THƯ
VIỆN
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN BÍCH LIÊN
NGHIÊN CỨU HỆ SINH THÁI VƯỜN NHÀ Ở THỊ
XÃ ĐỒNG XỒI, TỈNH BÌNH PHƯỚC VÀ ĐỀ XUẤT
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS. PHẠM VĂN NGỌT
TP. HỒ CHÍ MINH - 2010
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Bình Phước là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có nền kinh tế nông
nghiệp phát triển với cơ cấu kinh tế nơng nghiệp – cơng nghiệp – dịch vụ, có diện tích đất nơng –
lâm nghiệp và mặt nước ni trồng thuỷ sản chiếm 82,5% tổng diện tích đất tự nhiên tồn tỉnh. Đó
là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nơng - lâm nghiệp ở Bình Phước.
Thị xã Đồng Xồi được thành lập năm 1999, thuộc tỉnh Bình Phước, có 16.957 ha diện tích tự
nhiên và 50.758 nhân khẩu. Thị xã Đồng Xồi gồm 8 đơn vị hành chính cơ sở. Đó là các phường
Tân Đồng, Tân Xuân, Tân Bình, Tân Phú, Tân Thiện và các xã Tiến Thành, Tân Thành, Tiến Hưng.
Thị xã đang trong quá trình phát triển, đơ thị hóa nhưng nhìn chung nơng nghiệp vẫn là thế mạnh ở
Đồng Xồi, trong đó các vườn nhà với diện tích nhỏ lẻ đã hình thành từ lâu đời cùng một số trang
trại xuất hiện gần đây trồng các lồi cây cơng nghiệp như Điều, Tiêu, Cà phê, Nhãn, Cam, Xồi,…
là nguồn thu nhập chính của người lao động. Vườn nhà ở Đồng Xồi khơng những mang lại nguồn
lợi kinh tế cho người dân bằng nguồn thu từ sản phẩm nơng nghiệp, mà cịn kéo theo các dịch vụ
chế biến sản phẩm như bóc tách vỏ hạt, phơi sấy, đóng gói … tạo cơng việc làm cho nhiều người.
Tuy nhiên, giá các mặt hàng nông sản không ổn định, nhiều hộ dân vẫn cịn nghèo khổ. Bên
cạnh đó, trình độ thâm canh khơng đồng đều đưa đến chất lượng nông sản chưa được qui chuẩn;
thiếu sự liên kết tiểu vùng, liên kết vùng; chi phí sản xuất cao; đầu ra nông sản bấp bênh; điệp khúc
trúng mùa - mất giá luôn là nỗi lo của bà con...
Cây trồng ở Đồng Xồi chủ yếu là cây cơng nghiệp lâu năm. Những năm gần đây vì chạy theo
giá cả thị trường nên nhiều hộ nông dân đã chặt bỏ những vườn cây hàng chục năm tuổi để thay
bằng cây trồng khác có giá hơn cũng là cây lâu năm. Chi phí chuyển đổi rất tốn kém nhưng có thực
sự hiệu quả và lâu dài khơng thì cịn tùy thuộc vào nhu cầu của thị trường.
Ngồi ra, do chưa có mơ hình vườn nhà thích hợp nên các vườn nhà hiện nay tuy phát triển
nhanh nhưng thiếu bền vững. Đó cũng là ý kiến đánh giá chung cho mơ hình vườn nhà ở tỉnh Bình
Phước hiện nay.
Vì vậy, chúng tơi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu hệ sinh thái vườn nhà ở thị xã Đồng
Xồi, tỉnh Bình Phước và đề xuất một số giải pháp phát triển bền vững” hy vọng đóng góp một
phần nhỏ cho sự phát triển nơng nghiệp của thị xã Đồng Xồi nói riêng và tỉnh Bình Phước nói
chung.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng hệ sinh thái vườn nhà ở thị xã Đồng Xồi – tỉnh Bình Phước.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển bền vững và tăng hiệu quả kinh tế trong việc canh tác các
kiểu sinh thái vườn nhà.
3. Nội dung nghiên cứu
Một số nội dung chính được đặt ra trong đề tài này là:
- Tìm hiểu một số điều kiện tự nhiên ở thị xã Đồng Xồi có ảnh hưởng đến sự phân bố và hiệu
quả sử dụng các kiểu sinh thái vườn: diện tích, địa hình, hệ thống tưới tiêu.
- Nghiên cứu thành phần nơng hóa thổ nhưỡng của một số loại đất trồng cây ở vườn nhà (đất đỏ
bazan, đất xám bạc màu… )
- Phân tích hiện trạng các kiểu sinh thái vườn nhà: diện tích, cơ cấu cây trồng và cây dại, tình
hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, hiệu quả kinh tế của các vườn.
4. Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu từ tháng 5/2009 đến tháng 2/2010.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vườn nhà (trừ các vườn Cao su) được thành lập từ 5
năm trở lên ở thị xã Đồng Xoài. Đề tài nghiên cứu trong phạm vi 8 xã, phường thuộc thị xã Đồng
Xồi đó là: Tân Phú, Tân Bình, Tân Đồng, Tân Thiện, Tân Xuân, Tiến Thành, Tiến Hưng, Tân
Thành.
Không nghiên cứu về tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trong đất, trong rau quả… cũng như sự ảnh
hưởng của nó đến sức khỏe của người nơng dân trong q trình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
6. Ý nghĩa của đề tài
Những kết quả nghiên cứu được của đề tài có thể làm cơ sở để xây dựng và nhân rộng những
mơ hình sinh thái vườn nhà bền vững, hiệu quả kinh tế cao cho thị xã Đồng xồi nói riêng và tồn
tỉnh Bình Phước nói chung. Từ đó, góp phần chuyển dịch và thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
tăng hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững các kiểu sinh thái vườn nhà ở tỉnh Bình Phước.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Hệ sinh thái
Hệ sinh thái được nghiên cứu từ lâu, vì thế khái niệm này đã có từ thế kỷ XIX dưới các tên khác
nhau như “Sinh vật quần lạc” (Dukachaev,1846; Mobius,1877). Sukachaev (1944) mở rộng khái
niệm “Sinh vật quần lạc” thành khái niệm “Sinh vật địa quần lạc” (biogeocenose). Khái niệm “Hệ
sinh thái” (ecosystem) được Tansley nêu ra vào năm 1935 và trở thành phổ biến, được sử dụng rộng
rãi nhất vì nó khơng chỉ bao hàm các hệ sinh thái tự nhiên mà cả các hệ sinh thái HST nhân tạo, kể
cả con tàu vũ trụ.
Hệ sinh thái là một tập hợp của quần xã sinh vật với môi trường vật lý xung quanh nơi mà quần
xã đó tồn tại, trong đó các sinh vật, mơi trường tương tác với nhau để tạo nên chu trình vật chất và
sự chuyển hóa năng lượng. Nói cách khác, hệ sinh thái bao gồm các loài sinh vật và các điều kiện tự
nhiên (môi trường vật lý) như ánh sáng, nước, nhiệt độ, khơng khí…Điều quan trọng là tất cả các
nhân tố hữu sinh (biotic component) và nhân tố vô sinh (abiotic component) tác động tương hỗ với
nhau và giữa chúng ln xảy ra q trình trao đổi năng lượng, vật chất và thơng tin.
