng lớn đến
nền kinh tế. (Điều này thực tế đã xảy ra ở Mỹ và Nhật đầu những năm 80). Chính phủ
quy định mức lơng tối thiểu cao hơn mức lơng bình quân nhằm bảo vệ lợi ích của ngời
lao động, hạn chế sự bóc lột của ngời thuê công nhân. Mức lơng tối thiểu có thể đảm
bảo lợi ích trớc mắt cho một bộ phận công nhân nhng xét về mặt dài hạn nó làm thệt
hại đến lợi ích của toàn bộ lực lợng lao động ở chỗ làm tăng đội quân thất nghiệp. Nh
thế nó đã ảnh hởng không tốt đến việc sử dụng một nguồn lực quan trọng của xã hội.
Tơng tự, trên thị trờng hàng hóa, việc quy định mức giá tối thiểu cao hơn giá trị cân
bằng của thị trờng có thể đảm bảo lợi ích trớc mắt cho ngời bán nhbg trong dài hạn giá
tối thiểu không khuyến khích đổi mới kỹ thuật và hạ thấp chi phí do đó sẽ gây thiệt hại
cho toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ quy định chính sách giá tối đa tức là bằng cách
ban hành đạo luật quy định một mức giá thấp hơn giá trị cân bằng của thị trờng buộc
ngời mua phải thanh toán theo giá đó. Nó đợc sử dụng khi ở trên thị trờng nào đó hàng
hoá trở nên khan hiếm và có xu hớng tăng giá mạnh ảnh hởng xấu đến lợi ích kinh tế
của những ngời tiêu dùng. Việc quy định giá hàng hoá đó thấp hơn giá trị cân bằng
của thị trờng sẽ dẫn đến việc giảm sản lợng của các doanh nghiệp trong nớc và ngợc
lại làm tăng cầu của ngời tiêu dùng. Tình trạng khan hiếm hàng hóa đó xuất hiện và
ngời mua sẽ phải cạnh tranh một cách quyết liệt với nhau để mua đợc một lợng hàng

hạn chế với mức giá thấp. Chính phủ có thể dùng biện pháp tem phiếu để cung cấp l-
ợng hàng hóa có hạn với mức giá mà chính phủ mong muốn. Việc phát hành tem
phiếu này lại gắn liền với việc xuất hiện thị trờng chợ đen buôn bán tem phiếu hoặc
hàng hóa với giá cao, thêm vào đó là những ngời không có nhu cầu về hàng hóa đó
song vẫn đợc cung cấp tem phiếu sẽ sử dụng nó một cách lãng phí làm thiệt hại đến
hiệu quả chung của nền kinh tế .
Tuy trong quá trình chính phủ can thiệp vào thị trờng gặp phải nhiều mâu thuẫn
giữa hiệu quả, công bằng và ổn định, giữa dài hạn và ngắn hạn, nhng cơ chế kinh tế thị
trờng có sự điều tiết của chính phủ có sự u việt hơn cả và đợc tất cả các quốc gia trên
thế giới áp dụng .
phần II : vị trí kinh tế của chính phủ ơ nớc cộng hòa
xhcn việt nam trong giai đoạn từng bớc
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nớc
Đất nớc ta đang tự khẳng định mình bằng công cuộc Công nghiệp hóa và hiện
đại hóa . Mặc dù chúng ta mới đang lẫm chẫm từng bớc nhng có sự điều tiết của
chính phủ ở tầm vĩ mô thì cái đích trớc mắt nhất định chúng ta sẽ sớm đạt đợc. Để có
đợc những thành tựu đáng kể của ngày hôm nay, chính phủ nớc Cộng hòa XHCN Việt
Nam đã bao phen phải đơng đầu với những khó khăn thử thách. Điều đó cho thấy vai
trò to lớn của chính phủ Việt Nam trong quản lý nền kinh tế của đất nớc nói chung và
nhất là trong giai đoạn từng bớc công nghiệp hóa và hiệh đại hóa đất nớc. Thực tế
chứng minh rằng: Chính phủ Việt Nam luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối
với nền kinh tế của đất nớc .

