Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố bảo lộc – lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (856.93 KB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH






VÕ HOÀNG ANH THƯ






TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ BẢO LỘC – LÂM ĐỒNG



Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 603180


LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. TRẦN THỊ THU MAI





Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình của bản thân. Các nội dung nghiên cứu và kết
quả trong đề tài này là trung thực, chưa được ai công bố trong bất cứ công trình nào.
Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin chịu trách nghiệm trước Hội đồng cũng như kết
quả luận văn của mình.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm
Tác giả



Võ Hoàng Anh Thư









LỜI CẢM ƠN


Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Thu Mai, người thầy
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ dẫn tận tâm của tất cả các giảng viên đã giảng
dạy chúng tôi trong suốt thời gian học tập vừa qua, đặc biệt là sự quan tâm, tận tình giúp
đỡ của quý thầy cô đang công tác tại phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học và khoa
Tâm lý Gi
áo dục trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu và các em học sinh của trường
trung học phổ thông Bảo Lộc và trường trung học phổ thông Nguyễn Du đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thưc hiện đề tài này.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người thân trong gia đình
đặc biệt là ba mẹ và ông xã về sự động vi
ên, giúp đỡ to lớn nhất dành cho tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu luận văn này. Đây cũng là món quà tôi dành tặng cho
con gái bé nhỏ vì đã luôn mang lại cho tôi những niềm vui và hạnh phúc lớn lao.






BẢNG DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT

RC Rất cao
C Cao
TB Trung bình
T Thấp
RT Rất thấp
ĐLC Độ lệch tiêu chuẩn

ĐTB Điểm trung bình
N Tần số
TSCN Trị số cao nhất
TSTN Trị số thấp nhất
P Mức ý nghĩa
ĐC Nhóm đối chứng
TN Nhóm thực nghiệm
RN Rất nhiều
KAH Không ảnh hưởng
NXB Nhà xuất bản
EQ Chỉ số trí tuệ cảm xúc
IQ Chỉ số trí thông minh



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xã hội hiện đại, khoa học kỹ thuật phát triển, cá nhân dễ dàng đạt được thành
công trong nhiều lĩnh vực. Đây cũng là lúc con người có sự quan tâm đến những nhu cầu
của đời sống tinh thần đặc biệt là trong các mối quan hệ người - người. Mặc dù mục tiêu
giáo dục của nước ta là phát triển toàn diện nhân cách học sinh nhưng chương trình giáo
dục hầu như chỉ tập trung phát triển các năng lực học tập, cung cấp kiến thức mà ít chú
trọng đến vấn đề giáo dục trí tuệ cảm
xúc cho học sinh. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu của
xã hội, giáo dục cần phải có những thay đổi để có thể đào tạo ra những công dân không
những vừa có đức vừa có tài mà còn có khả năng giải quyết hiệu quả các mối quan hệ xã
hội. Trong đó, giáo dục phát triển trí tuệ cảm
xúc cho trẻ là một trong những yếu tố quan
trọng góp phần tạo nên sự thành đạt của những công dân tương lai.
1.2. Trí tuệ cảm xúc, một dạng trí thông minh mà các cuộc nghiên cứu gần đây

khẳng định rằng chúng quan trọng hơn cả trí thông minh truyền thống trong việc dự
đoán sự thành công và hạnh phúc của con người. Giáo sư Daniel Goleman cho rằng:
“Nếu bạn không có những khả năng về cảm xúc thì bạn không thể nào tiến xa được”. V
à
từ thời cổ đại, Aristotle cũng cho rằng: “Bất cứ ai cũng có thể trở nên giận dữ - điều này
thật dễ dàng. Tuy nhiên, để giận đúng người, đúng mức, đúng lúc, đúng mục đích, và
đúng cách - điều này là không dễ”. Trong một nghiên cứu năm 2005, Gary R. Low và
Darwin B. Nelson (trường Cao đẳng Giáo dục Texas Hoa Kỳ) đã kết luận “Trí tuệ cảm
xúc là chìa khóa quan trọng của cá nhân trong việc giành được thành tích xuất sắc trong
học thuật và sự nghiệp” [29
]. Như vậy, có thể nói việc nhận thức đúng về tình cảm và
khả năng xử lý cảm xúc sẽ quyết định sự thành công và hạnh phúc của mọi người thuộc
mọi tầng lớp và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
1.3. Phát triển trí tuệ cảm xúc có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển của
học sinh. Ví dụ, trí tuệ cảm
xúc giúp trẻ quản lý các tình huống căng thẳng và giải quyết
các vấn đề hàng ngày một cách hiệu quả. Điều này tạo cho trẻ một nền tảng tốt về nhân
cách cũng như những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống để trẻ có thể thành công vững
chắc trong tương lai. Trí tuệ cảm xúc chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm mà cá nhân gặp
phải, nó không cố định và có thể thay đổi. Do vậy, việc giáo dục trí tuệ ở học sinh là một
điều cần thiết và rất đáng được quan tâm.
1.4. Trí tuệ cảm xúc được hình thành trong những năm đầu của cuộc đời và tiếp
tục phát triển cho đến khi trưởng thành. Đặc biệt, những năm học ở nhà trường phổ
thông là những năm
thú vị và có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc đời, là thời gian các em phát
triển về mặt xã hội, tình cảm, nhận thức và thể chất một cách mạnh mẽ. Đây chính là
giai đoạn học sinh trải nghiệm sự phát triển to lớn về mặt tình cảm. Đối với học sinh
trung học phổ thông, việc học hỏi để hiểu biết và phát triển những khả năng về cảm
xúc
là vô cùng quan trọng. Điều này giúp cho các em nâng cao năng lực cảm xúc của bản

