Mục lục
Trang
Lời mở đầu 1
Ch ơng I- NEP chính sách của Đảng cộng sản ở bớc ngoặt
lịch sử của cách mạng 2
I- Bớc chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, hoàn cảnh
ra đời của NEP
2
II- Những mâu thuẫn về kinh tế và chính trị, sự phân tích
Lêninít những mâu thuẫn ấy
3
III- Nội dung chủ yếu của NEP
4
Ch ơng II - NEP Chiến lợc xây dựng chủ nghĩa x hội từ ã
xuất phát điểm lạc hậu 8
I- Xác định quan điểm phát triển cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện kinh tế lạc hậu
8
II- chiến lợc liên minh công nông về mặt kinh tế
9
III- Con đờng từ nền kinh tế nhiều thanh phần đến nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa
11
Ch ơng III - ý nghĩa thời sự vào NEP và mấy vấn đề vận dụng
vào thực tiễn nớc ta 17
I- Bài học lịch sử
17
1
II- ý nghĩa thời sự của NEP và những suy nghĩ về sự vận dụng vào
điều kiện nớc ta 18
III- Những thành tựu bớc đầu của công cuộc cải cách dới
ánh sáng của t duy kinh tế mới
21
Kết luận 23
Tài liệu tham khảo 24
2
Lời mở đầu
Hiện nay chúng ta đang trong quá trình giải quyết những khó khăn to
lớn về kinh tế và xã hội, phấn đấu cho những chặng đờng đầu của công
cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.Thực tiễn ở nớc ta cũng nh ở các nớc xã hội
chủ nghĩa trên toàn thế giới là không thể giải quyết những vấn đề có tính
thời sự bằng các chủ trơng dựa trên t duy cũ, mang tính chất bị động và
đối phó với tình hình.Hoàn cảnh đặc thù ở nớc ta đòi hỏi phải có những
chiến lợc và sách lợc tình thế, vừa đáp ứng đợc nhu cầu trớc mắt vừa tạo
nền móng cho sự phát triển lâu dài.Chiến lợc đó phải dựa trên những cơ sở
lí lụân vững chắc và cơ sở lí luận đầy đủ, có tính đến kinh ngiệm thời kì đã
qua của nớc ta và kinh ngiệm của hệ thống các nớc xã hội chủ nghĩa trên
toàn thế giới.Trong bối cảnh đó chúng ta lại nhớ đến chính sacchs kinh tế
mới của Lênin,đó là một mẫu mực về chiến lợc tình thế, đồng thời xây
dựng chiến lợc lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm lạc
hậu.Thực tiễn ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội trong hơn tám thập
kỉ qua càng làm tăng giá trị quốc tế của chính sách kinh tế mới của Lênin.
ở nớc ta nhiều ngời đã nói tới chính sách kinh tế mới của Lênin từ
nhiều năm trớc. Nhng hiện nay thực tiễn cách mạng nớc ta đặt ra nhiều
vấn đề, với mức độ khó khăn và cụ thể hơn, nh vấn đề sử dụng nhiều thành
phần kinh tế với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, vận dụng quan hệ
hàng hoá- tiền tệ, quy luật giá trị với vai trò kế hoạch hoá, vận dụng
nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc phát huy mạnh mẽ tính chủ động,
sáng tạo của cơ sở và địa phơng Sẽ không có một chủ trơng, chính sách
nào thành công nếu không nhận thức đúng đắn và giải quyết có hiệu quả
những vấn đề lí luận cơ bản đó.
Trong mấy năm qua,việc tìm tòi xây dựng cơ chế quản lí mới chúng
ta đã đạt đợc những kết quả nhất định, thể hiện sự vận dụng sáng tạo tinh
thần của chính sách kinh tế mới vào nông nghiệp,củng cố khối liên minh
công nông về kinh tế, khẳng định vai trò của thơng nghiệp trong sự thiết
lập các quan hệ kinh tế mới Nếu chúng ta tổng kết một cách ngiêm khắc
những sai lầm khuyết điểm trong những năm vừa qua đồng thời nhận thức
đầy đủ hơn t tởng của Lênin thì sẽ hoàn thiện đợc cơ chế quản lí mới trên
qui mô nền kinh tế quốc dân, từ đó đặt nền móng cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nớc ta trong thời kì quá độ. Bài viết này mong sẽ đóng
góp một phần nhỏ vào hớng suy nghĩ đó.
3
Chơng I
NEP - Chính sách của Đảng cộng sản ở
bớc ngoặt lịch sử của cách mạng
NEP- từ gọi tắt " Chính sách kinh tế mới " đợc Lênin dùng lần đầu
tiên vào năm 1922, mãi vang lên trong tâm trí biết bao thế hệ những ngời
cộng sản các nớc, khi họ bắt tay vào giải quyết những vấn đề phức tạp của
chặng đờng đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ những xuất phát
điểm khác nhau.
I. Bớc chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, hoàn cảnh
ra đời của NEP.
Cuối năm 1920, phần nớc Nga Xô Viết đợc giải phóng khỏi bọn bạch
vệ và can thiệp, chuyển sang giai đoạn kiến thiết đất nớc trong hoà bình từ
những điều kiện cực kì khó khăn.Sự tàn phá về kinh tế đạt đến mức đọ cha
từng có.Những hậu quả nặng nề của những năm chiến tranh đế quốc và
nội chiến đã làm cho tình hình kinh tế và xã hội trở nên nóng bỏng.
Về công nghiệp:
Tổng sản lợng công nghiệp( triệu rúp) năm 1920 so với năm 1917
giảm đi hơn 4 lần, số nhân công giảm đi gần 1/2.Do đó tỉ trọng sản phẩm
công nghiệp trong nền kinh tế năm 1920 giảm xuống còn 25%.Hầu hết
các ngành đều sa sút.So với năm 1913, sản lợng đại công nghiệp giảm
xuống tới 12,8%.Vì vậy tơng quan đã thay đổi ngiêng về tiểu công nghiệp
( từ 22,4% tăng lên 52,3%).
Về nông nghiệp:
Tình hình trong lĩnh vực này tiếp tục xấu đi.Diện tích gieo trồng, sản
lợng ngũ cốc, sản phẩm chăn nuôi đều giảm.Tổng sản lợng nông nghiệp
năm 1921 chỉ bằng 60% năm 1913.Bình quân ngũ cốc trên đầu ngời năm
1920 là 246 kg so với 405 kg mức trớc chiến tranh.
Về giao thông -vận tải:
Bị tàn phá nghiêm trọng, 61% số đầu máy , 28% số toa xe , 4000 cây
cầu và nhiều kho tàng, bến bãi bị phá huỷ.Khối lợng vận chuyển năm
1920 chỉ bằng 20% mức trớc chiến tranh.
Về tài chính- tín dụng:
Lâm vào tình trạng rối loạn.Năm 1918 bội chi ngân sách là 30 tỉ rúp,
năm 1921 bội chi lên đến mức kỉ lục là 21937 tỉ rúp.Mức dự trữ vàng sụt
giảm ngiêm trọng.Nếu năm 1914 mức vàng đảm bảo cho khối lợng tiền tệ
trong lu thông là 98,2% thì đến năm 1917 chỉ còn 6,8%.Khối lợng tiền tệ
trong lu thông tăng nhanh trong khi khối lợng hàng hoá giảm mạnh đa đến
sự tăng vọt của giá cả hàng hoá, trung bình năm 1921 tăng hơn 20 lần so
với năm 1913
Về xã hội:
Do sản xuất và lu thông sa sút nên đời sống của nhân dân lao động
càng thêm khó khăn. Tiền lơng thực tế giảm xuống gần 3 lần so với mức
4
trớc chiến tranh.Do thiếu ăn thờng xuyên cộng với điều kiện sống xuống
cấp, nên tỉ lệ công nhân mắc bệnh và tỉ vong tăng lên.Trong khi đó, vì
thiếu điều kiện sản xuất nên nhiều nhà máy phải đóng cửa, số ngời thất
nghiệp tăng lên, tình trạng biến chất của giai cấp công nhân tiếp tục diễn
ra.
II. Những mâu thuẫn về kinh tế và chính trị, sự phân
tích Lêninít những mâu thuẫn ấy.
Cuộc khủng hoảng đã xuất hiện ngay khi vừa ngừng tiếng súng.Nguy
cơ đó tiếp tục tăng lên đòi hỏi những ngời cộng sản nhận thức sâu sắc và
đầy đủ hơn những vấn đề lí luận và thực tiễn của thời kì quá độ từ chủ
nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội.
Thực sự sẽ không dễ dàng tìm ra nhanh chóng câu trả lời cho những
vấn đề phức tạp.Bởi vì trớc khi cách mạng tháng 10 thành công và thiết lập
nên chuyên chính vô sản đầu tiên trên trái đất, thì t tởng Macxít chỉ xem
xét những vấn đề của thời kì quá độ về mặt lí luận.Nhng lúc này những
ngời cộng sản phải bắt tay vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của thời
kì quá độ, trong đó vừa phải giải quyết những mâu thuẫn khách quan do
lịch sử để lại, vừa phải giải quyết những sai lầm chủ quan trong lãnh đạo-
quản lí.
Thứ nhất:
Đặc điểm của nớc Nga là sự lạc hậu tơng đối về kinh tế, là sự quyện
chặt giữa một bên là t bản độc quyền với các tàn tích phong kiến.Trớc đây,
chính quyền Xô Viết đứng vững trong nội chiến và sự can thiệp của nớc
ngoài là nhừ tinh thần hi sinh của nhân dân, trớc hết là sự hi sinh của giai
cấp công nhân và nông dân.Lòng yêu nớc và nhiệt tình cách mạng của
quần chúng là động lực duy nhất để chiến đấu và chiến thắng.
