Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

thực trạng về sự vận dụng quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế ở nước ta thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.79 KB, 30 trang )

Phần I: Giới thiệu đề tài
Đặc điểm nổi bật trong thời đại hiện nay là cách mạng khoa học kĩ thuật
gắn với cách mạng khoa học,tao thành cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát
triển hết sức mạnh mẽ, ảnh hởng sâu sắc đến tốc độ phát triển kinh tế của các
nớc. Đối với Việt Nam là nớc trải qua thời kì chiến tranh dài và chịu hậu quả
nặng nề của chiến tranh, nền kinh tế còn lạc hậu so với các nớc trên thế giới.
Trớc xu thế hiện đại cùng với sự ủng hộ, giúp đỡ và hợp tác của các nớc, các tổ
chức phi chính phủ về vốn,công nghệ, quản lý tạo điều kiện sớm đổi mới cơ
sở kĩ thuật, cơ cấu kinh tế, phân công lao động sản xuất. Cùng nguồn lao động
dồi dào, truyền thống lao động cần cù, thông minh của dân tộc ta, tài nguyên
thiên nhiên phong phú, địa vị thuận lợi là những yếu tố quan trọng để mở
rộng sự hợp tác, tạo điều kiện cho nớc ngoài đầu t và là thế mạnh cho tăng tr-
ởng kinh tế nhanh. Trớc xu thế phát triển của xã hội, công cuộc đổi mới của
đất nớc có sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam(bao gồm chiến lợc, sách
lợc, tổ chức thực tiễn, chính sách ) định hớng đúng, giữ vững ổn định chính
trị, tạo môi trờng và điều kiện hợp tác đầu t và phát triển kinh tế giữ vị trí
quyết định. Kết quả bớc đầu của sự nghiệp đổi mới từ Đại hội Đảng lần thứ VI
đến nay đã củng cố và khẳng định con đờng lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội là
đúng đắn. Trong thời kì đổi mới chúng ta thực hiện cơ chế quản lí kinh tế theo
cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nhng cơ chế này bộc lộ rõ những khuyết điểm
của mình,bộ máy quả lí rất cồng kềnh,có nhiều cấp trung gian và kém năng
động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lí, không thạo
nghiệp vụ kinh doanh, nhng phong cách thì quan liêu cửa quyền. Nhận thức
vấn đề đó, phơng hớng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lí kinh tế ở nớc ta
đã đợc Đại hội của Đảng xác định và tiếp tục đợc Đại hội VII của Đảng khẳng
định Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ
và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trờng có sự quản lí cuả Nhà nớc. Với chủ
trơng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì kinh tế thị trờng là
yếu tố khách qua không thể thiếu đợc. Cơ chế thị trờng tự động kích thích sự
phát triển sản xuất,tăng trởng kinh tế cả theo chiều rộng lẫn chiều sâu, tăng c-
ờng chuyên môn hoá sản xuất. Trong đó sản xuất và trao đổi là hai đặc tính cơ


bản. Trong nền kinh tế hàng hoá có những quy luật kinh tế vốn có của nó hoạt
động nh quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh quy luật lu
thông tiền tệ Quy luật giá trị còn tồn tại khi nào còn kinh tế hàng hoá vì quy
luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị.
1
Do đó vai trò của nó trong nền kinh tế thị trờng là rất quan trọng và không thể
thiếu đợc.
Trong đề tài nghiên cứu này, với lợng kiến thức có hạn nên không thể
tránh khỏi những sai sót trong bài làm, em mong đợc sự hớng dẫn của thầy để
rút ra những mặt đợc và hạn chế để rút kinh nghiệm, nâng cao kiến thức cho
bản thân mình. Em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Việt Tiến đã giúp em
hoàn thành đề tài này.
2
Phần II: Nội dung
Chơng 1: Một số lý luận chung về quy luật
giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế
thị trờng.
1.1. Lý luận về quy luật giá trị:
1.1.1. Khái niệm về quy luật giá trị:
Quy luật giá trị là quy luật của nền sản xuất hàng hoá, biểu hiện nhu cầu
khách quan của việc định hớng nền sản xuất và trao đổi theo các quan hệ tỷ lệ
phản ánh hao phí lao động xã hội cần thiết. Giá trị là hình thức biểu hiện các
hao phí đó trên cơ sở quy tất cả các loại lao động cụ thể thành lao động trừu t-
ợng và quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn; là phơng thức điều tiết
các mối quan hệ giữa những ngời sản xuất hàng hóa trong quá trình hoạt động.
1.1.2. Yêu cầu của quy luật giá trị:
Yêu cầu của quy luật giá trị là sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá
phải dựa trên cơ sở lợng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần
thiết. Hai loại hàng hoá khác nhau mà thời gian lao động xã hội cần thiết để

sản xuất ra chúng bằng nhau thì có giá trị bằng nhau. Thời gian lao động xã
hội cần thiết thay đổi theo sự thay đổi của năng suất lao động xã hội. Giá trị là
lao động xã hội của ngời sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá nên lợng
giá trị hàng hoá do thời gian lao động quyết định. Năng suất lao động xã hội
càng cao, thời gian cần thiết để sản xuất hàng hoá càng ít, khối lợng lao động
kết tinh trong một đơn vị sản phẩm càng nhỏ, thì giá trị của sản phẩm càng bé.
Và ngợc lại, năng suất lao động càng thấp, thời gian cần thiết để sản xuất hàng
hoá càng lớn thì lao động hao phí càng nhiều và giá trị hàng hoá càng lớn. Nh
vậy, lợng giá trị tỉ lệ thuận với số lợng lao động và tỉ lệ nghịch với năng suất
lao động.
Trong kinh tế hàng hoá, vấn đề quan trọng là hàng hoá sản xuất ra có bán
đợc hay không. Để hàng hoá có thể bán đợc thì hao phí lao động cá biệt để sản
xuất ra hàng hoá phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết, tức
là phải phù hợp với mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận đợc. Trong trao
đổi hàng hoá cũng dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Hai hàng hoá có
giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau đợc khi lợng giá trị của
chúng bằng nhau. Theo nghĩa đó thì phải trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
Quy luật giá trị là trừu tợng. Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến
động của giá cả hàng hoá. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả
3
phụ thuộc vào giá trị, vì giá trị là cơ sở của giá cả. Hàng hoá nào mà hao phí
lao động để sản xuất ra nó nhiều thì giá trị của nó lớn, và do vậy giá cả thị tr-
ờng sẽ cao, và ngợc lại. Ngoài ra, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác
nh quan hệ cung - cầu, tình trạng độc quyền trên thị trờng. Tác động của các
nhân tố trên làm cho giá cả hàng hoá trên thị trờng lên xuống xoay quanh giá
trị của nó. C.Mác gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị. Trong vẻ đẹp này,giá trị
hàng hoá là trục, giá cả hàng hoá trên thị trờng lên xuống xoay quanh trục đó.
Đối với mỗi đơn vị hàng hoá riêng biệt, giá cả của nó có thể cao hơn, thấp hơn
hoặc phù hợp với giá trị của nó. Nhng cuối cùng,tổng giá cả phù hợp với tổng
giá trị của chúng. Bản thân quy luật gía trị biểu hiện sự ngang bằng giữa các

tiêu chuẩn đợc dùng làm cơ sở để xây dựng quan hệ giữa những ngời sản xuất
hàng hoá. Nó nói lên tính chất ngang giá của việc trao đổi hoạt động giữa họ
với nhau. Từ đó hoàn toàn không thể suy ra sự tồn tại tất yếu của các quan hệ
ngời bóc lột ngời. Chỉ trong những điều kiện nhất định và chính là do sự tách
rời ngời lao động khỏi t liệu sản xuất, trên cơ sở chế độ sở hữu t bản chủ
nghĩa, mà tác động của quy luật này mới trở thành nhân tố quan trọng của quá
trình bóc lột. Trong những điều kiện của chế độ mới, quy luật ấy nhất thiết có
sự biến dạng đặc biệt, cho phép trở thành một nhân tố cấu thành của cơ chế
vận động của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà hoàn toàn không có gì mâu
thuẫn với những đặc điểm cơ bản nhất.
1.2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị:
Quy luật giá trị hoạt động trong các hình thái xã hội khác nhau, và trong
hệ thống các quan hệ kinh tế của mỗi hình thái, nó đóng vai trò phụ thuộc, vai
trò phục vụ. Quy luật đó không thuộc cơ bản của một hình thái xã hội nào,
các biểu hiện cụ thể của nó phụ thuộc vào quy luật kinh tế cơ bản của phơng
thức sản xuất nhất định. Quan niệm về quy luật gía trị với t cách là nguồn gốc
chỉ gây nên tình trạng vô chính phủ và sự tự phát trong nền kinh tế, là nguyên
nhân gây nên tình trạng cạnh tranh, gây sự lãng phí giữa những ngời sản xuất
hàng hoá phân tán, là nhân tố phá hoại lợi ích của nền kinh tế quốc dân với t
cách là một chỉnh thể Trong quá trình tự do cạnh tranh, các nhà t bản có lực
lợng kinh tế kỹ thuật cao sẽ giành phần thắng, còn các nhà t bản vừa và nhỏ thì
bị thua lỗ, phá sản, tài sản bị cuốn hút vào xí nghiệp lớn, làm cho quy mô sản
xuất và quy mô t bản của các nhà t bản lớn mở rộng nhanh chóng. Trong cuộc
cạnh tranh léo dài bất phân thắng bại, buộc hai bên phải bắt tay nhau, liên hiệp
vốn với nhau để sản xuất kinh doanh chung, hình thành các công ty sản xuất
khổng lồ có vốn và quy mô lớn. Khi tập trung sản xuất phát triển đến một trình
độ nhất định thì nó tự dẫn đến độc quyền. Đó là vì một số xí nghiệp dễ dàng
thoả thuận với nhau hơn là hàng trăm, hàng ngàn xí nghiệp nhỏ. Mặt khác,
4
quy mô to lớn của các xí nghiệp cũng gây khó khăn cho cạnh tranh và làm cho