Các hệ sinh thái có thể có những qui mơ lớn nhỏ khác nhau. Tansley (1935) đã đưa ra các khái
niệm về hệ sinh thái cực bé (microecosystem) như một bể nuôi cá chẳng hạn; đến các hệ sinh thái
vừa (middleecosystem) như một hồ chứa nước; một cánh rừng trồng và một hệ sinh thái lớn
(macroecosystem) như một đại dương, một châu lục. Tập hợp tất cả các hệ sinh thái có độ lớn khác
nhau trên Quả Đất làm thành một hệ sinh thái khổng lồ và được gọi là sinh thái quyển
(ecosphere).[22]
Hình 1.1. Sơ đồ một hệ sinh thái
(Nguồn:Lê Văn Khoa, 2006) [22]
1.1.2. Vườn
- Từ điển Bách khoa Nông nghiệp của Trung tâm Quốc gia biên soạn từ điển Bách khoa Việt
Nam (1991) định nghĩa: “ Vườn - khu đất thường có rào giậu dùng vào mục đích sản xuất nơng lâm
nghiệp hoặc các mục đích khác (văn hóa, phúc lợi v.v…) với những đặc điểm và chức năng như
sau: [14] [32]
- Tổng diện tích vườn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất nơng nghiệp (khoảng
10%).
- Khác với đồng ruộng, trồng cây ngắn ngày theo thời vụ, sau khi thu hoạch để lại khoảng đất
trống, vườn tạo nên một thảm thực vật che phủ quanh năm, cải thiện môi trường sống của nông dân,
tạo nên cảnh quan vườn và đồng ruộng của nơng thơn, đóng góp vào hệ sinh thái chung trên lãnh
thổ.
- Vườn là mơ hình sản xuất bổ sung cho ruộng đồng. Đồng ruộng trồng cây hàng năm ngắn
ngày, số loài cây trồng hạn chế: cây lương thực, thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, cây cơng nghiệp
hàng năm, rau quả. Các lồi cây vườn nhiều hơn gấp bội, rất phong phú, phần lớn là cây lâu năm…,
rau và một số cây thực phẩm ngắn ngày chịu bóng có thể trồng xen trong vườn. Sản phẩm vườn là
một hợp phần quan trọng và không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp, cung cấp nhiều mặt hàng
cho thị trường. Ngoài chức năng kinh tế, một vài kiểu vườn phục vụ các mục tiêu văn hóa, xã hội,
phúc lợi công cộng, nghiên cứu tài nguyên, bảo vệ sinh thái và tài nguyên (công viên, vườn cây gỗ,
vườn quốc gia).
- Hệ thống canh tác vườn Việt Nam là một kiểu vườn nhiệt đới hỗn loài, tập hợp nhiều loài cây
trồng trên một đơn vị diện tích, tận dụng ánh sáng với những tầng tán khác nhau, yêu cầu ánh sáng
khác nhau, tận dụng diện tích với phương thức tăng vụ, trồng xen. Vườn gia đình hay cơng viên là
một tổ hợp nhiều loài cây, khác với đồng ruộng, trên mỗi mảnh đất ở từng thời vụ chỉ trồng một thứ
cây. Vườn là một phương thức canh tác đạt hiệu quả sử dụng tài nguyên môi trường ( đất, nước, ánh
sáng), áp dụng một kỹ thuật thâm canh cao.
- Vườn là trung tâm điều chỉnh và phối hợp giữa 2 thành phần vườn - ruộng đồng trong hệ
thống sản xuất của nơng dân. Những gì cần cho gia đình, thị trường u cầu mà đồng ruộng khơng
sản xuất được thì phải sản xuất ở vườn. Vườn phải tạo công ăn việc làm để sử dụng nhân lực trong
những thời vụ và thời gian nghỉ việc đồng ruộng, là điều kiện thuận lợi để sử dụng lao động phụ
trong gia đình… Nhiều vườn còn là nơi gây giống, giữ giống cây trồng.
- Căn cứ vào chức năng và mục tiêu, vườn có thể phân loại: [14]
+ Vườn sản xuất nơng lâm nghiệp (kể cả vườn giống). Vườn thường kết hợp với ao nuôi cá
(hoặc mương nuôi tôm, cá đào trong vườn ở đồng bằng sông Cửu Long) và chuồng trại chăn nuôi
gia súc gia cầm, tạo thành một hệ thống tương hỗ đạt hiệu quả kinh tế cao.
+ Vườn phúc lợi công cộng, vườn cảnh: tạo một hệ sinh thái hài hịa làm nơi nghỉ ngơi, giải trí
cho dân đơ thị.
+ Vườn nghiên cứu cây rừng.
+ Vườn bảo vệ, nghiên cứu hệ sinh thái nguyên thủy và tài nguyên. Ngoài ra cịn có vườn đồi,
vườn rừng v.v…
1.1.3. Vườn nhà
Vườn nhà được tác giả Đường Hồng Dật (1999) gọi là vườn gia đình. Tác giả cho rằng vườn gia
đình có nhiều quy mô và mức độ phát triển khác nhau. Phần lớn các hộ nơng dân ở nước ta có vườn
gia đình là mảnh đất không lớn, thường ở kề bên nhà ở. Những sản phẩm thu được từ vườn chỉ là bổ
sung cho bữa ăn và góp thêm thu nhập của gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh các hộ nơng dân coi vườn
là sản xuất phụ, ở một số vùng, nhất là ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, nhiều hộ gia đình coi sản xuất
vườn là nguồn thu nhập chính. Những hộ này thường có diện tích vườn khá lớn. [14]
Theo Nguyễn Văn Mấn, Trịnh Văn Thịnh (1995), vườn nhà “là nơi gần nhà ở nhất, được chăm
sóc thường xuyên và là nơi thực hiện thâm canh cao độ”. [24]
Theo Trần Thế Tục (2008), sở dĩ gọi là vườn nhà vì trên đất vườn tọa lạc ngơi nhà, nơi sinh
sống của nhiều thế hệ. Tùy theo điều kiện của từng nơi mà vườn có thể bao quanh nhà, hoặc nhà đặt
ở trước vườn sau như ở đồng bằng sông Cửu Long hoặc nhà ở phía cuối vườn. Tùy theo diện tích,
điều kiện vùng sinh thái, kỹ năng lao động của mỗi thành viên trong gia đình ở mỗi nơi mà cơ cấu
cây trồng trong vườn rất khác nhau bao gồm: cây lương thực, các loại rau, cây ăn quả, cây công
nghiệp, cây đặc sản, cây làm thuốc, cây rừng… Trong các loại hình vườn hiện nay của nước ta,
vườn nhà là loại hình khá phổ biến trong các vùng kinh tế sinh thái, có vị trí quan trọng trong việc
cải thiện dinh dưỡng trong gia đình và tăng thu nhập của từng hộ. [32]
1.1.4. Phát triển bền vững
Thuật ngữ “Phát triển bền vững” (Sustainable development) lần đầu tiên xuất hiện vào năm
1980 trong ấn phẩm “Chiến lược bảo tồn thế giới” (Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và Tài nguyên
thiên nhiên quốc tế- IUCN) với nội dung đơn giản là: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú
trọng tới phát triển kinh tế mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động
đến môi trường sinh thái học”.[8]
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland còn gọi là Báo
cáo “Tương lai của chúng ta” (Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới
(WCED) (1987). Báo cáo này ghi rõ: “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu
cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thỏa mãn các nhu cầu của các thế hệ tương
lai”. Năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về Môi trường và Phát triển của
Liên Hợp quốc đã xác nhận lại khái niệm này, và đã gửi đi một thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp
của các chính phủ về sự cấp bách trong việc đẩy mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với
bảo vệ môi trường.[8]
Hội nghị thượng đỉnh Quả Đất lần thứ II về phát triển bền vững đã họp tại Johannesberg (Cộng
hòa Nam Phi) (từ ngày 26/8 – 04/09/2002) để thảo luận về những gì đã làm được và chưa làm được
trong 10 năm, kể từ sau Hội nghị Rio de Janeiro đến năm 2002. Đồng thời, Hội nghị này đã nêu ra
những vấn đề bức xúc hiện nay là: nước sinh hoạt và sản xuất, tình hình năng lượng, sản xuất nơng
nghiệp, đa dạng sinh học, quản lý hệ sinh thái và sức khỏe con người [8].