Sau chiến tranh giai cấp công nhân vẫn là lực lợng chủ yếu nuôi sống
đất nớc, song đời sống của đại bộ phận vẫn đang thiếu thốn và khó
khăn.Nếu Đảng giữ đợc nhiệt tình cách mạng và lòng tin của họ thì bảo vệ
đợc cách mạng, ngợc lại thì sự nghiệp cách mạng sẽ hết sức nguy
hiểm.Xuất phát từ sự phân tích đó Lênin đã chỉ ra rằng :" Phải bắt đầu từ
nông dân và trong nông nghiệp", phải nhanh chóng cải thiện đời sống của
nhân dân lao động trên cơ sở xây dựng quan hệ kinh tế bình thờng giữa
nông nghiệp với công nghiệp, củng cố liên minh công- nông trên cơ sở
kinh tế nhằm lôi kéo những ngời sản xuất nhỏ vào công cuộc xây dựng đất
nớc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai:
Những sai lầm chủ quan của những ngời cộng sản cũng là một thực tế
cần giải quyết đồng thời với việc giải quyết những mâu thuẫn khách
quan.Trong những năm tháng áp dụng chính sách " Cộng sản thời chiến",
đã xuất hiện những t tởng về khả năng quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã
hội.Nhiều chủ trơng, biện pháp nóng vội đã ra đời từ quan điểm này là một
trong những nguy cơ làm tăng khủng hoảng.Quan niệm về khả năng quá
độ trực tiếp tiếp lên chủ nghĩa xã hội cho rằng có thể chỉ dựa vào nhiệt
tình cách mạng của quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ to lớn và
phức tạp nh đã từng giải quyết thành công những nhiệm vụ quân sự trớc
5
đây.Quan niệm hình thành trong điều kiện cực kì khó khăn lúc đó của nớc
Nga và đã đi đến quyết định:" chuyển ngay sang việc sản xuất và phân
phối cộng sản chủ nghĩa".Quan niệm này không chỉ là sản phẩm duy ý chí
của ngời quản lí, mà trong đó còn phản ánh nguyện vọng muốn nhanh
chóng thoát khỏi cảnh đói nghèo của đông đảo quần chúng nhân dân lao
động.Dù đây là quan điểm mang tính chất lãng mạn và ảo tởng nhng nó đã
lặp đi lặp lại ở các nớc kinh tế kém phát triển ở chặng đờng đầu của thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
III. Nội dung chủ yếu của NEP
Theo quan điểm của Lênin, khủng hoảng là tích tụ và làm gay gắt
thêm những mâu thuẫn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.Sự
phân tích sâu sắc của Lênin đã vạch ra và làm sáng tỏ mối quan hệ qua lại
giữa các lĩnh vực quan trọng nhất: chính trị- xã hội- kinh tế.Vì vậy khi tiếp
cận nội dung của NEP phải theo quan điểm hệ thống, nhận thức rõ các
mối quan hệ có ảnh hởng qua lại lẫn nhau.
Trong các nhân tố thúc đẩy cuoocj khủng hoảng thì đầu tiên là các
chủ trơng vi phạm vi phạm quyền lợi của ngời lao động, mà nghiêm trọng
nhất là ngời nông dân: mệt mỏi vì chiến tranh, kiệt sức vì nạn đói, thiếu
công ăn việc làm
Một nhân tố khác thúc đẩy khủng hoảng, đợc Lênin chỉ ra là " những
quá lạm quan liêu của bộ máy chúng ta", xuất hiện sự thoái hoá trong bộ
máy nhà nớc, một số bộ phận cán bộ nhân viên, kể cả những cán bộ lãnh
đạo cao cấp đã có những biểu hịên xa rời quần chúng, thiếu tôn trọng lợi
ích của quần chúng càng gây mất lòng tin và sự bất mãn của quần chúng.
Xem xét toàn diện các nhân tố gây ra khủng hoảng, Lênin đã chỉ ra
nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng là nguyên nhân bên trong- những
sai lầm về lãnh đạo và quản lí, trớc hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh
tế.Mục tiêu trớc mắt và cấp bách mà NEP thể hiện là ổn định và cải thiện
đời sống của ngời lao động cùng với các biện pháp nhằm bảo vệ và củng
cố chính quyền Xô Viết đợc coi là mục tiêu hàng đầu.Các nội dung của
NEP là một hệ thống gồm nhiều mắt khâu liên hoàn, có mối quan hệ
khăng khít.Tất cả các khâu tạo thành một cơ chế cho phép nhà nớc tháo gỡ
khó khăn, điều hành sự vận động của kinh tế- xã hội.
Khâu thứ nhất: Thuế lơng thực
Có thể nói đây là khâu đầu, là bớc quá độ từ trạng thái hỗn độn sang
cơ chế mới.Trong điều kiện nớc Nga lúc ấy, giai cấp nông dân và nông
nghiệp là nguồn chính nuôi sống xã hội.Sản xuất và đời sống xã hội phụ
thuộc vào nông nghiệp.Khó khăn lớn nhất mà nhà nớc vấp phải là thiếu l-
ơng thực, vì vậy mục đích trực tiếp của thuế lơng thực là:" biện pháp cấp
tốc, cơng quyết nhất, cấp thiết nhất để cải thiện đời sống của nông dân và
nâng cao năng lực sản xuất của họ".Thực hiện thu thuế lơng thực, xoá bỏ
chế độ trng thu lơng thực cũng có nghĩa là chuyển từ biện pháp hành chính
thuần tuý sang biện pháp kinh tế, thuế lơng thực đóng vai trò của bớc quá
độ đó. Nó chính là công cụ hữu hiệu để khôi phục nền nông nghiệp sau
chiến tranh, biểu hiện cụ thể của quá trình khôi phục kinh tế, bởi vì:" Thuế
lơng thực sẽ giúp vào việc cải thiện nền kinh tế nông dân.Bây giờ nông
6
dân sẽ bắt tay vào làm việc một cach yên tâm và hăng hái hơn và đó mới là
điều chủ yếu".
Khâu thứ hai: Khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong
nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa công nghiệp và nông
nghiệp.
Muốn cải thiện đới sống nông dân và công nhân thì không thể dựa
vào nền nông nghiệp gia trởng mang tính chất tự cấp tự túc mà chỉ có thể
dựa vào một nền nông nghiệp hàng hoá.ý nghĩa và tác dụng cần có của
thuế lơng thực không thể phát huy đợc trong nền nông nghiệp tự cấp tự
túc, vì khi nông sản thừa tăng lên một mức nào đó nếu không ddem trao
đổi thì sẽ mất tác dụng kích thích.Do vậy " thuế lơng thực là một bớc quá
độ từ chính sách cộng sản thời chiến đến chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa
về sản phẩm.".Nh vậy quan điểm cơ bản của Lênin " bắt đầu từ nông dân"
đợc cụ thể trong chính sách: thuế lơng thực và trao đổi hàng hoá.Vì vậy
nhiệm vụ của ngời làm công tác lơng thực trở nên phức tạp hơn. Một mặt
là nhiệm thu thuế, thu nhanh chừng nào hay chừng ấy.Mặt khác đó là
nhiệm vụ kinh tế chung, hớng dẫn hợp tác xã, giúp đỡ tiểu công nghiệp
phát huy tính chủ động, sáng tạo ở cơ sở để tăng cờng và củng cố sự trao
giữa công nghiệp và nông nghiệp.Nhờ quán triệt đầy đủ quan điểm của
Lênin trong chính sách lơng thực, nên đến năm 1925, sản xuất nông
nghiệp của nớc Nga đã đạt mức trớc chiến tranh(1913), trong khi các nớc
t bản phơng Tây tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất, kể từ sau hội nghị
Vecxai, mới khôi phục xong sản xuất nông nghiệp.
Khâu thứ ba: Khôi phục và tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp
phù hợp với nhu cầu của nông nghiệp và nông dân.
Một trong những yêu cầu của trao đổi hàng hoá là cần quỹ hàng công
nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông thôn.Nhng trong lúc này sản xuất
công nghiệp đang sa sút vì thiếu lơng thực và nguyên liệu.Vì vậy phải xem
xét một cách thực tế yêu cầu và khả năng hôi phục công nghiệp.
Nhìn một cách tổng quát, quá trình khôi phục sản xuất công nghiệp
có những đặc điểm và tính quy luật sau:
Một là: Khôi phục công nghiệp trên cơ sở kĩ thuật cũ.
Hai là: Phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cân đối với nguồn tài
chính, nguyên liệu và nhiên liệu.
Ba là: Những bớc đi cụ thể của quá trình khôi phục công nghiệp.
Xuất phát từ nhu cầu nông nghiệp và nông thôn, có tính đến khả năng
tích luỹ ngay trong quá trình khôi phục, nền nông nghiệp đợc khôi phục
theo những bớc sau:
Trớc hết là khôi phục công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm,
đây là những nghành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ
sản phẩm.Tiếp đó khôi phục công nghiệp than( năm 1927 đạt mức sản l-
ợng trớc chiến tranh). Các ngành công nghiệp nặng đợc khôi phục chậm
hơn. Vốn đầu t phần lớn đợc nhà nớc hớng vào phát triển cơ sở năng lợng.
Công nghiệp dầu khí đợc khôi phục và cải tạo cơ bản. Chơng trình tối
thiểu của kế hoạch điện khí hoá năm 1927- 1928 đã hoàn thành. Khó khăn
hơn cả là công tác khôi phục công nghiệp luyện kim đen.Năm 1921 mới
7
đa vào hoạt động đợc17 trong tổng số 136 lò cao và 22 trong tổng số 204
lò Máctanh có trớc chiến tranh.
Bốn là: Sử dụng cơ cấu nhniều thành phần trong khôi phục nông
nghiệp
Năm là: Chuyển từ cơ chế quản lí tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ
chế hạch toán kinh tế theo nguyên tắc dân chủ.
Khâu thứ t: Tổ chức quá trình lu thông theo quan điểm NEP.
Vào mùa thu năm 1921, trong các báo cáo tại Đại hội II các cơ quan
giáo dục chính trị toàn Nga, tại Hội nghị Đảng bộ tỉnh Matcơva lần thứ
VII Lênin đã nêu lên những chức năng mới của nhà nớc vô sản trong lĩnh
vực kinh tế nh:
- Điều tiết việc mua bán và lu thông tiền giấy.
- Tổ chức thơng nghiệp và bán buôn bán lẻ.
- ổn định các quan hệ hàng hoá- tiền tệ giữa các cơ quan kinh
tế nhà nớc.
