Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

đánh giá thực trạng và phương hướng hoàn thiện bckqkd với việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.16 KB, 34 trang )

Đề án môn học Kế toán tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
Báo cáo tài chính doanh nghiệp luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong
doanh nghiệp. Mọi thực trạng tài chính, kết quả kinh doanh, hoạt động của doanh
nghiệp đều được phản ánh trên hệ thống báo cáo tài chính, hay nói cách khác nó là
đại diện cho hiện thực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy mọi đối tượng
quan tâm tới doanh nghiệp đều tìm hiểu doanh nghiệp trước hết qua hệ thống báo
cáo tài chính. Nó có ý nghĩa to lớn không chỉ với cơ quan, đơn vị và cá nhân bên
ngoài doanh nghiệp mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bằng việc xem xét, phân tích báo cáo
tài chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá chính xác sức mạnh tài chính,
khả năng sinh lãi và triển vọng của đơn vị. Do vậy báo cáo tài chính là mối quan
tâm của rất nhiều đối tượng khác nhau như Ban giám đốc, Hội đồng quản trị, các
nhà đầu tư, các cổ đông, ngân hàng, các nhà bảo hiểm, các chủ nợ…kể cả các cơ
quan chính phủ và bản thân người lao động. Việt Nam đã gia nhập WTO, nền kinh
tế của nước ta đang hòa mình vào với sự phát triển chung của thế giới, đồng thời
với đó là thị trường chứng khoán đang phát triển rất nhanh và rất nóng, các công ty
đều có xu hướng cổ phần hóa và niêm yết trên thị trường chứng khoán, số lượng các
cổ đông cũng ngày một đông đảo. Việc minh bạch và công khai các báo cáo tài
chính là một yêu cầu bắt buộc với các doanh nghiệp. Vì vậy các báo cáo tài chính
của doanh nghiệp càng được nhiều đối tượng trong xã hội lưu tâm, để ý hơn. Mặt
khác, báo cáo tài chính chính là sản phẩm cuối cùng của bộ phận kế toán trong
doanh nghiệp, đối với mỗi người kế toán viên việc am hiểu và trình bày các báo cáo
tài chính là vô cùng quan trọng.
Trong mọi hệ thống báo cáo tài chính của các nước trên thế giới thì báo cáo
kết quả kinh doanh là một bộ phận không thể thiếu được, nó phản ánh kết quả hoạt
động trong kì của doanh nghiệp. Trong đề án này em xin được làm rõ một số vấn đề
về báo cáo kết quả kinh doanh và việc phân tích tình hình tài chính trong doanh
nghiệp .
Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên bài viết sẽ không tránh khỏi những
sai sót. Em kính mong cô sẽ thông cảm và cho ý kiến để bài viết được hoàn thiện


hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 20 tháng 11 năm 2007
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN

I) Tìm hiểu chung về báo cáo tài chính , báo cáo kết quả kinh doanh
1) Khái niệm:
Theo quy định của chế độ kế toán hiện hành có định nghĩa:
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp là những báo cáo tổng hợp nhất về tình
hình tài sản, vốn chủ sở hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh
doanh trong kì của doanh nghiệp. Nói cách khác, báo cáo tài chính là phương tiện
trình bày khả năng sinh lời và thực trạng tài chính của doanh nghiệp cho những
người quan tâm.
Báo cáo tài chính là những báo cáo mang tính bắt buộc do Nhà nước quy định.
Thông tin được phản ánh trên các báo cáo tài chính là những thông tin tóm tắt, khái
quát tình hình chung của doanh nghiệp . Số lượng và nội dung các chỉ tiêu trên các
báo cáo tài chính không phải do doanh nghiệp quy định mà phải theo chế độ Nhà
nước ban hành.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một báo cáo tài chính phản ánh tổng
hợp doanh thu, chi phí và kết quả của các hoạt động kinh doanh trong doanh
nghiệp. Đây là một báo cáo bắt buộc phải lập trong hệ thống báo cáo tài chính.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp sau mỗi kì hoạt động. Các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong kì gồm có: kết quả hoạt động kinh doanh ( hoạt động bán hàng và
cung cấp dịch vụ, hoạt động tài chính ) và hoạt động khác.
2) Vai trò của báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết quả kinh doanh nói
riêng đối với việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp
Báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống , quá trình hoạt

động và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Nó là tài liệu hữu ích đối với việc quản trị
doanh nghiệp và đồng thời cũng là nguồn thông tin tài chính chủ yếu cho các đối
tượng quan tâm ở bên ngoài doanh nghiệp .Bằng việc xem xét, phân tích báo cáo tài
chính , người sử dụng thông tin có thể đánh giá được sức mạng tài chính, khả năng
sinh lãi, triển vọng phát triển của doanh nghiệp . Cụ thể về một số vai trò cơ bản của
báo cáo tài chính như sau:
- Báo cáo tài chính cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết giúp
cho việc kiểm tra một cách toàn diện và có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh,
tình hình thực hiện các mục tiêu kinh tế tài chính chủ yếu của doanh nghiệp , tình
hình chấp hành các chế độ kinh tế tài chính của doanh nghiệp .
- Báo cáo tài chính cung cấp thông tin cho các chủ doanh nghiệp , Hội đồng
quản trị, Ban giám đốc…. về tiềm lực của doanh nghiệp , tình hình công nợ, tình
hình thu chi tài chính, khả năng tài chính, khả năng thanh toán, kết quả kinh
doanh…để đề ra các kế hoạch chiến lược trong kinh doanh, quyết định về những
công việc phải làm, phương pháp tiến hành, kế hoạch đầu tư mở rộng hay thu hẹp
quy mô của một bộ phận hoặc của toàn doanh nghiệp …
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
- Báo cáo tài chính cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, chủ nợ, các ngân
hàng, đại lí, các đối tác kinh doanh về thực trạng tài chính, sản xuất, kinh doanh,
triển vọng tăng trưởng, thu nhập, khả năng thanh toán, nhu cầu về vốn của doanh
nghiệp….để quyết định hướng đầu tư, quy mô đầu tư, quyết định có cho vay hay
thu hồi lại vốn, quyết định có liên doanh hay không…
- Báo cáo tài chính cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng, cơ quan
quản lí Nhà nước đế kiểm soát tình hình kinh doanh của đơn vị có đúng chính sách,
đúng chế độ luật pháp hay không, để ra những quyết định cho những vấn đề xã
hội… và đặc biệt đó là cơ sở để xác định các khoản thuế phải nộp, nghĩa vụ của
doanh nghiệp.
- Báo cáo tài chính cung cấp các chỉ tiêu, các số liệu làm tiền đề để tính ra các
chỉ tiêu kinh tế khác nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả của các quá

trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp .
- Báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng trong việc phân tích, nghiên cứu, phát
hiện những khả năng tiềm tàng và là căn cứ quan trọng để đưa ra các quyết định về
quản lí, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư vào doanh nghiệp của
chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp .
- Báo cáo tài chính còn là căn cứ quan trọng để xây dựng các kế hoạch kinh tế
kĩ thuật, tài chính của doanh nghiệp , là những căn cứ khoa học để đề ra hệ thống
các biện pháp xác thực nhằm tăng cường quản trị doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, không ngừng tăng cao lợi
nhuận cho doanh nghiệp .
Báo cáo kết quả kinh doanh là một bộ phận cấu thành nên hệ thống báo cáo tài
chính vì vậy các vai trò của hệ thống báo cáo tài chính đều ẩn chứa trong đó vai trò
của báo cáo kết quả kinh doanh , hay nói cách khác vai trò của báo cáo kết quả kinh
doanh là một phần chính yếu cấu thành nên vai trò của báo cáo tài chính .
3) Phân loại báo cáo kết quả kinh doanh :
Báo cáo kết quả kinh doanh có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác
nhau. Ví dụ như:
 Theo kì lập báo cáo: có các loại báo cáo kết quả kinh doanh năm, báo cáo
kết quả kinh doanh giữa niên độ hoặc theo tuần, tháng, 6 tháng, 9 tháng…
 Theo phạm vi lập báo cáo thì có báo cáo kết quả kinh doanh của đơn vị độc
lập, báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất của Tổng công ty hoặc tập đoàn kinh tế
hoặc ngân hàng và tổ chức tín dụng tương tự, báo cáo kết quả kinh doanh của các
đơn vị đặc thù……
II) Chuẩn mực kế toán quốc tế về trình bày báo cáo tài chính nói chung và báo
cáo kết quả kinh doanh nói riêng:
Trong hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế (International Accounting
Standards) hiện hành thì chuẩn mực đầu tiên đó là chuần mực quy định về việc lập
và trình bày báo cáo tài chính doanh nghiệp ( Presentation of Financial Statements -
IAS I ). Do mỗi quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, do đó chế độ kế toán giữa
Lê Mai Hằng Kế toán 46D

Đề án môn học Kế toán tài chính
từng quốc gia cũng có nhiều điểm khác nhau và chế độ báo cáo tài chính cũng
không giống nhau. Vì vậy chuẩn mực này không đưa ra các mẫu chuẩn tuyệt đối mà
chỉ đưa ra các quy định chung, thiết lập khuôn khổ và trách nhiệm của việc trình
bày các báo cáo tài chính, hướng dẫn cấu trúc và yêu cầu nội dung tối thiểu trên các
báo cáo tài chính và được áp dụng cho tất cả các báo cáo tài chính trên cơ sở chuẩn
mực kế toán quốc tế.
Theo IAS I thì một hệ thống báo cáo tài chính đầy đủ gồm có:
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo kết quả kinh doanh
- Báo cáo khác phản ánh tình hình thay đổi vốn chủ sở hữu, cụ thể là:
* Những thay đổi về vốn chủ sở hữu
* Những thay đổi của vốn chủ sở hữu ngoài các nghiệp vụ góp vốn và
phân chia cho chủ sở hữu.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Các chính sách kế toán và các thuyết minh khác.
Ngoài ra các đơn vị được khuyến khích trình bày thêm vào trong báo cáo tài
chính các thông tin tài chính và phi tài chính có liên quan.
Các báo cáo tài chính được yêu cầu đầu tiên là trình bày trung thực tình trạng
tài chính, hoạt động tài chính và dòng tiền của một doanh nghiệp. Ngoài ra, một số
yêu cầu chủ yếu cần được bảo đảm tuân thủ khi trình bày báo cáo tài chính là :
- Tính kịp thời
- Tính khả dụng của các phương pháp được áp dụng.
- Nêu các chuẩn mực áp dụng trước kia
- Cơ sở cho việc lựa chọn một chính sách kế toán và cách thức trình bày các
cơ sở này.
- Quy tắc cho việc bù trừ tài sản và công nợ, bù trừ chi phí và doanh thu.
- Các chỉ tiêu mang tính so sánh.
Các nguyên tắc cơ bản phải tuân theo khi lập báo cáo tài chính là:
- Nguyên tắc hoạt động liên tục.