thân và tạo dựng nền tảng cho sự phát triển của trí tuệ cảm xúc. Sự chuẩn bị tốt về mặt
cảm xúc ở giai đoạn tuổi học sinh trung học phổ thông là tiền đề để trẻ tự tin, vững bước
tiến vào ngưỡng cửa cuộc đời. Như vậy, giai đoạn học sinh trung học phổ thông l
à giai
đoạn cần thiết và quan trọng để giáo dục trí tuệ cảm xúc.
1.5. Tuy vậy, trí tuệ cảm xúc vẫn là một vấn đề mới mẻ, phức tạp nên chưa được
nghiên cứu nhiều. Đặc biệt vấn đề trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông
thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng chưa được ai nghiên cứu.
Từ những lý do nêu trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “TRÍ TUỆ CẢM
XÚC CỦA HỌC S
INH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ BẢO LỘC –
LÂM ĐỒNG”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học
phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp
nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Học sinh trung học phổ thông Thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông.
4. Giả thuyết khoa học
Đa số học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng có mức độ trí
tuệ cảm xúc ở mức trung bình.
Các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố
Bảo Lộc – Lâm Đồng chưa đồng đều.
Mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ t
hông thành phố Bảo Lộc –
Lâm Đồng sẽ được nâng cao nếu học sinh được hướng dẫn và tích cực rèn luyện.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu lý thuyết để làm cơ sở lý luận cho đề tài.
Khảo sát thực trạng mức độ và các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh
trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
Thực nghiệm tác động sư phạm
nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc của học sinh
trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao trí tuệ cảm xúc cho học sinh trung học
phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng mức độ và các mặt biểu hiện trí tuệ cảm
xúc của học sinh
trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
Thực nghiệm tác động một số biện pháp sư phạm nhằm nâng cao mức độ một số
mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc –
Lâm Đồng.
6.2. Giới hạn khách thể nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên phạm vi 230 học sinh lớp 10, 11, 12 thuộc hai trường trung
học phổ thông Bảo Lộc và trường trung học phổ thông Nguyễn Du thành phố Bảo Lộc –
Lâm Đồng.
7. Phương pháp nghiê
n cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
a. Mục đích
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tri thức lý luận và thực tiễn có liên quan đến
trí tuệ cảm xúc nhằm viết cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu và định hướng cho việc
nghiên cứu thực tiễn và thực nghiệm.
b. Cách thực hiện
Đọc, phân tích, tổng hợp kết quả các công trình nghiên cứu, tài liệu, các bài
viết…có liên quan đến trí tuệ cảm

xúc. Trên cơ sở đó hệ thống hóa những vấn đề lý luận
tâm lý học về trí tuệ cảm xúc để xây dựng đề cương nghiên cứu, xác định khái niệm
công cụ, xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp trắc nghiệm
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp thống kê toán học
8. Đóng góp mới của đề tài
- Xác định mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm
xúc của học sinh trung học phổ
thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng.
- Đưa ra một số biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm
xúc của học sinh trung học phổ thông.
- Đề xuất một số hướng nhằm
nâng cao trí tuệ cảm xúc cho học sinh trung học
phổ thông.
9. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm có các phần như sau:
Mở đầu
Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lý luận về trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông
Chương 2: Thực trạng mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học
phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng
Chương 3: Biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao mức độ trí tuệ cảm xúc
của học sinh trung học phổ thông thành phố Bảo Lộc – Lâm Đồng
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham

khảo
Phụ lục
















Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC


1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trí tuệ cảm xúc
1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Phong trào nghiên cứu trí tuệ cảm xúc bắt nguồn và phát triển mạnh mẽ nhất ở
Mỹ với các nhà tâm lý học kiệt xuất.
E.L. Thorndike là người đầu tiên tìm cách nhận dạng trí tuệ cảm xúc mà lúc đó
ông gọi là trí tuệ xã hội vào cuối những năm 1930. Theo ông, trí tuệ xã hội là “năng lực
hiểu và điều khiển mà những người đàn ông, đàn bà, con trai và con gái sử dụng để hành
động một cách khôn ngoan, sáng suốt trong các mối quan hệ của con người”.

David Weschler (1940) cho rằng yếu tố phi trí tuệ là yếu tố quan trọng cho con
người trong việc thích nghi và đạt được những t
hành tích trong cuộc sống. Theo ông,
yếu tố phi trí tuệ được xem là cần thiết để dự đoán khả năng thành công của một người.
Howard Gardner (1983) cho ra đời tác phẩm “Frames of mind” như là một
tuyên ngôn chống lại độc quyền của trí thông m
inh, chứng minh rằng không có hình
thức duy nhất, toàn khối của trí tuệ quyết định thành công trong cuộc đời, đúng hơn có
một thang trí tuệ rộng lớn. Theo lập luận đó, ông đưa ra mô hình đa trí tuệ và cho rằng
trí tuệ cá nhân gồm hai loại: trí tuệ liên nhân cách (interpersonal intelligence) và trí tuệ
về bản thân (intrapersonal intelligence). Ông cho rằng hai loại trí tuệ này cũng quan
trọng như trí thông minh được biểu thị bởi chỉ số IQ (Intelligence quotient) và đo bằng
trắc nghiệm IQ.
Reuven Bar-On (1985) là người đầu tiên sử dụng t
huật ngữ trí tuệ cảm xúc trong
luận án tiến sĩ của mình. Bar-On đặt trí tuệ cảm xúc trong phạm vi lý thuyết nhân cách,
đưa ra mô hình Well-being (1997) với ý định trả lời câu hỏi: “Tại sao một người nào đó
lại có khả năng thành công hơn những người khác?”. Bar-On đã xem xét lại những
nghiên cứu tâm lý về các đặc tính của nhân cách có liên quan đáng kể đến sự thành công
trong cuộc sống và đã nhận diện được 5 khu vực (nhân tố) bao quát về mặt chức năng
phù hợp với sự thành công trong cuộc sống. Từ đó ông đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc
kiểu hỗn hợp.
Vào năm 2000, Bar-On định nghĩa: “Trí tuệ cảm xúc như là một dãy các phi năng
lực và những kỹ năng ảnh hưởng đến năng lực một người thành công trong công việc
đương đầu với những đòi hỏi và sức ép từ m
ôi trường”.
Peter Salovey và John Mayer là hai nhà tâm lý học Mỹ đã công bố định nghĩa
chính thức đầu tiên về trí tuệ cảm xúc vào năm 1990: “Trí tuệ cảm xúc là khả năng hiểu
rõ cảm xúc của bản thân, thấu hiểu cảm xúc của người khác, phân biệt được chúng và sử
dụng những thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của mình” [24]. Định