- Sử dụng hợp tác xã để củng cố quan hệ thơng mại giữa thành
thị và nông thôn.
- Phát triển các quan hệ tín dụng.
Mục đích cao nhất của NEP ở bớc ngoặt cách mạng là thiết lập liên
minh kinh tế giữa hai giai cấp công nhân và nông dân trong điều kiện
nông nghiệp lạc hậu, phân tán thì thơng nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy
nhất giữa hàng chục triệu tiểu nông với giai cấp vô sản, là điều kiện để
công nghiệp và nông nghiệp tái sản xuất đợc.Trong quá trình tổ chức lu
thông hàng hoá theo tinh thần NEP, Nhà nớc Xô Viết đã nắm vững tính
quy luật liên kết giữa thơng nghiệp với tài chính và ngân hàng nh một
chỉnh thể.Logíc của sự vật khach quan, sự đẩy mạnh chu chuyển nội thơng
làm cho nhu cầu về tiền mạt tăng lên là điều kiện có lợi cho việc cunge cố
đòng rúp. Sự phát triển của thơng nghiệp đã kích thích mọi lực lợng sản
xuất phát triển, tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách.
Khâu thứ năm: ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô Viết.
Khôi phục kinh tế theo quan điểm NEP đã tạo điều kiện kinh tế thuận
lợi cho việc giải quyết các vấn đề tài chính- tiền tệ.Các xí nghiệp đi vào
hạch toán kinh tế không đòi hỏi kinh phí từ ngân sách Nhà nớc, đồng thời
lại nộp một phần lợi nhuận vào ngân sách nhà nớc.Hoạt động ngoại thơng
phục hồi bắt đầu bổ sung dự trữ vàng cho nhà nớc.Tuy nhiên, các hoạt
động sản xuất và lu thông càng mở rộng, kinh tế hàng hoá càng phục hồi
và phát triển thì càng đòi hỏi cấp bách phải giải quyết những vấn đề tài
chính- tiền tệ.Việc ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô viết đợc đặt
trong bối cảnh đặc biệt: nớc Nga trớc cách mạng đã đạt đến trình độ phát
triển kinh tế hàng cao, nhng trải qua mấy năm thi hành chính sách cộng
sản thời chiến và những hậu quả của chiến tranh đã làm cho nền kinh tế bị
tàn phá, xáo trộn, xu hớng hiện vật hoá xuất ngày càng nhiều trong lu
thông.Bớc vào khôi phục kinh tế trong điều kiện lạm phát nặng nề, bội chi
ngân sách ngày càng lớn, đồng rúp mất giá từng ngày.Nhà nớc đứngtrớc
hai vấn đề cực kì khó khăn: chấn chỉnh công tác tài chính và ổn định đồng
tiền.Lịch sử đã ghi nhận, cơ chế NEP đã vợt qua thử thách đó, dành thắng
8
lợi cuối cùng cho toàn bộ các chính scáh của nhà nớc Xô Viết. Lênin nói
rằng: " Có thể khẳng định đợc rằng bây giờ chúng tôi có thể hài lòng là đã
hiểu đợc điều chủ yếu: hiểu đợc những điều điện chủ yêú để ổn định đồng
rúp".Từ đó ngân sách tiếp tục bội thu.Công tác phát hành trở thành nguồn
vốn tín dụng cho nền kinh tế, chứ không phải để trải cho bội chi ngân
sách.Tài sản nhà nớc không ngừng tăng lên( từ10-1923 đến 10-1925 đã
tăng lên 5 lần), các khoản tiền gửi vào ngân hàng tăng 6,7 lần, nghiệp vụ
cho vay tăng 4,7 lần.Thắng lợi vững chắc của công cuộc cải cách tiền tệ đã
góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của NEP, tạo
tiền đề cần thiết cho sự phát triển sau này.
Chơng II
Nep - chiến lợc xây dựng chủ nghĩa xã hội
9
từ xuất phát điểm lạc hậu
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội ngày càng chứng minh tầm
quan trọng của sự kết hợp những tính quy luật chung với những đặc điểm
lịch sử cụ thể của từng nớc, từng giai đoạn. Chính sách kinh tế mới của
Lênin là kiểu mẫu hoàn thiện nhất của sự kết hợp nh thế. Chỉ trong một
thời gian ngắn, Đảng cộng sản Liên Xô, dới sự lãnh đạo của Lênin đã xác
định kế hoạch thật sự khoa học về xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội lần
đầu tiên trên thế giới, đã giải quyết thành công toàn bộ những vấn đề cơ
bản nhất trong thực tiễn sinh động của thời kì quá độ, đã nêu một thái độ
ngiêm túc và phơng pháp mẫu mực trong việc vận dụng học thuyết Mác-
Enghen vào cuộc sống.
Chủ nghĩa xã hội từ lí luận đến hiện thực là cả một bớc ngoặt, ở đó
diễn ra cuộc sát hạch của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là
Đảng cộng sản. Nắm vững NEP, với t cách là chiến lợc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, là bảo đảm vững chắc cho sự thắng lợi của giai cấp công
nhân và Đảng của nó trong cuộc sát hạch ấy.Điều đó càng có tầm quan
trọng quyết định đối với những nớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một
nền nông nghiệp lạc hậu, không qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa.
Ngày nay, khi ngày càng có nhiều dân tộc, với những điều kiện xuất
phát khác nhau, lựa chọn con đờng xã hội chủ nghĩa, thì việc ngiên cứu
NEP với ý nghĩa là chiến lợc xây dựng chủ nghĩa xã hội càng có ý nghĩa
thời sự và tầm quan trọng đặc biệt.
I. Xác định quan điểm phát triển cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện kinh tế lạc hậu
Cho đến tận bây giờ, trong số các nớc đã và đang xây chủ nghĩa xã
hội ở các giai đoạn khác nhau, cha có nớc nào mà xuất phát điểm về kinh
tế, văn hoá của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đạt đến trình độ phù hợp.
Phần lớn trong số các nớc đó lại từ điểm xuất phát nông nghiệp lạc hậu,
thậm chí sản xuất nhỏ còn là hình thức phổ biến. Vì vậy, tính u việtcủa
chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa t bản không đợc phát huy đầy đủ từ đầu,
mà chỉ phát huy dần dần trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhng
tiến trình đó diễn ra nh thế nào là còn do quan điểm phát triển cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Sau khi giành đợc chính quyền và lựa chọn con đờng tiến lên chủ
nghĩa xã hội, thì vấn đề đầu tiên đặt ra trớc giai cấp công nhân và Đảng
của nó là xác định quan điểm phát triển nh thế nào: có thể chuyển trực tiếp
lên chủ nghĩa xã hội hay phải trải qua những bớc đi trung gian, những biện
pháp quá độ đặc biệt. Kinh ngiệm lịch sử cho thấy rằng, quá trình tiến lên
chủ nghĩa xã hội thuận lợi hay khó khăn phụ thuộc trớc hết vào quan điểm
phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiều ngời cách mạng đã thuộc
lòng lời dặn của C.Mác rằng: " một xã hội, ngay sau khi xác định đúng
con đờng tiến lên rồi, cũng không thể nào nhảy qua các con đờng phát
triển tự nhiên, hay dùng các sắc lệnh để xoá bỏ nó nhng có thể rút ngắn
và làm dịu bớt những cơn đau đẻ". Tuy vậy bài học sai lầm do nôn nóng,
10
chủ quan, hay muốn tìm những con đờng mới ngoài quy luật chung đã đợc
khái quát hoá trong học thuyết của Mác- Lênin vẫn còn đang lặp lại.
Hiện tợng đó không chỉ do thái độ và tâm lí, mà còn do trình độ tiếp
nhận chủ nghĩa xã hội khoa học và tiếp thu những bài học lịch sử. Quan
niệm chuyển thẳng, trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, bỏ các chặng đờng của
thời kì quá độ thờng gắn liền với các quan niệm không tởng về chủ nghĩa
xã hội. Trong điều kiện đã gính đợc chính quyền, những ngời mang quan
điểm xã hội chủ nghĩa không tởng thờng muốn áp đặt những kế hoạch vĩ
đại với nguyện vọng tốt lành và đơn thuần dựa vào tuyên truyền, kêu gọi,
thuyết phục. Lênin đã từng chỉ rõ sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa xã
hội không tởng và chủ nghĩa xã hội khoa học là ở chỗ: Chủ nghĩa xã hội
không tởng không thể hiểu đợc vai trò lịch sử của giai cấp công nhân,
không thể hiểu đợc tầm quan trọng của phong trào quần chúng nông dân,
không đánh giá đúng vai trò của đấu tranh chính trị. Vì vậy, chủ nghĩa xã
hội không tởng không thể vạch ra con đờng đi tới chủ nghĩa xã hội về mặt
lí luận, và liên tiếp thất bại trong hoạt động thực tiễn. Lênin đã luận chứng
và khẳng định về quan niệm phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa một
cách đúng đắn trong điều kiện kinh tế lạc hậu, thông qua thực tiễn xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô rằng: " Không nghi ngờ gì nữa, trong đó
những ngời sản xuất- tiểu nông chiếm đa số dân c- chỉ có thể thực hiện
cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp quá độ đặc
biệt hoàn toàn không cần thiết ở các nớc t bản phát triển".
T tởng của Lênin về con đờng đặc biệt quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
các nớc kinh tế và văn hoá lạc hậu, bắt nguồn từ quan điểm duy vật lịch
sử, coi quá trình chuyển từ xã hội còn sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hộ
cũng là quá trình lịch sử tự nhiên. Lênin đã căn dặn những ngời cộng sản
rằng: " Mác không tởng tợng ra, không nghĩ ra một xã hội " mới" nào cả.
Không, Mác chỉ nghiên cứu sự phát sinh xã hội mới từ xã hội cũ, nghiên
cứu những hình thức quá độ từ xã hội này sang xã hội khác, coi đó là một
quá trình lịch sử tự nhiên vậy".