- Nguyên tắc nhất quán với năm trước
- Nguyên tắc dồn tích
- Nguyên tắc trọng yếu.
Về báo cáo kết quả kinh doanh hay còn gọi là báo cáo thu nhập( Income
statement) phải được trình bày theo những hoạt động mà doanh nghiệp tiến hành,
nghĩa là phải trình bày thu nhập (lãi, lỗ) theo hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt
động tài chính và hoạt động đầu tư. Theo IAS I, các thông tin tối thiểu cần phải
được trình bày trên báo cáo kết quả kinh doanh đó là:
 Doanh thu
 Giá vốn hàng bán
 Lãi (lỗ) gộp
 Thu nhập khác từ hoạt động sản xuất kinh doanh
 Chi phí bán hàng
 Chi phí quản lí doanh nghiệp
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
 Chi phí khác từ hoạt động sản xuất kinh doanh
 Lãi (lỗ) từ hoạt động kinh doanh
 Thu nhập từ hoạt động tài chính.
 Thu nhập từ hoạt động đầu tư
 Lãi (lỗ) trước thuế thu nhập doanh nghiệp
 Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp
 Lãi (lỗ) thuần của kì
 Lợi nhuận giữ lại (lợi nhuận chưa phân phối) đầu kì
 Lợi nhuận giữ lại (chưa phân phối) cuối kì.
Các thông tin khác có thể được trình bày trên báo cáo kết quả kinh doanh
hoặc trong các thuyết minh:
 Phân tích chi phí theo bản chất (hay nội dung như chi phí nguyên vật liệu,
chi phí khấu hao, chi phí nhân viên….) và theo chức năng (giá vốn hàng bán, chi
phí bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp…)

 Nếu đơn vị phân loại theo chức năng của chi phí thì phải công bố:
-Chi phí khấu hao tài sản hữu hình
-Chi phí hao mòn tài sản vô hình
-Chi phí cho nhân viên
 Cổ tức trả cho từng cổ phiếu được công bố hoặc dự tính
Bên cạnh hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp độc lập, hệ thống
chuẩn mực kế toán quốc tế còn có các chuẩn mực khác cũng đề cập đến hệ thống
báo cáo tài chính hoặc các yếu tố trong hệ thống báo cáo tài chính như IAS 27 :
báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán hoạt động đầu tư vào công ty con, IAS 18 :
doanh thu, IAS 29 : báo cáo tài chính trong các nền kinh tế siêu lạm phát, IAS 27 :
báo cáo tài chính hợp nhất và thanh toán các khoản đầu tư vào công ty con, IAS 30 :
nội dung công bố trong báo cáo tài chính của các ngân hàng và tổ chức tín dụng
tương tự, IAS 31 : báo cáo tài chính cho các khoản góp vốn trong liên doanh, IAS
34 : báo cáo tài chính giữa kì.
III)Kinh nghiệm lập và sử dụng báo cáo tài chính nói chung và báo cáo kết
quả kinh doanh nói riêng của một số nước trên thế giới:
1) Mỹ:
Hệ thống báo cáo tài chính tại Mỹ bao gồm có:
 Báo cáo của quản lí
 Báo cáo của kiểm toán viên độc lập
 Các báo cáo cơ bản ( Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh,
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Báo cáo về sự thay đổi của vốn chủ sở hữu)
 Sự thảo luận của đội ngũ quản lí và phân tích tình hình kinh doanh, tình
hình tài chính.
 Thuyết minh báo cáo tài chính
 Báo cáo so sánh về tình hình kinh doanh trong 5 hoặc 10 năm
 Các dữ liệu theo quý khác.
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
Khác với rất nhiều nước khác, kế toán của Mỹ không được quy định bởi luật

pháp mà được quy định bởi một số tổ chức kinh tế là “Hội đồng chuẩn mực kế toán
tài chính- FASB”, “Ủy ban chứng khoán và ngoại hối- SEC” và viện Kế toán viên
công chứng – AICPA. Hệ thống báo cáo tài chính của Mỹ không có các yêu cầu
mang tính pháp lí trong việc công bố các báo cáo tài chính đã được kiểm toán theo
định kì.
Về báo cáo kết quả kinh doanh, các chỉ tiêu cũng gần với chuẩn mực kế toán
quốc tế, cụ thể xem tại bảng phụ lục, trang 36.
2) Anh :
Anh là nước có nền kinh tế sớm phát triển , đó là nước đầu tiên trên thế giới
xây dựng và phát triển ngành kế toán, di sản của chế độ kế toán ở Anh để lại cho thế
giới thực sự là có giá trị.
Hệ thống báo cáo tài chính của Anh gồm có:
 Báo cáo của giám đốc điều hành
 Tài khoản lãi (lỗ ) và bảng cân đối kế toán
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
 Báo cáo tổng các khoản lãi (lỗ)
 Báo cáo về các chính sách kế toán
 Thuyết minh báo cáo tài chính
 Báo cáo của kiểm toán viên
(Với báo cáo kết quả kinh doanh xem bảng phụ lục trang 37 )
3) Pháp:
Cộng hòa Pháp là nước đi đầu trong việc ủng hộ một hệ thống kế toán thống
nhất. Theo hệ thống kế toán thống nhất hiện hành của Pháp thì hệ thống các báo cáo
tài chính bao gồm:
 Bảng cân đối kế toán
 Báo cáo kết quả kinh doanh
 Các thuyết minh báo cáo tài chính
 Báo cáo của giám đốc điều hành
 Báo cáo của kiểm toán viên
Ngoài ra với các công ty lớn còn bắt buộc phải lập các quy định liên quan tới

sự phá sản của các doanh nghiệp và các báo cáo xã hội khác. Đây là điểm khác biệt
chỉ có tại Pháp. Và để có được các báo cáo tài chính đảm bảo yêu cầu trung thực thì
các báo cáo tài chính phải tuân thủ theo luật.
(Với báo cáo kết quả kinh doanh xem bảng phụ lục)
Khác với Việt Nam, các báo cáo tài chính của đa số các nước đặc biệt là các
nước phát triển đều yêu cầu bắt buộc phải có sự kiểm toán của các kiểm toán viên.
Việt Nam hiện nay đã gia nhập WTO , việc tuân theo các chuẩn mực kế toán quốc
tế và tiến gần hơn với hệ thống kế toán của các nước đang phát triển là một điều rất
cần thiết, chúng ta nên bổ sung báo cáo này trong hệ thống báo cáo tài chính trở
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
thành một báo cáo bắt buộc chứ không chỉ là báo cáo đính kèm của các công ty đã
thực hiện kiểm toán.
IV) Thực trạng báo cáo kết quả kinh doanh tại Việt Nam
1) Sự biến đổi của báo cáo kết quả kinh doanh theo các thời kì lịch sử:
Đất nước ta sau bao năm phải chiến tranh và chịu đô hộ nên nền kinh tế còn
nhiều lạc hậu so với các nước trên thế giới. Tuy nhiên trong từng giai đoạn phát
triển của nền kinh tế, hệ thống kế toán cũng đã phát triển từng bước và là công cụ
phục vụ đắc lực cho việc quản lí kinh tế, đáp ứng nhu cầu về thông tin cho các đối
tượng sử dụng. Đánh dấu cho sự ra đời của hệ thống báo cáo kế toán đó là Quyết
định 223/CP ban hành ngày 1/12/1970 của Hội đồng Chính phủ. Kể từ đó đến nay,
hệ thống báo cáo kế toán đã có nhiều những biến đổi theo từng giai đoạn phát triển
kinh tế của đất nước. Chỉ xét riêng trong giai đoạn từ sau đổi mới (từ sau năm 1986)
đã có rất nhiều các quyết định, các thông tư hướng dẫn về việc lập và trình bày báo
cáo tài chính. Cụ thể như sau:
@Trong giai đoạn 10 năm sau đổi mới (từ năm 1987 đến năm 1996):
Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình đổi mới, cùng với việc xác định lại
chức năng của quản lí kinh tế của Nhà nước, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước
vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , Nhà nước đã ban hành đồng
bộ các chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng đổi mới, xóa bỏ bao cấp.