I.Vị trí kinh tế của chính phủ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ chế:
Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ và Chiến lợc phát triển kinh tế-xã hội
đến năm 2000 đợc thông qua tại Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định sự lựa
chọn phát triển nền kinh tế theo định hớng xã hội chủ nghĩa .
Sự lựa chọn đó bắt nguồn từ nhận thức rõ những sai lầm trong việc xây dựng thể
chế kinh tế theo mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trực tiếp bằng mệnh lệnh hành
chính và cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu. Mô hình này quá đề cao vai trò thúc

đẩy và mở đờng của quan hệ sản xuất, mà không tính đến quy luật về sự phù hợp giữa
lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất, đem chủ nghĩa xã hội đối lập với thị trờng. Kết
quả của mô hình đó là nền kinh tế kém phát triển, thị trờng hạn hẹp và dẫn đến tình
trạng khủng hoảng thiếu .
Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa là nhận
thức mới của Đảng về con đờng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta. Đó là chế độ kinh
tế, trong đó mọi năng lực sản xuất đợc giải phóng, mọi tiềm năng của cá nhân, tập thể
và cộng đồng dân tộc đợc khai thác nhằm mục đích là phục vụ mục tiêu dân giàu, nớc
mạnh, tiến lên hiện đại đi liền với tự do, dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội .
Từ những thất bại phổ biến về mặt phát triển kinh tế ở hàng loạt nớc lựa chọn
mô hình kinh tế hiện vật, có thể rút ra kết luận: không phải chế độ kinh tế xã hội chủ
nghĩa thua kém chế độ kinh tế t bản chủ nghĩa, mà là kinh tế hiện vật thua kém kinh tế
hàng hóa. Phủ định thị trờng và quan hệ thị trờng, chủ nghĩa xã hội trớc đây đã phải
trả giá quá đắt cho cuộc thử nghiệm của mình. Mô hình kinh tế hiện vật với cơ chế
quản lý hành chinh tập trung quan liêu và bao cấp đã kìm hãm sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội và làm biến dạng chủ nghĩa xã hội .
Cần nhận thức rõ rằng, quan hệ hàng hóa-tiền tệ, quan hệ thị trờng không phải
là sản phẩm riêng của chủ nghĩa t bản, mà chúng ta đã có từ lâu trớc chủ nghĩa t bản.
Các quan hệ ấy sẽ còn tồn tại, phát triển trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội trong sự
tác động qua lại với tất cả các quá trình kinhtế khách quan khác .
Có thể nói, kinh tế hàng hóa với hình thức phát triển của nó là kinhtế thị trờng,
là loại hình kinh tế- xã hội đợc tổ chức thông qua thị trờng trong điều kiện có sự phân
công lao động xã hội. Nó đã tồn tại với t cách là hình thái kinh tế mang tính thích ứng
rất mạnh, có thể gắn với chế độ t hữu, và cũng có thể gắn với chế độ công hữu. Lịch sử
phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh rằng, cho đến nay cha có một hình thái kinh
tế nào hoạt động có hiệu quả hơn nền kinh tế thị trờng, vì thế không có lý do gì mà
chủ nghĩa xã hội lại không sử dụng nó nhằm mục đích phục vụ cho mục tiêu phát triển
của mình .
Kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa theo mô hình nào ? Trên thế giới
có nhiều loại mô hình kinh tế thị trờng :

-Kinh tế thị trờng xã hội của Cộng hòa liên bang Đức hoặc Thụy Điển .
-Kinh tế thị trờng kiểu Nhật Bản .
-Kinh tế thị truyền thống Tây Âu .
-Kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc .
Mỗi loại hình đều có những u điểm, nhợc điểm và những nét độc đáo riêng. Vì
thế, chúng ta cần khai thác những đặc trng phổ biến và những u điểm của các mô hình
kinh tế thị trờng ,nhng chắc chắn không có khuôn mẫu vạch sẵn cho mọi nớc. Đối với
từng nớc, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của nớc
mình, cũng nh hoàn cảnh quốc tế mà vạch ra những nét lớn của thể chế kinh tế thị tr-
ờng ,lộ trình tổng quát của bớc chuyển từ nền kinh tế hiện vật , với cơ chế quản lý tập
trung quan liêu sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc .
Phải nói rằng chuyển sang kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa là
bớc chuyển biến rất phức tạp, cha có tiền lệ trong lịch sử. Mấy năm qua, bên cạnh
những thành tựu lớn của đổi mới, chúng ta cũng đã thấm thía những hậu quả tiêu cực
mà kinh tế thị trờng mang lại, chúng ta cũng gặp nhiều thiếu xót, phạm nhiều sai lầm,
lệch lạc trong các chính sách xã hội, thậm chí không những chúng ta đã không phát
huy, không nhân lên, mà còn đánh mất một số thành quả đã đạt đợc trong các lĩnh vực
giáo dục, ytế, văn hóa, trong chính sách đối với nông dân, với đồng bào miền núi, với
các gia đình có công với cách mạng .
Tóm lại, lựa chọn mô hình kinh tế thị trờng và phát triển nền kinh tế thị trờng
không hề làm phơng hại đến chủ nghĩa xã hội, mà bằng các chính sách, biện pháp và
công cụ quản lý điều tiết, nhà nớc phục vụ các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, lợi dụng
cơ chế cạnh tranh của thị trờng để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lợng sản
xuất .
Trớc đây, mọi hoạt động của nền kinh tế đều do nhà nớc chỉ huy.Bây giờ, nền
kinh tế vận hành thông qua hai yếu tố cơ chế tự do của thị trờng và sự điều tiết vĩ mô
của chính phủ. Nhng không vì thế mà vai trò của chính phủ giảm đi mà trái lại chính
phủ ngày càng cho thấy tầm quan trọng của mình để đạt đợc mục tiêu chung mà mọi
nền kinh tế cùng mơ ớc, đó là: sản lợng cao, công ăn việc làm đầy đủ, ổn định giá cả
và cán cân ngoại thơng .

