Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.84 KB, 31 trang )


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 2
NỘI DUNG CHÍNH 4
I. Các định nghĩa liên quan đến cạnh tranh 4
II. Một số kinh nghiệm của các nước bạn trong vấn đề nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 5
1. Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp: 5
1.1 .Nhật Bản: 5
1.2. Trung Quốc: 8
2. Năng lực cạnh trang của các sản phẩm nông nghiệp: 10
III. Thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam: 11
1. Trước khi gia nhập WTO 11
1.1. Thành tựu: 11
1.2. Hạn chế: 13
2. Sau khi gia nhập WTO 16
2.1. Trước hết xin đề cập đến những nguyên tắc nền tảng của WTO: 16
2.2. Cơ may 17
2.3. Thách thức 19
IV. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam 20
1. Xây dựng chiến lược phát triển và chiến lược cạnh tranh tích cực: 20
2. Phát triển khoa học công nghệ và giáo dục nhằm nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế 26
3. Tiếp tục hoàn thiện chính sách kinh tế, dịch vụ tài chính ngân hàng:.26
4. Một số giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả cạnh tranh một số ngành có
sức cạnh tranh của Việt Nam: 27
4.1. Sản phẩm nông nghiệp: 27
4.2. Ngành dệt may: 29
C. KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31


1
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày 7/11/2006- một ngày đặc biệt thành công của Việt Nam khi các
vòng đàm phán gia nhập WTO chính thức kết thúc. Việt Nam đã trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức WTO sau 15 năm đàm phán.
Sau những nỗ lực giờ đây Việt Nam đã “mua” được tấm vé gia nhập câu
lạc bộ WTO và sẽ được hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng với
các thành viên khác. Nhưng, nếu ai coi WTO là một con gà đẻ trứng vàng cho
Việt Nam thì xin khẳng định đó là một quan niệm sai lầm hoàn toàn. Bởi quá
trình đàm phán không đề cập đến việc cải thiện điều kiện gia nhập thị trường
thế giới cho hàng hoá Việt Nam mà ngược lại đó là quá trình thương thuyết
nhằm xác định cái giá mà Việt Nam phải trả cho việc tự do hoá gia nhập thị
trường nội địa cho các sản phẩm dịch vụ nước ngoài, để đổi lấy việc được
tham gia vào quá trình tự do hoá thị trường toàn cầu cũng như khuôn khổ
pháp luật cho thương mại đa phương đã được các nước thành viên WTO liên
tục đàm phán kể từ năm 1948.
Có thể nói gia nhập WTO không phải để Nhà nước và các doanh nghiệp
Việt Nam đẩy gánh nặng phát triển kinh tế cho các nước thành viên mà thực
chất gia nhập WTO là đưa Việt Nam vào quá trình cạnh tranh không mệt mỏi,
cạnh tranh liên tục trên một sân chơi bình đẳng, không còn chính sách bảo hộ
hàng hoá như trước. Chính vì vậy, ông Peter Mandelson đã phát biểu: “Vào
WTO, được rất lớn nhưng mất cũng rất nhiều”.
Dù biết gia nhập WTO Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thách thức
nhưng toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế
giới. Nếu đứng ngoài xu thế chung này, tất yếu Việt Nam sẽ bị đẩy khỏi sân
chơi thương mại quốc tế, và tụt hậu là một điều chắc chắn.
Khó khăn nhiều nhưng thuận lợi cũng không phải ít. Quá trình hội nhập,
toàn cầu hoá kinh tế sẽ mở ra những cơ hội và tạo điều kiện cho chúng ta phát
huy lợi thế so sánh cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Phải khẳng
định rằng quốc gia nào chiếm được vị trí có lợi trong cạnh tranh thị trường thì