+Trên tinh thần chung đó, Bộ tài chính đã ban hành Chế độ báo cáo kế toán
định kì áp dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh theo quyết định số 224-
TC/CĐKT ngày 18/4/1990. Theo quyết định này thì hệ thống báo cáo tài chính gồm
có :
• Bảng tổng kết tài sản.
• Báo cáo kết quả kinh doanh
• Báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố
• Bản giải trình kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo kế toán tổng hợp phản ánh tình hình và
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
Báo cáo này gồm 2 phần chính là:
- Phần I : Thu nhập và phân phối thu nhập : Phần này phản ánh thu nhập và
chi phí của các loại hoạt động kinh doanh, và nó được trình bày theo kiểu 2 bên,
tách biệt bên chi phí và bên thu nhập. Bên trái là “Chi phí” phản ánh toàn bộ chi
phí của từng loại hoạt động kinh doanh và kết quả thu nhập. Còn bên phải là “Thu
nhập” phản ánh thu nhập của từng loại hoạt động kinh doanh và phân phối kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp
- Phần II : Thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước phản ánh số phai nộp
và số đã nộp (trong kì và lũy kế từ đầu năm) theo từng nội dung.
Ngoài ra với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (đơn vị, xí nghiệp, công ty
tư doanh, các hợp tác xã và tổ chức kinh doanh tập thể ) thì Bộ Tài chính có quy
định chế độ lập và nộp báo cáo theo quyết định 598-TC/CĐKT ngày 8/12/1990.
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
Theo quyết định này, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ phải lập và nộp 3 báo
cáo định kì là : Bảng tổng kết tài sản, Báo cáo kết quả kinh doanh, và Báo cáo tồn
kho vật liệu, sản phẩm, hàng hóa. Về cơ bản các báo cáo này thống nhất với các báo
cáo kế toán định kì của các doanh nghiệp quốc doanh tuy có đơn giản hơn.
+ Sau một thời gian vận dụng vào thực tế, hệ thống báo cáo tài chính theo
quyết định 224-TC/CĐKT ngày 18/4/1990 của Bộ Tài chính đã bộc lộ khá nhiều

những khiếm khuyết, chưa thực sự phù hợp với hoàn cảnh, yêu cầu của nền kinh tế
lúc bấy giờ. Vì vậy, Bộ Tài chính đã tiến hành nghiên cứu, xây dựng và ban hành hệ
thống kế toán doanh nghiệp cải cách theo cơ chế thị trường theo quyết định số 1206
QĐ/CĐKT ngày 14/12/1994 và thực hiện thí điểm ở một số đơn vị rồi tổng kết và
ban hành chính thức theo Quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995, áp
dụng cho các doanh nghiệp (trong đó có chế độ báo cáo tài chính doanh nghiệp ).
Đây có thể được coi là một trong những cơ sở, nền tảng để xây dựng và hoàn thiện
hệ thống báo cáo tài chính sau này.
Theo quyết định này thì hệ thống báo cáo tài chính cũng bao gồm 4 biểu mẫu
là : Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B-01 DN), Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
(Mẫu B-02 DN), Lưu chuyển tiền tệ (Mẫu B-03 DN) và Thuyết minh báo cáo tài
chính (Mẫu B-09 DN). Ngoài ra để phục vụ cho yêu cầu quản lí kinh tế, chỉ đạo
điều hành… các ngành, các công ty liên doanh, tập đoàn sản xuất… có thể quy định
thêm các báo cáo chi tiết khác. Trong quá trình áp dụng, nếu thấy cần thiết thì có
thể sửa đổi bổ sung hoặc chi tiết các chỉ tiêu cho phù hợp với đặc điểm sản xuất
kinh doanh của đơn vị nhưng phải được Bộ Tài chính chấp nhận. Báo cáo tài chính
được lập và gửi vào cuối mỗi quý và cuối mỗi niên độ kế toán để phản ánh tình hình
tài chính của quý đó, niên độ đó. Các doanh nghiệp có thể lập báo cáo tài chính
hàng tháng phục vụ cho việc quản lí và điều hành.
Kết cấu của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo quyết định 1141
TC/QĐ/CĐKT gồm có 2 phần:
*Phần I: phản ánh tình hình kết quả kinh doanh của doanh nghiệp gồm hoạt
động kinh doanh và hoạt động khác. Tất cả các chỉ tiêu này đều trình bày kèm theo
cả số liệu ở kì trước, tổng số phát sinh trong kì báo cáo và số lũy kế từ đầu năm đến
cuối kì báo cáo, rất tiện lợi cho việc so sánh và phân tích số liệu của năm nay với
các năm trước. Phần này gồm các chỉ tiêu :
• Tổng doanh thu
• Các khoản giảm trừ
• Doanh thu thuần
• Giá vốn hàng bán

• Lợi tức gộp
• Chi phí bán hàng
• Chi phí quản lí doanh nghiệp
• Lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh
• Thu nhập hoạt động tài chính
• Chi phí hoạt động tài chính
• Lợi tức hoạt động tài chính
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
• Các khoản thu nhập bất thường
• Chi phí bất thường
• Lợi tức bất thường
• Tổng lợi tức trước thuế
• Thuế lợi tức phải nộp
• Lợi tức sau thuế.
*Phần II: phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp với Nhà
nước về các vấn đề : Thuế, BHXH, BHYT, KPCĐ và các khoản phải nộp khác. Các
chỉ tiêu này cũng trình bày theo các nội dung: số còn phải nộp kì trước, số phải nộp
kì này, số đã nộp trong kì này, số còn phải nộp đến cuối kì này. Ở phía dưới còn
phản ánh thêm chỉ tiêu “tổng số thuế còn phải nộp năm trước chuyển sang kì này”
trong đó chi tiết theo chỉ tiêu “Thuế lợi tức”.
(Mẫu báo cáo kết quả kinh doanh theo quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT trích ở
phần phụ lục trang 28)
@ Giai đoạn từ 1997 đến 2006: Nền kinh tế mở cửa và xu hướng toàn cầu
hóa kéo theo sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu quản lí
doanh nghiệp, ngày 25/10/2000 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành quyết định
167/2000/QĐ/BTC quy định chế độ báo cáo tài chính thống nhất cho mọi loại hình
doanh nghiệp .(Và sau đó có thông tư hướng dẫn là Về cơ bản thì số lượng và nội
dung của các báo cáo chủ yếu vẫn dựa trên hệ thống báo cáo tài chính ban hành
theo quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995. Tuy nhiên số lượng và nội

dung các chỉ tiêu cùng với trật tự sắp xếp và thời hạn lập thì đã có những thay đổi.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, báo cáo tài chính phải lập và nộp hàng quý,
hàng năm; còn đối với các loại hình doanh nghiệp khác (như doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, công ty TNHH….) báo cáo tài chính phải được
lập và nộp hàng năm. Số lượng các báo cáo tài chính bắt buộc phải lập và nộp cũng
giống như trong quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKT.
Về báo cáo kết quả kinh doanh đã có sự thay đổi rõ rệt so với trước. Đó là
việc tách riêng phần thuế GTGT thành một phần mới. Cụ thể báo cáo kết quả kinh
doanh gồm 3 phần :
+Phần I: “Lãi, lỗ” : phản ánh tình hình và kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp, bao gồm hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác. Tất cả các chỉ tiêu
đều được trình bày : tổng số phát sinh trong kì báo cáo; số liệu của kì trước ( để so
sánh) ; số lũy kế từ đầu năm đến cuối kì báo cáo. Nhìn chung các chỉ tiêu trong
phần này đều tương tự như báo cáo kết quả kinh doanh ban hành theo quyết định
1141/TC/QĐ/CĐKT trước đây cả về nội dung, thứ tự sắp xếp.
+Phần II: “Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước” : phản ánh tình hình
thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế , phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác.
Các chỉ tiêu được trình bày: số còn phải nộp đầu kì, số đã nộp trong kì báo cáo, số
phải nộp lũy kế từ đầu năm và số lũy kế đã nộp từ đầu năm đến cuối kì báo cáo, số
còn phải nộp đến cuối kì báo cáo.
+Phần III: “Thuế GTGT được khấu trừ, thuế GTGT được hoàn lại, thuế GTGT
hàng bán nội địa” : phản ánh số thuế GTGT được khấu trừ, đã khấu trừ, còn được
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
khấu trừ cuối kì; thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn lại, còn được hoàn lại cuối kì;
thuế GTGT được giảm, đã giảm và còn được giảm cuối kì; thuế GTGT hàng bán
nội địa còn phải nộp đầu kì, thuế GTGT đầu ra phát sinh, thuế GTGT hàng bán nội
địa đã nộp vào Ngân sách nhà nước và còn phải nộp cuối kì. Phần này được chi tiết
theo 4 mục:
• Thuế GTGT được khấu trừ

• Thuế GTGT được hoàn lại
• Thuế GTGT được giảm
• Thuế GTGT hàng bán nội địa
(Mẫu chi tiết của báo cáo kết quả kinh doanh theo quyết định
167/2000/QĐ/BTC trích ở phần phụ lục trang 30 )
Mặc dù quyết định này được quy định áp dụng thống nhất cho mọi loại hình
doanh nghiệp nhưng do quá phức tạp và nhiều chỉ tiêu nên rất khó áp dụng trong
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy, Bộ Tài chính đã ra thêm quyết định
144/2001/QĐ-BTC về việc áp dụng chế độ kế toán trong các doanh nghiệp vừa và
nhỏ (bao gồm các công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp
tư nhân, hợp tác xã- trừ hợp tác xã nông nghiệp và hợp tác xã tín dụng) hàng năm
phải lập 3 báo cáo là : Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh , thuyết
minh báo cáo tài chính . Đối với báo cáo tài chính gửi cho cơ quan thuế phải lập và
gửi thêm 2 phụ biểu là: Bảng cân đối tài khoản và tình hình thực hiện nghĩa vụ với
NSNN. Nhìn chung các báo cáo này dựa trên cơ sở là quyết định
167/2000/QĐ/BTC, tuy nhiên đã được lược bớt các chỉ tiêu và nội dung của các chỉ
tiêu thì cũng đơn giản hơn.
Bước sang năm 2006, Việt Nam tích cực chuẩn bị cho tiến trình hội nhập
WTO, theo đó chế độ kế toán cũng cần có những sự thay đổi để phù hợp thời đại
mới, tiến gần hơn đến chế độ và chuẩn mực kế toán quốc tế. Ngày 20/3/2006, Bộ
trưởng Bộ Tài chính đã kí quyết định 15/2006/QĐ/BTC về việc áp dụng chế độ kế
toán mới trong hệ thống các doanh nghiệp.
2) Đánh giá khái quát về báo cáo kết quả kinh doanh qua các thời kì:
Qua từng thời kì biến đổi của đất nước, hệ thống kế toán đã không ngừng hoàn
thiện, cải tiến và đổi mới mình, giai đoạn sau luôn có bước phát triển, cải tiến hơn
so với giai đoạn trước và phù hợp hơn với sự phát triển cơ chế quản lí kinh tế hiện
tại. Đương nhiên, ngay tại thời điểm áp dụng, cũng không có một chế độ, một quyết
định nào là hoàn hảo, ví dụ như quyết định 167/2000/QĐ/BTC thiết kế không được
khoa học cho lắm.Trong Báo cáo kết quả kinh doanh, biểu mẫu cũng như việc bố trí
các chỉ tiêu quá rối rắm, phức tạp, không hợp lí, không phù hợp với tính chất của