cạnh tranh có sức phá hoại lớn, do đó đẻ ra phơng hớng thoả thuận với nhau để
hình thành các tổ chức độc quyền.
Trong giai đoạn thấp của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa, cơ chế
kinh tế của giai đoạn này là tự do cạnh tranh. Trên thị trờng, cung cầu và giá
cả hàng hoá vận động theo cơ chế tự điều tiết thông qua sự hình thành lợi
nhuận bình quân và giá trị chuyển hoá thành giá cả sản xuất. Đến giai đoạn
cao của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa, sự ra đời của các tổ chức độc
quyền gắn liền với các yếu tố mới, làm xuất hiện cơ chế kinh tế của giai đoạn
mới đó là cơ chế độc quyền và cạnh tranh. Nếu ở giai đoạn thấp của chủ nghĩa
t bản, nguyên tắc phân phối lợi nhuận dựa trên sở hữu t bản, thì đến giai đoạn
của chủ nghĩa t bản độc quyền, việc phân phối lợi nhuận không chỉ dựa trên sở
hữu t bản nói chung, mà trớc hết là dựa trên cơ sở quyền lực chi phối t bản của
ngời khác, dựa trên sở hữu t bản tài chính. Do t bản độc quyền, nhất là t bản tài
chính, giữ vị trí thống trị trong sản xuất và lu thông, nên nó có thể không chỉ
sử dụng các phơng pháp sản xuất giá trị thặng d, cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận
bình quân, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất vốn là những phạm trù kinh
tế quen thuộc trong giai đoạn chủ nghĩa t bản tự do cạnh tranh, mà nó sử dụng
phơng pháp cỡng bức siêu kinh tế để thu lợi nhuận cao - lợi nhuận độc quyền.
Lợi nhuận độc quyền là một hình thức biểu hiện của giá trị thặng d, hình thành
trong giai đoạn chủ nghĩa t bản độc quyền. Song song với việc hình thành lợi
nhuận độc quyền, các tổ chức độc quyền không bán hàng theo giá cả sản xuất,
mà bán theo giá cả độc quyền( mặc dù lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất
không mất đi vì cạnh tranh tự do vẫn tồn tại). Giá cả độc quyền là hình thức
biểu hiện của giá trị hàng hoá trong giai đoạn độc quyền. Nó bao gồm chi phí
sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Thông thờng các tổ chức độc quyền
bán hàng hoá với giá cao hơn giá trị hàng hóa, còn khi mua hàng hoá của các
xí nghiệp không độc quyền, của ngời sản xuất nhỏ trong nớc và nớc ngoài, thì
giá cả thờng thấp hơn giá trị. Việc các tổ chức độc quyền mua bán theo giá cả
độc quyền để thu lợi nhuận độc quyền xét về thực chất chỉ là sự biểu hiện mới,
cao hơn,nó không làm giảm hiệu lực của lý luận giá trị và lý luận giá trị thặng

d, nếu chúng ta đặt nó trong cạnh tranh, phối lại giá trị và đặt nó trong các mối
quan hệ trong và ngoài nớc mà các tổ chức độc quyền có liên quan đến sản
xuất và kinh doanh.
Trong giai đoạn cạnh tranh: cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc
ta thì cạnh tranh cũng xuất hiện. Tuy mới xuất hiện nhng nó cũng nh cơ chế
thị trờng đã bộc lộ rõ mặt tích cực và tiêu cực của mình. Cạnh tranh xuất hiện
có xu hớng thúc đẩy tăng trởng kinh tế, điều chỉnh các nguồn lực phát triển
5
của đất nớc. Mặt khác nó cũng thể hiện điểm yếu của mình là những thủ đoạn
không lành mạnh. Dự báo đúng điều đó, Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng
nhấn mạnh " Cơ chế thị trờng đòi hỏi phải hình thành một môi trờng cạnh
tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích đất nớc, chứ không
phải làm pha sản hàng loạt, lãng phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau ".
Trong các chiến lợc kinh doanh của mình, mục tiêu của việc cạnh tranh là làm
sao thu lại đợc lợi nhuận lớn nhất. Để đạt đợc mục tiêu các doanh nghiệp sẵn
sàng sử dụng mọi công cụ, thủ đoạn. Dới đây là những công cụ mà các doanh
nghiệp thờng hay sử dụng:
Thứ nhất, điều đợc các doanh nghiệp chú ý đó là chất lợng hàng hoá vì
đây chính là yếu tố tác động mạnh mẽ đến tâm lý ngời tiêu dùng. Trên thơng
trờng nếu có hai loại hàng hoá có công dụng nh nhau, giá cả bằng nhau thì ng-
ời tiêu dùng sẵn sàng mua hàng hoá nào có chất lợng cao hơn. Tiêu chí này
ảnh hởng rất lớn đến quyết định mua hàng của ngời tiêu dùng. Do đó, đây là
công cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng để chiến thắng
đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai, là giá cả hàng hoá. Hai hàng hoá có cùng thuộc tính, công dụng
nh nhau thì ngời tiêu dùng sẽ mua hàng hoá có giá rẻ hơn. Giá cả hàng hoá đ-
ợc quyết định bởi giá trị hàng hoá. Song sự vận động của giá cả còn phụ thuộc
vào khả năng thanh toán của ngời tiêu dùng. Mức sống còn thấp, ngời tiêu
dùng sẽ tìm mua những hàng hoá có giá rẻ, ngợc lại, mức sống cao ngời tiêu

dùng sẽ tìm mua những hàng hóa có chất lợng tốt, chấp nhận mức giá cao.
Đây chính là điều mà các doanh nghiệp cần nắm bắt rõ về khách hàng thị tr-
ờng mình định đầu t.
Thứ ba, áp dụng khoa học - kỹ thuật và quả lý hiện đại. Sức cạnh tranh
của doanh nghiệp sẽ tăng lên đáng kể khi giá cả hàng hoá cá biệt của doanh
nghiệp thấp hơn giá cả trung bình trên thị trờng. Để có lợi nhuận đòi hỏi các
doanh nghiệp phải tập trung các nguồn lực để tăng năng suất lao động, giảm
chi phí đầu vào, nâng cao chất lợng hàng hoá nhằm làm cho giá trị hàng hoá
cá biệt của mình thấp hơn giá trị xã hội. Muốn vậy các doanh nghiệp phải th-
ờng xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp lý hoá sản xuất, nhanh chóng ứng
dụng những thành tựu khoa học - kĩ thuật và quản lý hiện đại vào trong sản
xuất.
Thứ t, là thông tin, một công cụ cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp.
Thông tin đầy đủ về thị trờng, thông tin về tâm lý thị hiếu khách hàng, về giá
cả, đối thủ canh tranh có ý nghĩa quyết định kinh doanh của doanh nghiệp.
Đủ và xử lý đúng thông tin có ý nghĩa giúp các doanh nghiệp han chế rủi ro
trong kinh doanh và có thể tìm ra, tao ra " lợi thế so sánh " của doanh nghiệp
trên thơng trờng. Thông tin đầy đủ, đúng hoặc bng bít có thể thúc đẩy thị trờng
6
một cách tích cực hoặc tạo ra những nhu cầu giả tạo, hành vi cạnh tranh sai
trái làm biến dạng thị trờng. Vì thế, không ngạc nhiên khi tình trạng quảng cáo
hiện nay của các doanh nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều trên các phơng tiện
thông tin đại chúng, chi phí cho hoạt động quảng cáo, giới thiệu,trng bày sản
phẩm chiếm tỷ trọng nhất định trong chi phí chung của các doanh nghiệp.
Thứ năm, phơng thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Đây là công cụ cạnh tranh khá quan trọng. Ai nắm đợc
công cụ này sẽ thắng trong cạnh tranh. Bởi vì, công cụ này tạo sự thuận tiện
cho khách hàng. Phơng thức phục vụ và thanh toán đợc thể hiện ở ba giai
đoạn: trớc khi bán hàng, trong quá trình bán hàng và sau khi bán hàng. Trớc
khi bán hàng, các doanh nghiệp thực hiện các động tác nh : quảng cáo, giới

thiệu, hớng dẫn thị hiêú khách hàng, các hoạt động triễn lãm, trng bày hàng
hoá. Những động tác này nhằm hấp dẫn, lôi cuốn khách hàng đến với sản
phẩm của doanh nghiệp mình. Trong quá trình bán hàng, khâu quan trọng nhất
là nghệ thuật, chào mời khách hàng. Điều này đòi hỏi ngời bán hàng phải thật
sự tôn trọng khách hàng, lịch sự, ân cần và chu đáo. Sau khi bán hàng, phải có
những dịch vụ nh bao bì và giao hàng đến tận tay ngời mua, các dịch vụ bảo
hành, sửa chữa hàng hoá Những dịch vụ này tạo sự tin tởng, uy tín của doanh
nghiệp đối với ngời tiêu dùng. Sau nữa, phơng thức phục vụ trên sẽ phát huy
tác dụng khi đợc bảo đảm các yêu cầu sau: các dịch vụ phải nhanh, chính
xác Phơng thức thanh toán phải linh hoạt, đa dạng bao gồm các loại nh:
thanh toán một lần, thanh toán chậm( bán hàng chịu), bán trả góp, bán có th-
ởng, thanh toán linh hoạt khi trả bằng ngoại tệ Hai doanh nghiệp cùng sản
xuất một loại sản phẩm có chất lợng nh nhau, giá cả bằng nhau thì yếu tố
quyết định giúp khách hàng lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp mình chính
là chế độ chăm sóc khách hàng sau khi mua hay là phơng thức thanh toán.
Thứ sáu, tính độc đáo của sản phẩm. Mọi sản phẩm trên thị trờng khi
xuất hiện đều mang những đặc tính riêng biệt, sản phẩm có tồn tại lâu trên thị
trờng hay không còn phụ thuộc vào những đặc tính này. Điều này đòi hỏi
doanh nghiệp phải thờng xuyên có biện pháp cải tiến sản phẩm của mình, tạo
ra nét độc đáo riêng, liên tiếp tung ra thị trờng thay thế những sản phẩm cũ. Sự
thay đổi thờng xuyên về mẫu mã, nhãn hiệu hàng hoá cũng nh việc không
ngừng nâng cao chất lợng, tính năng hàng hoá sẽ tạo điều kiện cho sự tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp hiện nay.
Thứ bảy, chữ tín là công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trong qua
trình kinh doanh các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp nhằm giành giật
khách hàng về phía mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng,
thanh toán Những hành vi này sẽ thực hiện đ ợc tốt hơn khi giữa doanh
nghiệp và khách hàng có lòng tin với nhau. Do vậy, chữ tín trở thành công cụ
7
sắc bén trong cạnh tranh, giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh chóng,