T tởng của Lênin về con đờng quá độ đặc biệt lên chủ nghĩa xã hội đã
trở thành cơ sở lí luận xuất phát và phơng pháp luận của đờng lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở những ở những lạc hậu trong đó có nớc ta. T tởng
đó của Lênin soi sáng sự phân tích nguyên nhân của những sai lầm, nôn
nóng, chủ quan duy ý chí và việc tìm kiếm những giải pháp khắc phục sai
lầm, mà trớc hết phải vận dụng quan điểm quan điểm duy vật lịch sử, nhìn
thẳng vào sự thật của những mâu thuẫn trong việc đánh giá thực trạng kinh
tế- xã hội cũng nh phát hiện những khả năng đi lên, những lực luợng xây
dựng xã hội mới, từ trong sự vận động của các mâu thuẫn đó.
II. Chiến lợc liên minh công - nông về mặt kinh tế
Tính tất yếu phải lựa chọn con đờng quá độ đặc biệt lên chủ nghĩa xã
hội, xét một cách khái quát là do giai cấp công nhân cha phát triển, hay
cha phát triển đầy đủ. Do đó cha có đủ tiền đề về kinh tế và xã hội, cha có
chỗ dựa về chính trị cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng và cho phép nhà nớc thực hiện các chức năng của mình
một cách có hiệu quả.
11
Vậy phải làm nh thế nào, để trong hoàn cảnh đó phát huy đợc vai trò
và sức mạnh của giai cấp công nhân? Nói nh Lênin, " là chỗ dựa về mặt
xã hội, kinh tế và chính trị " cho việc chuyển lên chủ nghĩa xã hội. Phát
triển những t tởng của C.Mác và P.Enghen về khả năng quá độ lên chủ
nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa, trong điều
kiện mới của lịch sử thế giới, Lênin đã chỉ ra những điều kiện cho sự phát
triển thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế lạc hậu, cho
việc phát huy vai trò và sức mạnh của giai cấp công nhân. Ngời viết : "
trong một nớc nh vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng
lợi với hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kịp thời của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nớc hay một số nớc tiên tiến Điều
kiện thứ hai là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự
chuyên chính hoặc đang nắm chính quyền nhà nớc với đại đa số nông
dân".
Thực chất hai điều kiện đó, nh thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở nhiều nớc cho thấy là hình thành khối liên minh bằng hai sức mạnh: bên
trong là liên minh giữa hai giai cấp công nhân và nông dân, bên ngoài là
sự liên minh quốc tế xã hội chủ nghĩa. Sức đẩy của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa trong một nớc kinh tế lạc hậu là sức đẩy tổng hợp gồm hai sức
mạnh đợc hình thành nh một chỉnh thể. Thiếu một không thể đợc. Thiếu
cả hai thì cách mạng nhất định thất bại. Bằng sức mạnh tổng hợp đó thì
giai cấp công nhân trẻ tuổi trong nớc mới thực sự là chỗ dựa cho cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Tầm quan trọng quyết định của liên minh về kinh tế giữa hai giai cấp
công nhân và nông dân thể hiện ở các mặt sau đây:
a) Xây dựng động lực cách mạng trong giai đoạn mới, biến công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành sự nghiệp của quần chúng, Lênin
dạy rằng: " Những ngời cộng sản và giai cấp công nhân phải lôi cuốn tất
cả quần chúng lao động, trong đó đại đa số là nông dân, đều thật sự tham
gia sự nghiệp nàythì mới bảo đảm thắng lợi của cách mạng. Theo t tởng
của Lênin, liên minh là dựa vào sự thoả thuận. Và " thoả thuận là một
khái niệm rất rộng, nó bao hàm một loạt các biện pháp và bớc quá độ".
Trong quá trình dẫn dắt nông dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, Lênin khẳng
định rằng, nếu liên minh đợc với nông dân thì " sự nghiệp chúng ta là
hoàn toàn vô địch". Lúc đầu phải trải qua những bớc quá độ nhng " sẽ có
lúc phong trào ấy tiến nhanh đến mức mà hiện giờ cha có thể mơ tởng đến
đợc"
Điều kiện đầu tiên để khởi động phong trào quần chúng là phải ổn
định, cải thiện ít nhiều đời sống quần chúng vốn rất thấp và đã chị thiếu
thốn nhiều năm trong chiến tranh. Đây là bài học cơ bản về mặt chính trị
của thời kì sau chiến tranh, đợc Lênin gọi là " quy luật chính trị chủ yếu".
Một trong những quan điểm chiến lợc của NEP là đặt mục tiêu đó lên
hàng đầu, vừa tạo động lực trong thời kì mới, vừa góp phần củng cố nhà n-
ớc. Vì vậy, quá trình thực hiện NEP là quá trình bằng mọi cách cải thiện
đời sống nông dân, công nhân và lôi cuốn các nhà trí thức tham gia xây
dựng kinh tế.
12
b) Thực hiện liên minh công nông về mặt kinh tế là con đờng thực tế
xây dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế và văn
hoá còn thấp. Sự liên minh ấy phù hợp với đòi hỏi chuyển nông nghiệp
sang kinh tế hàng hoá và tập thể hoá, với yêu cầu kết hợp công nghiệp với
nông nghiệp, chuyển nền kinh tế sang cơ cấu tái sản xuất mở rộng- cơ sở
bảo đảm đời sống và tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
Để liên minh công nông về mặt kinh tế đáp ứng đợc yêu cầu xây
dựng cơ sởkinh tế bớc đầu của chủ nghĩa xã hội và để tạo đợc động lực
cho quá trình ấy thì phải bắt đầu từ nông nghiệp và nông dân. Đây là tính
quy luật kinh tế- chính trị đòi hỏi phải vận dụng dù trong điều kiện bình
thờng hay trong khủng hoảng kinh tế, xã hội.
Đờng lối kinh tế của Đảng ta đã xác định vị trí hàng đầu của nông
nghiệp, gắn với ba chơng trình mục tiêu về lơng thực thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Các nghị quyết của Trung Ương đều đặt vấn đề
giả quyết đúng đắn mối quab hệ giữa nhà nớc và nông dân. Để đảm bảo
thực hiện thắng lợi đờng lối và nghị quyết của Đảng ta thì việc quán triệt t
tởng chiến lợc liên minh công nông về kinh tế của Lênin là vấn đề có ý
nghĩa quyết định.
III. Con đờng từ nền kinh tế nhiều thành phần đến nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa
Đặc điểm kinh tế chủ yếu trong thời kì quá độ là tính chất nhiều
thành phần của nền kinh tế, " có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những
thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa t bản lẫn chủ
nghĩa xã hội". Trong chặng đờng đầu thời kì quá độ, nói chung nền kinh tế
còn tồn tại đồng thời các thành phần kinh tế sau:
- Kinh tế nông dân mang tính tự nhiên.
- Sản xuất hàng hoá nhỏ.
- Kinh tế t bản t nhân.
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Kinh tế t bản nhà nớc.
Điều quan trọng cần chú ýkhông phải là có bao nhiêu thành phần, mà
là mối quan hệ giữa các thành phần đó nh thế nào? Thành phần kinh tế
nào chiếm u thế? Không phải là chỉ thừa nhận tính chất nhiều thành phần
của nền kinh tế, mà chủ yếu là tìm con đờng chuyển biến nền kinh tế
nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Khi phân tích nền
kinh tế nhiều thành phần, Lênin đòi hỏi một thái độ ngiêm túc có tính
nguyên tắc đối với các vấn đề cơ bản nh: cuộc đấu tranh trong nền kinh tế
ấy đang diễn ra giữa ai với ai? Nguy cơ của tính tự phát tiểu sản xuất và t
sản, và vai trò của hình thức chủ nghĩa t bản nhà nớc. Thái độ khoa học
đối với các vấn đề ấy là cơ sở của sự tìm tòi những con đờng từ nền kinh tế
nhiều thành phần sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những thập kỉ qua, đã
chứng minh những khả năng và tính tất yếucủa con đờng này ở các nớc
kinh tếlạc hậu đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đúng nh những luận điểm
mà Lênin đã vạch ra trong NEP nói rộng ra, trong kế hoạch xây chủ nghĩa
xã hội của Ngời. Chỉ trong một thời gian ngắn của mấy năm đầu thập niên
13
20 trong nền kinh tế Xô Viết đã diễn ra hai quá trình chuyển biến kinh tế
cơ bản:
Quá trình thứ nhất: Chuyển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa sang
quỹ đạo NEP. Nh chúng ta đã biết, những chủ trơng, chính sách sai lầm
bắt nguồn từ quan niệm nôn nóng muốn chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã
hội, đã làm cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa sa sút. Lực lợng sản
xuất hiện có không thể sử dụng và mất mát, hao mòn. Quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa chỉ là hình thức bề ngoài, xơ cứng và khô héo dần. Chỉ khi
chuyển sang quỹ đạo NEP thì thành phần kinh tế này mới có hớng đi đúng
đắn, phát huy ngày càng tốt vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế quốc
dân.
Chuyển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa sang quỹ đạo NEP là đòi
hỏi của quy luật quan hệ sản xuất phải phù với tính chất và trình độ của
lực lợng sản xuất. Quá trình chuyển biến này bao gồm mấy nội dung chủ
yếu sau đây:
a) Đặt các cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩavào trong những điều kiệnn
tái sản xuất phù hợp với đòi hỏi của nó, trớc hết là phải bảo đảm những
cân đối nhất định về tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu. Chỉ có nh vậy,
các xí nghiệp xã hội chủ nghĩa mới thể hiện đợc u thế của mình về năng
suất, chất lợng, giá thành sản phẩm, kỉ luật lao động, ý thức hiệp tác và
phân công, bảo đảm cải thiện đời sống của công nhân và tăng dần tích luỹ
cho nhà nớc, góp phần ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách.