Chính phát huy cao độ mặt, mặt tích cực của cơ chế cạnh tranh và tự do hóa sản
xuất-kinh doanh, đồng thời thông qua chính sách và luật pháp giảm đến mức thấp nhất
mặt tiêu cực và hậu quả kinh tế-xã hội do cạnh tranh đem lại, nhằm đảm bảo phúc lợi
công cộng cũng nh công bằng xã hội, bảo vệ môi sinh, môi trờng. Trong bớc quá độ,
khi các luật chơi của thị trờng cha đợc thiết lập ổn định, thì không thể thả nổi cho
thị trờng tự điều tiết hoàn toàn, mà cần bắc những chiếc cầu nhỏ giữa kế hoạch vĩ
mô định hớng và kế hoạch vĩ mô của các doanh nghiệp lớn (sau này có thể là một số
tập đoàn kinh doanh). Đề ra những nhiệm vụ sản xuất-kinh doanh và đầu t trọng điểm
nhằm bảo đảm những cân đối chủ yếu của nền kinh tế, giữ thị trờng ổn định, từng bớc
thay đổi cơ cấu kinh tế theo thị trờng hiện đại, còn các nhu cầu thông thờng hàng ngày
chủ yếu để thị trờng tự điều tiết .
Xây dựng thị trờng thống nhất trong cả nớc, có tính đến đặc thù và trình độ phát
triển không đồng đều của các vùng, lãnh thổ và đặc điểm của ngành hàng . Từng bớc,
nhng tích cực xây dựng hệ thống thị trờng đồng bộ (thị trờng vốn, chứng khoán, bất
động sản, lao động cộng nghệ, thông tin ), nhanh chóng tiếp cận thị trờng quốc tế .
Chính phủ quản lý thị trờng bằng pháp luật, chính sách và các công cụ kinh tế ,
gắn kế hoạch vĩ mô định hớng với các chính sách và chơng trình kinh tế, tạo môi trờng
và hành lang cho thị trờng phát triển lành mạnh. Đồng thời, sử dụng những biện pháp
hành chính cần thiết để hạn chế những mặt trái và tiêu cực của thị trờng. Nhà nớc phải
làm sao có thực lực kinh tế làm chỗ dựa để ổn định kinh tế và định hớng thị trờng.
Chính phủ quản lý chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc công bằng và
hiệu quả. Bên cạnh các yếu tố sản xuất khác nh đất đai, vốn, trang bị công nghệ mới,
tài năng kinh doanh, chính phủ thực hiện sự điều tiết để tái phân phối, nhằm sử lý hài
hòa giữa tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội .
Cần khẳng định vai trò của chính phủ trong mô hình kinh tế thị trờng định hớng
xã hội chủ nghĩa ở nớc ta. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, khác với vai trò của chính
phủ dới chủ nghĩa t bản. Nếu mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu hạn chế sự
tăng trởng, nhng phần nào giải quyết đợc yêu cầu cân bằng, thì mô hình kinh tế thị tr-
ờng nếu không có sự điều tiết của nhà nớc, chắc chắn sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa tăng
trởng và cân bằng, giữa tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội là những mục tiêu quan