tiện lợi. Mặt khác, công cụ này còn tạo cơ hội cho nhiều ngời ít vốn có điều
kiện tham gia kinh doanh, do đó mở rộng thị phần hàng hoá tạo sức mạnh
cho doanh nghiệp. Những u điểm đó giải thích vì sao trong cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp nhà nớc với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì doanh
nghiệp ngoài quốc doanh thờng linh hoạt hơn, có nhiều bạn hàng hơn so với
doanh nghiệp nhà nớc. Tuy nhiên, sử dụng công cụ này đòi hỏi các chủ thể
cạnh tranh phải có bản lĩnh. Bởi vì, có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh nh tình
trạng " chụp giật ", " bể hụi ", đối tác làm ăn có ý đồ đen tối.
Thứ tám, sự mạo hiểm, rủi ro. Trong kinh doanh, lợi nhuận doanh nghiệp
thờng tỷ lệ thuận với sự mạo hiểm, rủi ro trong kinh doanh. Các chủ thể kinh
doanh có khuynh hớng đầu t kinh doanh( kể cả đầu t nghiên cứu khoa học) vào
những mặt hàng mới, những lĩnh vực mới mà rủi ro ở đó thờng cao. Đây cũng
là khuynh hớng khách quan vì nó hy vọng thu đợc lợi nhuận cao trong tơng
lai. Mặt khác, nó giảm đợc áp lực cạnh tranh từ các đối thủ khácSự mạo hiểm
chấp nhận rủi ro nhằm thu lợi nhuận lớn bằng cách đi đầu trong kinh doanh là
công cụ cạnh tranh cực kỳ hiệu quả, nhng cũng cực kỳ nguy hiểm trong quá
trình cạnh tranh. Việc sử dụng hiệu quả công cụ này đòi hỏi các doanh nghiệp
phải có tài năng và bản lĩnh.
Nh vậy, cạnh tranh là một quy luật trong nền kinh tế thị trờng mà ở đó
các chủ thể kinh tế tìm mọi biện pháp - cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục
tiêu kinh tế của mình.
1.3. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá:
1.3.1. Quy luật giá trị điều tiết nền sản xuất hàng hoá và lu thông hàng
hoá:
Trong sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối t liệu sản xuất và
sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả hàng
hoá. Nh ta đã biết, do ảnh hởng của quan hệ cung cầu, giá cả hàng hoá trên thị
trờng lên xuống xoay quanh giá trị của nó. Trong sản xuất hàng hoá, quy luật
cạnh tranh thể hiện ở chỗ: cung và cầu thờng xuyên muốn ăn khớp với nhau
nhng chính vì thế mà từ trớc tới nay cha hề ăn khớp với nhau. Cả hai cứ tách

biệt nhau và đối lập nhau. Cung luôn luôn bám sát cầu, nhng từ trớc tới nay
không thoả mãn cầu một cách chính xác, cung thì quá lớn hoặc quá nhỏ chứ
không bao giờ hợp với cầu, vì trong trạng thái tự giác đó của loài ngời không
ai biết đợc rằng rốt cuộc cung và cầu là bao nhiêu. Nếu cầu lớn hơn cung thì
giá cả tăng lên, điều đó dờng nh kích thích cung nhng khi cung vừa tăng lên
thì giá cả thị trờng lại hạ xuống, mà nếu cung vợt quá cầu thì giá cả sẽ hạ
8
xuống nhiều hơn nữa, khiến cho cầu lại tăng lên. Điều đó luôn luôn xảy ra, ch-
a bao giờ có trạng thái lành mạnh, mà luôn luôn lúc lên lúc xuống khiến
không thể có đợc sự tiến bộ nào, luôn luôn có sự dao động không ngừng. Quy
luật này luôn luôn có tác dụng điều tiết, nó có thể làm cho cái mất đi ở đây lại
đợc bù đắp chỗ khác. Dù sao, ta cũng thấy rõ đó là một quy luật thuần tuý tự
nhiên chứ không phải là một quy luật lý tính. Khi nào cung và cầu thôi không
tác động nữa tức là chỉ khi cung và cầu ăn khớp với nhau thì những quy luật
đó mới thể hiện dới trạng thái thuần tuý của chúng. Trên thực tế, cung và cầu
không bao giờ ăn khớp với nhau cả, nếu có chỉ là ngẫu nhiên thôi; do đó, đứng
về phơng diện khoa học mà nói thì trờng hợp đó bằng không. Nhng về chính
trị kinh tế học chúng ta lại giả định rằng cung và cầu ăn khớp với nhau. Lí do
là vì để nghiên cứu các hiện tợng dới cái hình thái hợp với quy luật của chúng,
phù hợp với khái niệm của chúng, tức là để nghiên cứu những hiện tợng đó
một cách độc lập với cái vẻ bề ngoài của chúng so những biến động cung và
cầu gây ra; mặt khác, là để phát hiện ra cái xu thế thật sự của sự vận động của
chúng và cố định xu thế đó bằng một cách nào đó. Cho nên cung và cầu nếu
không ăn khớp với nhau thì những sự chênh lệch của chúng cứ kế tiếp nhau
khiến cho nếu nhận xét kết quả của cuộc vận động trong một thời gian tơng
đối dài - cung và cầu bao giờ cũng ăn khớp với nhau, bởi vì một sự chênh lệch
đi theo chiều này sẽ gây nên hậu quả là có ngay một sự chênh lệch đi theo
chiều ngợc lại. Chính vì đó mà giá cả thị trờng chênh lệch với giá thị trờng.
Nh vậy, mối quan hệ giữa cung và cầu, một mặt chỉ giải thích nhừng sự chênh
lệch giữa giá cả thị trờng và giá thị trờng; và mặt khác giải thích cái xu hớng

muốn thủ tiêu những sự chênh lệch giữa cung và cầu. Trái lại, chính giá thị tr-
ờng điều tiết quan hệ cung - cầu, hay cấu thành cái trung tâm, chung quanh
trung tâm đó những sự thay đổi trong cung và cầu làm cho những giá cả thịt tr-
ờng phải lên xuống.
Trong lĩnh vực lu thông quy luật giá trị có tác dụng điều tiết nguồn hàng
từ nơi giá thấp đến nơi giá cao.
1.3.2. Quy luật giá trị kích thích sự phát triển sức sản xuất:
Trong nền kinh tế hàng hoá ngời nào có hao phí lao động cá biệt ít hơn
hoặc nằng hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá thì ngời đó
có lợi, còn ngời nào có hao phí lao động lớn hơn hao phí lao động xã hội cần
thiết thì sẽ bị thiệt, vì không thu về đợc toàn bộ lao động đã hao phí. Giá trị
của hàng hoá là theo tỷ lệ nghịch với năng suất của lao động sản xuất ra hàng
hoá đó. Sức lao động cũng vậy, vì giá trị sức lao động là do giá trị hàng hoá
quyết định. Ngợc lại, giá trị thặng s tơng đối lại tỷ lệ thuận với năng suất lao
động. Giá trị thặng d tơng đối tăng lên và hạ xuống cùng với năng suất lao
9
động. Một ngày lao động xã hội trung bình có giới hạn nhất định, thì bao giờ
cũng sản xuất ra một giá trị nh nhau, và giá trị này; nếu giá trị của tiền tệ
không thay đổi, thì vẫn đợc biểu hiện thành cùng một giá cả nh nhau, chẳng
hạn thành 6 si - linh dù tỷ lệ phần chia thành tiền công và giá trị thặng d của
số tiền đó là nh thế nào đi nữa. Nhng nếu giá cả những t liệu sinh hoạt tất yếu
rẻ đi do năng suất lao động tăng lên thì lúc đó thì giá ttrị hằng ngày của sức
lao động giảm xuống, ví dụ từ 5 si - linh hạ xuống 3 si - linh và giá trị thặng d
tăng lên 2 si - linh. Muốn tái sản xuất ra sức lao động, trớc đây cần 10 giờ một
ngày, nay chỉ cần có 6 giờ là đủ. Ngay trong hiện tợng giá trị là biểu hiện của
lao động xã hội nằm trong bản thân các sản phẩm t nhân, cũng đã chứa đựng
sẵn cái khả năng có sự chênh lệch giữa lao động ấy với lao động cá nhân nằm
trong bản thân sản phẩm. Cho nên, nếu một ngời sản xuất t nhân tiếp tục sản
xuất theo phơng pháp cũ, trong khi đó phơng thức sản xuất xã hội ngày càng
tiến bộ, thì ngời ấy càng nhận thấy sự chênh lệch đó là qúa rõ rệt. Hiện tợng