báo cáo. Chính vì vậy luôn cần có sự điều chỉnh, thay đổi để hệ thống báo cáo tài
chính ngày càng hoàn thiện hơn.
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
3)Yêu cầu và nguyên tắc lập và trình bày báo cáo kết quả kinh doanh theo quy
định hiện hành:
Báo cáo kết quả kinh doanh là một bộ phận quan trọng của hệ thống báo cáo
tài chính , khi lập báo cáo kết quả kinh doanh cần phải tuân thủ các yêu cầu và
nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính .
Theo chuẩn mực kế toán số 21 : “Trình bày báo cáo tài chính” thì việc lập và
trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ các yêu cầu sau:
+ Trung thực và hợp lý; phản ánh chính xác tình hình tài chính và kết quả kinh
doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp. Để đảm bảo yêu cầu trung thực và hợp lí
thì hệ thống báo cáo tài chính phải được lập và trình bày trên nguyên tắc tuân thủ
các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán, các văn bản, quy định pháp luật hiện hành.
+ Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với qui định của từng
chuẩn mực kế toán nhằm đảm bảo cung cấp thông tin thích hợp với nhu cầu ra các
quyết định kinh tế của người sử dụng và cung cấp được các thông tin đáng tin cậy,
khi:
- Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp;
- Phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không chỉ đơn
thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng;
- Trình bày khách quan, không thiên vị;
- Tuân thủ nguyên tắc thận trọng;
- Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu
+ Mặt khác, báo cáo tài chính phải trình bày đầy đủ các thông tin kể cả các
chính sách kế toán nhằm cung cấp thông tin phù hợp, đáng tin cậy, so sánh được và
dễ hiểu kể cả các thông tin bổ sung khi quy định trong chuẩn mực kế toán không đủ
để giúp cho người sử dụng hiểu được tác động của các giao dịch hoặc những sự

kiện cụ thể đến tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp .
Về nguyên tắc thì khi lập và trình bày báo cáo tài chính doanh nghiệp cần phải
tuân thủ các nguyên tắc sau :
 Nguyên tắc “hoạt động liên tục”:
Khi lập và trình bày báo cáo tài chính, Giám đốc (hoặc người đứng đầu)
doanh nghiệp cần phải đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động
liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ khi
doanh nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động, hoặc phải thu hẹp
đáng kể qui mô hoạt động của mình. Khi đánh giá, nếu Giám đốc (hoặc người đứng
đầu) doanh nghiệp biết được có những điều không chắc chắn liên quan đến các sự
kiện hoặc các điều kiện có thể gây ra sự nghi ngờ lớn về khả năng hoạt động liên
tục của doanh nghiệp thì những điều không chắc chắn đó cần được nêu rõ. Nếu báo
cáo tài chính không được lập trên cơ sở hoạt động liên tục, thì sự kiện này cần được
nêu rõ, cùng với cơ sở dùng để lập báo cáo tài chính và lý do khiến cho doanh
nghiệp không được coi là đang hoạt động liên tục. Để đánh giá khả năng hoạt động
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
liên tục của doanh nghiệp, Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp cần phải
xem xét đến mọi thông tin có thể dự đoán được tối thiểu trong vòng 12 tháng tới kể
từ ngày kết thúc niên độ kế toán.
 Nguyên tắc “cơ sở kế toán dồn tích”:
Nguyên tắc này yêu cầu doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính theo cơ sở kế
toán dồn tích, ngoại trừ các thông tin liên quan đến các luồng tiền.Điều đó có nghĩa
là: các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, không căn cứ
vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế toán và báo cáo tài
chính của các kỳ kế toán liên quan. Các khoản chi phí được ghi nhận vào Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí.
 Nguyên tắc “nhất quán”:
Nguyên tắc “nhất quán” đòi hỏi việc trình bày và phân loại các khoản mục

trong báo cáo tài chính phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác, trừ khi có
sự thay đổi đáng kể về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp hoặc khi xem xét
lại việc trình bày báo cáo tài chính cho thấy rằng cần phải thay đổi để có thể trình
bày một cách hợp lý hơn các giao dịch và các sự kiện; hoặc một chuẩn mực kế toán
khác yêu cầu có sự thay đổi trong việc trình bày.
Nguyên tắc này cũng cho phép doanh nghiệp có thể trình bày báo cáo tài chính
theo một cách khác khi mua sắm hoặc thanh lý lớn các tài sản, hoặc khi xem xét lại
cách trình bày báo cáo tài chính. Việc thay đổi cách trình bày báo cáo tài chính chỉ
được thực hiện khi cấu trúc trình bày mới sẽ được duy trì lâu dài trong tương lai
hoặc nếu lợi ích của cách trình bày mới được xác định rõ ràng. Khi có thay đổi, thì
doanh nghiệp phải phân loại lại các thông tin mang tính so sánh sao cho bảo đảm
tính so sánh được, ngoài ra phải giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó
trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
 Nguyên tắc “trọng yếu và tập hợp” :
Khi trình bày báo cáo tài chính, một thông tin được coi là trọng yếu nếu
không trình bày hoặc trình bày thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch
đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng
báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào quy mô và tính chất của các khoản
mục được đánh giá trong các tình huống cụ thể nếu các khoản mục này không được
trình bày riêng biệt. Tuỳ theo các tình huống cụ thể, tính chất hoặc quy mô của từng
khoản mục có thể là nhân tố quyết định tính trọng yếu. Ví dụ, các tài sản riêng lẻ có
cùng tính chất và chức năng được tập hợp vào một khoản mục, kể cả khi giá trị của
khoản mục là rất lớn hoặc có thể tài sản này là có giá trị lớn so với công ty này và là
khoản mục trọng yếu nhưng với công ty khác là có giá trị nhỏ thì không được coi là
khoản mục trọng yếu.
Nguyên tắc “trọng yếu và tập hợp” chỉ rõ từng khoản mục trọng yếu phải
được trình bày riêng biệt trong báo cáo tài chính. Các khoản mục không trọng yếu
thì không phải trình bày riêng rẽ mà được tập hợp vào những khoản mục có cùng
tính chất hoặc chức năng trong báo cáo tài chính hoặc thuyết minh báo cáo tài
chính. Tuy nhiên, có những khoản mục không được coi là trọng yếu để có thể được

trình bày riêng biệt trên báo cáo tài chính, nhưng lại được coi là trọng yếu để phải
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
trình bày riêng biệt trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Theo nguyên tắc
trọng yếu, doanh nghiệp không nhất thiết phải tuân thủ các quy định về trình bày
báo cáo tài chính của các chuẩn mực kế toán cụ thể nếu các thông tin đó không có
tính trọng yếu.
 Nguyên tắc “bù trừ”:
Các khoản mục tài sản và nợ phải trả trình bày trên báo cáo tài chính không
được bù trừ, trừ khi một chuẩn mực kế toán khác quy định hoặc cho phép bù trừ .
Các khoản mục doanh thu, thu nhập khác và chi phí chỉ được bù trừ khi được quy
định tại một chuẩn mực kế toán khác; hoặc các khoản lãi, lỗ và các chi phí liên quan
phát sinh từ các giao dịch và các sự kiện giống nhau hoặc tương tự và không có tính
trọng yếu.
Một số giao dịch ngoài hoạt động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp
thì được bù trừ khi ghi nhận giao dịch và trình bày báo cáo tài chính, ví dụ:
- Đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán ngắn hạn:
Lãi (lỗ) bán
chứng khoán
=
Thu bán
chứng khoán
-
Giá gốc
Chứng khoán
- Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ:
Lãi (lỗ) mua,
bán ngoại tệ
=
Thu bán

ngoại tệ
-
Giá mua
ngoại tệ
Các khoản mục được bù trừ được trình bày: Số lãi (hoặc lỗ thuần).
 Nguyên tắc “so sánh”:
Yêu cầu của nguyên tắc này đó là các thông tin bằng số liệu trong báo cáo tài
chính kì này phải đảm bảo so sánh được với các thông tin bằng số liệu trong báo
cáo tài chính của kỳ trước. Các thông tin so sánh cần phải bao gồm cả các thông tin
diễn giải bằng lời nếu điều này là cần thiết giúp cho những người sử dụng hiểu rõ
được báo cáo tài chính của kỳ hiện tại.
Khi thay đổi cách trình bày hoặc cách phân loại các khoản mục trong báo cáo
tài chính, thì phải phân loại lại các số liệu so sánh (trừ khi việc này không thể thực
hiện được) nhằm đảm bảo khả năng so sánh với kỳ hiện tại, và phải trình bày tính
chất, số liệu và lý do việc phân loại lại. Nếu không thể thực hiện được việc phân
loại lại các số liệu tương ứng mang tính so sánh thì doanh nghiệp cần phải nêu rõ lý
do và tính chất của những thay đổi nếu việc phân loại lại các số liệu được thực hiện.
Trường hợp không thể phân loại lại các thông tin mang tính so sánh để so sánh với
kỳ hiện tại, như trường hợp mà cách thức thu thập các số liệu trong các kỳ trước
đây không cho phép thực hiện việc phân loại lại để tạo ra những thông tin so sánh,
thì doanh nghiệp cần phải trình bày tính chất của các điều chỉnh lẽ ra cần phải thực
hiện đối với các thông tin số liệu mang tính so sánh.
Cụ thể đối với Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm phải trình bày số liệu so sánh
theo từng chỉ tiêu tương ứng được lập cho kỳ kế toán năm trước gần nhất (Năm
trước);
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lập theo kỳ kế toán quý phải trình bày
số liệu của quý báo cáo và số lũy kế từ đầu năm đến ngày lập báo cáo tài chính quý