1.1.5. Nông nghiệp bền vững
Định nghĩa “Nông nghiệp bền vững” được nhiều tác giả thừa nhận là “việc thiết kế những hệ
thống cư trú lâu bền của con người; đó là một triết lý và một cách tiếp cận về việc sử dụng đất tạo ra
mối liên kết chặt chẽ giữa tiểu khí hậu, cây hàng năm, cây lâu năm, súc vật, đất, nước và những nhu
cầu của con người, xây dựng những cộng đồng chặt chẽ và có hiệu quả”. (Mollison và Slay,
1994).[24]
Nơng nghiệp bền vững có cơ sở nền tảng là Sinh thái học, mục tiêu là nhất thể hóa xã hội lồi
người vào các hệ sinh thái bền vững, do đó có tác giả cịn gọi là Nơng nghiệp sinh thái. Trong vườn
và trang trại theo nông nghiệp bền vững, mục tiêu là sử dụng cho hết chất dinh dưỡng để không trở
thành nguyên nhân gây ơ nhiễm. Thực hiện việc đó bằng trồng nhiều loại cây, mỗi loại sử dụng
những loại chất dinh dưỡng khác nhau, bón phân vào lúc mà cây có thể sử dụng được hết (thí dụ,
bón vào từng giai đoạn sinh trưởng của cây: bón lót, bón thúc…). Trồng cây và cỏ dọc đường ranh
giới khu đất, phủ mặt đất và ít cày xới bằng cách trồng cây phân xanh. [24]
Những nguyên tắc xây dựng nơng nghiệp bền vững:
- Tính đa dạng: trồng những lồi, giống cây khác nhau; lai tạo giống; luân canh; trồng cây lưu
niên và cỏ ở khu vực ráp gianh; bảo tồn và phát triển gia súc, gia cầm, ong, cá, thủy sản.[24]
- Đất là một vật thể sống: bón phân cho đất thường xuyên bằng chất hữu cơ; phủ cho đất thường
xun để chống xói mịn; khử những yếu tố gây hại như các hóa chất dùng trong nơng nghiệp.[24]
- Tái chu chuyển: tạo ra mối quan hệ đúng đắn giữa các thành phần nông nghiệp (cây trồng, vật
nuôi, thủy sản, cây rừng…) để có lợi cho từng thành phần và cho toàn thể. Tái chu chuyển là điểm
mấu chốt trong việc sử dụng tài nguyên ngoài đồng, trong vườn và giảm bớt lệ thuộc vào bên
ngoài.[24]
- Cấu trúc nhiều tầng: Thảm thực vật nhiều tầng có thể sử dụng tối đa ánh sáng mặt trời và nước
mưa. Có nhiều tầng sẽ giảm hạn hán, lũ lụt và xói mịn cho đất.[24]
1.1.6. Hệ sinh thái vườn nhà
Theo Đường Hồng Dật (1999) thì hệ sinh thái vườn nhà bao gồm các thành phần cấu tạo như
sau:
- Sinh vật trung tâm: loài cây trồng, vật nuôi được gieo trồng hoặc nuôi dưỡng.
- Các thành tố sinh vật: các loài sinh vật cùng tồn tại trong hệ sinh thái. Trong đó có các lồi gây
hại cho sinh vật trung tâm, có các lồi có ích, các lồi cộng sinh, các lồi bổ sung.
- Các thành tố không phải sinh vật: đất, nước, ánh sáng, nhiệt độ, ẩm độ, khơng khí v.v…
Các thành tố sinh vật
Sinh vật
có ích
Sinh vật gây Sinh vật
trung tính
hại
Sinh vật
cộng sinh
Sinh vật
bổ sung
Cỏ và
cây dại
Nhiệt độ
Ẩm độ
Sinh
vật
trung
tâm
Khơng khí
Ánh sáng
Đất
Nước
Các thành tố khơng phải sinh vật
Hình 1.2. Sơ đồ cấu trúc hệ sinh thái vườn nhà
(Nguồn: Đường Hồng Dật, 1999) [14]
1.2. Tổng quan tài liệu
1.2.1. Tài liệu nước ngồi
Các cơng trình về hệ sinh thái vườn nhà không phong phú như các tài liệu khoa học khác. Năm
1990, Karyono, khảo sát cấu trúc vườn nhà trong diện tích đất nơng thơn của lưu vực Citarum,
Indonexia. Tác giả mơ tả sự phân bố các lồi thực vật, sự phân tầng trong không gian, hệ thống canh
tác…
Long Chun Lin, 1990, với “Diversification of homegardens as a subtainable agroecosystem in
Xishuangbana, China”
đã khảo sát về hệ sinh thái nông nghiệp và các dạng vườn nhà ở
Xishuangbana của Trung Quốc. Tác giả đã nghiên cứu và giới thiệu, mô tả vườn nhà dựa trên thành
phần, cấu trúc của vườn nhà.
Năm 1997, bài viết “A study on the home garden ecosystem in the Mekong river delta and the
Ho Chi Minh city” của Nguyễn Thị Ngọc Ẩn đã đề cập tới các yếu tố của vườn nhà ở miền Nam
Việt Nam, cấu trúc phân tầng trong vườn, các loại đất, động vật và thực vật trong vườn và chỉ ra vai
trò của vườn về văn hóa, xã hội, kinh tế.[37]
Pablo B. Eyzaguirre và các cộng sự L.N. Trinh, J.W. Watson, N.N.Hue, N.N. De, N.V.Minh,
P.Chu, B.R. Sthapit (2002), đã nghiên cứu về sự phát triển ở vườn nhà ở Việt Nam, nêu tầm quan
trọng về các mặt xã hội và văn hóa của vườn nhà, cấu trúc vườn nhà ở Việt Nam, sự phân bố các
lồi ở một số vùng, kích thước các vườn khảo sát… Các tác giả kết luận vườn nhà ở Việt Nam là
nơi đóng góp thiết yếu cho các dịch vụ xã hội và phát triển bằng cách cung cấp nguồn dinh dưỡng,
nguồn lương thực thực phẩm ổn định và còn là nguồn thu nhập đáng kể cho các gia đình nơng thơn
Việt Nam.[38]
1.2.2. Tài liệu trong nước:
1.2.2.1. Nghiên cứu về vườn và hệ sinh thái vườn
Trần Văn Hòa (1994), nghiên cứu kỹ thuật thiết kế vườn ở khu vực đồng bằng sơng Cửu Long.
Tác giả trình bày cách lập vườn và trồng cây trên liếp đơn, liếp đôi. [20]
Nguyễn Thị Ngọc Ẩn (1994), nghiên cứu hệ sinh thái và môi trường vườn với một số biện
pháp xử lý và hướng phát triển. Tác giả phân thành các biện pháp xử lý chất thải rắn bằng cách thu
gom phân loại rác thải, chế tạo các loại xe chuyên dụng. Đối với nước thải cơng nghiệp thì dùng
than hoạt tính, xử lý sinh học hoặc dùng vôi bột.
Nguyễn Thị Ngọc Ẩn (1996), nghiên cứu một số mơ hình vườn nhà ở đồng bằng sơng Cửu
Long và thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt phân tích đặc điểm kinh tế xã hội, hiệu quả kinh tế và
điều kiện tự nhiên nhằm có cơ sở đề xuất một số biện pháp xử lý và phương hướng phát triển mơ
hình vườn thích hợp với từng vùng. Tác giả đã phân tích những đặc điểm có liên quan đến vườn như
khí hậu thủy văn, đất đai, giống, kỹ thuật, các điều kiện thuận lợi và khó khăn của từng vùng để dự
kiến biện pháp phát triển vườn cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long và thành phố Hồ Chí Minh.