nghĩa này đã có ảnh hưởng quan trọng đến lý thuyết trí tuệ cảm
xúc tại thời điểm đó.
Cũng trong năm 1990, Mayer, Salovey cùng với M.T. Đipaolo đã công bố bộ trắc
nghiệm đo trí tuệ cảm xúc và từ đây hai ông đã dẫn đầu sự phát triển khoa học về lý
thuyết và phương pháp xác định chỉ số trí tuệ cảm xúc (EQ – Emotional Quotient).
Sau bảy năm, Mayer và Salovey (1997) đã chỉnh sửa đôi chút định nghĩa trí tuệ
cảm xúc được nêu vào năm
1990 như sau: “Trí tuệ cảm xúc như là năng lực nhận biết,
bày tỏ cảm xúc; cảm xúc hóa tư duy; hiểu, suy luận với cảm xúc; điều khiển, kiểm soát
cảm xúc của mình và của người khác” [9, tr.98]. Dựa trên định nghĩa này mô hình trí tuệ
cảm xúc thuần năng lực được xây dựng.
Daniel Goleman – tiến sĩ tâm lý học của đại học Harvard – đã tập hợp các kết
quả nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc và cho ra đời cuốn sách đầu tiên “Trí tuệ cảm xúc”
vào năm
1995 thì thuật ngữ “trí tuệ cảm xúc” đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong
xã hội Mỹ. Daniel Goleman nghiên cứu trí tuệ cảm xúc theo lý thuyết hiệu quả thực hiện
công việc, ông xác định: mô hình trí tuệ cảm xúc dựa trên lý thuyết này có thể ứng dụng
trực tiếp vào khu vực hiệu quả quản lý và hoàn thành công việc từ người bán hàng đến
công việc của nhà quản lý. Mô hình trí t
uệ cảm xúc mà D. Goleman đề xuất là một mô
hình kiểu hỗn hợp.
Theo D. Goleman, trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực: sự tự chủ, lòng nhiệt
thành và kiên nhẫn cũng như khả năng và sự kích thích hành động.
Từ năm 1995, Daniel Goleman – người được xem là nhà nghiên cứu hàng đầu về
trí tuệ cảm xúc hiện nay, đề xuất chúng ta phải có những năng lực cảm xúc cá nhân
gồm:
- Năng lực tự nhận biết bản thân;
- Năng lực tạo động lực;
- Những năng lực thông m
inh cảm xúc xã hội gồm: năng lực thấu cảm với người

khác và năng lực giao tiếp xã hội.
Tuy nhiên vào năm 2001, D. Goleman đưa ra bốn biểu hiện của trí tuệ cảm xúc
nói lên năng lực của cá nhân trong mối quan hệ với mình và năng lực xã hội của con
người trong mối quan hệ với người khác:
- Tự biết mình;
- Tự kiểm soát, tự quản;
- Nhận biết các quan hệ xã hội;
- Kiểm soát, điều khiển các mối quan hệ xã hội.
Những nghiên cứu của Goleman không chỉ dừng lại ở việc xác định bản chất của
trí tuệ cảm xúc mà ông còn đưa ra những biện pháp để giáo dục trí tuệ cảm
xúc.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể có thể nói có ba đại diện tiêu biểu đã đi sâu
nghiên cứu trí tuệ cảm xúc dưới những cách tiếp cận khác nhau, trong đó R.
Bar-On tiếp
cận trí tuệ cảm xúc dưới góc độ nhân cách, P. Salovey và J. Mayer nghiên cứu dưới góc
độ nhận thức và D. Goleman tiếp cận dưới góc độ hiệu quả công việc.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề trí tuệ, đặc biệt là trí thông minh, trí sáng tạo đã được các nhà
tâm lý học nghiên cứu từ lâu. Thế nhưng, những công trình nghiên cứu về trí tuệ cảm
xúc chỉ mới ở những bước đi đầu tiên.
Vào năm 2000, tạp chí Tâm lý học lần đầu tiên đăng các bài viết của PGS.TS
Nguyễn Huy Tú về trí tuệ cảm xúc.
Đề tài cấp nhà nước KX-05-06 giai đoạn 2001 – 2005 do PGS.TS Trần Kiều cùng
với các nhà tâm lý và giáo dục thuộc Viện chiến lược và chương trình giáo dục nghiên
cứu trí tuệ cảm xúc đã xác định trí tuệ cảm xúc là một trong ba thành tố của trí tuệ (trí
thông minh, trí sáng tạo và trí tuệ cảm xúc) trên sinh viên, học sinh và lao động trẻ. Đề
tài này mở đầu cho các công trình nghiên cứu trí tuệ cảm xúc sau này.
Các tác giả trong các công trình nghiên cứu luận văn, luận án tâm lý học cũng đã
chọn trí tuệ cảm x
úc làm vấn đề nghiên cứu, chẳng hạn như: luận văn thạc sĩ của Dương

Thị Hoàng Yến (2004), luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Dung (2007),…Các đề tài này
phần lớn tập trung nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của giáo viên trong hoạt động chủ nhiệm
lớp. Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Trọng Nam (2004) và Nguyễn Thị Tuấn Anh
(năm 2008) tập trung nghiên cứu trí tuệ cảm
xúc của đối tượng là sinh viên sư phạm.
Ngoài ra còn một số sông trình nghiên cứu khác về trí tuệ cảm xúc tập trung chủ yếu
trên đối tượng là sinh viên.
Hiện nay, các tác giả Nguyễn Huy Tú, Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Quang Uẩn,
Trần Trọng Thủy, Phan Trọng Ngọ, …và nhiều tác giả khác vẫn đang tiếp tục đi sâu
nghiên cứu trí tuệ cảm xúc.
Như vậy, có thể nói rằng những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về trí
tuệ cảm x
úc tuy chưa nhiều nhưng đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, các
đề tài về trí tuệ cảm xúc chưa quan tâm nhiều đến đối tượng học sinh trung học phổ
thông. Vì vậy, nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của học sinh trung học phổ thông là việc làm
cần thiết.
1.2. Trí tuệ cảm xúc
1.2.1. Khái niệm trí tuệ
Trong tiếng La tinh: Trí tuệ (Intellectus) có nghĩa là trí năng sắc sảo, sự hiểu biết
chu đáo [9
, tr.7].
Trong từ điển Tiếng Việt: Trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình
độ nhất định [14, tr.1245].
Trong từ điển tâm lý: Trí tuệ là khả năng hành động thích nghi với biến động của
hoàn cảnh thiên về tư duy trừu tượng (Nguyễn Khắc Viện, 2001).
Cho đến nay, trong Tâm lý học có rất nhiều định nghĩa về trí tuệ tùy theo cách
tiếp cận. Nhìn chung trí tuệ được hiểu theo hai quan niệm: quan niệm truyền thống và
quan niệm hiện đại.
 Trí tuệ theo quan niệm truyền thống
Điểm chung của quan niệm truyền thống là đồng nhất trí tuệ với trí t