và có thể có số liệu so sánh theo từng chỉ tiêu của Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh quý cùng kỳ năm trước (Quý này năm trước).
@Nói thêm về trách nhiệm lập và gửi báo cáo tài chính ,theo quy định của chế
độ thì tất cả các doanh nghiệp độc lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ đều phải lập và
gửi báo cáo tài chính vào cuối mỗi quý. Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh
nghiệp chịu trách nhiệm về lập, trình bày và gửi báo cáo tài chính theo đúng các quy
định của chế độ. Về thời hạn lập và nơi nhận báo cáo có thể chi tiết trên bảng sau:
Loại
hình
Thời hạn
lập báo
Nơi nhận báo cáo
Cơ quan
tài chính
Cục thuế
Cơ quan
thống kê
Doanh
nghiệp
cấp trên
Cơ quan
đăng kí
kinh
doanh
1.DN
nhà nước
Quý,
năm
    
.DN có

vốn đầu
tư nước
ngoài
Năm     
3.Các
loại hình
DN khác
Năm -    

Về đối tượng áp dụng : Hệ thống báo cáo tài chính năm được áp dụng cho tất
cả các loại hình doanh nghiệp thuộc các ngành và các thành phần kinh tế. Riêng các
doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn tuân thủ các quy định chung tại phần này và những
qui định, hướng dẫn cụ thể phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chế độ kế toán
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc lập và trình bày báo cáo tài chính của các ngân hàng
và tổ chức tài chính tương tự được quy định bổ sung ở Chuẩn mực kế toán số 22
"Trình bày bổ sung báo cáo tài chính của các ngân hàng và tổ chức tài chính tương
tự" và các văn bản quy định cụ thể. Việc lập và trình bày báo cáo tài chính của các
doanh nghiệp ngành đặc thù tuân thủ theo quy định tại chế độ kế toán do Bộ Tài
chính ban hành hoặc chấp thuận cho ngành ban hành. Công ty mẹ và tập đoàn lập
báo cáo tài chính hợp nhất phải tuân thủ quy định tại chuẩn mực kế toán “Báo cáo
tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con”. Đơn vị kế toán cấp
trên có các đơn vị kế toán trực thuộc hoặc Tổng công ty Nhà nước hoạt động theo
mô hình không có công ty con phải lập báo cáo tài chính tổng hợp theo quy định tại
Thông tư hướng dẫn kế toán thực hiện Chuẩn mực kế toán số 25“Báo cáo tài chính
hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con”. Hệ thống báo cáo tài chính giữa
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
niên độ (Báo cáo tài chính quý) được áp dụng cho các DNNN, các doanh nghiệp
niêm yết trên thị trường chứng khoán và các doanh nghiệp khác khi tự nguyện lập
báo cáo tài chính giữa niên độ. Trong giới hạn của đề tài này, em xin được làm rõ

về báo cáo kết quả kinh doanh năm của doanh nghiệp.
4) Nội dung và kết cấu của báo cáo kết quả kinh doanh theo quy định hiện hành
( quyết định 15/2006/QĐ/BTC) :
- Về nội dung: Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh tổng hợp doanh thu, chi
phí và các kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi kì hoạt động.
Trong báo cáo này có nhiều chỉ tiêu liên quan đến doanh thu, chi phí của hoạt động
kinh doanh và các chỉ tiêu liên quan đến thu nhập, chi phí khác cũng như toàn bộ
kết quả các hoạt động của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này đều được theo dõi chi tiết
số năm trước, năm nay và số thứ tự chỉ tiêu được giải trình ở Bản thuyết minh báo
cáo tài chính.
- Kết cấu của một bảng báo cáo kết quả kinh doanh gồm có 5 cột. Cụ thể:
 Cột 1 “Chỉ tiêu”: phản ánh các chỉ tiêu của báo cáo.
 Cột 2 “Mã số”: phản ánh mã số của các chỉ tiêu trong bảng.
 Cột 3 “Thuyết minh” : phản ánh chỉ tiêu trên bản thuyết minh báo cáo tài chính.
 Cột 4 “Năm nay” : phản ánh trị số của các chỉ tiêu trong kì báo cáo.
 Cột 5 “Năm trước”: số liệu để ghi vào cột này được căn cứ vào số liệu ghi
của báo cáo năm trước theo từng chỉ tiêu tương ứng.
5) Cơ sở số liệu và phương pháp lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được lập dựa trên nguồn số liệu sau:
 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kì trước
 Hệ thống sổ kế toán tổng hợp , sổ chi tiết kì này các tài khoản từ loại 5 đến
loại 9.
+Cách lập bảng và tính toán các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh :
Với cột 1 ta ghi tên các chỉ tiêu, yêu cầu phải ghi đúng và ghi đủ tên các chỉ
tiêu theo như quy định hiện hành. Mã số ghi ở cột 2 dùng để cộng khi lập báo cáo
tài chính tổng hợp hoặc báo cáo tài chính hợp nhất. Số liệu ghi vào cột 3 “Thuyết
minh” thể hiện số liệu chi tiết của chỉ tiêu này trong bản thuyết minh báo cáo tài
chính năm. Số liệu ở cột 5 “Năm trước” kì này căn cứ vào số liệu ghi ở cột 4 “Năm
nay” của từng chỉ tiêu tương ứng của báo cáo kết quả kinh doanh kì trước. Cột 3
phản ánh các chỉ tiêu có trên báo cáo thuyết minh tài chính. Các chỉ tiêu của năm

nay sẽ được tính toán như sau:
1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ (Mã số 01) : phản ánh tổng số
doanh thu bán hàng hóa, thành phẩm, bất động sản đầu tư và cung cấp dịch vụ trong
năm báo cáo của doanh nghiệp . Số liệu phản ánh vào chỉ tiêu này là lũy kế số phát
sinh bên Có TK 511 –“Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ” và TK 512 –
“doanh thu bán hàng nội bộ”.
2. Các khoản giảm trừ (Mã số 02) : phản ánh tổng hợp các khoản giảm trừ
vào tổng doanh thu trong năm, bao gồm : chiết khấu thương mại, giảm giá hàng
bán, hàng bán bị trả lại và thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu và thuế GTGT theo
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
phương pháp trực tiếp phải nộp tương ứng với số doanh thu được xác định trong kì
báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là số lũy kế phát sinh bên Nợ TK 511, 512
đối ứng với bên Có TK 521, 531, 532, 3331, 3332, 3333.
3. Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ (Mã số 10) : Chỉ tiêu này
phản ánh số doanh thu bán hàng hóa , thành phẩm, bất động sản đầu tư và cung cấp
dịch vụ sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ .
Mã số 10 = Mã số 01- Mã số 02
4. Giá vốn hàng bán (Mã số 11): Chỉ tiêu này phản ánh tổng giá vốn của hàng
hóa, bất động sản đầu tư, giá thành sản xuất của thành phẩm đã bán, chi phí trực
tiếp của khối lượng dịch vụ hoàn thành đã cung cấp, chi phí khác được tính vào giá
vốn hoặc ghi giảm giá vốn hàng bán trong kì báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu
này là lũy kế số phát sinh Có TK 632- “Giá vốn hàng bán” trong kì báo cáo đối ứng
với bên Nợ TK 911.
5. Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ (Mã số 20) : Chỉ tiêu này
phản ánh số chênh lệch giữa doanh thu thuần về bán hàng hóa, thành phẩm, bất
động sản đầu tư và cung cấp dịch vụ với giá vốn trong kì báo cáo. Số liệu của chỉ
tiêu này được tính như sau:
Mã số 20 = Mã số 10 – Mã số 11
6. Doanh thu hoạt động tài chính ( Mã số 21) : Chỉ tiêu này phản ánh tổng số

doanh thu hoạt động tài chính thuần ( Tổng số doanh thu trừ thuế GTGT tính theo
phương pháp trực tiếp) phát sinh trong kì báo cáo của doanh nghiệp. Số liệu để ghi
vào chỉ tiêu này là lũy kế số phát sinh bên Nợ TK 515 – “Doanh thu hoạt động tài
chính” đối ứng với bên Có TK 911.
7. Chi phí tài chính ( Mã số 22): Chỉ tiêu này phản ánh tổng số chi phí tài
chính, gồm tiền lãi vay phải trả, chi phí bản quyền, chi phí hoạt động liên doanh
phát sinh trong kì báo cáo của doanh nghiệp . Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là lũy
kế số phát sinh bên Có TK 635 – “Chi phí tài chính” đối ứng với bên Nợ TK 911.
Chi phí lãi vay (Mã số 23) : phản ánh chi phí lãi vay phải trả được tính vào chi
phí tài chính trong kì báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này được tính căn cứ vào
sổ kế toán chi tiết TK635.
8. Chi phí bán hàng ( Mã số 24): Chỉ tiêu này phản ánh tổng chi phí bán hàng
phân bổ cho thành phẩm, hàng hóa đã bán trong kì. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này
là tổng cộng phát sinh Có TK 641 – “Chi phí bán hàng” với phát sinh có TK 1422 –
“Chi phí chờ kết chuyển” chi tiết phần chi phí bán hàng, đối ứng với Nợ TK 911
–“Xác định kết quả kinh doanh kì báo cáo”.
9. Chi phí quản lí doanh nghiệp (Mã số 25) : Chỉ tiêu này phản ánh tổng chi
phí quản lí doanh nghiệp phân bổ cho thành phẩm, hàng hóa đã bán trong kì. Số liệu
để ghi vào chỉ tiêu này là tổng cộng phát sinh Có TK 642 – “Chi phí quản lí doanh
nghiệp” và phát sinh Có TK 1422 – “Chi phí chờ kết chuyển” chi tiết phần chi phí
quản lí doanh nghiệp , đối ứng với bên Nợ TK 911 – “Xác định kết quả kinh doanh
kì báo cáo”.
10. Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh (Mã số 30): Chỉ tiêu này phản
ánh kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính trong kì báo
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
cáo. Chỉ tiêu này được tính toán dựa trên cơ sở lợi nhuận thuần về bán hàng và cung
cấp dịch vụ cộng doanh thu hoạt động tài chính trừ đi chi phí tài chính, chi phí bán
hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp phân bổ cho hàng hóa, thành phẩm, dịch vụ đã
tiêu thụ trong kì báo cáo.