đó cũng sẽ diễn ra, khi mà toàn bộ các nhà t nhân làm một loại hàng hoá nhất
định nào đó đã sản xuất ra một khối lợng vợt qua nhu cầu xã hội. Ngay trong
hiện tợng là giá trị của một thứ hàng hoá chỉ có thể biểu hiện bằng một thứ
hàng hoá khác và chỉ có thể thực hiện đợc bằng cách thông qua sự trao đổi lấy
thứ hàng hoá khác này mà thôi, cũng đã chứa đựng sẵn cái khả năng là sự trao
đổi không phải tuyệt đối cứ nhất định là thực hiện đợc, hay ít ra thì sự trao đổi
ấy cũng không thực hiện đợc đúng với giá trị.
Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh, mỗi ngời sản xuất đều luôn
luôn tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt. Muốn vậy,
họ phải luôn luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Vì thế,
trong nền kinh tế hàng hoá, lực lợng sản xuất đợc kích thích và phát triển
nhanh hơn nhiều so với trong nền kinh tế tự cấp, tự túc. Tuy nhiên, không nên
lý tởng hoá u điểm này của quy luật giá trị và kinh tế hàng hóa. Quy luật giá
trị, một mặt, yêu cầu phải chú ý hạ thấp mức hao phí lao động ca biệt, tức là
yêu cầu có sự tiết kiệm lao động, nhng mặt khác, do chạy theo sản xuất những
hàng hoá có giá cả cao, cho nên tạo ra tình trạng có một loại hàng hoá nào đó
đợc xuất quá nhiều, dẫn đến hiện tợng d thừa, làm lãng phí lao động xã hội.
1.3.3. Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và sự phân hoá ngời sản xuất
thành kẻ giàu, ngời nghèo:
Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi ngời
sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những ngời làm
tốt, làm giỏi có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần
thiết, nhờ đó phát tài, làm giàu, mua sắm thêm t liệu sản xuất, mở rộng thêm
quy mô sản xuất, mở rộng doanh nghiệp của mình. Bên cạnh đó, ngời làm ăn
10
kém cỏi, không gặp may, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã
hội cần thiết nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản. Nh vậy quy luật giá trị
có ý nghĩa bình tuyển, đánh giá ngời sản xuất. Nó mang lại phần thởng cho
những ngời làm tốt, làm giỏi và hình phạt cho những ngời làm kém cỏi. Về ph-
ơng diện này thì quy luật giá trị bảo đảm sự bình đẳng đối với ngời sản xuất.

Tuy nhiên, không một tấm huân chơng nào lại không có mặt trái của nó.
Ngay trong qua trình thực hiện sự bình tuyển tự nhiên đối với ngời sản xuất,
quy luật giá trị đã phân hoá ngời sản xuất thành kẻ giàu, ngời nghèo. Mỗi một
ngời đều sản xuất riêng biệt, cho lợi ích riêng của mình, không phụ thuộc vào
các nhà sản xuất khác; họ sản xuất cho thị trờng, nhng dĩ nhiên không một ng-
ời nào trong bọn họ lại biết đợc dung lợng của thị trờng. Mối quan hệ nh vậy
giữa những ngời sản xuất riêng rẽ, sản xuất cho thị trờng chung thì gọi là cạnh
tranh. Dĩ nhiên, trong những điều kiện ấy sự thăng bằng giữa sản xuất và tiêu
dùng( giữa số cung và số cầu) chỉ có đợc sau nhiều lần biến động. Ngời sản
xuất khéo léo hơn, tháo vát hơn, và có sức lục hơn, sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ
những sự biến động đó; còn ngời yếu ớt và vụng về thì bị sự biến động đó đè
bẹp. Một vài ngời trở nên giàu có, còn quần chúng thì trở nên nghèo đói, đó là
kết quả không tránh khỏi của quy luật cạnh tranh. Kết cục là những ngời sản
xuất bị phá sản mất hết tính chất độc lập về kinh tế của họ đi và trở thành công
nhân làm thuê trong công xởng đã mở rộng của đối thủ tốt số của họ. Lịch sử
phát triển của sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần
sinh ra quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa kẻ giàu - ngời nghèo,
quan hệ giữa chủ - thợ, quan hệ giữa t sản vô sản là quan hệ đối kháng về
lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh giữa những ng-
ời nghèo chống lại kẻ giàu, ngời thợ chống lại chủ, vô sản chống lại t sản. Đó
là một trong những khuyết tật của nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trờng.
11
Chơng 2
Thực trạng về sự vận dụng quy luật giá trị
và vai trò của nó trong nền kinh tế ở nớc
ta thời gian qua.
2.1. Tác dụng của quy luật giá trị dới CNXH:
Một số quy luật kinh tế, kể cả quy luật giá trị đang phát huy tác dụng ở
nớc ta, ở đâu có hàng hoá và sản xuất hàng hoá thì quy luật giá trị nhất định
tồn tại. Trong nớc ta quy luật giá trị trớc hết phát huy tác dụng đối với lu thông

hàng hoá, sự trao đổi hàng hoá bằng mua và bán, và đặc biệt đối với sự trao
đổi những hành hoá tiêu dùng cá nhân. Trong lĩnh vực ấy, quy luật giá trị tất
nhiên vẫn có tác dụng điều tiết trong một chừng mực nào đó. Tuy nhiên phạm
vi của quy luật giá trị không chỉ hạn chế trong lu thông hàng hoá mà còn đối
với sản xuất nữa. Tuy không có tác dụng điều tiết trong nền sản xuất xã hội
chủ nghĩa nhng nó vẫn ảnh hởng đến sản xuất. Trong nền sản xuất nớc ta,
những sản phẩm tiêu dùng cần thiết để bù đắp cho sự tổn phí sức lao động
trong quá trình sản xuất, đều đợc sản xuất và tiêu thụ, với t cách là hàng hoá
do quy luật giá trị chi phối. Chính ở đấy, quy luật giá trị ảnh hởng đến sản
xuất. Do đó, trong các xí nghiệp của chúng ta khi hạch toán kinh tế, tiền lãi,
giá thành, giá cả, v.v đều có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta không
thể không tính đến quy luật giá trị. Trong những điều kiện hiện nay, điều đó
có ý nghĩa giáo dục những cán bộ lãnh đạo ngành công nghiệp nớc ta tiến
hành sản xuất một cách hợp lý và khép họ cào kỷ luật. Từ đó, tạo điều kiện
cho họ học hỏi đợc cách tính toán tiềm năng sản xuất để từ đó có phơng án,
quyết định sản xuất có hiệu quả và đạt lợi nhuận cao. Đó là điển hình thực tế
giúp cho các cán bộ lãnh đạo ngành công nghiệp nớc ta trở thàng ngời lãnh
đạo thực sự của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển hiện
nay.
Thực tế là quy luật giá trị dới xã hội chủ nghĩa không có tác dụng rộng
rãi nh dới chế độ t bản. Dới chế độ kinh tế nớc ta, quy luật giá trị bị thu hẹp
phạm vi hoạt động. Chắc chắn là tình trạng không còn chế độ t hữu về t liệu
sản xuất nữa, và việc xã hội hoá những t liệu sản xuất đó ở thành thị khiến cho
phạm vi tác dụng của quy luật giá trị và trình độ ảnh hởng của nó đến sản xuất
nhất định bị hạn chế. Chúng ta cũng thấy rằng trong chế độ kinh tế nớc ta hiện
nay, quy luật giá trị không thể điều tiết tỷ lệ phân phối lao động giữa các
ngành sản xuất khác nhau. Minh chứng rõ nhất là nớc ta tập trung phát triển
12
công nghiệp nặng hơn là phát triển công nghiệp nhẹ, mà lợi nhuận do công
nghiệp nặng mang lại lời ít hơn công nghiệp nhẹ, có khi còn không có lãi nữa.

Các xí nghiệp công nghiệp nặng nớc ta lại không đóng cửa khi hiện tại không
có lãi, công nhân của các ngành này không đạt hiệu quả nh mong muốn và
thay vào đó là mở các xí nghiệp công nghiệp nhẹ làm ăn có lãi hơn nhiều,
công nhân làm việc với hiệu quả đạt yêu cầu. Nếu chúng ta làm theo phơng
pháp chuyển sang hoạt động công nghiệp nhẹ để đạt đợc lợi nhuận thì chúng
ta không phải u tiên chế tạo t liệu sản xuất mà u tiên chế tạo vật phẩm tiêu
dùng. Nghĩa là cản bớc tiến không ngừng của nền kinh tế quốc dân vì nếu
không đồng thời bảo đảm việc u tiên chế tạo t liệu sản xuất thì không thể nào
thực hiện đợc bớc tiến không ngừng đợc của nền kinh tế quốc dân.
Quy luật giá trị có một tác dụng điều tiết đối với giá cả những t liệu sản
xuất do ngành nông nghiệp làm ra và bán cho nhà nớc theo giá mua. Trong
trờng hợp này các t liệu sản xuất là nguyên liệu. Nông nghiệp không sản
xuất ra những t liệu sản xuất mà sản xuất ra một trong những t liệu sản
xuất: nguyên liệu. Chúng ta không thể coi một bộ phận của t liệu sản xuất và
toàn bộ t liệu sản xuất( gồm cả công cụ sản xuất) là nh nhau, bởi vì bản thân
nguyên liệu thì không thể tạo ra công cụ sản xuất, mặc dù có một vài nguyên
liệu cần cho việc chế tạo ra công cụ sản xuất. Nhng nếu không có công cụ sản
xuất thì không thể chế tạo ra bất cứ nguyên liệu nào cả. Trong nền kinh tế
quốc dân nớc ta, giá cả của nguyên liệu nông nghiệp không thể lên xuống tự
do đợc bởi vì ở nớc ta nguyên liệu nông nghiệp có một giá cả ổn định, do một
kế hoạch ấn định chứ không phải do giá cả tự do . Khối lợng sản xuất
nguyên liệu nông nghiệp không phải đợc quy định một cách tự phát, cũng
không phải do những yếu tố ngẫu nhiên quy định mà do kế hoạch quy định.
Ngoài ra, công cụ cần thiết để chế tạo nguyên liệu nông nghiệp không tập
trung trong tay các cá nhân, hay tập đoàn mà trong tay Nhà nớc.
Do đó không thể phủ nhận rằng quy luật giá trị có tác động đến sự hình
thành của giá cả các nguyên liệu nông nghiệp, rằng nó là một trong những
nhân tố quyết định giá cả của nó. Ngoài ra, về chức năng của quy luật giá trị
dới chủ nghĩa xã hội trớc hết cần nêu rõ vai trò của nó trong việc thực hiện các
chức năng cơ bản của toàn bộ hệ thống các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã

hội. Có ba loại chức năng:
Chức năng tổ chức xã hội. Do đã khắc phục đớc sự tách rời ngời lao
động khỏi t liệu sản xuất nên đã bảo đảm đợc tính chất tập thể của việc tổ chức
nền sản xuất xã hội và đã hình thành một trong những nét rất quan trọng của
chủ nghĩa xã hội là sự phụ thuộc lẫn nhau và sự quy định lẫn nhau giữa việc
thoả mãn các lợi ích của toàn xã hội và lợi ích của từng thành viên nói riêng.
Trong điều kiện đó, quy luật giá trị đóng vai quan trọng trong việc làm phong
13
phú thêm nội sung kinh tế của các mối quan hệ giữa xã hội( mà nhà nớc là ng-
ời đại diện cho các lợi ích của nó) với tập thể lao động( các đơn vị kinh
doanh), giữa các tập thể lao động với nhau cũng nh tập thể với từng ngời lao
động. Quy luật giá trị đã tạo cho chủ nghĩa xã hội có các công cụ kinh tế quan
trọng để thực hiện, củng cố và phát triển sự xã hội hoá sản xuất trên thực tế. Sự
xã hội hoá trên thực tế( khác với việc xác lập chế độ công hữu về mặt pháp lý)
có nghĩa là sự tác động lẫn nhau một cách chặt chẽ và hợp lý, giữa các đơn vị
kinh tế với nhau và giữa các đơn vị kinh tế ấy với các trung tâm kinh tế của đất
nớc, hợp tác sản xuất toàn dân, tạo cơ sở cho những ngời tham gia sản xuất
hoạt động theo một phơng hớng thống nhất và bảo đảm kết hợp tối u các lợi
ích của xã hội, tập thể và của mỗi ngời lao động. Nói cách khác, nếu tuân theo
quy luật giá trị vận dụng các phơng pháp và tiêu chuẩn trên cơ sở quy luật đó
trong việc tính toán hao phí lao động xã hội cần thiết, chúng ta có thể định h-
ớng các kế hoạch kinh tế quốc dân, nhằm giải quyết nhiệm vụ nâng cao hiệu
quả của nền sản xuất xã hội nói chung và của từng cơ sở của nền sản xuất đó.
Chức năng kích thích xã hội. Chức năng này liên quan chặt chẽ đến
chức năng tổ chức xã hội. Quy luật giá trị phục vụ quá trình phân phối nhằm
tính đến khối lợng và chất lợng hoạt động kinh tế và kết quả cuối cùng của
những đơn vị tham gia vào nền sản xuất xã hội. Bằng việc xác định tiêu chuẩn
phân phối, dựa trên sự tính toán mức đóng góp lao động của các tập thể và các
thành viên của xã hội, đồng thời dựa trên tính chất cùng có lợi khi trao đổi
hoạt động giữa các đơn vị kinh doanh,quy luật giá trị đã " góp phần " vào việc

thực hiện sự nguyên tắc công bằng xã hội, kích thích những sự nỗ lực nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lợng công tác. Nói cách khác, nếu tuân theo
quy luật giá trị, vận dụng các phơng pháp và tiêu chuẩn dựa trên cơ sở quy luật
đó trong việc tính toán hao phí lao động xã hội cần thiết, chúng ta có thể định
hớng các kế hoạch kinh tế quốc dân,nhằm giải quyết nhiệm vụ nâng cao hiệu
quả kinh tế của nền sản xuất đó, làm cho tính kế hoạch toàn dân có một ý
nghĩa kinh tế. Tuy nhiên,không nên giải thích điều đó tách rời các mục tiêu xã
hội. Mặc dù, hiện tại vẫn tồn tại những mâu thuẫn giữa tính hiệu quả kinh tế
và tính hiệu quả xã hội, nhng điều quan trọng cần thấy dới chủ nghĩa xã hội
những tính hiệu quả đó có sự thống nhất về nguyên tắc. Sự thống nhất ấy xuất
phát từ thực tế là trong điều kiện chế độ công hữu, hiệu quả kinh tế tăng lên sẽ
làm tăng hiệu quả xã hội của sản xuất, mà hiệu quả này phụ thuộc vào các tiêu
chuẩn xã hội, và thực hiện các mục tiêu xã hội u tiên.
Chức năng bảo đảm xã hội. Quy luật giá trị thực hiện chức năng này
không đợc rõ ràng nhng dù sao nó cũng quan trọng. Việc tuân thủ các yêu cầu
của quy luật này( trong sự tác động qua lại chặt chẽ với quy luật phát triển có
kế hoạch, cân đối) sẽ định hớng nền sản xuất xã hội chủ nghĩa vào tiêu chuẩn
14
hiệu quả kinh tế. Vì vậy việc đó chính là một điều kiện quan trọng để phát
triển lực lợng sản xuất, củng cố các cơ sở của các nguồn nhằm mở rộng sự
hoạt động của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Đây chính là sự
đóng góp chủ yếu của quy luật giá trị trong việc thực hiện chức năng bản
đảm xã hội của các quan hệ xã hội chủ nghĩa. Do đòi hỏi của quy luật giá trị
nên sự ngang giá trong trao đổi các hoạt động phù hợp với hao phí lao động xã
hội cần thiết là cái bảo đảm xã hội cho những xí nghiệp làm ăn tốt, chống lại
việc phân phối lại một cách không căn cứ nguồn vốn do họ làm ra. Sự cắt
xén hoạt động của quy luật giá trị có một ý nghĩa quan trọng trong điều kiện
hình thành một cơ chế kinh tế mới và phục vụ việc tuân thủ sự công bằng
xã hội chủ nghĩa. Quy luật giá trị tạo cho xã hội những đòn bẩy kinh tế mạnh
mẽ để đạt tới những mục tiêu kế hoạch. Mặt khác, quy luật giá trị không phải

là công cụ điều tiết chủ yếu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vai trò điều
tiết đó là của quy luật kinh tế cơ bản. Hơn nữa chức năng điều tiết của quy luật
kinh tế cơ bản đợc thực hiện trớc hết thông qua cơ chế của quy luật phát triển
có kế hoạch, cân đối. Tác động điều tiết có tính chất quyết định đối với nền
kinh tế có ý nghĩa là đề ra các mục tiêu chủ yếu cho sự phát triển kinh tế, trớc
hết là xác định phơng hớng xã hội của nền kinh tế đó. Yêu cầu của quy luật
giá trị tham gia vào qua trình điều tiết nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cụ thể
là: các phạm trù giá trị sẽ giúp cho việc kiểm nghiệm căn cứ kinh tế của các
quyết định kinh tế quốc dân. Việc sử dụng các phạm trù đó không phải là hoạt
động tự phát mà là hoạt động tự giác, có tổ chức và phải là một bộ phận hữu cơ
của quá trình chung của công việc quản lý tập trung nền kinh tế quốc dân, bao
gồm cả việc xây dựng các quy tắc, điều kiện,các đòn bẩy kích thích và phạm
vi quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp. Trong nền kinh tế hiện nay để đạt
tốc độ tăng trong sản xuất việc nâng cao chất lợng công tác và tinh thần trách
nhiệm của các cơ quan cấp trên là yếu tố cơ bản. Để đạt đợc điều đó thì yếu tố
môi trờng kinh tế quốc dân rất quan trọng, nếu môi trờng tốt thì sẽ đạt hiệu
quả cao và ngợc lại. Ngoài ra, một mặt môi trờng đó phải khắc phục những
hạn chế giả tạo đối với sáng kiến của các khâu quản lý; mặt khác, nó phải bảo
đảm các điều kiện cần thiết để hớng các sáng kiến ấy vào việc u tiên thoả mãn
các lợi ích xã hội.
2.2. Thực trạng kinh tế Việt Nam:
Năm 2001 trong tình hình có nhiều khó khăn hơn dự kiến, nền kinh tế
Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trởng cao 6.8%,( chỉ
kém mức độ tăng trởng của Trung Quốc), cao hơn mức của năm 2000. Cơ cấu
kinh tế theo GDP đang chuyển dịch theo chiều hớng tích cực, giảm tỷ trọng
nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp trong GDP( tỷ trọng công nghiệp đạt
15
38%, dịch vụ 39% và nông, lâm, thuỷ sản chiếm 23%; so với các con số tơng
ứng của năm 2000 là: 36.6%, 39.1% và 24.3%). Xét về sự đóng góp của các
ngành trong việc thực hiện tốc độ tăng trởng 6.8% GDP thì khu vực công