hông minh
(intelligence). Theo F.S. Freeman (1963), trong vô số các định nghĩa về trí tuệ, có thể
thấy rõ có 3 loại: thứ nhất, xem trí tuệ là năng lực học tập; thứ hai, xem trí tuệ là năng
lực tư duy trừu tượng; thứ ba, xem trí tuệ là năng lực thích ứng cá nhân.
Nhóm quan điểm xem trí tuệ là năng lực học tập
Đây là quan niệm đã có từ lâu và khá phổ biến.
Nhà tâm lý học người Nga B.G.An
anhev xem trí tuệ là đặc điểm tâm lý phức tạp
của con người mà kết quả của công việc học tập và lao động phụ thuộc vào nó [11,
tr.41].
V.V.Bogoxlovki và những người khác (1973) xem hệ thống những thuộc tính trí
tuệ của nhân cách đảm bảo cho sự tương đối dễ dàng trong việc nắm các tri thức, được
hiểu là các năng lực chung [15, tr.71].
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy giữa học tập (đặc biệt là kết quả học tập)
với khả năng trí tuệ của cá nhân có mối quan hệ nhân quả và chúng không đồng nhất.
Trên thực tế, phần lớn học sinh có chỉ số IQ cao thì kết quả học tập cũng cao, song cũng
có những học sinh có chỉ số IQ cao nhưng kết quả học tập lại không cao. Điều này có
thể giải thích bằng nhiều lý do như động cơ học tập, ý chí, hứng thú, cách học…
Chính
A.Binet đã nghiên cứu và chứng minh được những học sinh học kém là do khả năng trí
tuệ và những em do lười hoặc những nguyên nhân khác [11, tr.42].
Nhóm quan điểm xem trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng
L.Terman (1937) cho rằng trí tuệ là năng lực phát triển tư duy trừu tượng. Theo
cách hiểu như vậy thì chức năng của trí thông minh là sử dụng có hiệu quả các khái
niệm và tượng trưng [15, tr.72].
N.A.Menchinskaia xem đặc trưng của trí tuệ là sự tích lũy vốn tri thức và các thao
tác trí tuệ để con người tiếp thu được tri thức [13, tr.15].
X.L.Rubinstein cho rằng đặc trưng cơ bản hàng đầu của trí tuệ là năng lực tâm
thần ở mức cao chẳng hạn như suy luận trừu tượng [1, tr.10].
Theo cách

hiểu này, trí tuệ tức là khả năng sử dụng có hiệu quả các thao tác tư
duy để giải quyết các vấn đề đặt ra. Trong khi đó, tư duy chỉ là một thành phần, một bộ
phận của trí tuệ. Quan niệm như vậy đã thu hẹp nội hàm lẫn hình thức của trí tuệ.
Nhóm quan niệm xem trí tuệ là năng lực thích ứng của cá nhân
Đây là quan niệm p
hổ biến nhất và được nhiều nhà nghiên cứu tán thành.
V. Stern coi trí tuệ là năng lực thích ứng tâm lý chung của con người với những
điều kiện và nhiệm vụ mới trong đời sống [15, tr.72].
D. Wechler (1958) xem trí tuệ là năng lực chung của nhân cách, được thể hiện
trong hoạt động có mục đích, trong sự phán đoán và thông hiểu một cách đúng đắn,
trong sự làm cho môi trường thích nghi với những khả năng của mình [15, tr.72], [9,
tr.96].
J. Piaget xem bản chất của trí tuệ bộc lộ trong việc cấu tạo những mối quan hệ
giữa m
ôi trường và cơ thể [15, tr.72]. Ông cũng cho rằng bất kỳ trí tuệ nào cũng đều là
một sự thích ứng [13, tr.42].
F. Raynal, A. Rieunier (1997) xem trí tuệ là khả năng xử lý thông tin để giải quyết
vấn đề và nhanh chóng thích nghi với tình huống mới [13, tr.42]
N. Sillamy (1997) xem trí tuệ là khả năng hiểu mối quan hệ sẵn có giữa các yếu tố
của tình huống và thích nghi để thực hiện cho lợi ích bản thân [13, tr.42]
Theo cách tiếp cận này, trí tuệ được thể hiện trong mối quan hệ giữa chủ thể và
m
ôi trường. Tuy nhiên sự tác động qua lại đó phải được xem xét như là một sự thích ứng
tích cực, có hiệu quả nhằm cải tạo môi trường cho phù hợp với mục đích của con người,
chứ không phải là sự thích ứng thụ động đơn giản.
Nhìn chung, các quan điểm trên không loại trừ lẫn nhau mà do cách tiếp cận khác
nhau trong việc lựa chọn dấu hiệu quan trọng nhất của trí tuệ. Các quan niệm này còn có
một điểm chung là đã đồng nhất trí tuệ với trí thông minh. Nhưng rõ ràng không một
định nghĩa nào trong các định nghĩa trên chứa đựng được hết bản chất của hiện tượng
tâm