Mã số 30 = Mã số 20 + 21 – 22 – 24 – 25 .
11.Thu nhập khác (Mã số 31) : Chỉ tiêu này phản ánh các khoản thu nhập khác
( sau khi đã trừ đi thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp) ngoài hoạt động sản xuất
kinh doanh và hoạt động tài chính phát sinh trong kì báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ
tiêu này là phát sinh Nợ TK 711 – “Thu nhập khác”, đối ứng với bên Có TK 911 –
“Xác định kết quả kinh doanh kì báo cáo”.
12.Chi phí khác (Mã số 32): chỉ tiêu này phản ánh các khoản chi phí khác phát
sinh trong kì báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là phần phát sinh Có TK 811 –
“Chi phí khác” đối ứng với bên Nợ TK 911.
13. Lợi nhuận khác (Mã số 40) : Chỉ tiêu này phản ánh khoản chênh lệch
giữa các khoản thu nhập khác với chi phí khác.
Mã số 40 = Mã số 31 – Mã số 32.
14. Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế ( Mã số 50): Chỉ tiêu này cho biết tổng
số lợi nhuận kế toán thực hiện được trong năm báo cáo của doanh nghiệp trước khi
trừ đi chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động kinh doanh, hoạt động khác
phát sinh trong kì báo cáo.
Mã số 50 = Mã số 30 + Mã số 40.
15. Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành (Mã số 51): Phản ánh chi
phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành phát sinh trong năm báo cáo. Số liệu để
ghi vào chỉ tiêu này căn cứ vào số phát sinh bên Có TK 8211 đối ứng với bên Nợ
TK 911 hoặc số phát sinh bên Nợ TK 8211 đối ứng với bên Có TK 911 [ trường
hợp này ghi bằng số âm (…) ].
16. Chi phí thuế doanh nghiệp hoãn lại ( Mã số 52) : Phản ánh chi phí thuế
thu nhập doanh nghiệp hoãn lại hoặc thu nhập thuế thu nhập hoãn lại phát sinh
trong năm báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này căn cứ vào số phát sinh bên Có
TK 8212 đối ứng với bên Nợ TK 911 hoặc số phát sinh bên Nợ TK 8212 đối ứng
với bên Có TK 911 [ Trường hợp này ghi bằng số âm (…) ].
17. Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp ( Mã số 60) : phản ánh tổng
lợi nhuận thuần (hoặc lỗ) sau thuế từ các hoạt động của doanh nghiệp (sau khi trừ đi
chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp) phát sinh trong năm báo cáo.

Mã số 60 = Mã số 50 – Mã số 51 – Mã số 52.
18. Lãi cơ bản trên cổ phiếu (Mã số 70) : chỉ tiêu này chỉ áp dụng đối với
các công ty cổ phần. Chỉ tiêu này được xác định dựa vào công thức:
Lãi cơ bản trên cổ phiếu =
Lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở
hữu cổ phiếu phổ thông
Số bình quân gia quyền của cổ phiếu đang
lưu hành trong kì
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
CHƯƠNG II :ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG
HOÀN THIỆN BCKQKD VỚI VIỆC PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP .
I) Thực trạng lập và trình bày báo cáo kết quả kinh doanh trong các doanh
nghiệp hiện nay:
- Số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh giúp cho các đối tượng bên ngoài
doanh nghiệp biết được những thông tin cơ bản cần thiết nhất về tình hình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, và đó là cơ sở, là căn cứ quan trọng để
đưa ra các quyết định đầu tư, hợp tác…. Tuy nhiên đối với các nhà quản trị doanh
nghiệp, nếu chỉ dựa vào báo cáo kết quả kinh doanh thì chưa thể có đủ căn cứ và cơ
sở để đưa ra các quyết định quản trị có tính chiến lược cho doanh nghiệp của mình .
Bởi vì số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh khi tính toán, trình bày phải tuân thủ
các chuẩn mực kế toán, theo đúng các chế độ và các quy định hiện hành, thông tin
đưa ra mang tính bắt buộc, trọng tâm của thông tin là cần chính xác, khách quan và
tổng thể, vì vậy các thông tin có thể cứng nhắc, chưa chú ý tới tính linh hoạt, kịp
thời, thích ứng với sự vận động và biến đổi liên tục của nền kinh tế. Bên cạnh đó thì
báo cáo kết quả kinh doanh chỉ sử dụng thước đo giá trị chứ không sử dụng đến
thước đo hiện vật và thước đo thời gian, nên nó sẽ không giúp nhà quản trị đánh giá
về hiệu quả, hiệu năng trong quá trình hoạt động. Có thể lấy ví dụ như :các nhà
quản trị không thể biết được trong doanh nghiệp bộ phận nào, phân xưởng nào tạo

ra được nhiều lợi nhuận nhất, bộ phận nào phát sinh nhiều chi phí và thu được ít kết
quả. Tóm lại là không thể biết được bộ phận nào hoạt động hiệu quả, bộ phận nào
không, và như vậy sẽ không thể quyết định được cần tăng cường, phát triển hoặc
thu hẹp quy mô của bộ phận nào…. Hoặc thông tin trên báo cáo kết quả kinh doanh
cũng không thể phản ánh kịp thời và linh hoạt các vấn đề, nghiệp vụ kinh tế phát
sinh ngày một trong doanh nghiệp và như vậy nó cũng không phải là công cụ đắc
lực trong hoạt động hàng ngày của các nhà quản trị mà nó chỉ có tác dụng hỗ trợ,
giúp đỡ các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định. Một điểm nữa là trong đa số
các doanh nghiệp hiện nay việc phân tích các báo cáo tài chính chưa được thực hiện
một cách chuyên nghiệp, thường chi có các công ty lớn mới chú ý lập, còn công ty
nhỏ, khi báo cáo kết quả kinh doanh được lập ra, cũng tương tự như các báo cáo tài
chính khác, chúng ít được chú trọng đúng mức, đôi khi các kế toán viên lập ra
chúng cũng chính là những người ngồi lại để phân tích chúng luôn. Thêm vào đó,
công tác phân tích tài chính ở các doanh nghiệp hầu như không theo quy trình. Điều
này cũng là một yếu tố làm giảm tính khách quan, chất lượng phân tích thấp, thời
gian không đảm bảo, thiếu linh hoạt trong quá trình phân tích, không phát hiện ra
được các sai phạm trong hệ thống kế toán, làm đáng kể tác dụng của hệ thống báo
cáo tài chính trong doanh nghiệp
- Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi thị trường chứng khoán phát triển
rất nóng, rất mạnh, nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư, các ngân hàng tương đối
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
lớn… ngoài việc nộp báo cáo tài chính cho các cơ quan chức năng, doanh nghiệp
còn cần phải công bố công khai các báo cáo tài chính cho các đối tượng quan tâm
bên ngoài .Tính hữu ích của báo cáo tài chính sẽ giảm đi rất lớn nếu chúng không
được công bố cho những người sử dụng bên ngoài trong một thời gian hợp lí sau
ngày khóa sổ kế toán. Tuy nhiên các văn bản pháp quy ở Việt Nam mới chỉ ấn định
thời hạn lập và nộp cho các cơ quan chức năng nhưng chưa quy định thời hạn công
khai báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cho các
đối tượng bên ngoài. Điều này có thể dẫn tới việc đầu tư kém hiệu quả do thiếu

thông tin của các nhà đầu tư, và nó cũng làm giảm sức thu hút, hấp dẫn của doanh
nghiệp.
- Trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, có 2 hoạt động tạo ra doanh
thu cho doanh nghiệp là lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh ( Mã số 30) và lợi
nhuận khác ( Mã số 40 ). Tổng hợp số liệu từ mã số 30 và mã số 40 ta thu được lợi
nhuận kế toán trước thuế khiến cho người đọc báo cáo dễ hiểu rằng trong doanh
nghiệp chỉ xảy ra 2 hoạt động (vì thu nhập và chi phí của hoạt động tài chính đã đưa
vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh). Thế nhưng khi chuyển sang báo cáo lưu
chuyển tiền tệ thì ta lại thấy xuất hiện cả 3 luồng tiền của 3 hoạt động ( luồng tiền từ
hoạt động kinh doanh, luồng tiền từ hoạt động đầu tư và luồng tiền từ hoạt động tài
chính). Theo VAS 24- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, hoạt động kinh doanh là hoạt
động tạo ra doanh thu chủ yếu cho doanh nghiệp và các hoạt động khác không phải
là hoạt động đầu tư hoặc hoạt động tài chính. Hoạt động đầu tư: là các hoạt động
mua sắm, xây dựng, thanh lí, nhượng bán các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư
khác không thuộc các khoản tương đương tiền. Hoạt động tài chính: Là các hoạt
động tạo ra các thay đổi về quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của
doanh nghiệp. Như vậy từ khái niệm này ta hiểu hoạt động đầu tư sẽ cho ra thu
nhập và chi phí của hoạt động đầu tư, được hạch toán vào thu nhập và chi phí tài
chính trong báo cáo kết quả kinh doanh. Bên cạnh đó, hoạt động khác được đưa vào
báo cáo kết quả kinh doanh để xác định kết quả nhưng lại không thấy xuất hiện
trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là hoạt động khác này có
xảy ra luồng tiền vào ra hay không? Và những sự không thống nhất trong hệ thống
các báo cáo, các chỉ tiêu dễ làm người đọc hiểu lầm cần phải được chỉnh sửa, bổ
sung cho hoàn thiện.
- Chỉ tiêu lãi cơ bản trên cổ phiếu ở trên bảng báo cáo kết quả kinh doanh là
một chỉ tiêu mới có thêm từ quyết định 15/2006/QĐ/BTC (trước đây chưa có chỉ
tiêu này) thế nhưng ở trên báo cáo kết quả kinh doanh thì chỉ tiêu này không được
đề cập chi tiết và kể cả trong thuyết minh báo cáo tài chính thì cũng không có nhiều
thông tin để giải trình cho chỉ tiêu này trong khi đó cần có nhiều thông tin chi tiết
hơn để người đọc hiểu rõ hơn về chỉ tiêu này.