nghiệp đóng góp quan trọng chiếm 3.7%, khu vực dịch vụ đống góp 0.6%. Sự
đóng góp nổi bật của ngành công nghiệp vào tốc độ tăng trởng và cơ cấu GDP
của nền kinh tế nớc ta, đánh dấu bớc tiến mới về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong năm 2001.
Đối chiếu với các chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm
vụ năm 2001, thì còn 4 nhiệm vụ cha đạt kế hoạch, trong đó có 2 chỉ tiêu quan
trọng về kinh tế là mức tăng trởng GDP đạt 6.8%, tuy có cao hơn năm 2000,
song thấp hơn kế hoạch đề ra là 7.5%, kim ngạch xuất khẩu tuy có tăng về l-
ợng, song do bị thua thiệt về giá khoảng 1.5 tỷ USD nên chỉ tăng 4.5%( chỉ
thiêu đề ra là 16%). Mặc dù cha thực hiện đợc các chỉ tiêu đề ra, song trong
bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới đang có chiều hớng xấu đi, suy giảm
mạnh, có nớc tăng trởng âm, thì đạt đợc kết quả nh trên là điều đáng khích lệ.
Giá trị sản xuất của công nghiệp cả năm tăng 14.5% so với năm 2000, khu vực
kinh tế nhà nớc đạt tốc độ tăng trởng 125 là một cố gắng lớn, khu vực ngoài
quốc doanh tăng 19.5% so với 18.3% của năm 2000. Sau năm thực hiện Luật
Doanh nghiệp, kinh tế ngoài quốc doanh đã có bớc phát triển khá sâu sắc, các
sản phẩm công nghiệp, tiểu thiểu công nghiệp của khu vực này tăng nhanh chủ
yếu là thuỷ sản chế biến, chè, rau quả xuất khẩu, đồ gỗ thủ công mỹ nghệ, dệt
may, cơ khí Công nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tiếp tục phát triển và tăng
trởng ổn định với tốc độ tăng 13.8%. Năm 2001, tình hình kinh tế xã hội tiếp
tục ổn định, nớc ta đợc công nhận là nớc có môi trờng đầu t ổn định nhất khu
vực sau sự kiện 11/9, đó là những thuận lợi cơ bản mà ta phải tận dụng, phát
huy. Những thành tựu của năm 2001 đã tạo ra thế và lực mới để nớc ta bớc vào
năm 2002 và thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005.
Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật của nền kinh tế nớc ta nói chung là chất l-
ợng tăng trởng, hiệu quả, sức mạnh cạnh tranh của các sản phẩm, doanh
nghiệp và của nền kinh tế còn thấp. Tình trạng phổ biến là sản xuất còn mang
tính tự phát, cha bám sát nhu cầu thị trờng, nhiều sản phẩm làm ra có chất l-
ợng thấp, giá thành cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm
khó khăn, thậm chí nhiều sản phẩm cung vợt quá cầu, hàng tồn kho lớn. Năng

lực cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ của nớc ta nhìn chung còn thấp do thiết bị
công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém về quản lý, hạn chế về môi tr-
ờng đầu t kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nớc cha
cao, tỷ lệ số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều, thực trạng tài
chính của nhiều danh nghiệp thực sự đáng lo ngại: nhìn chung thiếu vốn, nợ
nần kéo dài, tổng số nợ phải thu của doanh nghiệp chiếm 24% tổng doanh thu,
16
nợ phải trả chiếm 133% tổng số vốn nhà nớc tại doanh nghiệp. Nhiều doanh
nghiệp không xác định tự lực phấn đấu vơn lên mà còn trông chờ vào sự hỗ
trợ, bảo trợ của Nhà nớc, cũng cha tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Khu vực kinh tế t nhân nhìn chung còn
nhỏ bé, phân tán, trình độ công nghệ, quản lý và tay nghề của ngời lao động
còn nhiều hạn chế. Bên cạnh khó khăn chung của các doanh nghiệp về thị tr-
ờng tiêu thụ, sức cạnh tranh, kinh tế t nhân nói chung có nhiều khó khăn, vớng
mắc hơn về vốn hoạt động, về mặt bằng sản xuất, kinh doanh, về cung cấp
thông tin, xúc tiến thơng mại, môi trờng pháp lý, môi trờng tâm lý xã hội, còn
khó khăn trong việc thụ hởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nớc.
Thực trạng cho thấy nền kinh tế nớc ta tuy đạt đợc nhiều thành tựu nhng
cung còn không ít khó khăn, đó là còn tồn tại nhiều yếu kém và sức cạnh tranh
kém.
2.3. Những thành tựu về kinh tế và hạn chế:
2.3.1. Thành tựu về kinh tế:
Qua 10 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nhận định
thành tựu có ý nghĩa to lớn là Nớc ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã
hội nhng một số mặt còn cha đợc củng cố vững chắc . Ra khỏi khủng hoảng
kinh tế xã hội, một nhận định, thành tựu có ý nghĩa rất quan trọng làm nức
lòng ngời. Nó mở ra một thời kì mới thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc, một thời kì mà sự xác định con đờng đi lên CNXH ở nớc
ta ngày một rõ hơn, lòng tin càng ngày càng đợc nâng cao. Dới đây là những
thành tựu về kinh tế xã hội.

Về kinh tế: từ một nền kinh tế tăng trởng thấp trớc năm 1986, nền kinh tế
nớc ta đã từng bớc khôi phục và phát triển ổn định với tốc độ tăng trởng cao.
Tốc độ tăng trởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 1986 - 1990 là 3.9% thời;
năm 1996: 9.34%, 1997:8.8%, 1998:5.8%. Nh vậy bớc vào thập kỷ 90 tốc độ
tăng trởng của nền kinh tế nớc ta vào loại cao nhất trong khu vực.
Về cơ cấu kinh tế bớc chuyển đổi theo hớng tiến bộ. Tỷ trọng ngành
công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22.7% năm 1990 đã tăng lên 30.3%
năm 1995; tỷ trọng ngành du lịch, dịch vụ từ 38.6% năm 1990 tăng lên 42.5%
năm 1995; ngành nông nghiệp từ 38.7% năm 1990 đã giảm xuống còn 27.2%
năm 1995.
Sản xuất nông nghiệp phát triển tơng đối toàn diện. Theo số liệu của
Tổng cục thống kê, tính đến cuối năm 1994 cơ cấu giá trị tổng sản lợng nông
nghiệp là: lơng thực chiếm tỷ trọng 49.4%; trồng trọt là 24.8% và chăn nuôi
là 25.8%. Vấn đề lơng thực về cơ bản đợc giải quyết tốt. Sản lợng lơng thực
17
qua các năm đều tăng: năm 1990 là 21488 ngàn tấn, năm 1991 là 21898 ngàn
tấn, năm 1994 là 26200 ngàn tấn, và năm 1995 là 27500 ngàn tấn. Thắng lợi
trên mặt trận nông nghiệp, nhất là lơng thực có ý nghĩa rất quan trọng. Sau
nhiều năm nớc ta thiếu và đói đến nay đã giải quyết một cách cơ bản về lơng
thực, một cửa ải mà thời kỳ bao cấp không thể vợt qua đợc( kể cả không ít nớc
trên thế giới). Nớc ta đến nay lơng thực không những đủ ăn, dự trữ mà còn
xuất khẩu sang nhiều nớc khác trên thế giới và trở thành một trong ba nớc xuất
khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Trong sản xuất công nghiệp nhịp độ tăng trởng bình quân trong 5
năm( 1991 1995) là 13.3%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra( 8 - 10%).
Trong đó năm 1991 là 10.4%, năm 1992 là 15.1%, năm 1993 là 12.7%, năm
1994 là 13.5% và năm 1995 là 14.0%. Năng lực sản xuất trong một số ngành
và một số sản phẩm quan trọng, mà sau thời kỳ đình đốn và suy thoái đã đợc
phục hồi và gia tăng qua các năm nhờ đầu t xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật
về chiều rộng và chiều sâu.

Các ngành xây dựng, vận tải, thơng nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác,
đều có bớc phát triển khá. Mức bán lẻ hàng hoá xã hội qua các năm đều tăng:
năm 1990 là 19031.2 tỷ đồng; năm 1994 là 67273.3 tỷ đồng và năm 1995 là
85245.0 tỷ đồng.
Khác với các thời kỳ trớc, hoạt động khoa học công nghệ trong những
năm gần đây ngày càng gắn bó với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và
thích nghi dần với nền kinh tế thị trờng. Chính sự thay đổi phơng thức hoạt
động này của khoa học công nghệ đã tạo ra cách làm mới có lợi cho sự
hình thành và phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hớng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ mới ở nớc ta.
Quan hệ kinh tế đối ngoại đợc mở rộng theo hớng đa dạng hoá, đa phơng
hoá. Đã khắc phục sự hẫng hụt do thị trờng truyền thống giảm sút đột ngột,
mở rộng giao lu với nhiều đối tác và bạn hàng mới. Tính đến cuối năm 1995,
tổng số vốn của các dự án nớc ngoài khoảng 18 tỷ USD. Trong đó đến nay 1/3
số đó đã đợc thực hiện. Động thái phát triển nhanh và qui mô thu hút vốn đầu
t nớc ngoài, chủ yếu từ năm 1992 và thờng tập trung nhiều ở các thành phố lớn
nh Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng Các số liệu trên cho thấy
lĩnh vực kinh tế và đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần gìn giữ hoà
bình, phá bỏ thế bị cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế cua nớc ta trên trờng
quốc tế, tạo môi trờng thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Về tài chính và tiền tệ. Nớc ta sau nhiều năm làm không đủ ăn, mấy năm
gần đây đã bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu t cơ bản cho toàn
xã hội cho năm 1990 chiếm 15.8% trong GDP, năm 1995 đã lên tới 27.4%.
Trong đó, nguồn đầu t trong nớc chiếm khoảng 16.7% trong GDP.Tình hình
18
lạm phát ttrong những năm gần đây diễn ra theo hớng đợc kiềm chế. Từ nền
kinh tế siêu lạm phát ở mức ba con số năm 1988, đến năm 1989 lạm phát đã đ-
ợc kiềm chế, đồng tiền Việt Nam từng bớc đợc ổn định tạo điều kiện quan
trọng để ổn định kinh tế vĩ mô. Chỉ số lạm phát năm 1986 là 774.7%; 1987:
373%; 1988: 223.1%; ; 1995: 12.7%; 1996: 4.5% và 1997: 3.6%.