lý phức tạp như trí tuệ của con người. Do vậy, có thể xem những quan niệm trên đây
là những quan niệm truyền thống về trí tuệ. Những quan niệm này là nền tảng cho sự ra
đời của quan niệm hiện đại về trí tuệ.
 Trí tuệ theo quan niệm hiện đại
Ngày nay, việc nghiên cứu trí tuệ dưới sự kết hợp các khoa học như: Di truyền
học, Thần kinh học, Công nghệ thông ti
n…đã đem lại một cách nhìn toàn diện và sâu
sắc hơn. Từ đó, các nhà tâm lý học cũng thừa nhận trí tuệ là một hiện tượng tâm lý xã
hội mang bản chất lịch sử xã hội chứ không phải là cơ cấu khép kín, không thay đổi và
có tính bẩm sinh di truyền. Mặt khác, các nhà nghiên cứu có xu hướng cho rằng có nhiều
loại trí tuệ khác nhau và trí
tuệ theo cách hiểu như vậy được biểu thị bởi thuật ngữ
Wisdom.
Các nhà tâm lý học như: Hofstatter (1971), Sterberg và Gardner (1984) khẳng
định trí tuệ phải có cơ sở và gắn liền với thực tiễn. Trí tuệ theo quan niệm mới không chỉ
thể hiện ở việc giải quyết các nhiệm vụ có tính hàn lâm mà còn thể hiện ở việc giải
quyết các tình huống trong đời sống hàng ngày. Trí tuệ chính là kết quả tương tác giữa
con người với m
ôi trường sống đồng thời trí tuệ cũng là tiền đề cho sự tương tác đó.
Theo Neisse (1976), nếu đặt trí tuệ hàn lâm (academic intelligence) vào điều kiện tự
nhiên thì sẽ có một dạng trí tuệ khác được thể hiện khi thực hiện các tình huống đời
thường [17, tr.35]. Cho đến 1990, Amelang và Bartussek gọi dạng trí tuệ này là trí tuệ
thực tiễn (practical intelligence). Con người luôn sống và hoạt động trong mối tương tác
với người khác, với cộng đồng, với các nhóm
khác nhau,… Vì vậy, nếu con người chỉ
trang bị cho bản thân những tri thức trường học, tư duy logic, trí nhớ hay trí sáng tạo thì
chưa đủ để hoàn thành nhiệm vụ thực tiễn. Do vậy, ngoài trí thông minh và trí sáng tạo,
con người còn cần phải có trí tuệ xã hội (Social Intelligence = SI). Trí tuệ xã hội là năng
lực hoàn thành các nhiệm vụ trong hoàn cảnh có sự tương tác với người khác. Nó diễn ra
trong hoạt động cùng người khác, với mục đích, tâm lý và tính xã hội nhất định [17,

tr.36]. Trí tuệ xã hội được tạo nên bởi ba thành tố sau đây, trong đó trí tuệ cảm xúc là hạt
nhân:
- Tự nhận thức về bản thân
- Năng lực xã hội (social co
mpetence) bao gồm ba tiểu thành tố:
+ Nhận thức (cognitive)
+ Xúc cảm (emotion)
+ Vận động (motorie)
- Trí tuệ cảm xúc bao gồm bốn tiểu thành tố:
+ Tri giác (nhận ra) cảm xúc
+ Khả năng biểu hiện cảm xúc
+ Điều khiển có hiệu quả cảm xúc (của mình và của người khác)
+ Sử dụng những thông tin có liên quan đến cảm xúc để thúc đẩy, đặt kế
hoạch và t
hực hiện có kết quả những hành động nhất định.
Vào năm 1988, H.J. Eysenck đã đưa ra mô hình trí tuệ ba tầng bậc dựa trên sự kế
thừa, phát triển quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại:
- Trí tuệ sinh học (biological intelligence) là mặt sinh học của năng lực trí tuệ và
là một nguồn gốc của những khác biệt về trí tuệ cá nhân.
- Trí tuệ tâm trắc (psychoetric intelligence) hay trí tuệ hàn lâm là mặt trí tuệ
được đo bằng các trắc nghiệm IQ, CQ (Creative Quotient: chỉ số sáng tạo) truyền thống
được xây dựng trong tình huống giả định, có tính hàn lâm chưa phải là tình huống thực
trong cuộc sống. Nó bao gồm trí tuệ hàn lâm
, trí thông minh hay năng lực nhận thức và
sáng tạo.
- Trí tuệ xã hội là sự thể hiện của trí tuệ tâm trắc khi cần phải giải quyết các
nhiệm vụ trong cuộc sống thực tế của chủ thể hoạt động có tự nhận thức rõ ràng về bản
thân, có nhận thức về xã hội và mối quan hệ giữa bản thân với xã hội đó.
Theo Eysenck, trí tuệ là một thuộc tính nhân cách mang bản chất sinh vật, tâm lý,
xã hội và văn hóa một cách s

âu sắc.
Như vậy, trí tuệ theo quan niệm hiện đại không còn được hiểu đồng nhất với trí
thông minh, bởi lẽ trí tuệ là một cấu tạo tâm lý động, có phạm vi rộng hơn không chỉ bao
gồm trí thông minh mà còn trí sáng tạo và trí tuệ xã hội.
Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khi nghiên
cứu trí tuệ con người cần chú ý đến những vấn đề lý luận và phương pháp luận sau:
- Trí tuệ là yếu tố tâm lý có tính độc lập tương đối với các yếu tố tâm
lý khác
của cá nhân.
- Trí tuệ có chức năng đáp ứng mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể với
môi trường sống, tạo ra sự thích ứng tích cực của cá nhân.
- Trí tuệ được hình thành và biểu hiện trong hoạt động của chủ thể.
- Sự phát triển của trí tuệ chịu ảnh của yếu tố sinh học của cơ thể và chịu sự chế
ước của các yếu tố văn hóa – xã hội.
Như vậy, trí tuệ là một cấu trúc động, tương đối độc lập của các thuộc tính nhận
thức của nhân cách, được hình thành và thể hiện trong hoạt động, do những điều kiện
văn hóa – lịch sử qui định và chủ yếu đảm bảo cho sự tác động qua lại phù hợp với hiện
thực xung quanh, cho sự cải tạo có mục đích. (Blaykhe V.M và Burolachuc L.F, 1978
)
[16, tr.5].
Kế thừa và phát huy một cách sáng tạo, các nhà tâm lý học thuộc viện chiến lược
và Chương trình Giáo dục Việt Nam đã đưa ra định nghĩa hiện đại và toàn vẹn hơn về trí
tuệ như sau: Trí tuệ - đó là một cấu trúc tương đối độc lập của những năng lực nhận t
hức
và xúc cảm của cá nhân, được hình thành và thể hiện trong hoạt động, do những điều
kiện văn hóa – lịch sử quy định và chủ yếu đảm bảo cho sự tác động qua lại phù hợp với
hiện thực xung quanh, cho sự cải tạo có mục đích của hiện thực ấy nhằm đạt được các
mục tiêu quan trọng trong cuộc sống của cá nhân và xã hội [16, tr.6].
1.2.2. Trí tuệ cảm xúc
1.2.2.1. Khái niệm trí tuệ cảm xúc