trọng mà chế độ xã hội chủ nghĩa phải đạt đợc .
II. Vị trí kinh tế của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn từng bớc công
nghiệp hóa và hiệh đại hóa đất nớc :
1.Công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam :
Công nghiệp hóa , hiện đại hóa hiểu theo nghĩa chung và khái quát là quá trình
biến một nớc có nền kinh tế lạc hậu thành một nớc công nghiệp . Đối với nớc ta, công
nghiệp hóa là quá trình chuyển td một nớc sản xuất nhỏ công nghiệp lạc hậu , công
nghệ và năng suất lao động thấp thành một nớc có cơ cấu công-nông nghiệp và dịch
vụ hiện đại , khoa học và công nghệ tiên tiến , năng suất lao động cao trong các ngành
kinh tế quốc dân .
Cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ là nền sản xuất lớn hiện đại, có
cơ cấu kinh tế hợp lý , có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học công nghệ
hiện đại đợc hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân .Do đó công nghiệp hóa hiện đại hóa là một tất yếu khách quan, một quy
luật kinh tế mang tính phổ biến . Ơ các nớc quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã
hội , cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa t bản dù có tiến bộ đến đâu , nó chỉ mới là
tiền đề vật chất chứ cha phải là cơ sở cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH đợc . Đối với
những nớc này, thực hiện quy luật chung nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa về mặt quan hệ sản xuất và vận dụng những thành tựu khoa học-công
nghệ mới của cách mạng khoa học-kỹ thuật, biến tiền đề vật chất của chủ nghĩa t bản
tạo thành cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phân bố lại một cách đồng đều
trong cả nớcvà tiếp tục hiện đại hoá ở trình độ cao hơn chủ nghĩa t bản.
Tại những nớc có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội nh ở n-
ớc ta, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đợc thực hiện bằng cách
công nghiệp hoá. Do vậy, những gì nói về tính tất yếu khác quan của việc xây dựng cơ
sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội cũng có giá trị để nói về tính tất yếu khách
quan của công nghiệp hoá.
Công nghiệp hóa và xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật có quan hệ chặt chẽ với
nhau , song không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Công nghiệp hoá chỉ là cách thức
tiến hành, còn xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật là mục đích phải đạt, công nghiệp hoá

hiểu theo nghĩa hẹp nó mang tính lịch sử, còn xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật lại là
mục tiêu và công việc phải tiếp tục qua các giai đoạn phát triển của phơng thức sản
xuất mới-cộng sản chủ nghĩa.
Thực hiện đúng đắn quá trình công nghiệp hoá có những tác dụng to lớn về
nhiều mặt.
-Tạo điều kiện biến đổi về chất lợng sản xuất, tăng năng xuất lao động, tăng sức chế
ngự của con ngời đối với tự nhiên, tăng trởng kinh tế và phát triển kinh tế, do đó góp
phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần quyết định sự thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội.
-Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng cờng vai trò kinh tế của nhà nớc, nâng
cao năng lực tích lũy, tăng công ăn việc làm nhờ đó làm tăng sự phát triển tự do và
toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con ngời-nhân tố trung tâm của nền sản
xuất xã hội.
-Tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cờng củng cố an ninh và quốc phòng
-Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ , đủ sức thực
hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
Sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa công nghiệp hoá
với lực lợng sản xuất. Công ngiệp hoá là để thực hiện xã hội hoá về mặt kinh tế, kỹ
thuật theo hớng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng, ý nghĩa quan trọng và toàn diện. Do
vậy, Đảng ta cho rằng: Phát triển lực lợng sản xuất, công nghiệp hoá đất nớc là
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta.
2. Vai trò chính phủ trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nớc ta :
Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung trớc đây, chính phủ quyết định tất cả. Có
ngời đã lầm tởng rằng trong một nền kinh tế thị trờng, chính phủ không có vai trò
đáng kể, mọi hoạt động sẽ chỉ do thị trờng quyết định. Đúng là đã từng có những nền
kinh tế thị trờng nh vậy, nhng đó là những nền kinh tế thị trờng tồn tại cách đây nhiều
thế kỷ trớc khi chủ nghĩa t bản độc quyền xuất hiện. Kể từ khi chủ nghĩa t bản độc
quyền xuất hiện, thì chính các độc quyền đã tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính hpủ tham gia điều tiết các hoạt động và mức độ
tham gia ngày càng nhiều tới mức ngày nay ở nhiều nớc phơng Tây ngời ta phải chủ