Muốn vậy, phải kiên quyết tổ chức lại sản xuất ở khu vực kinh tế xã
hội chủ nghĩa, lựa chọn những đơn vị cơ sở cần thiết nhất có đủ điều kiện
sản xuất và quản lí để tập trung đầu t, sớm phát huy vai trò của chúng
trong quá trình tái sản xuất xã hội. Điều nguy hại nhất đối thành phần kinh
tế xã hội chủ nghĩa là xây dựng và phát triển một cách tràn lan, phân tán,
do đó hạ thấp những điều kiện tái sản xuất của chúng, chia đều khối lợng
tài chính, nguyên liệu, nhiên liệu, làm cho không một xí nghiệp nào có đ-
ợc điều kiện hoạt động bình thờng cần thiết nhất. Vì vậy, nếu không kiên
quyết tổ chức lại sản xuất trong khu vực này một cách có kế hoạch, thì
thành phần kinh tế này sẽ mất đi những u thế vốn có của nó và không
tránh khỏi thoái hoá biến chất.
b) Chuyển các cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa sang hạch toán kinh tế.
Đây là điều kiện cơ bản để đa các xí nghiệp, công ty, nông lâm trờng trở
thành các đơn vị sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa, khắc phục tận gốc cơ
chế tập trung bằng mệnh lệnh và nền nếp bao cấp trớc đây.
Vấn đề quan trọng nhất của bớc chuyển biến này là nhận thức rõ
những điều kiện của hạch toán kinh tế và tạo dần những điều kiện đó cho
các cơ sở thực hiện hạch toán kinh tế. Điều cản trở nhất bớc chuyển này là
chỉ đòi hỏi các cơ sở chuyển sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội
chủ nghĩa mà không tạo điều kiện cho chúng hoạt động theo yêu cầu mới,
đặt chúng trong trạng thái nửa vời, hạch toán một cách hình thức không
đúng với sự thật, khó tránh những hiện tợng rối loạn, vô chính phủ trong
nền kinh tế. Những điều kiện đế các cơ sở chuyển sang hạch toán kinh tế
bao gồm hai mặt: Một mặt là những nội dung phát huy quyền chủ động
14
sản xuất kinh doanh của cơ sở. Mặt khác, đổi mới nội dung và hình thức
cơ chế quản lí kinh tế của nhà nớc theo hai yêu cầu: Thứ nhất là đảm bảo
hiệu quả tái sản xuất xã hội ngày càng tăng, ngầy càng mở rrọng của cả xí
nghiệp, nghành và nền kinh tế quốc dân. Thứ hai là hớng tới thực hiện yêu
cầu dân chủ hoá ngày càng đầy đủ hơn. Hai yêu cầu đó định hớng cho
toàn bộ các công tác quản lí kinh tế của nhà nớc từ công tác kế hoạch hoá,
công tác định mức và các đòn bẩy công tác thu thuế, ín dụng, phân phối
lợi nhuận, tiền lơng cho đến công tác tổ chức bộ máy và bấu cử cán bộ
lãnh đạo. Hai yêu cầu cơ bản đó cũng định hớng cho các công tác quản lí
hành chính của nhà nớc, cho việc tìm tòi các hình thức quản lí theo
nghành và theo lãnh thổ, cho công tác qui hoạch về cơ cấu kinh tế quốc
dân.
Cố nhiên, chuyển sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ
nghĩa là một quá trình tổ chức lại có hiệu quả quá trình tái sản xuất xã
hội, không thể làm xong một lúc, mà phải có bớc đi vững chắc. Điều đáng
nói ở đây là cơ quan quản lí trung ơng phải biét xác định bớc đi hạch toán
từng phần, từng bộ phận cho đến khi hạch toán đầy đủ. Nhì chung công
tác quản lí nhà nớc càng ít dùng mệnh lệnh bao nhiêu, càng dùng nhiều
đòn bẩy bao nhiêu trong việc thực hiện hai yêu cầu cơ bản nói trên, thì
hiệu quả quản lí nhà nớc càng cao bấy nhiêu, bản thân nhà nớc ngày càng
trở thành nhà nớc xã hội chủ nghĩa. Có thể hình dung cơ chế quản lí đó
giống nh một hệ thống giao thông trong một thành phố. ở đó, nhà nớc đặt
ra các qui tắc giao thông, đặt ra các biển báo Còn các xí nghiệp và các cơ
sở kinh tế khác giống nh ngời đi đờng. Họ tự xác định hớng đi, con đờng
đi đến đích ngắn nhất theo trình độ lựa chọn, miễn là tuân thủ luật lệ chủa
nhà nớc. Họ đợc hoạt động theo nguyên tắc: " đợc phép làm tất cả những
gì luật không cấm". Cơ quan nhà nớc ở đây là các cơ quan công an, cảnh
sát giao thông, giữ nhiệm vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thông, ai đi sai
đờng thì chỉ bảo hớng dẫn, ai cố tình vi phạm thì phạt, và thờng xuyên
phải ngiên cứu sửa đổi các qui tắc, biển báo cho phù hợp với yêu cầu phát
triển giao thông.
Việc chuyển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa sang quỹ đạo NEP
gặp khó khăn hay thuận lợi còn phụ thuộc vào đánh giá tình hình, thực
trạng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong các đơn vị vị cơ sở về các
mặt sở hữu, tổ chức quản lí và phân phối trên mọi khâu của quá trình tái
sản xuất xã hội và vai trò thực tế của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong
mỗi khâu đó. Không thể nói củng cố quan hệ sản xuất một cách trừu tợng
mà không tính tới thực trạng của nó đã hình thành, mức độ phù hợp của nó
với trình độ và tính chất của lực lợng sản xuất hiện có .
Quá trình thứ hai: Chuyển hớng quản lí điều tiết các thành phần kinh
tế t nhân và cá thể sang quỹ đạo NEP.
Trong đời sống thực tế, thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa với các
thành phần t nhân và cá thể có mối liên hệ qua lại với nhau, trong sản xuất
cũng nh trong phân phối và lu thông. Để cải thiện mối quan hệ này và từng
bớc cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân, cần phải chuyển hớng
chính sách quản lí đối với tất cả thành phần kinh tế hiện có sang cùng một
15
quỹ đạo vận động. Muốn nh vậy, về mặt chính sách và quản lí cần chú ý
những khâu then chốt sau:
a) Ra sức phát triển kinh tế trong nông nghiệp vốn còn mang nặng
tình tự nhiên, tự cung tự cấp. Muốn khai thác tiềm năng vật chất và lao
động trong nông nghiệp chỉ có một con đờng duy nhất là chuyển dần sản
xuất nông nghiệp độc canh sang một nền nông nghiệp toàn diện, hớng tới
thâm canh và chuyên môn hoá trình độ cao. ậ buổi đầu của nền nông
nghiệp hàng hoá cần đặc biệt chú ý khuyến khích kinh tế gia đình và kinh
tế tập thể chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp với sự
thúc đẩy tích cực của tổ chức thơng nghiệp tâp thể ở địa phơng.
Trong điều kiện chuyên chính vô sản và ở chặng đầu của thời kì quá
độ, nền nông nghiệp hàng hoá gồm nhiều thành phần kinh tế có vị trí và
tính chất đặc biệt. Nông nghiệp hàng hoá là cơ sở chủ yếu đảm bảo đời
sống xã hội, là điều kiện đầu tiên và thờng xuyên của sự hìnhthành phát
triển công nghiệp, là cơ sở tích luỹ ban đầu từ nội bộ nền kinh tế. Đó là
tất cả cơ sở kinh tế của nhà nớc trẻ tuổi, của chế độ mới trong những năm
đầu của thời kì quá độ. Chủ thể trực tiếp của quá trình phát triển nông
nghiệp là giai cấp nông dân- bạn đồng minh gắn bó của giai cấp công
nhân. Mức sống của nông dân và sự phát triển các quan hệ xã hội của họ
đợc quyết định bởi tình trạng nông nghiệp, trình độ phát triển và tính chất
của nông nghiệp. Đời sống vật chất và tinh thần của nông dân và quan hệ
liên minh với công nhân là cơ sở xã hội, là nền tảng của chuyên chính vô
sản, của chế độ xã hội chủ nghĩa đang ở bớc đầu của nó.
b) Tổ chức trao đổi hàng hoá giữa nông nghiệp với công nghiệp, giữa
các thành phần kinh tế, tạo ra cơ sở chuyển nền kinh tế sang quỹ đạo tái
sản xuất mở rộng và cải cách lĩnh vực lu thông.
Các nhiệm vụ kinh tế xã hội trong chặng đờng đầu chỉ có thể thực
hiện đợc trong điều kiện nền kinh tế chuyển sang tái sản xuất mở rộng.
Nếu không có bớc chuyển đó, nếu chỉ mở rộng nền kinh tế tự cung tự cấp
thì những khó khăn khách quan về đời sống là những trở ngại không nhỏ
trong chiến lợc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đối với nớc ta hiện
nay, việc tổ chức quá trình lu thông càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
về hai mặt: Một là, nền kinh tế nớc ta đang chuyển từ kinh tế tự cung tự
cấp sang kinh tế hàng hoá, từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Hai là, nền kinh tế nớc ta đang đứng trớc đòi hỏi chuyển từ trạng
thái rối loạn các trạng thái kinh tế hiện nay sang trạng thái trật tự ổn định
và phát triển của một hệ thống quan hệ tái sản xuất mở rộng xã hội chủ
nghĩa.
Do cha nắm vững những yêu cầu nói trên của quy luật kinh tế, nên
công tác lu thông từ trớc tới nay cha phát huy đợc tác dụng vốn có của nó
đối sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Nếu nhìn thẳng vào thực tế,
nhìn chung trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì lu thông phân phối trên
tất cả các khâu của nó nh: nội thơng, ngoại thơng, giao thông vận tải, tài
chính, tiền tệ đang kìm hãm sản xuất. Nơi thì nó kìm hãm kinh tế nông
nghiệp trong quỹ đạo tự cung tự cấp, trong tình trạng xấu dần đi bằng trao
đổi không ngang giá. Nơi thì nó tác động tiêu cực đối với các đơn vị sản
xuất hàng hoá về hiệu quả, chất lợng kém dần bằng cách đẩy quá trớn quá
16
trình thơng mại hoá theo ssức hút tìm chênh lệch giá trong lu thông.