Trong đó tác giả cũng lưu ý đến các giống cây trồng thích hợp, kháng được bệnh do sâu rầy.
Đường Hồng Dật (1999), trong cuốn “Nghề làm vườn- cơ sở khoa học và hoạt động thực tiễn” đã
lý giải một số vấn đề của hoạt động làm vườn, phân biệt vườn với ruộng, phân biệt vườn nhà với
các loại vườn khác, phân tích các mối liên hệ giữa các thành phần trong hệ sinh thái vườn, chủ yếu
là vườn nhà và kết luận vườn là một hệ sinh thái nông nghiệp tạo ra năng suất kinh tế cao. Tác giả
cũng nêu cách thiết kế các loại vườn, chia khu cho từng loại vườn (4 khu chính), mỗi khu có đặc
điểm và cách thiết lập khác nhau.[14]
Trần Thị Phú (2004), nghiên cứu đa dạng thành phần loài cây trồng ở vườn nhà Huế. Tác giả đã
xác dịnh được 520 loài thuộc 311 chi trong 122 họ của 4 ngành thực vật trồng ở các vườn nhà Huế.
[28]
Thanh Hương (2005), nêu lên tầm quan trọng của vườn (rau) trong cuộc sống, hiện trạng vườn
hiện nay của các gia đình, phân loại một số loại cây thường trồng
trong vườn và tập trung vào trồng rau để cải thiện bữa ăn gia đình. [17]
Nguyễn Thị Ngọc Ẩn (2006), đã nêu lên khái niệm, cấu trúc hệ sinh thái vườn, tầm quan trọng
và vai trò của vườn đối với đời sống con người. Tác giả cho biết có nhiều khái niệm khác nhau về
vườn và có thể chia thành 3 loại: vườn hoa kiểng, vườn rau đậu và vườn cây ăn trái; một đặc điểm
chính để phân biệt vườn nhà với vườn và vườn rừng là vườn nhà có thêm một căn nhà và cơng lao
động thường do trong hộ gia đình thực hiện. [2]
Trần Thế Tục (2008), nêu khái niệm và phân loại vườn tạp, những tiến bộ kỹ thuật có thể áp
dụng để cải tạo vườn tạp mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đó là kỹ thuật chọn tạo nhân giống, kỹ thuật
tạo tán, tỉa cành, kỹ thuật bón phân, bao quả, điều khiển ra hoa quả trái vụ, ứng dụng các thành tựu
bảo vệ thực vật đối với cây ăn quả. Ngồi ra tác giả cịn đề ra hướng chọn lựa các giống tốt có thế
cạnh tranh trên thị trường để cải tạo vườn tạp.[32]
Nguyễn Thanh Vũ, Nguyễn Thị Ngọc Ẩn (2008), nêu đặc điểm vườn nhà, các thành phần của
hệ sinh thái vườn, cấu trúc sinh thái vườn nhà theo không gian thẳng đứng ở các xã cù lao thuộc
tỉnh Vĩnh Long. Tác giả kết luận mơ hình vườn cây ăn trái kết hợp du lịch đem lại nguồn thu nhập
đáng kể cho nhà vườn và tạo điều kiện nâng cao kiến thức cộng đồng về giữ gìn và bảo vệ môi
trường tự nhiên. [33]
1.2.2.2. Nghiên cứu về phát triển bền vững
Nguyễn Văn Mấn và Trịnh Văn Thịnh (1995), đã trình bày cơ sở của nông nghiệp bền vững về
đạo đức, nguyên lý, môi trường sinh thái, nền tảng sinh thái học và thiết kế cũng như các hệ thống
nông nghiệp bền vững. Các tác giả nêu nguyên tắc xây dựng nông nghiệp bền vững hay cịn gọi là
nơng nghiệp sinh thái: tính đa dạng, đất là một vật thể sống, tái chu chuyển và cấu trúc nhiều
tầng.[24]
Nguyễn Thái Tự (2002), trình bày cơ sở để phát triển bền vững vườn nhà và trang trại trên nền
tảng đa dạng sinh học. Từ những nghiên cứu về ưu điểm và qui luật cơ bản của thiên nhiên nước ta,
tác giả đưa ra những tiêu chí để vận dụng trong qui hoạch, xây dựng mơ hình vườn nhà, trang trại
góp phần tạo nên một nền nơng nghiệp sản xuất hàng hóa bền vững. [39]
Nhìn chung, chưa có cơng trình nghiên cứu nào về hệ sinh thái vườn nhà và đề xuất những mơ
hình có hiệu quả, bền vững ở thị xã Đồng Xồi, tỉnh Bình Phước.
CHƯƠNG 2
ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu là các vườn nhà ở thị xã Đồng Xồi, tỉnh Bình Phước
2.1.1. Điều kiện tự nhiên của thị xã Đồng Xồi, tỉnh Bình Phước
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Thị xã Đồng Xồi nằm ở phía Đơng - Nam tỉnh Bình Phước và ở giao điểm của hai tuyến
giao thông quan trọng là quốc lộ 14 và tỉnh lộ ĐT741, cách thị xã Thủ Dầu Một 80 km, cách
thành phố Hồ Chí Minh 120 km về phía Bắc.
Toạ độ địa lý của thị xã Đồng Xoài:
- Từ 11o31’25” đến 11o33’36” vĩ độ Bắc
- Từ 106o53’36” đến 106o55’31” kinh độ Đơng
Hình 2.1. Bản đồ thị xã Đồng Xồi, tỉnh Bình Phước (tỉ lệ 1/25.000)
(Nguồn: Ủy ban nhân dân thị xã Đồng Xồi) [34]
Thị xã Đồng Xồi có diện tích tự nhiên là 16.769,83 ha, chiếm 2,44% diện tích của cả tỉnh Bình
Phước. Tồn thị xã có 3 xã và 5 phường. Trung tâm hành chính thị xã đặt tại phường Tân Phú. Ranh
giới hành chính của thị xã Đồng Xồi như sau:
- Phía Đơng giáp huyện Đồng Phú.
- Phía Tây giáp huyện Chơn Thành
- Phía Nam giáp huyện Đồng Phú
- Phía Bắc giáp huyện Đồng Phú
- Phía Tây Nam giáp tỉnh Bình Dương.
Đến nay tồn thị xã có diện tích tự nhiên là 16.848 ha, gần bằng 2,46% diện tích cả tỉnh Bình
Phước và bằng khoảng 0,05% diện tích tồn quốc. Với dân số năm 2001 là 56.120 người, mật độ
dân số khoảng 333 người/km2.
- Địa hình: nằm ở độ cao trung bình 88,63 m so với mực nước biển, là vùng đất đồi tương đối
bằng phẳng, hơi lượn sóng. Là một thị xã miền núi nhưng Đồng Xịai có địa hình tương đối bằng
phẳng so với các vùng khác. Địa hình có độ dốc <15o, thuận lợi cho sử dụng đất trong nơng nghiệp,
trong đó địa hình < 3 o có 10.856 ha (64,44%), tương đối bằng phẳng chiếm gần 2/3 diện tích tự
nhiên của thị xã Đồng Xoài, là yếu tố rất thuận lợi cho thị xã trong sử dụng đất.