trơng giảm bớt sự điều tiết của chính phủ, phi nhà nớc hóa. Nh vậy, cho đến nay tồn
tại song hành hai cơ chế, cơ chế thị trờng (bàn tay vô hình), và cơ chế điều tiết của
chính phủ (bàn tay hữu hình). Gọi là hai cơ chế nếu chúng ta muốn tách để xem xét
chúng một cách tơng đối độc lập. Trên thực tế, chúng có quuan hệ với nhau rất chặt
chẽ. Trong cơ chế thị trờng, cạnh tranh và độc quyền là hai yếu tố chủ yếu chi phối.
Cạnh tranh là một động lực phát triển của kinh tế thị trờng nhng cũng có những
khuynh hớng cạnh tranh phi kinh tế, dùng những thủ đoạn bẩn thỉu để bóp chết lẫn
nhau. Những khuynh hớng cạnh tranh không lành mạnh nh vậy phải đợc ngăn chặn.
Độc quyền đã có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung các nguồn lực
để phát triển, nhng độc quyền có mặt thối nát của nó là bóp chết các sáng kiến. Nếu để
cho thị trờng tự do tác động, thì các khuynh hớng tích cực và tiêu cực cùng tác động,
do vậy đã gây ra các tác động không tốt cho sự phát triển của nền kinh tế. Những cuộc
khủng hoảng nghiêm trọng và đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh thế giới diễn ra vào
năm 1929-1933 là một ví dụ nổi bật. Sự can thiệp của chính phủ chính là nhằm hạn
chế những tác động tiêu cực đó và hớng nền kinh phát triển có hiệu quả.Từ đó liên hệ
tới vai trò của chính phủ Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn từng bớc công nghiệp
hóa và hiện đại hóa .
Ai cũng thấy số nớc đạt đợc các thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế không
nhiều. Đã có nhiều cách giải thích khác nhau về sự thần kỳ kinh tế của Nhật Bản, về
các thành tựu kinh tế của NIEs. Có ngời đã nhấn mạnh đến yếu tố về sự kết hợp giữa
công nghệ phơng Tây và truyền thống của Nhật Bản.Có ngời nhấn mạnh đến tinh thần
lao động cần cù, miệt mài, sáng tạo của ngời Nhật. Cũng có ngời đã nhấn mạnh tới tài
ba của những nhà quản lý Nhật Bản. Nhng trong đó, nguyên nhân của những thành
công về kinh tế của các quốc gia trớc hết phải nói tới vai trò của chính phủ với t cách
là ngời lãnh đạo quản lý nền kinh tế quốc dân. Nếu chính phủ không mạnh, nghĩa là
không có khả năng vạch ra đợc các chiến lợc phát triển, các chính sách kinh tế, luật
pháp đúng đắn, không có khả năng thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả các
chiến lợc, chính sách và luật pháp đó, thì nền kinh tế không thể nào phát triển có hiệu
quả và thu đợc những thành tựu nổi bật đợc.
Một nhà kinh tế học nổi tiếng đã nhận xét: Chính phủ tồi đã làm tàn lụi cả một

châu lục . Một ví dụ thực tế: Sự suy giảm của nền kinh tế Ghana ở châu Phi da đen
trong hai thập kỷ 60 và 70. Năm 1957 Ghana đợc xem là nớc giầu nhất châu Phi da
đen với bình quân đầu ngời 490 đô la Mỹ, nhng đến đầu những năm 80 thu nhập quốc
dân đầu ngời đã giảm xuống còn 400 đôla Mỹ, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng khác
đều giảm. Các quốc gia châu Phi da đen khác cũng ở trong tình trạng tơng tự. Cả một
châu lục tàn lụi. Lý do chính là sự lãnh đạo yếu kém của các chính phủ ở các quốc gia
này. Những yếu kém này đã thể hiện ở chỗ xác định chiến lợc, chính sách, pháp luật
không đúng; họ càng thực thi các chính sách sai lầm đó tích cực và nghiêm túc thì tai
hoạ suy thoái càng lớn. Do vậy đã có câu Nền kinh tế chỉ tăng trởng vào ban đêm khi
chính phủ ngủ say .
Các quốc gia nh Nhật Bản và các NIEs, sự thành công của họ gắn chặt với vai
trò to lớn của chính phủ. Nhật Bản đã tạo dựng đợc một nhà nớc mạnh, nhà nớc này đã
kết hợp đợc kỹ thuật phơng Tây và truyền thống Nhật Bản, khuyến khích và phát triển
đợc tài năng quản lý của các xí nghiệp, động viên đợc nhân dân Nhật Bản làm việc hết
mình. Đó chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Vai trò quan trọng nhất của
chính phủ là vai trò định hớng nền kinh tế thông qua việc hoạch định các chiến lợc,
chính sách, luật pháp,v.v
Thực tế ở Việt Nam cho thẩy trong nhiều năm trớc Đại hội VI Đảng cộng sản
Việt Nam, chính phủ đã định hớng nền kinh tế không đúng, dờng nh chỉ phát triển h-
ớng nội xem nhẹ các ngành hớng vào xuất khẩu; u tiên phát triển công nghiệp nặng
kém hiệu quả, không chú trọng tới các ngành có khả năng tăng trởng nhanh, hiệu quả
lớn; chỉ chú trọng phát triển mở rộng khu vực kinh tế nhà nớc, tập thể, xoá bỏ kinh tế
t nhân, cá thể; phát triển kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trờng,v.v Với một hớng
đi lệch lạc nh vậy, kinh tế Việt Nam đã hoạt động kém hiệu quả và rơi vào tình trạng
lạm phát phi mã và khủng hoảng sâu sắc. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam mới bớc
đầu nắn lại hớng đi của nền kinh tế: Chuyển hớng thực hiện 3 chơng trình kinh tế: sản
xuất lơng thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; chuyển mạnh sang kinh
tế thị trờng trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở hữu, xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch
tập trung, bao cấp,v.v Nền kinh tế mới bớc đầu chuyển sang một hớng đúng, ta đã
thấy xuất hiện các yếu tố năng động tích cực và thấy rõ hớng đi lênthoát khỏi khủng