Về cơ cấu thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá: qua 10 năm đổi
mới quan hệ sản xuất đợc điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực l-
ợng sản xuất và nền kinh tế hàng hoá. Khu vực kinh tế nhà nớc( hiểu theo
nghĩa rộng). Từng bớc đang đợc củng cố và phát huy vai trò chủ đạo đối với
các thành phần kinh tế khác. Các hình thức hợp tác, liên doanh với nớc ngoài
hình thành trong tính đa dạng của chính sách nền kinh tế nhiều thành phần.
Về mặt xã hội: qua 10 năm đổi mới, lần đầu tiên nớc ta hoàn thành
vợt mức nhiều mục tiêu kinh tế chủ yếu của kế hoạch 5 năm( 1991 1995).
Từ những thành tựu kinh tế đã tạo ra một số chuyển biến tốt về xã hội, tạo nên
sự gắn bó giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội. Chính nó đã góp phần đa
nớc ta ra khỏi khủng hoảng. Dới đây là những thành tựu về mặt xã hội:
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân đã đợc cải thiện, cụ thể là:
Số hộ giàu và trung bình tăng, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Mức sống của đa số
nhân dân đợc nâng lên một bớc, thu nhập bình quân đầu ngời tăng.
Sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tạo thêm nhiều việc làm mới
giảm tỷ lệ thất nghiệp, mỗi năm nớc ta có thêm hơn 1 triệu lao động có việc
làm.
Khối lợng hàng hoá bán lẻ trên thị trờng tăng gấp đôi so với trớc.
Công tác phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, ngăn chặn bệnh dịch
có tiến bộ.
Thêm nhiều nhà ở và đờng giao thông đợc nâng cấp ở cả thành thị và
nông thôn.
Thể dục thể thao có bớc phát triển hơn so với trớc.
Trình độ dân trí và mức hởng thụ văn hoá của nhân dân đợc nâng
lên.nghiệp giáo dục, đào tạo, các hoạt động văn hoá nghệ thuật, thông tin đại
chúng và theo đó mạng lới điện về tới phần lớn nông thôn. Công tác kế hoạch
hoá gia đình đạt nhiều tiến bộ, đã có những cố gắng bớc đầu trong việc thực
hiện phòng chống tệ nạn xã hội theo nghị định 87/CP của Chính phủ.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nảy sinh những khái niệm
mới về việc làm và tự tìm kiếm việc làm, nhờ đó tính sáng tạo trong nhân dân

đợc khơi dậy và phát huy. Tính ỷ lại trông chờ vào nhà nớc, dựa dẫm tập thể
đã đợc khắc phục đáng kể. Thắng lợi này có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu
sự đoạn tuyệt cơ chế bao cấp từng bớc thích nghi với cơ chế thị trờng có sự
quản lý của nhà nớc.
19
Phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với ngời có công với nớc theo tinh thần
uống nớc nhớ nguồn, đợc hởng ứng sâu rộng và mang tính toàn dân. Phong
trào xoá đói giảm nghèo diễn ra khá sôi nổi với nhiều hình thức phong phú.
Chính phong trào này làm cho mọi gay cấn do sự phân hoá giàu nghèo có điều
kiện giải quyết có hiêụ quả hơn và làm cho tình hình xã hội trở nên lành mạnh
hơn.
2.3.2. Hạn chế:
Quá trình đổi mới ở nớc ta hơn 10 năm qua đã đạt đợc kết quả rất to lớn,
tuy nhiên cho đến nay tình hình kinh tế xã hội nớc ta đã bộc lộ nhiều tồn tại
yếu kém và khó khăn trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sự tăng trởng kinh tế đang bắt đầu có xu hớng chậm lại. Một số chính
sách kinh tế vĩ mô không còn phát huy hiệu quả nh thời kỳ đầu, đòi hỏi cần có
sự điều chỉnh thích ứng và đồng bộ hơn. Nhịp độ tăng trởng GDP năm 1998 đã
chững lại so với các năm trớc( 5.8%). Chỉ số lạm phát có xu hớng tăng. Một
bộ phận lớn các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nớc tỏ ta làm ăn
không có hiệu quả, khả năng cạnh tranh trên thị trờng trong nớc và quốc tế còn
rất thấp. Nhiều ngành sản xuất bắt đầu xuất hiện tình trạng tồn kho lớn( nh xi
măng, sắt thép, cơ khí, điện tử ). Trong khu vực nông nghiệp và nông thôn
cũng đang xuất hiện nhiều vấn đề bức xúc nh tình trạng manh mún trong sử
dụng ruộng đất, chính sách đất đai cũng bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý, hệ
thống tài chính tiền tệ bộc lộ những yếu tố không lành mạnh, chậm đổi mới
so với thực tiễn. Cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu vùng và cơ cấu ngành cũng thể
hiện sự mất cân đối lớn, cần phải tiếp tục đợc điều chỉnh. Những khó khăn trên
là do sự yếu kém của chính bản thân nền kinh tế, sự thiếu đồng bộ trong hệ
thống chính sách kinh tế cũng nh khả năng của đội ngũ cán bộ cả ở tầm vĩ mô

và vi mô, v.v Mặt khác, cuộc khủng hoảng tài chính và khu vực cũng đã tác
động tiêu cực đến nền kinh tế nớc ta. Đầu t nớc ngoài giảm sút, xuất khẩu có
xu hớng giảm, áp lực về sự thay đổi tỷ giá ngày càng tăng.
Cơ sở hạ tầng yếu kém, không đồng bộ. Hệ thống đờng giao thông, thông
tin liên lạc còn rất lạc hậu không theo kịp với yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội. Hệ thống bu điện, viễn thông tuy có tăng nhanh trong những năm gần
đây, nhng vẫn còn kém so với trình độ các nớc trong khu vực và thế giới. Công
nghệ lạc hậu, thiếu vốn và sử dụng vốn kém hiệu quả. Tình trạng này xảy ra
khá phổ biến trong các doanh nghiệp Nhà nớc. Hầu hết các doanh nghiệp ở n-
ớc ta thuộc loại vừa và nhỏ,thiếu vốn nghiêm trọng. Đầu t nớc ngoài bắt đầu có
xu hớng chậm lại do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực.
Vấn đề thừa lao động, thiếu việc làm đang diễn ra khá phổ biến. Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê cả nớc hiện có khoảng 6 - 7 triệu lao động d thừa,
20
không có khả năng tìm đợc việc làm. Tình trạng không đủ việc làm là phổ biến
ở nhiều vùng nông thôn. Mặt khác, nền kinh tế nớc ta lâm vào tình trạng thiếu
nghiêm trọng đội ngũ lao động lành nghề. Khoảng 805 lao động ở nớc ta cha
qua đào tạo nghề, cả nớc chỉ có khoảng 4.000 công nhân có tay nghề cao. Đội
ngũ cán bộ quản lý cả ở tầm vĩ mô và vi mô trong tình trạng vừa thừa và vừa
thiếu. Một bộ phận khá lớn cán bộ quản lý kinh tế cha qua đào tạo một cách
có hệ thống về kinh tế thị trờng, cha thực sự đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá.
Cơ chế thị trờng tuy đã hình thành nhng đang ở giai đoạn sơ khai, mang
nhiều yếu tố tự phát. Hiệu lực quản lý Nhà nớc còn thấp, vừa cha đủ sức phát
huy sức mạnh của cơ chế thị trờng, vừa cha hạn chế đợc các mặt tiêu cực của
nó. Trong đó đáng lo ngại là nhiều cán bộ đảng viên đang giảm sút lý tởng
cách mạng, tha hoá về phẩm chất, đạo đức Hệ thống pháp luật mặc dù có
tiến bộ song cha đồng bộ, cha hoàn chỉnh và cha thật sự nghiêm minh. Công
tác kế hoạch hoá, hoạt động tài chính, ngân hàng đổi mới còn chậm. Quản lý
xuất nhập khẩu, nhận chuyển giao công nghệ còn nhiều thiếu sót, tiêu cực.Th-
ơng nghiệp nhà nớc bỏ trống một số trận địa quan trọng.

Sự phát triển không đều về kinh tế xã hội ngày càng bộc lộ rõ nét. Sự
chênh lệch về điều kiện sống và mức sống giữa các vùng nông thôn và thành
thị ngày càng xa. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị với
nông thôn và giữa các tầng lớp dân c diễn ra không bình thờng và có chiều h-
ớng tăng lên. Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ
cách mạng, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn. Đặc biệt ở nhiều vùng
nông thôn đặc biệt là vùng sâu, vùng xa hầu nh bị tách biệt với tiến trình phát
triển kinh tế xã hội của đất nớc.
Các vấn đề xã hội đang trở nên bức xúc, hệ thống y tế, giáo dục ở nhiều
nơi đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Ngời nghèo không đủ tiền chữa bệnh và
cho con em đi học. Các nguồn tài nguyên đất nớc, rừng, biển và khoáng sản
cha đợc quản lý và khai thác tốt. Tình trạng ô nhiễm môi trờng có xu hớng gia
tăng, đe doạ sự phát triển bền vững.
Khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị có xu hớng tăng
cách xa hơn.ở vùng đô thị, nơi có 20% dân số sinh sống chiếm khoảng 60%
GDP, đợc phát triển với nhịp độ nhanh( 10 12%) thì các vùng nông thôn,
nơi có 80% dân c sinh sống, chỉ chiếm khoảng 40% GDP lại đang phát triển
chậm hơn( dới 10% năm).
Tình trạng không còn chế độ t hữu về t liệu sản xuất và việc xã hội hoá
những t liệu sản xuất đó ở thành thị và nông thôn khiến cho phạm vi tác động
của quy luật giá trị và trình độ phản ánh của nó đến sản xuất bị hạn chế.
21
22
Chơng 3
Những giải pháp nhằm vận dụng tốt quy luật
giá trị ở nớc ta trong thời gian tới.
3.1. Giải quyết mâu thuẩn giữa quy luật giá trị và quy luật phát triển:
Hiện nay việc kế hoạch hoá bao gồm ngày càng nhiều không chỉ nhiệm
vụ sản xuất trực tiếp đợc giao cho xí nghiệp( sự cần thiết của nó vẫn cha mất
đi) mà cả những nhiệm vụ định mức của xí nghiệp đối với xã hội do trung ơng