Bảng 2.1. Thống kê diện tích đất của thị xã Đồng Xồi theo địa hình
Cấp
Tỉnh Bình Phước
Thị xã Đồng Xịai
Độ dốc
Diện tích đất (ha)
(%)
Diện tích đất (ha)
(%)
< 3o
171.026
24,95
10.856,0
64,44
3 - 8o
188.711
27,53
4.750,3
28,19
8 - 15o
131.503
19,19
1.241,7
7,37
15 - 20o
86.103
12,56
> 20o
108.051
15,76
Tổng diện tích
685.394
100
16.848
100
(Nguồn: Sở Tài ngun- Mơi trường tỉnh Bình Phước, 2008) [29]
2.1.1.2. Khí hậu
Thị xã Đồng Xịai nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có nền nhiệt cao
đều quanh năm, ít gió bão và khơng có mùa đơng lạnh. Khí hậu tỉnh Bình Phước nói chung và thị xã
Đồng Xịai nói riêng mang đặc thù khí hậu nhiệt đới gió mùa khơng đồng nhất với các đặc điểm
sau:
- Có cấu trúc đa dạng về thời tiết mùa
- Khí hậu có tính biến động rất cao do hệ quả của phức hệ gió mùa và quan hệ tương tác với
cảnh quan địa hình
- Diễn thế khí hậu quan hệ với động lực gió mùa.
Bảng 2.2. Nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm không khí ở thị xã Đồng Xồi
Chỉ tiêu Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Trung
khí hậu
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
bình
26,1
27,1
28,0
28,0
27,4
26,9
26,5
26,3
26,2
26,2
25,8
25,5
26,7
4,4
28,2
78,6
145,2
298,9
328,5
335,5
390,0 487,6 368,5
152,4
14,4 2632,2
Độ ẩm % 71,7
70,0
71,8
75,9
82,3
84,8
86,4
87,1
81,4
75,9
Nhiệt
độ(0 C)
Lượng
mưa
(mm)
88,1
85,7
80,1
(Nguồn:Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn tỉnh Bình Phước) [31]
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 26,7oC, khơng có sự chênh lệch lớn về nhiệt độ giữa các tháng
trong năm. Tháng tư và tháng năm nóng nhất lên đến 28,00C, tháng lạnh nhất là tháng 12 với nhiệt
độ 25,50C.
Thị xã Đồng Xoài có bức xạ mặt trời cao trên 130 kcalo/cm2/năm. Thời kỳ có cường độ bức xạ
cao nhất vào tháng 3 & tháng 4, đạt 300 - 400 calo/cm 2/ngày. Trên nền đó cán cân bức xạ có trị số
lớn 70 - 75 kcalo/ cm2/năm. Từ nguồn năng lượng đó chế độ nhiệt cao và khá ổn định: nhiệt độ cao
đều trong năm khoảng 26,6oC. Nhiệt độ trung bình tối cao khơng q 33oC (31,7 - 32,2oC) và nhiệt
độ trung bình tối thấp không dưới 20oC (21,5 - 22oC). Tổng giờ nắng trong năm trung bình 2.400 2.500 giờ. Số giờ nắng bình quân trong ngày 6,2 - 6,6 giờ. Thời gian nắng dài nhất vào các tháng ít
mưa 2,3,4, thời gian ít nắng nhất vào các tháng mưa nhiều 7,8,9.[34]
Lượng mưa trung bình tương đối cao khoảng 2.632,2 mm/năm, nhưng phân hóa theo mùa, tạo
ra hai mùa rất ngược nhau: mùa mưa và mùa khô.
Mùa khô kéo dài trong 6 tháng từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa rất thấp chỉ chiếm
khoảng 10 -15% lượng mưa cả năm. Trong khi đó lượng bốc hơi rất cao, chiếm khoảng 64 - 67%
tổng lượng bốc hơi cả năm và cán cân ẩm rất cao. Do lượng mưa ít và bức xạ mặt trời cao đã làm
tăng quá trình bốc hơi nước một cách mãnh liệt. Điều đó đẩy nhanh sự phá hủy chất hữu cơ, dung
dịch đất hòa tan các Secquioxyt sắt nhôm ở dưới sâu dịch chuyển lên tầng đất trên và bị oxy hóa tạo
thành kết von và đá ong rất phổ biến.
Mùa mưa kéo dài trong 06 tháng từ tháng 5 đến tháng 11, mưa rất tập trung, lượng mưa trong
06 tháng mùa mưa chiếm 85 - 90% tổng lượng mưa cả năm, chỉ riêng 04 tháng mưa lớn nhất, lượng
mưa đã chiếm 62 - 63% lượng mưa cả năm. Ngược lại lượng bốc hơi và nền nhiệt thấp hơn mùa khơ
và khi đó cán cân ẩm rất cao. Lượng mưa lớn và tập trung đã xảy ra q trình xói mịn, rửa trơi rất
mạnh, lơi cuốn sét mùn từ nơi cao xuống nơi thấp, làm bất đồng hóa phẫu diện và dẫn tới nhiều biến
đổi quan trọng trong phân hóa vỏ thổ nhưỡng.
Lượng mưa phân hóa theo mùa đã chi phối mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp. Vào mùa mưa
cây cối sinh trưởng và phát triển rất tốt, là mùa sản xuất chính; ngược lại vào mùa khô cây cối khô
cằn, sinh trưởng và phát triển rất kém. Khả năng cung cấp nước tưới của thị xã cho nông nghiệp rất
khó khăn, chưa đầy 10% diện tích đất nơng nghiệp có tưới tiêu, vì vậy trong sản xuất nơng nghiệp
cần phải chọn và đưa vào sử dụng những loại hình sử dụng đất ít hoặc khơng cần nước tưới. Bên
cạnh đó, nguồn nước sinh họat cũng gặp rất nhiều khó khăn do mùa nắng kéo dài mà các hồ, đập lại
dự trữ nước ít. [34]
Độ ẩm khơng khí trung bình năm khoảng 80,1%.
2.1.1.3. Các loại đất
Thị xã Đồng Xịai có 3 loại mẫu chất đá mẹ hình thành đất là đá bazan, đá phiến sét, mẫu chất
phù sa cổ và được phân bố thành 3 khối tập trung.
Trên bản đồ tỷ lệ 1/25.000, đất Thị xã Đồng Xịai có 3 nhóm đất, với 7 đơn vị bản đồ đất. (Hình
2.2)
Hình 2.2. Bản đồ các loại đất ở thị xã Đồng Xồi (tỉ lệ 1/25.000)
(Nguồn: Sở Tài ngun & Mơi trường tỉnh Bình Phước, 2007 ) [29]
Ghi chú:
Nhóm đất xám
Nhóm đất đỏ vàng
Nhóm đất dốc tụ
- Nhóm đất xám
Có 8.812,4ha (52,31%) là nhóm đất chiếm diện tích lớn nhất ở thị xã Đồng Xòai. Phân bố nhiều
nhất ở xã Tân Thành 3.760,2 và xã Tiến Hưng 3.562,6 ha và các xã khác như: Tân Phú 300,8ha,
Tiến Thành 509,4ha, Tân Xuân 281,9ha, Tân Bình 347,1ha, Tân Đồng 50,4ha.
Đất xám chủ yếu có địa hình bằng phẳng < 3o có diện tích bằng 94,18% diện tích đất xám.
Nhóm đất xám ở thị xã Đồng Xịai hình thành chủ yếu trên mẫu chất phù sa cổ (Pleistocene)
nghèo kiềm và thường có thành phần cơ giới nhẹ; phân bố trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm;
khống sét đã bị biến đổi đáng kể; q trình rửa trơi sét và các Cation kiềm thổ xảy ra mạnh mẽ. Đất
xám thường có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình: thịt pha sét- cát đến thịt pha sét. Đất xám
nhìn chung rất nghèo mùn, đạm, lân và kali.
- Nhóm đất đỏ vàng
Nhóm đất đỏ vàng có diện tích lớn 7.660,5ha, chiếm 45,47% diện tích tự nhiên. Nó được hình
thành trên 02 đá mẹ khác nhau: đá bazan và đá phiến sét. Nhóm đất đỏ vàng được phân thành 3 loại:
đất nâu đỏ và nâu vàng trên bazan, đất nâu vàng trên phù sa cổ và đất đỏ vàng hình hình thành trên
đá phiến sét.