Nếu trí thông minh được biết đến và nghiên cứu một cách phổ biến, sâu sắc trong
gần một thế kỷ nay thì trí tuệ cảm xúc là một khái niệm mới được biết đến khoảng trên
một thập kỷ trở lại đây. Những nghiên cứu đầu tiên về trí tuệ cảm
xúc được công bố trên
các tạp chí vào những năm 90 của thế kỷ XX, được xem là nhân tố dự đoán sự thành
công của con người (Daniel Goleman) và là nhân tố mang lại hạnh phúc cho con người
(Hein Steve).
Thuật ngữ trí tuệ cảm xúc được P. Salovey và J. Mayer sử dụng đầu tiên vào năm
1990. Không lâu sau đó vào năm 1995, D. Goleman cho ra đời cuốn sách bán rất chạy
mang tên “Emotional Intelligence” thì thuật ngữ trí tuệ cảm
xúc trở nên rất phổ biến và
thông dụng ở nước Mỹ. Từ đây, các công trình nghiên cứu trí tuệ cảm xúc diễn ra một
cách rộng khắp và phổ biến.
Trí tuệ cảm xúc là một vấn đề còn mới mẻ, phức tạp đã và đang được nghiên cứu
sâu rộng. Vì thế, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về trí tuệ cảm
xúc.
Tuy nhiên, nhìn tổng quát có thể nhận ra hai dòng quan niệm tiêu biểu về trí tuệ cảm xúc
như sau:
Quan niệm trí tuệ cảm xúc theo kiểu thuần năng lực tâm thần
Trên cơ sở quan niệm của Howard Gardner về sự tồn tại một dạng trí tuệ cá nhân
bao gồm trí tuệ về mối quan hệ giữa các cá nhân và trí tuệ cá nhân hướng nội, năm 1990,
P. Salovey và J. Mayer đi tiên phong trong việc phát triển lý thuyết trí tuệ cảm xúc theo
kiểu thuần năng lực tâm
thần. Hai ông đã đưa ra nội dung chính thức về trí tuệ cảm xúc
như sau: “Trí tuệ cảm xúc là khả năng hiểu rõ cảm xúc bản thân, thấu hiểu cảm xúc của
người khác, phân biệt được chúng và sử dụng những thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ
và hành động của mình” [24].
Sau nhiều công trình nghiên cứu, năm 1997, Mayer và Salovey đã thay đổi đôi
chút định nghĩa trí tuệ cảm xúc được nêu vào năm 1990 nhằm nhấn mạnh hơn nữa khía
cạnh nhận thức, suy nghĩ về cảm giác và các giai đoạn phát triển trí tuệ và xúc cảm.

Mayer và Salovey đã chính xác hóa nội dung định nghĩa như sau: “Trí tuệ cảm xúc là
năng lực nhận biết và bày tỏ cảm xúc; hòa cảm xúc vào suy nghĩ; hiểu và suy luận với
cảm xúc; điều khiển, quản lý cảm
xúc của mình và của người khác” [9, tr.98].
Trong một cuốn sách xuất bản năm 1996, H. Steve cũng đưa ra định nghĩa tương
đồng với các tác giả trên, theo đó: “Trí tuệ cảm xúc là sự kết hợp giữa sự nhạy cảm về
cảm xúc có tính chất tự nhiên với các kỹ năng quản lý cảm xúc có được do tự học hỏi,
nhằm giúp con người đạt được hạnh phúc trong cuộc sống” [11, tr.176]. Theo đó, ông
cho rằng: trí tuệ cảm xúc là một tiềm năng bẩm
sinh để cảm nhận, sử dụng, giao tiếp,
nhận biết, ghi nhớ, mô tả, xác định, học hỏi, quản lý hiểu và giải thích cảm xúc [22].
Cùng với quan điểm trên, Boyatizis (1999) cho rằng: “Trí tuệ cảm xúc là năng lực
nhận biết những tình cảm của mình và của người khác để tự thúc đẩy mình, kiểm soát,
điều khiển cảm xúc của m
ình và của người khác” [9, tr.98].
Quan niệm trí tuệ cảm xúc theo kiểu hỗn hợp
R. Bar-On dựa trên cơ sở hiểu biết cảm xúc và xã hội có ảnh hưởng đến khả năng
đối phó có hiệu quả của con người đối với môi trường và hoàn cảnh, ông cho rằng: “Trí
tuệ cảm xúc là một dãy các năng lực phi nhận thức và những kỹ năng có ảnh hưởng đến
khả năng thành công của một người trong hoàn cảnh người đó phải đương đầu với
những yêu cầu và sức ép từ m
ôi trường” [9, tr.98-99].
Theo cách tiếp cận trên, quan niệm của D. Goleman (1995) được biết đến một
cách rộng rãi hơn: “Trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực: tự kiềm chế, kiểm soát, nhiệt
tình và năng lực tự thôi thúc mình” [9, tr.99]. Goleman nhận thức được rằng ông đang đi
từ trí tuệ cảm xúc sang cái gì đó rộng lớn hơn khi cho rằng có một từ có vẻ lỗi thời cho
một loạt các kỹ năn
g mà trí tuệ cảm xúc được xem là đại diện qua các kỹ năng này là:
“tính nết”. [9, tr.106]
Các quan niệm theo kiểu hỗn hợp cho thấy có sự pha trộn hay kết hợp giữa các