Ví dụ như từ công thức:
Lãi cơ bản trên cổ phiếu =
Lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở
hữu cổ phiếu phổ thông
Số bình quân gia quyền của cổ phiếu đang
lưu hành trong kì
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
Nhưng cổ phiếu tiềm năng chuyển sang cổ phiếu trong kì là bao nhiêu? Các
khoản điều chỉnh lợi nhuận sau thuế là gì?
-Việt Nam đã gia nhập WTO, để hòa nhập với các nền kinh tế khác thì hệ
thống báo cáo tài chính nói chung cũng phải dần chuyển đổi, tuân theo đúng với hệ
thống chuẩn mực quốc tế về báo cáo tài chính (IFRS -International Financial
Reporting Standard), các doanh nghiệp muốn thành công trong môi trường cạnh
tranh gắt gao như vậy thì không thể bỏ qua vấn đề này. Đây không phải là một công
việc dễ dàng vì IFRS được coi là rất phức tạp, ngay cả ở những nền kinh tế phát
triển. Kế toán viên Việt Nam sẽ gặp nhiều khái niệm mới và các phương pháp hạch
toán mới không có trong hệ thống kế toán Việt Nam, việc thích ứng với những
chuẩn mực quy định mới này cũng không hề đơn giản . Mặt khác, hệ thống pháp lí
của chúng ta còn chưa hoàn thiện và cũng không thể một sớm, một chiều là có thể
chuyển đổi ngay được.
-Minh bạch và công khai tài chính trong các doanh nghiệp là một trong
những cơ sở quan trọng để giữ vững, phát triển doanh nghiệp, giúp doanh
nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn trên thị trường, đó là yếu tố sống còn cho
hoạt động kinh doanh về lâu về dài của doanh nghiệp, đó cũng là nguyên tắc cơ
bản trong hoạt động, hành xử của các công ty niêm yết. Thế nhưng, đối với
doanh nghiệp Việt Nam, tính minh bạch của hệ thống báo cáo tài chính lại đang bị
"bóp méo" vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Ví dụ như với công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán, công ty muốn cổ phiếu của mình được đánh giá cao vì giá cổ
phiếu cao đồng nghĩa với kỳ vọng cao của nhà đầu tư về khả năng sinh lợi của công

ty, sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư, thu hút được lượng vốn lớn. Mặt khác, các nhà lãnh
đạo cũng nắm giữ một số lượng lớn cổ phiếu, nên bản thân họ không muốn giá cổ
phiếu bị sụt giảm, và họ đã “bóp méo” thông tin đẩy giá cổ phiếu lên mức quá cao
(overvaluation) bằng nhiều những thủ đoạn, phương thức khác nhau. Trong kế toán,
lời lỗ ngắn hạn trong nhiều trường hợp là thuộc về kỹ thuật (tức phương pháp tính).
Dù đã cổ phần hóa, vẫn không loại trừ chuyện công ty thiết lập hai hệ thống sổ
sách, một công khai, một bí mật. Có không ít báo cáo tài chính được lập ra chỉ chủ
yếu để đối phó với thuế và làm hài lòng cổ đông. "Làm xiếc" với các con số không
phải là không thể. Chỉ một nhóm lãnh đạo công ty và cổ đông lớn biết được thực
chất còn đa số cổ đông nhỏ khó có cơ hội tiếp cận với sự xác thực của các con số
trên báo cáo. Như vậy là báo cáo đã không minh bạch. Lấy ví dụ như: giảm tỷ lệ
khấu hao, giảm mức dự phòng giảm giá hàng tồn kho, giảm tỷ lệ dự phòng phải thu
khó đòi, tăng cường khuyến mại để “thổi” doanh thu, hoặc công ty mẹ mở công ty
con rồi đưa công ty con lên sàn niêm yết. Khi lập báo cáo tài chính, lợi nhuận đổ hết
vào công ty con; chi phí thì công ty mẹ chịu cả. Trên thị trường chứng khoán, nhà
đầu tư thấy công ty con làm ăn hiệu quả thì đổ xô vào mua. Giá cổ phiếu công ty
con tăng cao. Công ty mẹ lẳng lặng lấy khoản chênh lệch do bán cổ phiếu bù vào
khoản chi phí. Mặt khác, trong cùng hệ thống, các công ty con bán lòng vòng sản
phẩm cho nhau rồi ghi vào doanh thu làm tăng doanh thu và lãi cho nhau. Còn với
những công ty chưa niêm yết khi lập báo cáo tài chính luôn có xu hướng, tâm lí
“phòng thủ”, công ty luôn muốn khai thấp doanh thu, tăng chi phí nhằm giảm lợi
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
nhuận chịu thuế, giảm thuế GTGT đầu ra phải nộp cũng như giảm khoản thuế
TNDN phải nộp. Việc làm này của doanh nghiệp đã làm thất thu thuế của nhà
nước, giảm lợi ích xã hội. Ngoài ra, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh
nghiệp cũng khiến các chủ doanh nghiệp phải dè chừng đối thủ, quyết không để lộ
"nội tình" thật sự của mình, nhằm tránh bất lợi về thông tin. Bên cạnh đó, doanh
nghiệp cũng chưa sẵn sàng trả chi phí cho việc kiểm toán độc lập. Và ngay trong hệ
thống báo cáo thì nhà nước cũng không quy định bắt buộc phải có báo cáo của kiểm

toán. Trước lúc quyết định đầu tư, bắt tay hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam,
thông thường các nhà đầu tư nước ngoài lấy báo cáo tài chính làm căn cứ. Thế
nhưng, sự thiếu minh bạch ở của báo cáo tài tài chính đã khiến nhà đầu tư trở nên e
ngại và nhiều cơ hội làm ăn lớn đã tuột khỏi tầm tay. Bên cạnh đó, các ngân hàng,
tổ chức tín dụng cũng dè dặt hơn, yêu cầu khắt khe hơn.Theo tờ VietNam News,
ông Alain Cany, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành ngân hàng HSBC, một ngân
hàng lớn trên toàn cầu đã cho rằng, do rất nhiều doanh nghiệp không quan tâm tới
vấn đề minh bạch tài chính nên các ngân hàng cần phải thận trọng trong việc cho
vay những doanh nghiệp này. Cũng quan điểm này, theo 1 tài liệu của ngân hàng
phát triển châu Á(ADB) nhận định, thông tin tài chính không đầy đủ là một trong
những vấn đề nghiêm trọng nhất mà các ngân hàng gặp phải khi đánh giá độ tin cậy
tín dụng của doanh nghiệp.Hiện chỉ có 32,38% DN có khả năng tiếp cận vốn ngân
hàng, 35,24% khó tiếp cận và 32,38% không tiếp cận được. Thêm vào đó, chưa mấy
doanh nghiệp có thể niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán nước ngoài Điều
này là do doanh nghiệp chưa thực sự minh bạch về tài chính và khả năng quản trị
doanh nghiệp hạn chế.
Có rất nhiều nguyên nhân để các doanh nghiệp không minh bạch thông tin tài
chính, nhưng tựu chung lại đó là do : thứ nhất, ban lãnh đạo doanh nghiệp chưa ý
thức, chưa hiểu rõ tầm quan trọng của một hệ thống thông tin tài chính lành mạnh
và việc báo cáo cho đầy đủ dẫn tới việc chưa quan tâm đòi hỏi và giám sát chặt chẽ
tình hình thực hiện chức năng kế toán của doanh nghiệp, họ có thể mới chỉ quan
tâm tới những lợi ích trước mắt mà không quan tâm tới sự phát triển lâu dài bền
vững của doanh nghiệp. Thứ hai, do thiếu sự kiểm tra và giám sát từ bên ngoài, việc
kiểm toán còn chưa bắt buộc và chưa được thực hiện hàng năm ở mọi doanh
nghiệp, việc lập và công khai báo cáo tài chính chưa được kiểm tra, giám sát chặt
chẽ. Ngoài ra, trình độ của đội ngũ kế toán viên trong một số doanh nghiệp còn
chưa đáp ứng được yêu cầu của các quy định chuẩn mực mới, không thông thạo về
luật pháp Việt Nam cũng như các chuẩn mực của quốc tế. …
II) Các phương hướng hoàn thiện:
Để hệ thống báo cáo tài chính ngày càng phát huy tác dụng đối với các hoạt