hoảng của nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay ở nớc ta, vai trò của chính phủ đặc biệt quan trọng.
Chính phủ không đơn thuần là ngời trọng tài, ngời định hớng, định luật chơi mà mức
độ can thiệp, mức độ tác động trực tiếp của chính phủ là mạnh, và rộng hơn. Trong
giai đoạn từng bớc công nghiệp hóa và hiện đại hóa này, điều kiện quan trọng cho
những thành công kinh tế của Việt Nam là Việt Nam phải có một chính phủ mạnh về
trí tuệ có khả năng định hớng đúng đắn sự phát triển của nền kinh tế đất nớc .
Vấn đề đặt ra là trong khi nhấn mạnh vai trò tất yếu và hết sức quan trọng của
chính phủ trong quản lý kinh tế, chúng ta không chỉ khẳng định sự can thiệp của chính
phủ đối với các quá trình kinh tế, mà phải xác định rõ chính phủ thực hiện vai trò quản
lý của mình nh thế nào, bằng cách thức nào để nhận thức rõ ranh giới quyền lực của
mình, không xâm phạm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, tức là đảm bảo
quyền tự chủ của doanh nghiệp .
Điều đó liên quan đến việc xác định những chức năng cũng nh nội dung quản lý
mà chính phủ phải đảm nhiệm thực hiện. Trong giai đoạn hiện nay chính phủ thực
hiện vai trò quản lý của mình thông qua ba chức năng cơ bản sau :
-Điều khiển vĩ mô nền kinh tế .
-Quản lý ngân sách nhà nớc .
-Hoạt động kinh tế .
Trong số các chức năng trên thì chức năng đầu là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết
định phát triển kinh tế, đặc biệt trong cơ chế thị trờng .
Nghiên cứu về vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy tăng trởng công nghiệp
ở các nớc đang phát triển, hai nhà nghiên cứu ngời Anh là Helen Shapiro
Lance Taylor đã khái quát chiến lợc quản lý của chính phủ đối với công nghiệp trong
11 điểm nh sau :
.Trong mọi trờng hợp, chính phủ chỉ nên định hớng chung mà không trực tiếp
tham gia vào các quyết định của các doanh nghiệp.
.Chính phủ tập trung thông tin và chia sẻ một cách có chọn lọc cho các doanh
nghiệp.
.Chính phủ cung cấp vốn liên doanh cho các xí nghiệp mới, thờng là ở các lãi suất