- Đất nâu đỏ và nâu vàng trên bazan: Có 3.343,5 ha, chiếm 19,85% diện tích tự nhiên toàn thị
xã và chiếm 0,84% qũy đất đỏ bazan toàn tỉnh. Đất nâu đỏ và nâu vàng trên bazan có thành phần cơ
giới nặng, cấu tượng viên hạt, tơi xốp: thịt pha sét tới sét. Đất đỏ nhìn chung có độ phì tương đối
cao.
- Đất nâu vàng trên phù sa cổ: Có diện tích 2.188,6 ha, chiếm 12,99% diện tích tự nhiên. Đất
nâu vàng trên phù sa cổ có thành phần cơ giới thịt trung bình, cấu tượng viên hạt, khá tơi xốp, khả
năng giữ nước, giữ phân khá hơn đất xám. Đất nâu vàng trên phù sa cổ nhìn chung nghèo dinh
dưỡng.
- Đất đỏ vàng hình hình thành trên đá phiến sét: Có 32.812ha, chiếm 35,32% DTTN tồn thị
xã. Đất đỏ vàng trên phiến sét nhìn chung có thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng. tầng đất
thường mỏng và hơi dốc. Đất thường chua, có độ phì nhiêu thấp với mùn và đạm trung bình, nghèo
lân và nghèo kali.
- Nhóm đất dốc tụ
Đất dốc tụ có 97ha, chiếm 0,58% diện tích tự nhiên. Đất hình thành ở địa hình thung lũng, trên
các sản phẩm bồi tụ từ các khu vực đồi cao xung quanh. Vì vậy đất phân bố rất rải rác, ở khắp các
khe hợp thủy và thung lũng ở vùng đồi. Nhìn chung các đất dốc tụ có độ phì nhiêu tương đối khá,
nhưng chua. Địa hình thấp trũng, khó thóat nước.
2.1.1.4. Tài ngun nước
- Sơng, suối
Trên địa bàn thị xã Đồng Xịai có 01 con sông lớn chảy qua: Sông Bé và suối Rạt, nhánh sông
Đồng Nai.
+ Sông Bé chảy dài dọc theo trung tâm tỉnh Bình Phước theo hướng Bắc-Nam, chảy qua các
huyện Phước Long, Lộc Ninh, Bình Long, thị xã Đồng Xịai và chảy về tỉnh Bình Dương. Trên
dịng Sơng Bé đã quy hoạch 04 cơng trình thủy lợi lớn theo 04 bậc thang: Thủy điện Thác Mơ, Cần
Đơn, Sóc Phu Miêng và Phước Hịa. Hiện nay cơng trình thủy điện Thác Mơ (1,47 tỷ m3) đã đưa
vào sử dụng từ 1995. Cơng trình Cần Đơn đang trong giai đọan thi cơng và cơng trình Phước Hịa
đang trong giai đoạn thiết kế kỹ thuật. Trên địa bàn thị xã Đồng Xịai, sơng Bé cũng chạy từ Bắc
xuống phía Nam dọc theo phía Tây thị xã; là ranh giới giữa thị xã Đồng Xịai và huyện Bình Long.
Suối Cam và suối Sông Rinh là hai nhánh của Sông Bé thường cạn vào mùa khô và ngập sâu vào
mùa mưa.
+ Suối Rạt là ranh giới giữa thị xã Đồng Xòai và huyện Đồng Phú. Suối này có nước ngập sâu
vào mùa mưa, nhưng tương đối cạn kiệt về mùa khô, nên có tác dụng thấp trong sản xuất nơng
nghiệp và sinh họat.
- Nước ngầm
Theo bản đồ địa chất thủy văn tỉnh Sông Bé (cũ) thành lập năm 1995 của liên đồn Địa chất 6
cho thấy nước ngầm trong vùng có các tầng chứa nước sau:
+Tầng chứa nước Bazan (QI-II) phân bố trên quy mô khoảng 348km2, lưu lượng tương đối khá
0,5-16l/s. Tuy vậy, do biến động lớn về tính thấm nên tỷ lệ khoan khai thác nước không cao.
+ Tầng chứa nước Pleistocene (QI-III), phân bố ở phía Nam của thị xã. Đây là tầng chứa nước
có trữ lượng khá lớn và chất lượng tốt.
+ Tầng chứa nước Plioxen (N2) lưu lượng 5-15l/s, phân bố ở trung tâm thị xã Đồng Xịai. Có
chất lượng tốt.
+ Ngồi ra có các tầng chứa nước Mezozoi (M2) phân bố ở vùng đồi thấp (100-250 m).
- Nguồn nước của các hồ, đập, bàu
Trên địa bàn tồn thị xã hiện có 07 hồ chứa nước gồm: hồ Suối Cam ở Tân Phú diện tích sử
dụng khoảng 79,2 ha; Bàu Tà Môn ở xã Tiến Hưng diện tích sử dụng 12,35 ha; 05 bàu ở xã Tân
Thành diện tích 20 ha. Hồ Suối Cam là nguồn cung cấp nước sinh họat, nước sản xuất cho thị xã; 06
bàu đập cịn lại phục vụ chính cho nơng nghiệp. [34]
2.1.1.5. Tài ngun rừng
Thị xã Đồng Xịai nói riêng và tỉnh Bình Phước nói chung vốn là nơi có qũy rừng rất phong
phú, đa dạng và nó có giá trị phịng hộ, mơi trường, nhưng đã bị khai thác và tàn phá mạnh mẽ.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội thị xã Đồng Xồi, tỉnh Bình Phước
2.1.2.1. Đặc điểm dân số
Năm 2008 dân số của thị xã là 74.020 người, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 15,57%. Dân số
trung bình thành thị là 44,484 nghìn người, dân số trung bình nơng thơn là 29,536 nghìn người.
Tổng số phường, xã là 8. [13]
Thị xã Đồng Xịai có dân số chưa nhiều, mật độ dân số trung bình nhưng tốc độ tăng dân số rất
cao, nhất là tăng dân số cơ học, đã gây một sức ép không nhỏ trong sử dụng đất.
2.1.2.2. Cơ sở hạ tầng
- Giao thông: Thực trạng đường ô tô đến trung tâm các xã, phường: 8/8 phường xã có đường ơ
tơ đến trung tâm phường, xã.
- Bưu chính: 8/8 phường xã được trang bị điện thoại.
- Điện: 8/8 phường xã có điện thắp sáng và sinh hoạt.
- Nước: thị xã có một nhà máy nước cung cấp cho 40% dân thị xã, chủ yếu các cơ quan nhà
nước và những hộ dân thuộc cơng chức, cịn lại phần lớn bà con dùng nước giếng. [13]
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thu thập thông tin
Thu thập những tài liệu có liên quan đến đề tài từ các nguồn khác nhau. Sắp xếp, phân tích và
xử lí tài liệu thu thập được.
2.2.2. Ngoài thực địa
- Thực địa khảo sát các vườn nhà: thống kê số vườn, diện tích các vườn. Để xác định loại đất
vườn, chúng tôi dựa vào bản đồ phân loại đất của thị xã và tính chất đất khi khảo sát thực địa.
- Lấy 3 mẫu đất và đem phân tích ở Viện Khoa học Kỹ thuật Miền Nam về một số chỉ tiêu thành
phần cơ giới, pH, N tổng số, K2O tổng số, P2O5 tổng số, N dễ tiêu, K2O dễ tiêu, P2O5 dễ tiêu.
- Sau đó chọn mẫu (150 vườn nhà) để khảo sát. Chọn các vườn thể hiện được vườn cây trồng
thuần loại và vườn cây trồng xen để khảo sát, thu mẫu, chụp hình các lồi động, thực vật được ni
trồng và hoang dại có trong vườn.
- Điều tra về năng suất cây trồng, về hiệu quả kinh tế thu được từ vườn trong 2-3 năm gần đây;
về tình hình sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, phân hóa học qua phiếu điều tra.