động của doanh nghiệp cũng như với các đối tượng quan tâm khác, em xin đưa ra
một số kiến nghị như sau:
 Thứ nhất, trong doanh nghiệp, các nhà quản trị khi sử dụng báo cáo kết
quả kinh doanh cần kết hợp thêm với hệ thống báo cáo kế toán quản trị để có được
những thông tin đầy đủ nhất, hỗ trợ một cách tốt nhất cho việc ra các quyết định
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
chiến lược và quá trình quản trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nên
có bộ phận phân tích tài chính riêng, tách bạch với bộ phận kế toán. Nếu như doanh
nghiệp nhỏ, không đủ kinh phí duy trì thì có thể thuê chuyên gia phân tích báo cáo
tài chính nhằm khai thác tối đa những thông tin mà hệ thống báo cáo tài chính đưa
lại.
 Thứ hai, về vấn đề thời gian công khai báo cáo tài chính cho các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp theo em cũng cần phải được quy định cụ thể cho các
doanh nghiệp. Thời hạn này được hướng dẫn trong chuẩn mực kế toán quốc tế là 6
tháng kể từ ngày khóa sổ kế toán. Rất nhiều nước trên thế giới ấn định trong các văn
bản pháp quy thời hạn công bố hệ thống Báo cáo thường niên ( bao gồm báo cáo tài
chính, báo cáo kiểm toán, báo cáo quản lí và các báo cáo khác được quy định theo
luật pháp từng nước). Chúng ta có thể tham khảo thời hạn quy định của các nước và
chuẩn mực quốc tế để đặt ra thời hạn một cách hợp lí và phù hợp, có thể là 3 tháng
hoặc 6 tháng như trong chuẩn mực quốc tế quy định.
 Thứ ba, theo như phần trên đã phân tích ta thấy giữa báo cáo kết quả kinh
doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ không hoàn toàn thống nhất, người đọc hệ
thống báo cáo dễ có thể hiểu nhầm. Theo em, một trong hai báo cáo này cần chỉnh
sửa lại để hệ thống thống nhất hơn. Trong báo cáo kết quả kinh doanh, nên có riêng
chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận hoạt động tài chính, hoạt động tài chính sẽ tách ra khỏi
hoạt động kinh doanh. Chỉ tiêu doanh thu tài chính và chi phí tài chính sẽ được xếp
sau chỉ tiêu lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh, tiêp sau nữa đó là chỉ tiêu lợi
nhuận hoạt động tài chính. Trong chuẩn mực số 21, cũng như thông tư số
23/2005/TT-BTC và quyết định số 15/2006/QĐ-BTC không hướng dẫn cụ thể hoạt

động khác là những hoạt động gì, theo em cần thiết phải bổ sung hướng dẫn này vào
trong quyết định.
 Thứ tư, trong thuyết minh báo cáo tài chính cần phải giải trình rõ hơn về
nội dung, các yếu tố của chỉ tiêu lãi cơ bản trên cổ phiếu ở trên báo cáo kết quả kinh
doanh.
 Thứ năm, Việt Nam gia nhập WTO, yêu cầu hệ thống quy định chuẩn
mực cũng phải tiến gần hơn với các thông lệ chung của thế giới, để VAS tiệm cận
với hệ thống chuẩn mực quốc tế về báo cáo tài chính IFRS việc đầu tiên là cần xây
dựng một đội ngũ nhân viên kế toán và tài chính có năng lực, đảm bảo việc xử lý
giao dịch đầy đủ, chính xác và đưa ra được các phân tích tài chính chi tiết. Việc áp
dụng đúng các phương pháp hạch toán phù hợp và các yêu cầu trình bày và thuyết
minh theo IFRS có thể đòi hỏi phải ghi chép những thông tin mà doanh nghiệp hiện
không lưu giữ. Các doanh nghiệp cần thiết lập hệ thống và qui trình để đảm bảo
tuân thủ các chuẩn mực kế toán áp dụng. Việc quản lý công tác BCTC, trong đó có
yêu cầu tuân thủ và kiểm toán nội bộ, cần được tăng cường nhằm đảm bảo tính
trung thực của BCTC. Với sức ép và sự giám sát ngày càng cao của công chúng và
các cơ quan quản lý, trong khi việc chuyển đổi sang IFRS cần nhiều thời gian,
doanh nghiệp không thể bỏ qua vấn đề này nếu muốn thành công trong môi trường
cạnh tranh. Việc lập lộ trình để áp dụng IFRS, bao gồm nâng cao nhận thức, đào tạo
và xây dựng hệ thống là cấp bách và bắt buộc. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần phải
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
hoàn thiện khung pháp lí, hoàn thiện hệ thống chính sách, các biểu mẫu, các chỉ tiêu
để phù hợp hơn với tình hình, yêu cầu của hoàn cảnh mới.
 Thứ sáu, về việc minh bạch hệ thống báo cáo tài chính đòi hỏi phải có sự
nỗ lực và phối hợp, hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ, các tổ chức chuyên môn và
các doanh nghiệp. Theo em, trước hết phải có một khuôn khổ pháp lí và các chính
sách ưu đãi phù hợp. Hiện nay, đã có các quy định bắt buộc về việc lập báo cáo và
công khai thông tin tài chính, tuy nhiên chúng ta cần đưa ra các chính sách khuyến
khích tích cực đối với việc tuân thủ cũng như các chế tài phù hợp đối với các doanh

nghiệp vi phạm. Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức của chủ sở hữu, ban lãnh đạo
và nhân viên quản lí về tầm quan trọng của minh bạch tài chính. Các chủ doanh
nghiệp cần nhận thức được rằng sự tiếp cận nguồn tài trợ từ bên ngoài( như vốn đầu
tư hay vốn vay) phụ thuộc rất lớn vào tính minh bạch và việc cung cấp trao đổi
thông tin công khai, cởi mở về thực trạng và triển vọng của doanh nghiệp. Nên xây
dựng môi trường văn hóa doanh nghiệp, tăng cường việc áp dụng công nghệ thông
tin vào nghiệp vụ kế toán và lập báo cáo tài chính, hệ thống thông tin quản lí. Một
điều quan trọng nữa là nâng cao kiến thức chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho
các kế toán viên và những người có liên quan đến vấn đề tài chính của doanh
nghiệp. Điều này có thể được thực hiện thông qua các khóa đào tạo đều đặn về các
chuẩn mực cũng như những thay đổi, ảnh hưởng của chúng. Việc kiểm toán các báo
cáo tài chính cũng là một nhân tố góp phần trong quá trình thực hiện minh bạch báo
cáo tài chính. Cần phải hợp pháp hóa các quy định kiểm toán bắt buộc đối với báo
cáo tài chính, có thể đặt ra các ngưỡng kiểm toán dựa vào doanh thu, tài sản hoặc số
nhân viên để xác định xem những doanh nghiệp nào phải kiểm toán. Cũng cần có
thêm các phương tiện quản lí và giám sát thường xuyên và hiệu quả.
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu ta thấy hệ thống báo cáo tài chính nói chung và
báo cáo kết quả kinh doanh nói riêng thật sự rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối
với doanh nghiệp cũng như các đối tuợng bên ngoài quan tâm tới doanh nghiệp như
các ngân hàng, các nhà đầu tư…. Việc nghiên cứu và vận dụng hệ thống báo cáo tài
chính doanh nghiệp là một điều tất yếu và bắt buộc cần có. Tuy nhiên việc hiểu biết
thấu đáo và sử dụng các thông tin phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh cũng
như trong trong hệ thống báo cáo tài chính sao cho hữu ích nhất không phải là vấn
đề đơn giản mà khá phức tạp. Với mỗi người kế toán viên thì việc nghiên cứu và
hiểu rõ về hệ thống báo cáo tài chính càng cần thiết và quan trọng hơn nữa, vì vậy
qua đề án này em hi vọng sẽ học hỏi và hiểu biết rõ hơn về báo cáo kết quả kinh
doanh nói riêng và hệ thống báo cáo tài chính nói chung. Đất nuớc chúng ta đang

trong quá trình phát triển và hội nhập với thế giới, mặc dù hệ thống báo cáo tài
chính còn nhiều điểm còn chưa tương đồng , bất cập và cần học hỏi thêm, nhưng em
tin rằng chúng ta sẽ sớm hòa nhập cùng với thế giới, trở thành một đất nước có nền
kinh tế mạnh trong khu vực cũng như trên thế giới.
Với khả năng nghiên cứu và phân tích còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế còn
chưa có nhiều, nên bài viết này của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận được ý kiến đánh giá, nhận xét của cô nhằm hoàn thiện hơn đề tài này.
Một lần nữa em xin chân thành cám ơn PGS-TS Nguyễn Minh Phương đã
hướng dẫn và chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình em thực hiện đề án này!
Lê Mai Hằng Kế toán 46D
Đề án môn học Kế toán tài chính
PHỤ LỤC:
MẪU BÁO CÁO KẾT QUẢ KINH DOANH THEO QUYẾT ĐỊNH 1141/TC/CĐKT:
Đơn vị: Mẫu số B02 – DN
……………
PHẦN I : LÃI (LỖ)
Đơn vị tính : ….
Chỉ tiêu Mã số
Quý
trước
Quý này
Lũy kế từ đầu
năm
1 2 3 4 5
Tổng doanh thu 01
Trong đó doanh thu hàng xuất khẩu 02
Các khoản giảm trừ( 04+05+06+07) 03
Chiết khấu 04
Giảm giá 05
Giá trị hàng bán bị trả lại 06

Thuế doanh thu, thuế xuất khẩu phải nộp 07
1. Doanh thu thuần (01-03) 10
2. Giá vốn hàng bán 11
3. Lợi tức gộp(10-11) 20
4. Chi phí bán hàng 21
5. Chi phí quản lí doanh nghiệp 22
6. Lợi tức thuần từ hoạt động kinh
doanh[20–(21+22)]
30
Thu nhập hoạt động tài chính 31
Chi phí hoạt động tài chính 32
7. Lợi tức hoạt động tài chính(31-32) 40
Các khoản thu nhập bất thường 41
Chi phí bất thường 42
8.Lợi tức bất thường(41-42) 50
9. Tổng lợi tức trước thuế(30+40+50) 60
10. Thuế lợi tức phải nộp 70
11. Lợi tức sau thuế 80
Lê Mai Hằng Kế toán 46D

×