Những sai lầm trong công tác lu thông phân phối là một trong những
nguyên nhân chủ yếu tạo ra " chuyện ngợc đời" về phát triển sản xuất:
kinh tế quốc doanh thua kém kinh tế tập thể, kinh tế tập thể thua kém kinh
tế t nhân và cá thể, cũng nh nghịch lí trong phân phối thu nhập quốc dân:
thu nhập của công nhân, nông dân, trí thức thua thua kém thu nhập của t
bản t nhân, tiểu chủ và t thơng lớn nhỏ. Ngay trong nội bộ khu vực kinh tế
xã hội chủ nghĩa, nhìn chung thu nhập thực tế của những ngời làm công
tác lu thông cũng cao hơn nhiều lần thu nhập của những ngời trực tiếp sản
xuất hoặc ngiên cứu khoa học.
Từ thực trạng đó, xét theo yêu cầu chuyển nền kinh tế từ tính chất tự
cấp tự túc, phân tán sang tính chất tái sản xuất mở rộng, hay xét theo yêu
cầu chuyển từ trạng thái hỗn loạn hiện nay sang trạng thái điều khiển đợc,
thì khâu lu thông, nhất là thơng nghiệp đang là " mắt xích đặc biệt" trong
cái dây xích đặc biệt mà Lênin đã chỉ rõ là Đảng cộng sản và nhà nớc vô
sản "phải đem toàn lực ra mà nắm lấy". Nắm chắc khâu thơng nghiệp lúc
này là nắm chắc một trong những điều kiện quan trọng nhất để phát triển
sản xuất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế
mới.
Làm thế nào để cải cách lĩnh vực lu thông hiện nay?
Tất cả các mắt xích trong lĩnh vực lu thông hiện nay nh nội th-
ơng,ngoại thơng, giao thông vận tải, tài chính, ngân hàng đều liên quan
mật thiết đến nhau, do đó phải có biện pháp đồng bộ, phải tìm ra các mối
quan hệ kinh tế giữa các mắt xích với nhau, mới có thể làm cho các mắt
xích gắn với nhau nh một hệ thống. Biện pháp cải cách các mắt khâu lu
thông phải đồng bộ, nhng phải có trọng tâm, có mắt xích đặc biệt là thơng
nghiệp. Hiệu quả của hoạt đọng kinh doanh thơng nghiệp có ảnh hởng
quan trọng , quyết định đến nhiều lĩnh vực. Trong điều kiện bình thờng,
hiệu quả hoạt động của thơng nghiệp phụ thuộc vào 3 điều kiện sau đây:
a) Thơng nghiệp cần nắm đợc ngày càng lớn khối lợng hàng hoá mà
xã hội sản xuất ra. Điều kiện để nắm đợc hàng, theo kinh ngiệm thời kì thi
hành NEP là thiết lập cho đợc mối quan hệ hợp đồng trực tiếp, thờng
xuyên giữa thơng nghiệp quốc doanh với công nghiệp quốc doanh và hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp. Thơng nghiệp với cố gắng lớn nhất bảo đảm
những điều kiện sản xuất và đời sống cho đơn vị sản xuất, từ đó mà mua
hàng tận gốc, ngoài ra tạo thêm thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề xã
hội ở các đơn vị sản xuất. Chỉ có thể thiết lập đợc quan hệ tái sản xuất t-
ơng đối ổn định và ngày càng mở rộng trên cơ sở cùng có lợi, cùng phát
triển, xây dựng quan hệ tín nhiệm với nhau.
b) Thơng nghiệp cần có một khối lợng tiền để thực hiện lu thông
hàng hoá. Theo kinh ngiệm của NEP, thơng nghiệp phải thiết lập mối quan
hệ chặt chẽ với ngân hàng. Đó là điều kiện quyết định để thơng nghiệp có
thể mua vào với khối lợng lớn, đúng lúc, đúng nơi, góp phần quan trọng
cải thiện quan hệ cung- cầu của hàng hoá xã hội. Bản thân ngân hàng,
trong quan hệ chặt chẽ với thơng nghiệp quốc doanh và thơng nghiệp tập
thể càng có lợi hơn trong việc kinh doanh tiền tệ đúng qui luật. Đồng tiền
17
ra vào kênh này đợc khối lợng hàng hoá tơng ứng đảm bảo nên ổn định
hơn, có tốc độ chu chuyển lớn hơn và hiệu quả kinh tế cao hơn.
c) Ngành thơng nghiệp cần bộ máy tổ chức hợp lí, vận dụng thành
thạo phơng thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, mới gánh vác đợc nhiệm vụ
của " mắt xích đặc biệt" trong sợi dây xích lịch sử. Chất lợng về tổ chức bộ
máy, cán bộ, về phơng pháp kinh doanh quyết định hiệu quả của ngành th-
ơng nghiệp trên các mặt:
- Trong quan hệ với các đơn vị sản xuất để có hàng.
- Trong quan hệ với ngân hàng để có tiền mặt.
- Trong cuộc đấu tranh giữa hai con đờng phát triển xã hội ( xã
hội chủ nghĩa và t bản chủ nghĩa), trong cuộc cạnh tranh giữa kinh tế
xã hội chủ nghĩa và kinh tế t nhân cá thể, để giành thắng lợi cho chủ
nghĩa xã hội, trớc hết là trên mặt trận phân phối và lu thông.
Chơng III
ý nghĩa thời sự của nep và mấy vấn đề
vận dụng vào thực tiễn nớc ta
I. Bài học lịch sử
Trong lịch sử ra đời và phát triển chủ nghĩa xã hội thế giới, chính
sách kinh tế mới của Lênin, xuất hiện vào những năm đầu tiên, ở nớc xã
18
hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Từ đó, mỗi khi quá trình cách mạng
gặp khó khăn, hay khi một nớc vừa giành đợc chính quyền, bớc vào chặng
đờng đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì những ngời cách
mạng lại nhớ đến chính sách kinh tế mới của Lênin.
Quá trình lịch sử của chủ nghĩa xã hội trong hơn bảy thập kỉ qua, mở
đầu là cuộc sát hạch đối với Đảng cộng sản lãnh đạo cách mạng xã hội
chủ nghĩa bằng sự thử thách tính chất đúng đắn của NEP với t cách là một
chiến lợc tình thế. Với chiến lợc ấy, Đảng cộng sản đã vợt qua cuộc sát
hạch, giải quyết tthắng lợi cuộc khủng hoảng ngiêm trọng về kinh tế và xã
hội trong một khoảng thời gian kỉ lục, từ 1921- 1924.
Suốt nhiều thập kỉ qua, cũng là thời gian các nớc xã hội chủ nghĩa
tiếp cận NEP của Lênin ở các trình độ phát triển khác nhau. Từ thực tiễn
cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nẩy sinh nhu cầu nhận thức sâu sắc NEP
của Lênin không những nh một chiến lợc tình thế mà còn nh một chiến lợc
lâu dài để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau khi giành đợc chính quyền, việc củng cố những thành quả chính
trị và đa quá trình cách mạng tiếp tục tiến lên, hoàn toàn phụ thuộc vào
chính sách kinh tế của Đảng. Đã có không ít trờng hợp cách mạng dậm
chân tại chỗ hàng mấy thập kỉ hoặc lâm vào khủng hoảng, chủ yếu do
những sai lầm trong chính sách kinh tế. Đúng là giành đợc chính quyền đã
khó, nhng giữ đợc và sử dụng chính quyền vào xây dựng kinh tế còn khó
hơn nhiều. Trong nhiều năm qua, ở nớc ta cũng nh các nớc xã hội chủ
nghĩa anh em tuy trình độ phát triển khác nhau, nhng tất cả đều phải bỏ
nhiều công phu vào việc giải quyết vấn đề thời sự và cấp bách là vấn đề
lãnh đạo- quản lí kinh tế. Sau nhiều năm tìm tòi, phân tích, ngời ta mới
nhận thấy rằng những sai lầm và khuyết tật trong cơchế kinh tế có nguồn
gốc từ các quan điểm kkinh tế- chính trị sai lầm( nh quan điểm về lợi ích
kinh tế, vận dụng quan hệ hàng- tiền, về cơ cấu kinh tế, về sử dụng các
hình thức kinh tế quá độ, về vận dụng nguyên tắc và phơng pháp quản lí
tập trung dân chủ ). Đáng chú ý là, khi t duy kinh tế đợc đổi mới, ngời ta
mới nhận ra NEP, ngạc nhiên và sung sớng vì chính sách đó đáp ứng
những đòi hỏi của nhận thức, tìm tòi câu trả lời cho cuộc sống. Cách mạng
tháng Mời đã mở ra thời đại mới cho nhân loại và Lênin không những trao
cho dân tộc lạc hậu, cẩm nang thần kì để giải phóng dân tộc ("Luận cơng
về các vấn đề dân tộc và thuộc địa") mà còn cả cẩm nang thần kí để xây
dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm lạc hậu(" Chính sách kinh tế
mới").
Trong toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng, Lênin chỉ trực tiếp
lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trong 3 năm, từ 1921- 1924, trong
hoàn cảnh cực kì khó khăn của cuộc khủng hoảng. Chính trong khoảng
thời gian ngắn ngủi đó, thiên tài của Lênin đã đợc biểu hiện một cách tập
trung nhất và rực rỡ nhất trong sáng tạo ra NEP và trực tiếp lãnh đạo tổ
chức thực hiện. Nhờ có NEP, nên lí luận chủ nghĩa xã hội khoa học lần
đầu tiên trở thành hiện thực. Lênin không những đặt nền móng lí luận mà
còn nêu ra mẫu mực về chiến lợc và sách lợc cách mạng xã hội chủ nghĩa
từ những xuất phát điểm khác nhau. Phản ánh đúng đắn đòi hỏi của quy
luật ra đời và phát triển chủ nghĩa xã hội trong thời kì mới, t tởng của
19
Lênin và toàn bộ học thuyết của Ngời đang soi sáng, hớng dẫn mỗi bớc
tiến lên của các quá trình cách mạng ở trình độ khác nhau. Ai sẽ sớm sửa
chữa đợc sai lầm? Ai sẽ nhanh chóng vợt qua khó khăn? Điều đó, tuỳ
thuộc trớc hết mức độ lĩnh hội thấu đáo học thuyết kinh tế của Lênin và
vận dụng sáng tạo kiểu Lêninít vào thực tiễn đất nớc.