2.2.3. Ở phịng thí nghiệm
- Định danh tên khoa học của các loài thực vật bằng phương pháp hình thái so sánh và dựa trên
tài liệu chính: "Cây cỏ Việt Nam" của Phạm Hồng Hộ (2003). Danh lục được sắp xếp theo
Brummitt (1992).
- Xử lý các số liệu thu được bằng phần mềm Excel 2003.
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Thực trạng các vườn nhà ở thị xã Đồng Xồi
3.1.1. Diện tích các vườn nhà
Kết quả điều tra tổng số vườn nhà trong thị xã Đồng Xồi cho thấy có 3.956 vườn. Trong đó:
- Số vườn nhà có diện tích < 1,0 ha là 1.060 vườn chiếm tỷ lệ 26,8%. Vườn có diện tích nhỏ
phân bố chủ yếu ở các phường thuộc nội ô thị xã. Các vườn này thường được trồng cây ăn quả, rau
màu, hoa cảnh…
- Số vườn nhà có diện tích 1,0 ha - 10 ha là 1.391 vườn, chiếm tỷ lệ 35,2%. Những vườn này
thường trồng cây ăn quả lâu năm như Cam, Bưởi, Xồi, Chơm chơm, Nhãn; cây cơng nghiệp là
Điều, Tiêu và hiện nay đang trồng Cao su xen vào Điều để chuẩn bị thay thế Điều.
- Số vườn nhà có diện tích > 10 ha là 1.505 vườn, hầu hết tập trung ở 3 xã ngoại ô, chiếm tỷ lệ
38,0% trong tổng số vườn điều tra. Những vườn nhà có diện tích lớn hầu hết là vườn Điều lâu năm.
Bảng 3.1. Diện tích vườn nhà thuộc các phường, xã trong thị xã Đồng Xồi
Phường
Diện
tích
Xã
Tổng
số
Tân Tân
Tân Tiến Tiến Tân
Đồng Thiện Xuân Thành Hưng Thành vườn
Tân
Phú
Tân
Bình
< 1 ha
65
72
150
70
434
51
2
216
1.060
1– 10 ha
150
69
72
80
187
417
126
290
1.391
>10 ha
35
126
28
100
85
192
424
515
1.505
Tổng số
vườn
250
267
250
250
706
660
552
1021
3.956
Hình 3.1. Tỷ lệ % diện tích các vườn trong thị xã Đồng Xoài.
Kết quả điều tra số vườn ở thị xã Đồng Xoài được thể hiện ở bảng 3.2
Bảng 3.2. Số vườn trồng các loại cây khác nhau trong thị xã Đồng Xồi
Phường, xã
Loại vườn
Tổng
Tiến
Tân
Hưng Thành
Tân
Phú
Tân
Bình
Tân
Đồng
Tân
Thiện
Tân
Xn
Tiến
Thành
110
141
91
200
247
220
401
515
1925
Vườn Tiêu
1
2
3
14
2
21
10
53
Vườn Cà phê
2
1
10
3
18
8
42
Vườn Điều
Vườn Nhãn
35
35
Vườn Xoài
93
93
Vườn Quýt
Vườn Cam
Vườn khác(*)
Tổng
( )
15
5
15
5
100
123
156
37
349
420
130
473
1788
250
267
250
250
706
660
552
1021
3956
* Vườn trồng nhiều loại cây hoặc cây khác với những cây trên.
Hình 3.2. Tỷ lệ % số vườn trồng các loại cây khác nhau trong thị xã Đồng Xoài
Qua số liệu ở bảng 3.2 cho thấy vườn Điều có ở khắp các phường, xã trong thị xã và cũng
chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các vườn khảo sát (48,66%). Vườn khác gồm vườn trồng xen Điều với
Cao su, vườn rau, vườn trồng Sầu riêng xen Bưởi, Chôm chôm, vườn trồng cây hàng năm như
Khoai mì hoặc vườn Cao su thuần loại.
3.1.2. Địa hình của các vườn nhà
Thị xã Đồng Xồi có 3 loại địa hình sau: địa hình bằng phẳng, độ dốc < 3o; địa hình hơi dốc từ
0 - 8o và địa hình dốc từ 8 -15o.
Các vườn Điều tập trung nhiều nhất ở 3 xã ngoại ô Tiến Thành, Tiến Hưng và Tân Thành
(1016/1395 vườn, chiếm tỷ lệ 72%). Đất ở đây thuộc nhóm đất xám là nhóm đất lớn nhất ở thị xã
Đồng Xoài, chiếm tỷ lệ 52,31% diện tích đất tồn thị xã. Địa hình khá bằng phẳng, độ dốc < 3o,
chiếm tỷ lệ 94,18% tổng diện tích đất xám.
Khu vực suối Cam tập trung nhiều vườn Nhãn, đất ở đây thuộc loại đất nâu đỏ và nâu vàng trên
bazan, địa hình hơi dốc hơn một chút, từ 0 - 8o. Các phường, xã có địa hình hơi dốc là Tân Phú, Tân
Đồng, Tiến Thành, Tân Thành. Các vườn Điều, vườn tiêu, vườn Nhãn được trồng ở vùng đất có địa
hình hơi dốc này.
Một số ít vườn Tiêu, Cà phê, Điều được bà con trồng ở những vùng đất dốc từ 8 -15o có ở khắp
các phường xã trong thị xã.
Riêng khu vực phường Tân Thiện có nhiều vườn rau nhất, về mùa mưa thường hay ngập úng do
nước chưa rút kịp.
3.1.3. Cấu trúc vườn nhà ở các phường, xã thuộc thị xã Đồng Xoài
3.1.3.1. Thành phần loài cây trồng và hoang dại ở trong các kiểu sinh thái vườn nhà thuộc
thị xã Đồng Xoài
Tổng số loài thực vật điều tra được ở các vườn nhà của thị xã Đồng Xoài có 240 lồi, trong
đó có 151 lồi cây trồng và 82 loài cây hoang dại, 07 loài vừa mọc dại vừa được trồng. (Phụ lục 1).
- Thành phần các loài cây trồng chính
Thành phần các lồi cây trồng chính trong các vườn nhà ở thị xã Đồng Xồi gồm có:
+ Các lồi cây cơng nghiệp: cây trồng trong vườn nhà ở Đồng Xồi khơng nhiều chủng loại,
cây cơng nghiệp chủ yếu là cây Điều (Anacardium occidentale L.), Tiêu (Piper nigrum L.), Cao su
(Hevea brasiliensis (A. Juss) Muell. – Arg.), Cà phê vối (Coffea robusta).
+ Các loài cây ăn quả: cây ăn quả được trồng nhiều là Cam sành (Citrus nobilis Lour. var.
nobilis), Quýt đường (Citrus reticulata Blanco), Nhãn (Dimocarpus longan Lour.) (nay đã bị chặt
bỏ nhiều), một số ít Xồi (Mangifera indica L.), Sầu riêng (Durio zibethinus Murr.), Chôm chôm
(Nephelium lappaceum L.) …
+ Các loài Rau xanh: thường được trồng trong vườn theo luống, mỗi luống rộng khoảng 1,2 m,
dài tùy theo diện tích vườn, thường từ 40-80 m, có khi hơn. Mỗi luống trồng một loại rau để có thể
có nhiều rau cung cấp cho thị trường. Chủ yếu rau trồng ở phường Tân Đồng, Tân Thiện và được
bán cho người dân trong nội ô thị xã. Hiện nay, Đồng Xoài vẫn chưa trồng được nhiều chủng loại
rau, vẫn cịn phải nhập từ Bình Dương, Đà Lạt. Rau trồng ở thị xã chủ yếu là các loại rau: rau Giền
(Amaranthus tricolor L.), Mồng tơi (Basella rubra L.), Rau đay (Corchorus olitorius L.), Bồ ngót,
Rau muống (Ipomoea aquatica Forssk.), Cà tím (Solanum melongena L, Cà chua (Lycopersicon
esculentum (L.) Mill.), Xà lách (Lactuca sativa L.), Cải xanh (Brassisca juncea (L.) Czern. et
Coss.); một số rau gia vị: Húng quế (Ocimum basilicum L.), Kinh giới (Elsholtzia ciliata (Thunb.)