năng lực tâm thần và các năng lực không phải là tâm thần, chẳng hạn như các nét nhân
cách: nhiệt tình, kiên trì, lạc quan…
Hiện nay trí tuệ cảm xúc được các nhà tâm lý học trên thế giới định nghĩa như là
khả năng tác động một cách có hiệu quả lên những ham muốn của bản thân (R. Busk,
1991; E.L. Ykovleva, 1997); khả năng hiểu sự thể hiện của nhân cách ra bên ngoà
i
thông qua cảm xúc, cũng như dùng trí tuệ để phân tích, tổng hợp vấn đề, trên cơ sở đó
điều tiết cảm xúc của mình (Peter Salovey, John D. Mayer, 1994; G.G. Gorskova, 1999)
[1, tr.26].
Như vậy, các cách tiếp cận trên đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về trí tuệ cảm
xúc, từ đây sẽ làm nảy sinh các mô hình trí tuệ cảm xúc khác nhau. Nhìn chung chúng ta
có thể nhận thấy trí tuệ cảm xúc là một phẩm chất phức hợp, đa diện, đại diện cho những
nhân tố khó thấy, khó nắm bắt như tự ý thức, tự nhận thức, tự tin, sự thấu cảm, tính tích
cực hoạt động xã hội… Về cơ bản, các tác giả nhất trí xem
trí tuệ cảm xúc có liên quan
đến những năng lực nhận biết và điều khiển các cảm xúc của mình và của người khác.
Nghiên cứu trí tuệ cảm xúc dưới góc độ thuần năng lực đã cho thấy c
ó sự khác
biệt giữa trí tuệ cảm xúc và các nét tính cách quan trọng của nhân cách, khu trú trí tuệ
cảm xúc vào năng lực tâm lý và chỉ rõ nội dung cốt lõi của trí tuệ cảm xúc là sự tương
tác giữa cảm xúc và tư duy. Điều này có nghĩa là những người được coi là có trí tuệ cảm
xúc cao phải có khả năng tiến hành xử lý thông tin xúc cảm một cách tinh tế. Do vậy khi
con người sử dụng năng lực của bản thân để làm
cho suy nghĩ của chính mình dễ dàng
thì họ có thể học được cách điều chỉnh cảm xúc. Trên cơ sở này, chúng tôi chọn quan
điểm trí tuệ cảm xúc theo kiểu thuần năng lực của Mayer và Salovey làm cơ sở lý luận
định hướng nghiên cứu của đề tài.
1.2.2.2. Những nét đặc trưng của trí tuệ cảm xúc
* Trí tuệ cảm xúc là một cấu trúc phức hợp của nhiều năng lực khác nhau
liên quan đến lĩnh vực cảm xúc


Trí tuệ cảm xúc là tổ hợp của những năng lực về cảm xúc của bản thân. Tổ hợp
đó bao gồm nhiều năng lực cụ thể khác nhau chẳng hạn như: năng lực hiểu biết cảm xúc
của bản thân, năng lực điều khiển, điều chỉnh cảm xúc của bản thân cho phù hợp với
hoàn cảnh xung quanh. Các năng lực này đóng vai trò quyết định t
rong việc một người
có thể học các kỹ năng cần thiết để thành công trong công việc và cuộc sống.
Trí tuệ cảm xúc mang bản chất xã hội lịch sử, trí tuệ cảm xúc được hình thành
trong quá trình cá nhân tham gia vào các dạng hoạt động như học tập, lao động, hoạt
động xã hội,…và chịu sự chế ước to lớn của môi trường giáo dục, môi trường xã hội.
* Trí tuệ cảm xúc dễ thay đổi và có biên dộ thay đổi rộng
Trái
với quan niệm truyền thống, những phát hiện gần đây trong tâm lý học và từ
thực tế nghịch lý cho thấy trí thông minh, bằng cấp, và các kỳ thi chưa phải là công cụ
tiên đoán một cách chắc chắn sự thành công trong tương lai của con người. Vài thập
niên gần đây, nhiều nhà tâm lý học cho rằng trí thông minh chỉ là vùng hẹp của những
năng lực ngôn ngữ và toán học, khả năng dự đoán của các kết quả trắc nghiệm
trí thông
minh tốt cũng sẽ không cao và ít quan trọng hơn khi rời khỏi lĩnh vực trường học.
Goleman nhận định rằng: “Sự tương quan giữa chỉ số IQ và thành tựu đạt được trong
công việc, tỉ lệ này dự kiến đạt mức cao nhất chỉ vào khoảng 25%” [3, tr.48]. Theo
Gardner, trong tuyệt đại đa số trường hợp, vị trí chắc chắn mà cá nhân có được trong xã
hội được quy định bởi những nhân tố khác. Nhân tố ấy chính là trí tuệ cảm
xúc như là
năng lực tự thúc đẩy hay kiên trì trong khó khăn, làm chủ những xung năng của mình và
nhẫn nại chờ đợi sự thỏa mãn ham muốn, khả năng điều hòa tâm lý và không để sự buồn
rầu của mình chi phối khả năng đồng cảm và hy vọng [2, tr.71]. Trí tuệ cảm xúc có thể
cho phép tiên đoán sự thành công trong đường đời của mỗi người. Trí tuệ cảm xúc
hướng dẫn sự lựa chọn sáng suốt, mang m
àu sắc lý tính trong những tình huống khác

nhau, chúng hoạt động ăn khớp với tinh thần lý trí, cho phép hoặc ngăn cấm hoạt động
lý trí.
Trí tuệ cảm xúc là khả năng có thể tự học hỏi được và ngày càng sắc sảo hơn
trong quá trình sống tức là được tích lũy dần từ kinh nghiệm của chúng ta. Trí tuệ cảm
xúc dễ thay đổi và có biên độ thay đổi lớn. Trí tuệ cảm xúc có thể được dạy bởi giáo
viên, gia đình…Điều này mở ra khả năng cho việc giáo dục trí tuệ cảm xúc cho mọi
người. Thực tế cho thấy rằng trong 2 năm sau khi xuất bản cuốn sách của Goleman, có
hơn 700 trường học tiến hành chương trình học tập cảm xúc xã hội (SEL-Social
Emtional Learning) được thiết kế để dạy học sinh những kỹ năng cảm xúc xã hội
(Ratnesr, 1997). Chương trình SEL tập trung vào khả năng nhận thức cảm
xúc, kỹ năng
xã hội và trí tuệ cá nhân khi giải quyết vấn đề (Cohen, 2001).
* Trí tuệ cảm xúc là một dạng siêu năng lực hay siêu trí tuệ
Trí tuệ hàn lâm không chuẩn bị cho con người đủ sức đương đầu với những thử
thách, cơ hội và biến đổi không ngừng của cuộc sống. Ngay cả chỉ số trí thông minh cao
cũng không đảm bảo cho sự thành công, thịnh vượng và hạnh phúc nếu không có những
nét tính cách phù hợp, những xúc cảm thông m
inh. Đời sống xúc cảm là một lĩnh vực
nhạy cảm, phức tạp mà con người có thể chứng tỏ những năng lực của mình và đòi hỏi
vốn hiểu biết nhất định. Sự thành thạo, khéo léo của con người về trí tuệ cảm xúc là
nguyên nhân tạo thành công cho người đó, trong khi người khác có trí thông minh tương
đương nhưng có trí tuệ cảm x
úc kém lại thất bại. Trí tuệ cảm xúc thực sự là loại siêu trí
tuệ, siêu năng lực vì nó quyết định việc chúng ta có thể khai thác thế mạnh của mình, kể
cả lợi thế về trí thông minh hay không. Thực tế cho thấy những người có sự hiểu biết về
đời sống tình cảm, nắm được và làm chủ chúng, đoán được những xúc cảm của người
khác và hòa hợp với xúc cảm ấy một cách hữu hiệu thì luôn có lợi thế trong nhiều lĩnh

vực. Ngược lại, những người không kiểm soát được đời sống tình cảm của mình thường
chịu xung đột nội tâm, mất năng lực tập trung và suy nghĩ thiếu sáng suốt. Điều này

chứng tỏ người có trí tuệ cảm xúc cao thường nhanh nhẹn nắm bắt thời cơ để đạt lấy
thành công và hạnh phúc.
1.2.2.3. Mô hình trí tuệ cảm xúc