II. ý nghĩa thời sự của nep và những suy nghĩ về sự vận
dụng vào điều kiện nớc ta
A. Nội dung mới của quan hệ hàng hoá- tiền tệ dới chủ nghĩa xã
hội
Bớc vào thời kì quá độ, ở một số nhà nớc xã hội chủ nghĩa chỉ mới có
những tiền đề do giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá t bản chủ nghĩa để
lại, chứ cha có cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Với việc xoá bỏ chế độ
sở hữu t bản chỉ mới xoá bỏ tính chất đối kháng của các mâu thuẫn trong
nền kinh tế hàng hoá- đối kháng mất đi nhng mâu thuẫn vẫn còn. Không
phải cải tạo về mặt sở hữu thì các mâu thuẫn đó đã đợc giải quyết, mà phải
thông qua hoạt động có hiệu quả của cơ chế quản lí kinh tế của nhà nớc.
Việc giải quyết các mâu thuẫn này, một mặt là con đờng xây dựng và hoàn
thiện các quan hệ sản xuất mới trêncác lĩnh nh xây dựng cơ cấu kinh tế với
tính hợp về quan hệ cung cầu giữa sản phẩm và tiêu dùng, nh thực hiện kế
hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, thực hiện chế độ phân phối theo lao động.
Mặt khác, việc cải tạo chế độ sở hữu và giải quyết các mâu thuẫn đó sẽ
đem lại nội dung mới của quan hệ hàng hoá- tiền tệ thể hiện ở các mặt sau
đây:
a) Các quan hệ hàng- tiền và quy luật giá trị đã đợc giải phóng
khỏi hình thái t nhân, từ nay sẽ gắn liền với hình thái chủ nghĩa xã hội.
b) Mục đích sử dụng các quan hệ hàng- tiền thay đổi.Từ chỗ gắn
với lợi nhuận của giai cấp t sản chuyển sang thực hiện các mục tiêu
kinh tế- xã hội của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa. Trong đó, mục tiêu kinh
tế và mục tiêu xã hội đòi hỏi coi trọng nh nhau nh là một nguyên tắc và
động lực. Sự thay đổi đó giữ vai trò định hớng cho mọi quá trình kinh
tế và mọi hình thức quan hệ hàng- tiền trong lĩnh vực sản xuất, lu
thông, xuất nhập khẩu
c) Sự thay đổi về mục đích sử dụng quan hệ hàng- tiền là tất yếu
khách quan bắt nguồn từ sự tác động tổng hợp của hệ thống qui luật,
bao gồm các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội và các quy luật sản
xuất hàng hoá. Trong thực tiễn kinh doanh đúng hớng, ngời ta nhận
biết rõ rệt sự tác động tổng hợp, làm điều kiện cho nhau, giữa quy luật
phát triển có kế hoạch cân đối với quy luật giá trị. Cơ chế hạch toán
kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa đáp ứng và nâng cao những đòi
hỏi của quy luật giá trị trong sản xuất và phân phối( nh yêu cầu giảm
chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, trao đổi ngang giá, bình đẳng,
thoả thuận )
d) Cùng với sự ra đời chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, tính kế
hoạch và chức năng quản lí kinh tế của Nhà nớc thì cơ chế tập trung
dân chủ thay cơ chế cạnh tranh giữa các t nhân trong mối quan hệ giữa
các xí nghiệp, các nghành. Thực hiện đúng cơ chế này sẽ đem lại cho
20
các xí nghiệp những thuận lợi cha từng có để phát huy đầy đủ tiềm
năng kinh tế và xã hội của nó, đem lại cho các nghành sự phát triển cân
đối, tích cực. Nhờ đó, cho phép giải quyết ngày càng chính xác hơn các
mối quan hệ giữa giá cả với giá trị, giữa hàng với tiền, giữa cung với
cầu, xây dựng nền tài chính quốc gia ngày càng vững mạnh.
B. Vận dụng quan hệ hàng hoá- tiền tệ trong đổi mới cơ chế quản
lí kinh tế hiện nay ở nớc ta
Vận dụng quan hệ hàng- tiền trong điều kiện nớc ta hiện nay cần phải
tính đến đặc điểm và thực trạng quan hệ hàng- tiền trong nền kinh tế nhiều
thành phần, phải xuất phát từ những mục tiêu kinh tế xã hội trong nghị
quyết Đại hội VI của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi các nhgị quyết
của Trung ơng. Trên cơ sở đó, nêu ra phơng hớng vận dụng quan hệ hàng-
tiền vào việc xây dựng cơ chế quản lí kinh tế ở cơ sở và cơ chế quản lí của
Nhà nớc.
1. Do điểm xuất phát rất thấp của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội
ở nớc ta và tình trạng không bình thờng về kinh tế, nên quan hệ hàng- tiền
trong nền kinh tế nớc ta có những đặc điểm sau:
a) Trình độ sản xuất hàng hoá không đồng đều, trải rộng từ trình
độ trao đổi giản đơn ở nông thôn đến trình độ sản xuất lớn ở thành thị.
Nhìn chung trình độ sản xuất hàng hoá nổi lên các đặc điểm lón:
Một là: Sản xuất hàng hoá nhỏ đang chiếm u thế so với sản xuất
hàng hoá lớn. Đặc điểm này đòi hỏi chú ý vận dụng các hình thức quan hệ
hàng- tiền, thúc đẩy sản xuất hàng hoá nhỏ phát triển và hình thành hệ
thống phân công và quan hệ trao đổi với sản xuất hàng hoá lớn.
Hai là: Hiện nay lu thông hàng hoá còn chiếm u thế so với sản xuất
hàng hoá. Đặc điểm này đòi việc vận dụng quan hệ hàng- tiền phải bắt đầu
từ lu thông và hớng mạnh lu thông vào kích thích sản xuất và phát triển
phân công lao động xã hội. Cuối cùng phải gắn chặt lu thông với sản xuất
thành quá trình tái sản mở rộng.
b) Xem xét thực trạng các quan hệ hàng- tiền hiện nay còn phải
phân tích tính chất của các quan hệ ấy. Nền kinh tế nớc ta hiện nay "
tình trạng phổ biến là sản quốc doanh thua sản xuất tập thể, sản xuất
tập thể thua sản xuất cá thể và t nhân"
Tại sao lại có tình trạng ngợc đời đó?
Phân tích vấn đề từ góc độ vận dụng quan hệ hàng- tiền thì có những
nguyên nhân sau:
Một là: Trong cải tạo và sử dụng các thành phần kinh tế t nhân và cá
thể đã không đặt nó trong kinh tế hàng hoá và không vận dụng đúng quan
hệ hàng- tiền nên khi thì muốn xoá bỏ ngay, khi thì thả lỏng cho các thành
phần kinh tế ấy tự phát phát triển theo các quan hệ hàng hoá t nhân, gây
tác dụng tiêu cực và ít nhiều chi phối đến nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Hai là: Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa đợc xây dựng và điều
hành nhiều năm bằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung Hiện nay các bộ
phận của thành phần này thực tế đã phân hoá thành 3 loại: Một số cơ sở
sản xuất và nhiều đơn vị lu thông đang ráo riết chạy theo sức hút của
chênh lệch giá từ lu thông. Một số đơn vị kinh tế đang lúng túng trong cơ
21
chế cũ, ngày càng gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống. Một số
đơn vị kinh tế linh hoạt vận dụng các chính sách kinh tế mới của Đảng và
nhà nớc, từng bớc chuyển mạnh sang cơ chế hạch toán kinh doanh. Đây là
các điển hình tiên tiến, hoạt động của các đơn vị này đem lại nhiều kinh
ngiệm tốt trong việc vận dụng quan hệ tiền- hàng gắn với nguyên tắc quản
lí tập trung dân chủ ở đơn vị cơ sở, đồng thời mở ra phơng hớng đổi mới
cơ chế quản lí kinh tế của Nhà nớc.
2.Vận dụng quan hệ hàng- tiền trong đổi mới cơ chế quản lí ở cơ
sở
Quan điểm của Đảng ta là chuyển các đơn vị cơ sở của nền kinh tế
sang sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa, thực hiện hạch toán kinh tế và
kinh doanh xã hội, xoá bỏ cơ chế tập trungquan liêu bao cấp, chống xu h-
ớng kinh doanh tuỳ tiện, vô chính phủ. Quan điểm đó tạo ra thuận lợi cho
việc vận dụng quan hệ hàng- tiền và đòi hỏi vận dụng các quan hệ ấy theo
nội dung mới của nó trong cơ cấu nhiều thành phần, trong đó kinh tế xã
hội chủ nghĩa đóng vai trò chủ đạo. Trong thời gian trớc mắt, cần vận
dụng trên mấy mặt chủ yếu sau đây:
a) Trớc hết là vấn đề thiết lập tính kế hoạch, tính tổ chức trong
hoạt động sản xuất ở cơ sở, gắn với nhu cầu xã hội và điều kiện thị tr-
ờng
b) Vận dụng qui luật giá trị trong việc xác định chi phí sản xuất
sản phẩm theo hớng khai thác tiềm năng tổ chức sản xuất ngày càng
hợp lí, vận dụng nhanh chóng tiến bộ kĩ thuật, tiết kiệm chi phí vật chất
và nguyên vật liệu, cho ra sản phẩm có chất lợng cao, giá thành hạ, cho
phép với vốn sản xuất cố định có thể sản xuất ra nhiều sản hơn.
c) Việc vận dụng qui luật giá trị trong sản xuất ở cơ sở đòi hỏi
phải chủ động đợc nguồn vật t, nguyên liệu, năng lợng.
d) Xác định lợi nhuận của xí nghiệp là một vấn đề quan trọng
của việc vận dụng quan hệ hàng- tiền. Quy luật sản xuất hàng hoá đòi
hỏi gắn lợi nhuận với trình độ kinh doanh của cơ sở. Cần nhấn mạnh
rằng, khi lợi nhuận mất tác dụng kích thích của nó thì việc vận dụng
phạm trù này không có hiệu quả.
e) Hiệu quả tổng hợp của việc vận dụng quan hệ hàng- tiền đối
với cơ sở thể hiện ở khả năng tự chủ tài chính. Từ đây tài chính của xí
nghiệp tách rời tài chính Nhà nớc, mà gắn bó với tín dụng ngân hàng.
f) Phát triển liên doanh và liên kết giữa các đơn vị kinh tế là
một hớng quan trọng trong vận dụng quan hệ hàng- tiền trong đổi mới
cơ chế quản lí ở cơ sở. Phát triển liên doanh, liên kết là xu thế tất yếu
của quá trình phân công lao động xã hội. Nó là bớc đi của quá trình
chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là hình thức tốt để sử dụng cơ
cấu tái sản xuất gồm nhiều thành phần, khắc phục tình trạng biệt lập và
chia cắt.