thuận lợi đối với họ.
.Chính phủ hỗ trợ cho các ngành công nghiệp đột phá .
.Sự hỗ trợ cần phải đợc cân nhắc và xử lý cụ thể từng trờng hợp. Chính phủ phải
có quyền lực (và cả ý chí) cắt bỏ sự u đãi nếu nh doanh nghiệp không đáp ứng đợc
những tiêu chuẩn đã đề ra.
.Bản thân các tiêu chuẩn phải rõ ràng và không phức tạp.
.Lợi ích của những ngời gánh chịu các khoản chi phí do thực hiện các chính sách
cần phải đợc chú ý.
.Có sự phân công sản xuất giữa xí nghiệp công cộng, xí nghiệp t nhân và cá thể các
công ty xuyên quốc gia. Xí nghiệp công cộng tốt nhất là hoạt động trong lĩnh vực kết
cấu hạ tầng, các ngành công nghiệp cơ sở và các lĩnh vực có những đặc biệt trong
thực hiện.
.Chú ý tới đào tạo và y tế.
.Có sự liên kết hỗ trợ về vốn giữa khu vực nhà nớc và khu vực t nhân. Các chơng
trình đầu t của nhà nớc phải đợc thiết kế nhằm tăng hiệu quả của cả hai khu vực nhà n-
ớc và t nhân.
.Tránh mọi sự không rõ ràng.
Chính phủ tạo điều kiện để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đợc phát
triển nhanh chóng bằng cách:
Chính phủ tạo chỗ làm việc, giải toả sức ép về công ăn việc làm, lao động đang có
xu hớng tăng lên trong nền kinh tế. Công nghiệp hoá nh là một phơng thức làm thay
đổi cơ cấu kinh tế của đất nớc có một sứ mạng hết sức quan trọng trong việc phát huy
nguồn nhân lực rất tiềm tàng hiện còn cha đợc toàn dụng và đang trở thành một sức ép
lớn đối với nền kinh tế. Trong điều kiện cụ thể của nớc ta trong những năm đầu của
quá trình công nghiệp hoá, sự chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hớng mạnh vào
những ngành sản xuất và dịch vụ cần nhiều lao động để có thể thu hút và giải toả sức
ép về công ăn việc làm đang căng thẳng trong xã hội, để rồi khi sức ép này không còn
gay gắt nữa, trọng tâm của chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hớng mạnh vào các
ngành khác, loại công nghệ khác. Quan điểm nh vậy sẽ tác động trực tiếp tới việc
hoạch định chính sách công nghệ trong lĩnh vực sản xuất.

Chính phủ hớng vào cơ cấu công nghệ nhiều tầng với sự định hớng vào những công
nghệ mũi nhọn, tiên tiến một cách hiệu quả. Qúa trình cộng nghiệp hoá đất nớc một
mặt hớng vào giải quyết những vấn đề nóng bỏng, cấp bách hiện tại, nhng đồng thời
cũng phải hớng tới và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho tơng lai gần ( 10-20 năm )
và tơng lai xa (20-30 năm ). Định hớng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công
nghiệp hoá bao gồm xây dựng cơ cấu công nghệ nhiều quy mô, nhiều trình độ, hớng
hiện đại. Cơ cấu xã hội, phân công lao động xã hội không chỉ là chất kết dính các
ngành kinh tế với nhau, mà còn cả các tầng công nghệ với t cách là một bộ phận cấu
thành quan trọng của cơ cấu ngành kinh tế. Về phần mình, sự phát triển của công
nghệ, đặc biệt là công nghệ tiên tiến sẽ có tác dụng thúc đẩy quá trình phân công lao
động xã hội. Trình độ phân công lao động xã hội có ảnh hởng quyết định đối với sự
hình thành và định hớng phát triển cơ cấu công nghệ. Do thực trạng sản xuất còn nhỏ,
phân tán, lao động chủ yếu còn thủ công, thiếu thốn nghiêm trọng, 75 % lực lợng lao
động xã hội tập chung ở nông thôn và mức độ trang bị công cụ lao động, trình độ tay
nghề còn thấp, sự tích luỹ vốn trong các hộ gia đình còn ít ỏi thì nhìn chung, trong
những năm trớc mắt vẫn cần phát triển những cộng nghệ đơn giản, dễ tiếp thu và rẻ,
mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội nhanh. Những công nghệ nh vậy đợc kết hợp với
nguồn lao động xã hội còn đang d thừa lớn sẽ tạo ra công ăn việc làm, làm những sản
phẩm đáp ứng ngay chính những nhu cầu đơn giản của thị trờng trong nớc.
Chính phủ đã phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phàn kinh tế. Khác với
trớc đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp với sự hiện diện về cơ bản chỉ
một thành phần kinh tế, hiện nay công nghiệp hoá ở nớc ta đợc tiến hành dới tác động
của cơ chế thị trờng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Nền kinh tế mở
đang thu hút ngày càng nhiều sự tham gai của các nhà đầu t cớc ngoài. Trong nhiều
năm tới, chúng ta vẫn chủ yếu phải dựa vào nguồn cung cấp các công nghệ tiên tiến
bên ngoài thì một môi trờng đầu t phát triẻn công nghệ hấp dẫn và thuận lợi cho cả các
nhà đầu t trong nớc và các nhà đầu t nớc ngoài là một yếu tố quan trọng của công cuộc
công nghiệp hoá đất nớc. Điều cần chú ý ở đây không chỉ ở sự khuyến khích đầu t
trong nớc và đầu t của nớc ngoài. Kinh nghiệm quốc tế và nớc ta cho thấy rằng, một
đồng vốn ngoại tệ đầu t bao giờ cũng đòi hỏi một lợng tơng đơng tiền trong nớc đi