Năm 1990, P. Salovey và J. Mayer lần đầu tiên đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc,
cho đến nay đã có một số mô hình trí tuệ cảm xúc được đề xuất: mô hình của Goleman
(1995), Bar-On (1997), Cooper và Sawap (1997), Weisinger (1998),… Nhìn một cách
tổng quát có thể phân thành hai nhóm mô hình trí tuệ cảm xúc bao gồm: mô hình trí tuệ
cảm xúc thuần năng lực và mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp. Hai mô hình này không chỉ
khác nhau về khái niệm, cấu trúc, thành tố mà còn về cách thức, phương pháp đo lường
và đánh giá.
* Mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực (Mental ability models of EI)
P. Salovey và J. Mayer (1990) đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực bao
gồm 3 quá trình trí tuệ (mantal process) liên quan đến nhau và hàm chứa các thông tin
cảm xúc dựa trên cách hiểu trí tuệ cảm xúc như là năng lực làm chủ, điều khiển, kiểm
soát tình cảm của mình và của người khác, để định hướng cách suy nghĩ và hành động
của bản thân.
Những quá trình của m
ô hình trí tuệ cảm xúc (1990) bao gồm:
- Đánh giá và biểu hiện cảm xúc (bản thân và người khác)
- Điều khiển, kiểm soát cảm xúc (bản thân và người khác)
- Sử dụng cảm xúc một cách phù hợp để giải quyết vấn đề, bao hàm từ cách suy
nghĩ li
nh hoạt, suy nghĩ sáng tạo, tập trung chú ý trực tiếp và động cơ thúc đẩy.
Sau khi đưa ra mô hình trí tuệ cảm xúc (1990), hai ông đã đưa ra hai cách đánh
giá đo lường trí tuệ cảm xúc như sau: phương pháp đánh giá trí tuệ cảm xúc dựa vào tự
thuật (self-report measures) và phương pháp đánh giá trí tuệ cảm xúc dựa vào năng lực
hành động (ability measures). Tuy nhiên, lúc bấy giờ Mayer và Salovey đã lưu ý rằng
cần làm sao để những thành phần của trí tuệ cảm xú
c có thể đánh giá như một năng lực.

Dựa vào mô hình trí tuệ cảm xúc (1990), Shutte và các đồng sự của bà đã soạn
thảo một thang đo lường trí tuệ cảm xúc theo kiểu tự đánh giá gồm 33 mục hỏi, còn gọi
là EIS. Tuy nhiên người ta nhận thấy EIS có thể không thích hợp cho việc đo lường trí
tuệ cảm xúc mặc dù có nhiều nghiên cứu đã cho thấy có nhiều nhân tố có liên quan đến
đặc điểm của trí tuệ cảm
xúc và quá trình thông tin của trí tuệ cảm xúc.
Sau bảy năm nghiên cứu ứng dụng mô hình trí tuệ cảm xúc năm 1990, Mayer và
Salovey nhận ra những thiếu sót của mô hình này và đã cùng đồng nghiệp là David
Caruso bổ sung, đổi mới để cho ra đời một quan niệm mới về trí tuệ cảm xúc và một mô
hình trí tuệ cảm xúc mới vào năm 1997 gồm bốn năng lực cảm xúc sau đây:
- Nhận thức cảm xúc (của bản thân, người khác và môi trường xã hội).
- Sử dụng cảm xúc để đẩy mạnh tư duy và để tạo ra một sự chia sẻ cảm xúc
tương ứng.
- Hiểu rõ cảm
xúc, chẳng hạn: hiểu nguyên nhân cảm xúc, sự biến đổi của chúng
qua thời gian…
- Kiểm soát sự kết hợp của lập luận và dữ kiện về những cảm xúc để ra những
quyết định chiến lược hay còn gọi là kiểm soát cảm xúc.
Mô hình này nhấn mạnh đến mặt nhận thức, tập trung vào khả năng tâm trí cụ thể
để phục vụ cho việc nhận biết và tổ chức điều khiển cảm xúc.
Điểm nổi bật của mô hì
nh trí tuệ cảm xúc năm 1997 so với mô hình trí tuệ cảm
xúc năm 1990 ở chổ là các năng lực trong mô hình trí tuệ cảm xúc năm 1997 không đơn
thuần chỉ có mối quan hệ với nhau như những thành phần trong một cấu trúc mà còn
như một quy trình liên tục. Ý nghĩa quan trọng của mô hình trí tuệ cảm xúc năm 1997
đem lại là có thể xây dựng một quy trì
nh phát triển trí tuệ cảm xúc gồm 4 giai đoạn
tương ứng với 4 thành tố tạo nên trí tuệ cảm xúc.
Dựa vào mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực năm 1997, D. Caruso và các
cộng sự đề xuất một quy trình phát triển trí tuệ cảm xúc gồm 4 giai đoạn như sau: nhận

thức cảm xúc, sử dụng cảm xúc, hiểu rõ cảm xúc và kiểm soát cảm xúc.
Cũng dựa trên mô hình trí tuệ cảm
xúc thuần năng lực năm 1997, Mayer, Salovey
và Caruso đã soạn thảo trắc nghiệm đo lường trí tuệ cảm xúc theo kiểu phép đo lường
năng lực mang tên MSCEIT (Mayer Salovey Caruso Emotional Intelligence Test) vào
năm 2002.
* Mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn hợp (Mixed models of EI)
Khác với mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực, các mô hình trí tuệ cảm xúc hỗn
hợp đều pha trộn nhiều yếu tố và mở rộng ý nghĩa của cấu trúc. Đại diện cho mô hình trí
tuệ cảm x
úc hỗn hợp như mô hình của Bar-On, Cooper và Sawap, Goleman,…

×