Hyland.), Tía tơ (Perrila frutescens (L.) Britt.)... Số lượng rau các loại cũng chưa đủ cung cấp cho
toàn thị xã.
- Thành phần loài cây hoang dại
Cây hoang dại ở trong vườn khơng nhiều vì hầu hết các vườn đều được chăm sóc tốt, nhất là các
vườn trồng Tiêu, Cà phê, vườn Điều trồng xen Mì hoặc Ca cao, vườn Cam Quýt. Các vườn mới
trồng thường gặp nhiều Cỏ tranh (Imperata cylindrica (L.) P. Beauv). Vườn Điều lâu năm (khoảng
10 năm trở lên) thường cây to, vườn rộng, thưa nên có một số cây hoang dại và cỏ như: Cỏ lào
(Eupatorium odoratum L.), Cỏ tranh (Imperata cylindrica (L.) P. Beauv.), Cỏ Mỹ (Pennisetum
polystachyon (L.) Schult.), Cỏ chỉ (Cynodon dactylon (L.) Pers.), Cỏ hôi (cứt lợn) (Ageratum
conyzoides L.), Cỏ gấu (Cyperus rotundus L.) , Cỏ mần trầu (Euleusine indica (L.) Gaertn.), cây
Lồng mức (Wrightia annamensis Eb. & Dub.)...
3.1.3.2. Cấu trúc vườn nhà
Dựa vào thành phần loài cây có trong vườn nhà, chúng tơi chia vườn nhà thành hai kiểu đó là:
vườn nhà thuần loại và vườn nhà trồng xen.
- Vườn nhà thuần loại
Phần lớn vườn nhà ở thị xã Đồng Xoài là vườn nhà thuần loại trồng cây Điều, cây Cao su.
Trước đây có một số vườn Tiêu, vườn Cà phê, Nhãn nhưng hiện nay đã bị phá gần hết để trồng cây
Cao su hoặc cây trồng ăn quả khác như Cam, Quýt.
Vườn nhà thuần loại ở thị xã Đồng Xồi có cấu trúc đơn giản. Với những vườn trồng thuần một
loại cây như Điều, Tiêu, Nhãn đều giống nhau về cấu trúc chung. Mỗi vườn đều có một căn nhà,
phần lớn là cấp 4, cũng có một số nhà cấp 3, một số ít nhà cấp 2 khá đẹp.
- Cấu trúc ngang trong không gian
+ Vị trí nhà: Các nhà thuộc nhà cấp 4 đều ở trong vườn, xung quanh là cây cối. Những hộ có
nhà cấp 3, nhà tầng chủ hộ thường bố trí nhà ở phía trước, gần đường đi, phía sau nhà là vườn cây.
Đối với vườn Điều, nhà thường được bố trí ở trong vườn cho mát. Đi qua một khoảng vườn mới vào
đến nhà. Đối với vườn Tiêu nhà lại thường được làm ở phía trước, ngay sát đường đi, vườn ở phía
sau hoặc một bên của nhà.
+ Sân: Hầu hết các nhà đều có làm sân phơi ngay trước cửa nhà. Đa số sân thường được làm
bằng xi măng, cũng có một số ít sân đất.
+ Hàng rào: Xung quanh nhà và vườn có hàng rào hoặc tường bao. Xung quanh vườn có hàng
rào làm ranh giới với đường đi. Hàng rào trước nhà có thể là hàng cây Dâm bụt được cắt tỉa đẹp
mắt, có thể là cây Duối cảnh hay cây Hoa giấy…
Hàng rào quanh vườn rất khác nhau: vườn Tiêu thường có rào là cây gỗ như Xà cừ, Bạch đàn,
Xoan. Vườn Điều thường không làm hàng rào hoặc cũng trồng cây Xà cừ nhưng thường chỉ làm đối
với những vườn sát đường đi. Vườn Nhãn lại hay rào bằng lưới B40 để chống trộm quả.
+ Ao, hồ chứa nước: Những vườn trồng Tiêu, Cà phê, Xoài, Cam, Quýt, vườn rau hoặc những
vườn trồng xen nhiều loại cây thường đào ao hay hồ chứa nước tưới cây với diện tích khoảng 50 –
100 m2. Vườn Điều thuần lâu năm khơng có ao, hồ chứa nước. Một số vườn gần sơng, suối thì
khơng cần đào ao để lấy nước tưới.
- Cấu trúc đứng trong không gian: Vườn thuần loại ở thị xã Đồng Xồi khơng có cấu trúc
nhiều tầng. Các vườn Điều, vườn Nhãn, vườn Xoài hơn 15 năm tuổi trong vườn chỉ có cây Điều hay
cây Nhãn hoặc cây Xoài ở tầng trên cao 10 - 15 m, một ít cây cỏ và cây dại ở tầng sát mặt đất. Một
số vườn Điều đang trồng xen cây Điều ghép (điều cao sản) để thay thế cho cây Điều cũ thì có thêm
tầng giữa cao 5 - 7 m (các vườn Điều lâu năm ở Tiến Thành, Tân Thành). Trong vườn Tiêu dùng
nọc sống có sự phân tầng rõ rệt: Tầng cao nhất (trên 10 m) gồm những cây làm nọc (cây Thừng
mức), cây làm hàng rào (cây Xà cừ); tầng ưu thế là Tiêu (5 - 10 m); tầng sát mặt đất gồm cỏ, cây dại
(Cỏ tranh, cây Xấu hổ, Cỏ lào…)
Hình 3.3. Lát cắt đứng từ trước ra sau một vườn nhà thuần loại
- Vườn nhà trồng xen
Thường gặp ở thị xã Đồng Xoài các kiểu vườn nhà trồng xen như: Điều - Khoai mì, Điều - Đậu
xanh, Điều - Khoai lang, Điều - Ca cao, Điều - Cao su, Cam - Bưởi - Quất, Cam - Quýt - Bưởi, Cam
- Bưởi - Chôm chôm, Điều - Tiêu, Điều - cây cảnh.
+ Vườn điều thường được trồng xen với Khoai mì khi cây Điều cịn nhỏ, hoặc Khoai mì được
trồng ở phía ngồi vườn gần hàng rào để tận dụng ánh sáng. Bà con nơng dân cịn trồng xen Đậu
xanh, rau xanh, Khoai lang ở phía ngồi, sát hàng rào gần nhà ở để cải thiện bữa ăn chứ khơng phải
tăng thu nhập chính. Một số hộ thuộc phường Tân Phú trồng hoa Cúc ở phía gần hàng rào, nơi có
khoảng trống nhiều. Hoa dùng để bán trong dịp Tết Nguyên đán. Có hộ trồng Tiêu xen Điều nhưng
nọc không phải là cây Điều. Một số vườn trồng cây Ca cao xen dưới tán Điều. Tuy nhiên, nhiều hộ
nông dân có vườn nhà đang chuyển sang trồng Cao su trong vườn Điều và khi cây Cao su mở
miệng sẽ chặt dần cây Điều đi để trồng thuần cây Cao su.
+ Vườn Cam - Quýt được trồng xen Mướp hương, Đậu đũa, Đậu cô ve cho leo làm giàn hay
leo lên cây Cam (hộ anh Đông, ấp Suối Cam, Tân Phú). Vườn Quýt đường ở Tân Thành được trồng
xen Cà tím.