C. Xác định chiến lợc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm
xuất phát kinh tế lạc hậu.
Đảng cộng sản Việt Nam đã đa ra quyết định lựa chọn NEP là cơ sở
để vận dụng trong tiến trình cải cách từng bớc nền kinh tế lạc hậu của
22
chúng ta, đa nền kinh tế bớc đầu tiến lên theo con đờng chủ nghĩa xã hội,
mà một trong nhnngx vấn đề quan trọng có tính chất then chốt là củng cố
vững chắc lòng tin của đại bộ phận quần chúng nhân dân vào quá trình
chuyển biến tất yếu nhng hết sức gian khổ này, để làm đợc điều này thì
chúng ta cần ngiên cứu một cách thật ngiêm túc các vấn đề có ý nghĩa
chiến lợc này:
a) Việc đầu tiên là phải xác định quan điểm phát triển cách
mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của một nền kinh tế lạc hậu.
Lịch sử đã đặt ra câu hỏi- " liệu một nớc nông nghiệp lạc hậu có thể bỏ
qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội? ". Bài học kinh ngiệm của chúng ta là " có thể song
không đợc nóng vội, ở một nớc mà trong đó những ngời sản xuất tiểu
nông chiếm đa số dân c thì chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ
nghĩa bằng một loạt các biện pháp quá độ đặc biệt và hoàn toàn không
cần thiết ở các nớc t bản phát triển "
b) Xác định chiến lợc liên minh công nông về mặt kinh tế. Tiến
trình cải cách, tiến chủ nghĩa xã hội phải trải qua những giai đoạn quá
độ đặc biệt là do giai cấp công nhân cha phát triển đầy đủ. Để cách
mạng thành công, giai cấp công nhân giành đợc chính quyền thì cần
thiết lập một liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức, không chỉ về chính trị mà còn gắn bó chặt chẽ với
nhau về kinh tế.
c) Nền kinh tế nhiều thành phần tiến tới nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Đặc điểm chủ yếu của thời kì quá độ là nền kinh tế có sự tham
gia của nhiều thành phần. Điều quan trọng có ý nghĩa sống còn là xác
định đúng đắn chiến lợc quản lí các thành phần, từ đó phát huy đợc lợi
thế của từng thành phần đồng thời hạn chế tác động của nó đến quá
trình xây dựng và phát triển của nền kinh tế.
III. Những thành tựu bớc đầu của công cuộc cải cách d-
ới ánh sáng của t duy kinh tế mới
1) Sau hơn 10 năm thực hiện đờng lối cải cách kinh tế theo quan
điểm và t tởng của NEP, nền kinh tế nớc ta đã thể hiện những bớc tăng tr-
ởng đáng kể.
Đời sống của nhân dân đợc cải thiện rõ rệt so với trớc. Nông nghiệp
và công nghiệp đều có những bớc tăng trởng khá, trên thị trờng xuất hiện
rất nhiều các chủng loại hàng hoá, không những đủ đáp ứng cho nhu cầu
trong nớc mà còn dành một phần cho xuất khẩu. Thơng nghiệp cũng có
những bớc tăng trởng mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy nền kinh cả nớc nói
chung phát triển.
Từ sau Đại hội Đảng tòn quốc lần thứ VI, nớc ta đã bớc đầu thoát ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội trầm trọng, hiện tại lạm phát không
còn là vấn đề kinh tế thờng trực, đồng tiền Việt Nam đã có mức ổn định
cần thiết, có thể làm yên lòng các doanh nghiệp và các nhà đầu t.
Khoa học- công nghệ- kĩ thuật tiên tiến đã đợc áp dụng thành công và
mang lại hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, góp phần cho mục tiêu tăng trởng
23
và rút ngắn khoảng cách về công nghệ giữa chúng ta với các nớc tiên tiến
trên thế giới.
2) Tuy nhiên bên cạnh những thành công mà chúng ta không thể phủ
nhận thì sau hơn 10 năm cải cách và mở cửa chúng ta cần phải xem xét
một cách ngiêm túc mặt trái của nền kinh tế nhiều thành phần và đánh giá
một cách đầy đủ những hậu quả mà nó gây ra cho kinh tế- xã hội. Đó là:
a) T tởng của chủ nghĩa t bản manh nha trỗi dậy khi Nhà nớc có các
chính sách u tiên phát triển các thành phần kinh tế t bản t nhân. Sự phân
hoá giàu nghèo xảy ra vô cùng gay gắt nhất là giữa thành thị và nông thôn.
Quá trình đô thị hoá và di dân diễn ra ồ ạt đã tạo nên một sức ép hết sức
lớn cho việc hoạch định các chính sách phát triển
b) Một khó khăn cũng rất lớn là dân số của nớc chúng ta quá đông so
với khả năng đáp ứng của nền kinh tế, tỉ lệ sinh bình quân hàng năm tuy
đã giảm nhng vẫn còn ở mức khá cao, điều này có lúc làm cho mức sống
thực tế giảm xuống mặc dù nền kinh tế vẫn đang đà tăng trởng.
c) Bên cạnh việc mở rộng thị trờng để thu hút vốn đầu t và khoa học
và công nghệ về sản xuất và quản lí từ bên ngoài thì đây cũng là một kênh
kéo theo sự tràn của các luồng văn hoá ngoại lai làm ảnh hởng không nhỏ
đến thuần phong mỹ tục của nhân dân ta
Nói tóm lại, công cuộc cải cách và mở cửa của chúng ta đang bớc
vào cao trào, đã có những thành công song không thể tránh khỏi những va
vấp, sai lầm, song điều quan trong lúc này là chúng ta phải kiên định theo
con đờng mà Đảng và nhân dân đã lựa chọn, nhận thức đợc nh vậy thì
chúng ta sẽ có đợc những chính sách đúng đắn, phát huy những thành
công đã đạt đợc và hạn chế đến mức tối đa những sai lầm và khuyết điểm.
Để thực hiện đợc điều đó thì chúng ta cần tổ chức tốt công tác cán bộ
trong nội bộ Đảng và bộ máy chính quyền, nâng cao trình độ lí luận, nhận
thức, sức sáng tạo của cán bộ công nhân viên làm đợc những điều đó thì
toàn thể nhân dân ta toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp đổi mới và cách mạng
xã hội chủ nghĩa sẽ không chỉ là những ớc mong tốt đẹp của nhân dân.
Kết luận
Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam cho thấy, không thể giải quyết những
vấn cấp bách trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế bằng các chủ
trơng, biện pháp dựa trên t duy kinh tế cũ, chủ quan duy ý chí, bị động,
đối phó với tình hình.
24
Chúng ta cần một t duy hoàn toàn mới, một chủ trơng hoàn toàn đúng
đắn, một bớc chuyển có ý nghĩa cách mạng, đặt đúngvị trí và tầm vóc của
cái tất yếu kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối
cảnh lịch sử không bình thờng, chúng ta phải đề ra đợc các đờng lối chiến
lợc, vừa đáp những đòi hỏi trớc mắt, vừa đặt nền móng cho sự phát triển
lâu dài. Chiến lợc và sách lợc đó phải dựa trên một nền tảng lí luận vững
chắc, đợc hình thành trên cơ sở của thực tiễn đặc thù đồng thời với sự tiếp
thu có chọn lọc kinh nghiệm trong nớc và quốc tế.
Thực tiễn đã chứng minh rằng Chính sách kinh tế mới (NEP) cuả
V.I.Lênin vừa là mẫu mực về một giải pháp tình thế, vừa là đờng lối mang
đầy tính chiến lợc, là cơ sở lí luận về con đờng tiến lên chủ nghĩa xã hội
thông qua thời kì quá độ. Kinh nghiệm thực hiện NEP sau nhiều năm tại
Liên Xô vẫn còn là bài học hết sức bổ ích cho chúng ta. Trong các quá
trình kinh tế hiện nay đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, sử dụng đồng thời nhiều thành phần
kinh tế Đảng và Nhà nớc phải luôn luôn theo sát thị trờng, có các biện
pháp quản lí chặt chẽ để có thể can thiệp kịp thời và có hiệu quả vào nền
kinh tế. Muốn vậy đội ngũ cán bộ quản lí phải không ngừng trau dồi và
nâng cao trình độ, công cuộc đổi mới hiện nay ở nớc ta chỉ có thể thành
công trên cơ sở của một nhận thức đúng đắn, một trí tuệ mẫn tiệp. Sử dụng
có hiệu quả các chính sách kinh tế đã ban hành, lấy việc giải phóng sức
sản xuất, động viên tối đa các nguồn lực, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế-
xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, đa nền kinh tế phát
triển theo đúng quỹ đạo xã hội chủ nghĩa.
Thời kì thực hiện NEP ở Liên Xô cách xa chúng ta, đặc điểm tình
hình của nớc Nga Xô Viết non trẻ cũng rất khác với chúng ta song việc
nghiên cứu NEP vẫn có những ý nghĩa rất thời sự, rất gần gũi với các vấn
đề hiện nay ở nớc ta, chính vì thế NEP vẫn sẽ mãi là ánh soi đờng cho bất
kì một nớc lạc hậu nào muốn đi lên chủ nghĩa xã hội, nó sẽ mãi tồn tại nh
một chân lí đã đợc hiện thực kiểm chứng.
hết
Tài liệu tham khảo
1) V.I.Lênin toàn tập: tập 36,43,44
25