kèm
Chính phủ có biện pháp nhằm thống nhất hiệu quả kinh tế và hhiệu quả xã hội.
Công nghiệp hoá trong điều kiện kinh tế thị trờng đặt ra một loạt vấn đề xã hội cần đ-
ợc xử lý giải quyết. Công nghiệp hoá là phơng thức để phát triển kinh tế. Sự phát triển
có thể có một mục tiêu cơ bản là nâng cao mức sống cho mọi ngời trong xã hội nhất là
những ngời nghèo. Vấn đề lớn nhất đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá là phân
phối kết quả của phát triển kinh tế thông qua công nghiệp hoá đến đợc với mọi ngời
dân trong xã hội, mọi vùng, mọi khu vực của đất nớc. Quan điểm về sự thống nhất
giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội đồng thời cũng nhấn mạnh sự cần thiết tất yếu
nâng cao vai trò tích cực của nhà nớc trong việc điều tiết quá trình công nghiệp hóa.

3.Các chính sách kinh tế mà chính phủ áp dụng trong giai đoạn công nghiệp hoá
hiện đại hoá:
Các chính sách quản lý kinh tế của chính phủ theo các mục tiêu sau:
-Kích thích đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất.
-Tạo công ăn việc làm, sử dụng tiềm năng lao động xã hội và chuyển biến cơ cấu lao
động.
-Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế.
.Kích thiích đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất:
Có thể nêu những tác dụng tích cực của các quy định trong chính sách và cơ chế
quản lý kinh tế đã ban hành ở nớc ta có liên quan tới kích thích đổi mới và nâng cao
trình độ công nghệ sản xuất, đó là:
+Tạo quyền chủ động cho chủ thể sử dụng ( các doanh nghiệp ) quyết định lựa chọn,
mau bán công nghệ, kể cả việc trực tiếp quan hệ với bạn hàng nớc ngoài.
+Tạo nhu cầu bức thiết đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ. Cơ chế thị trờng
buộc các cơ sở sản xuất tìm mọi cách để tồn tại và thu lợi nhuận tối đa. Cuộc cạnh
tranh thực sự để tiêu thụ sản phẩm trong những năm 1989-1990-1991 khi một loạt
chính sách và quyết định quản lý kinh tế vĩ mô theo cơ chế thị trờng đợc đa vào thực tế
( cải cách giá, lơng, thả nổi đồng tiền, mở cửa nền kinh tế ) đã cho thấy, trong điều
kiện nh vậy sản phẩm muốn tiêu thụ đợc, nhất là khi có những hàng ngoại, cùng giá trị

sử dụng, không phải chỉ có giá rẻ mà chất lợng phải tốt, hình dáng, mẫu mã phải đẹp,
thuận tiện cho sử dụng. Muốn đợc mh vậy thì chỉ có một con đờng duy nhất là đổi mới
và nâng cao công nghệ sản xuất.
Sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực sản xuất, nâng cao chất lợng sản phẩm
và có lãi cao là những yếu tố quan trọng bậc nhất đối với uy tín và sự phát triển của
doanh nghiệp trong cơ chế thị trờng. Muốn làm đợc điều đó thì trớc hết phải sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực đầu vào sản xuất. Các quy định của nhà nớc trong các chính
sách và cơ chế quản lý kinh tế hiện hành đang đợc đổi mới và hoàn thiện theo hớng
tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, chủ động sử dụng có hiệu
quả hơn các yếu tố đầu vào này.
Mở ra những hình thức mới trong tiếp cận và trong thu hút công nghệ tiên tiến
của thế giới. Chính sách mở cửa có những điều kiện u đãi trong việc đầu t của nớc
ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu t nớc ngoài tìm đến hợp tác kinh
doanh. Các hình thức hợp tác kinh doanh có thể đa dạng ( xí nghiệp liên doanh, xí
nghiệp 100% vốn nớc ngoài ),nhng có điểm chung là vốn liên doanh của bên nớc
ngoài góp thờng là dới dạng máy móc,thiết bị,phụ tùng, nguyên vật liệu,chuyên gia kỹ
thuật,quản lý,thậm chí cả mô hình tổ chức và quản lý xí nghiệp, công ty. Lẽ đơng
nhiên trong lĩnh vực này còn có nhiều vấn đề phải bàn, nhng thực tế các xí nghiệp liên
doanh với nớc ngoài trong thời gian qua đã cho thấy cơ chế thị trờng đã tạo điều kiện
cho doanh nghiệp trong nớc nhanh chóng tiếp cận và tiếp nhận công nghệ tiên tiến hơn
nhiều so với công nghệ trớc đây.

×