quy định, căn cứ vào mức đọ hiệu quả của việc sử dụng các nguồn, nhằm bảo
đảm công tác của xí nghiệp đáp ứng lợi ích xã hội. Theo ý nghĩa đó thì không
còn ai đối lập giữa việc kế hoạch hoá sử dụng các phạm trù giá trị với việc sử
dụng các đòn bẩy. Việc sử dụng đó trở thành một yếu tố cần thiết để quản lý
tập trung nền kinh tế, đồng thời bảo đảm một cách linh hoạt việc kích thích vật
chất đối với xí nghiệp và từng ngời lao động. Đồng thời, còn phải giải quyết
hàng loạt vấn đề gay gắt, trong đó vấn đề quan trọng là xây dựng một cơ chế
thích hợp với chủ nghĩa xã hội, nhằm vạch rõ những chi phí sản xuất xã hội
cần thiết và buộc ngời sản xuất phải hớng vào các chi phí đó. Việc thừa nhận
sự cần thiết phải tính toán trong kế hoạch các nhu cầu việc phát triển tất cả các
ngành cần thiết cho xã hội( và tạo ra các điều kiện kinh tế tơng ứng), và việc
thừa nhận tầm quan trọng của việc kích thích sự phát triển hiệu quả của nền
kinh tế ( hớng vào các hao phí lao động xã hội cần thiết) hiện nay có ý nghĩa
là phải nhận thức rõ ràng hơn vai trò to lớn của các yếu tố và tiêu chuẩn giá trị
trong quá trình kế hoạch hoá và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; mặt
khác không nên quên rằng khác với con đờng hình thành một cách tự phát các
tỷ lệ, phơng pháp kế hoạch có khả năng bảo đảm tính chất ổn định của các tỷ
lệ đó, đồng thời đòi hỏi chi phí ít hơn, cho phép kết hợp tiêu chuẩn cân đối
kinh tế với tiêu chuẩn cân đối xã hội, kết hợp các nhiệm vụ trớc mắt và lâu dài.
3.2. Xây dựng cơ chế giá:
Những nguyên tắc cơ bản của việc hình thành giá cả có thể là những luận
điểm chung và xuất phát của lý luận hình thành giá cả trong nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa, trực tiếp rút ra từ những tính quy luật khách quan của việc hình
thành hao phí lao động xã hội cần thiết và giá trị. Đặc trng của quá trình hình
thành các hao phí và giá trị ấy đợc xác định trớc bởi sự tác động tổng thể của
các quy luật kinh tế, mà trớc hết là quy luật kinh tế cơ bản, quy luật phát triển
có kế hoạch, cân đối và quy luật giá trị. Do đó, bản thân các nguyên tắc cơ bản
của chế độ hình thành giá cả phải có tính chất khách quan nh những quy luật
23
xác định chúng. Vì vậy, trong những nguyên tắc ấy không thể bao gồm những

yêu cầu đối với việc hình thành giá xuất phát từ những nguyên tắc đã đợc quy
định trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội. Việc phân phối
tốt nhất nguồn lao động xã hội phải đợc thực hiện bằng hoạt động có kế hoạch
trên quy mô toàn xã hội. Hao phí lao động xã hội cần thiết phải là tiêu chuẩn
để phân phối các nguồn và tiêu chuẩn hiệu quả hao phí. Trên mức đọ cụ
thể,giá cả đã thực hiện vai trò ấy, điều đó cho phép sử dụng giá cả làm công cụ
kinh tế để quản lý có kế hoạch. Về khách quan việc hình thành giá cả phải đợc
thực hiện dới hình thức hình thành giá có kế hoạch, tập trung và có tính chất
nhà nớc. Cơ sở để hình thành hao phí lao động xã hội cần thiết chính là sự
phân phối lao động chung theo các bộ phận và các khu vực của nền sản xuất
xã hội, xuất phát từ các nhu cầu của xã hội hiện tại và lâu dài. Do dó, những
hao phí của một loại sản phẩm nào đó là một đại lợng phát sinh từ những hao
phí về tất cả các sản phẩm của nền sản xuất. Quy luật kinh tế cơ bản đòi hỏi
phải phân phối lao động một cách tốt nhất các nguồn lao động sống và vật hoá
theo các bộ phận và các khu vực của nền sản xuất xét theo quan điểm mục tiêu
chiến lợc phát triển xã hội. Vì thế muốn cho quá trình hình thành giá cả phù
hợp với quá trình hình thành hao phí lao động cần thiết thì nguyên tắc cơ bản
của việc hình thành giá là nó phải có một phơng hớng có mục đích rõ ràng và
triệt để nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách. Vì vậy, cần phải
xây dựng một cơ chế giá cả có khả năng kích thích nhiều hơn so với tiến bộ
khoa học - kỹ thuật.
Muốn cho việc hình thành giá phản ánh chính xác nhất quá trình hình
thành hao phí lao động xã hội thì cần phải hạch toán giá trong điều kiện
chuyên môn hoá và hiệp tác hoá sản xuất tối u, phân bố sản xuất tốt nhất, với
trình độ tổ chức cao quá trình sản xuất và sử dụng kỹ thuật - công nghệ tiên
tiến. Việc quy định giá phù hợp với chi phí bình quân hoặc cả với chi phí khép
kín che giấu những hiện tợng tiêu cực trong sản xuất( làm cho xí nghiệp thành
vạn năng, không có sự chuyên môn hoá hợp lý, trình độ tổ chức sản xuất thấp
kém, v.v ). Hơn nữa, với việc hình thành giá nh vậy, các xí nghiệp tiên tiến
cũng không có sự u tiên nào cả so với các xí nghiệp trung bình.

3.3. Tăng cờng khả năng hội nhập kinh tế:
Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Việt Nam đã tiến những bớc dà trên
con đờng mở cửa và hội nhập quốc tế. Dù hội nhập quốc tế ở cấp đọ nào cũng
mang lại lợi ích cho Việt Nam và lợi ích đó ngày càng lớn khi mức độ hội
nhập càng cao. Vấn đề là nớc ta phải chủ động và tích cực chuẩn bị các điều
kiện hội nhập, đồng thời lựa chọn đúng giải pháp và bớc đi trong quá trình
này. Vấn đề hội nhập vào khu vực AFTA có tác dụng nhỏ bé đối với nớc ta kể
24
cả trong vấn đề giảm nghèo đói và bất bình đẳng. Vì vậy, để đẩy nhanh và bền
vững tốc độ giảm nghèo, và bất bình đẳng thì nớc ta phải kết hợp giữa hội
nhập AFTA với hội nhập vào APEC và WTO. Hội nhập kinh tế phải gắn với
nghèo đói và bất bình đẳng. Dới tác động của cải cách và hội nhập quốc tế đã
có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân hoá trong xã hội. Để đảm bảo mục
tiêu giảm nghèo và công bằng xã hội, Nhà nớc phải có chính sách khuyến
khích, u tiên một số ngành dịch vụ, ngành phi nông nghiệp , đồng thời nâng
cao trình độ chuyên môn để họ có thể làm việc ở các khu vực này. Mặt khác,
phải đầu t kỹ thuật, các dịch vụ nông nghiệp, chuyên môn cho khu vực nông
nghiệp, nông thôn để nâng cao năng suất lao động của khu vực có ngời nghèo
đông đúc này. Nhà nớc phải có hình thức bảo trợ xã hội, điều chỉnh phù hợp
với thị trờng lao động trong điều kiện nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế. Hội
nhập quốc tế sẽ tạo ra kẻ thắng, ngời thua và ngời nghèo sẽ chịu nhiều thua
thiệt nhất. Để giúp đỡ ngời bị rủi ro khi mới tham gia hội nhập, đồng thời xây
dựng một nền tảng vững chắc cho các hộ gia đình - đặc biệt là ngời nghèo,
cảm thấy thoải mái chấp nhận các rủi ro trớc mắt có thể xảy ra do hội nhập.
Nhà nớc phải thực hiện tốt việc phân phối lại,thông qua chính sách thuế, trợ
cấp làm giảm sự bất bình đẳng trong xã hội.
3.4. Xây dựng nền kinh tế tri thức:
Nền kinh tế tri thức là mô hình kinh tế mà sự vận hành của nó sẽ đợc
quyết định chủ yếu bởi nguồn năng lợng đặc biệt, đó là tri thức, trớc hết là tri
thức khoa học, công nghệ và quản lý. Điều đó có nghĩa là trong sản phẩm -

hàng hoá, hàm lợng tri thức chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng áp đảo. Giá trị
của sản phẩm phụ thuộc vào giá trị công nghệ và trí tuệ nhiều hơn là phụ thuộc
vào các yếu tố truyền thống nh vốn, tài nguyên thiên nhiên,nguyên - nhiên
liệu. Hai trụ cột chính của nền tri thức sẽ là công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học. Do đó sự hình thành nền kinh tế trở thành xu thế khách quan trong
thời đại cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá. Cơ sở để
tiến đến nền kinh tế tri thức là cần chú trọng phát triển một cách toàn diện
nhân tố con ngời, khuyến khích và bồi dỡng nhân tài. Nói cách khác, lĩnh vực
đầu t quan trọng nhất để thúc đẩy nền kinh tế tri thức phát triển chính là đầu t
vào vốn con ngời. Do đó, cần tập trung vào 4 lĩnh vực cơ bản sau:
Thứ nhất, tăng cờng đầu t thoả đáng cho giáo dục và đào tạo; xúc tiến
cải cách, hiện đại hoá giáo dục - đào tạo nhằm cung cấp cho xã hội và nền
kinh tế một lực lợng lao động có trình độ tri thức cao, có kỹ năng, tay nghề
giỏi.
25

×