quốc gia đó sẽ chiếm được quyền chủ động trong tiến trình toàn cầu hoá kinh
tế. Vì vậy vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam là vấn đề
thực tiễn nóng bỏng, sôi động được các nhà hoạch định chính sách, nhà quản
lý doanh nghiệp và chính phủ quan tâm nghiên cứu.
Trong đề án này, xin được trình bày một số vấn đề liên quan đến năng
lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi gia nhập WTO.
2
Đề án tập trung vào 3 nội dung chính sau:
(1) Một số kinh nghiệm của các nước bạn trong vấn đề nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
(2) Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
(3) Các giải pháp chủ yếu nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Sau đây xin đi vào nội dung chi tiết của đề án.
3
NỘI DUNG CHÍNH
I. Các định nghĩa liên quan đến cạnh tranh
Cạnh tranh kinh tế, về mặt lý luận từ lâu đã được các nhà kinh tế học
trước Mác và chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã đề
cập đến.
Cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực trong nền kinh tế thị
trường. Trong văn kiện đại hội Đảng VIII của Đảng cũng đã ghi rõ “Cơ chế
thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh. hợp
pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích của đất nước chứ không phải làm phá
sản hang loạt, lãng phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau.”
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau
tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của
mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như
các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ
thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản

xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và
sự tiện lợi.
Nếu ta xét cạnh tranh theo những tiêu thức khác nhau ta sẽ có những loại
cạnh tranh khác nhau. Chẳng hạn, khi nói đến tính chất cạnh tranh thì có 2
loại là cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Nếu xét dưới
góc độ thị trường, cạnh tranh gồm 2 loại là cạnh tranh hoàn hảo thuần tuý và
cạnh tranh không hoàn.Nếu xét dưới góc độ công đoạn sản xuất-kinh doanh,
người ta cho rằng có 3 loại cạnh tranh: cạnh trang trước khi bán hàng, trong
quá trình bán hàng, và sau khi bán hàng.Còn nếu xét theo mục tiêu kinh tế của
các chủ thể trong cạnh tranh, có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh
giữa các ngành. Cuối cùng nếu xét theo phạm vi lãnh thổ, người ta nói tới
cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế. Nhưng cạnh tranh quốc tế có thể
diễn ra ở ngay thị trường nội địa, đó là cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước
sản xuất và hàng hoá ngoại nhập nhất là hàng hoá nhập lậu. Đặc biệt khi nước
ta gia nhập WTO cạnh tranh quốc tế trong nội địa ngày càng tăng mạnh vì
chúng ta phải giảm thuế nhập khẩu cho hàng hoá nước ngoài nên giá cả hàng
hoá ngoại sẽ giảm. Do đó nếu sản phẩm của chúng ta không có sức cạnh tranh
mạnh mẽ chắc chắn sẽ bị đánh bật, dẫn tới phá sản.
Sau đây là một số nhân tố chính cấu thành nên sức mạnh cạnh tranh:
4
_Đó là chất lượng hàng hoá tốt. Đây là nhân tố quan trọng nhất quyết
định khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
_Đó là giá cả thấp.
_Và cuối cùng là thời gian và điều kiện dịch vụ. Tức là hàng hoá đưa ra
thị trường đúng thời điểm xã hội cần, bán nhanh, thanh toán nhanh. Sau khi
tiêu thụ thì có các dịch vụ tốt:bảo hành, sửa chữa, hướng dẫn tiêu dùng…
II. Một số kinh nghiệm của các nước bạn trong vấn đề nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp:
1.1 .Nhật Bản:

Để có nền kinh tế siêu cường như ngày nay, Nhật Bản đã phải trải qua
hơn 100 năm phát triển. Trong đó có thể nói thời kì 1955-1973 là thời kì rất
đặc biệt. Thời kì này kinh tế mỗi năm tăng trưởng bình quân 10% và thành
quả này kéo dài trong thời gian khoảng 20 năm. Các nhà nghiên cứu gọi đây
là giai đoạn “thần kì” hoặc “thời đại phát triển cao độ” của Nhật Bản.
Nhưng, trước khi bước vào giai đoạn thần kì này, Nhật Bản đứng trước
một tình huống quốc tế giống như Việt Nam hiện nay là phải có một chiến
lược như thế nào trước trào lưu chung của thế giới là mở cửa, hội nhập vào
nền kinh tế thế giới trong khi nền kinh tế nước mình còn non yếu.
Nhật Bản là nước nghèo tài nguyên vào loại nhất thế giới nên ngoại
thương có vai trò vô cùng quan trọng cho kinh tế phát triển. Rõ ràng việc gia
nhập các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới sẽ mang lại cơ hội tiếp cận thị
trường thế giới rộng lớn. Song việc đó lại đi kèm theo những nghĩa vụ phải
mở cửa thị trường nước mình đối với hàng ngoại và hoạt động đầu tư của các
công ty nước ngoài trong khi trình độ phát triển kinh tế của Nhật Bản còn non
yếu so với cac nước Âu-Mĩ. Nhưng chỉ có con đường chấp nhận hội nhập,
giảm bớt thách thức đồng thời đưa ra các chiến lược phát triển các ngành
công nghiệp mà Nhật Bản có tiềm năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Chiến lược mở cửa, hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế
Nhật Bản gồm 3 bộ phân không thể tách rời:
Thứ nhất, việc mở cửa như thế nào để hàng nhập không cản trở sự phát
triển của các ngành công nghiệp trong nước.
Thứ hai,việc mở cửa phải kết hợp với chiến lược, chính sách làm sao cho
các ngành công nghiệp ngày càng có sức cạnh tranh trong thị trường trong
nước và thế giới.
5
Thứ ba, để hội nhập có hiệu quả, tranh thủ được nhiều cơ hội của thị
trường thế giới phải có chiến lược và tổ chức đẩy mạnh xuất khẩu.
Sự phát triển thần kì và sự tăng cường sức cạnh tranh quốc tế của một số
ngành công nghiệp chủ yếu của Nhật Bản trong thời kì này đã chứng minh sự

đúng đắn của chiến lược mở cửa, hội nhập nêu trên.
Sau đây là cụ thể chiến lược kinh tế nói trên của Nhật Bản:
a. Nhật Bản từng bước thực hiện tự do hoá mậu dịch và bảo hộ sản xuất để
tăng dần sức cạnh tranh của các mặt hàng công nghiệp:
Vào tháng 2/1955, Nhật Bản gia nhập GATT. Theo quy định của GATT,
các nước thành viên phải tiến hành tự do hoá mậu dịch (trade liberalization)
nghĩa là không được dung quản lý hạn ngạch hoặc các biện pháp hành chính
khác để bảo hộ thị trường trong nước nhưng được dùng thuế quan để bảo hộ.
Tuy vậy, Nhật Bản đã xin hoãn thực hiện điều thứ 11 của tổ chức này là
các nước thành viên không được hạn chế nhập khẩu vì lí do cán cân thanh
toán bị nhập siêu. Phải đến năm 1963, Nhật Bản mới tham gia điều thứ 11 của
GATT. Trong khoảng thời gian 8 năm đó, Nhật Bản đã đưa ra một chương
trình tự do hoá nhập khẩu rất tỉ mỉ và cẩn thận, bắt đầu từ những ngành đang
có lợi thế so sánh hoặc ít bị áp lực xã hội, từng bước đưa thêm các ngành khác
vào chương trình tự do hoá. Và chương trình này đã thực sự thành công.
Đồng thời, Nhật Bản còn cải cách luật thuế quan vào năm 1961, và tích
cực dung thuế quan làm công cụ bảo hộ các ngành công nghiệp còn non trẻ.
Ngoài ra, chính phủ Nhật Bản còn áp dụng các chính sách thuế đặc biệt như
giảm thuế đối với 1 số công ty đặc biệt, hoàn trả thuế… Bằng những biện
pháp trên, Chính phủ Nhật đã khuyến khích các công ty phát triển các ngành
công nghiệp mới hoặc hạn chế các ngành công nghiệp không cần thiết. Điều
đáng quan tâm là mức thuế quan được tính tuỳ theo khả năng cạnh tranh của
từng ngành. Tuy vậy trong từng ngành, biện pháp này chỉ được áp dụng trong
thời gian ngắn và chính phủ công bố thời khoá biểu giảm dần mức thuế quan
để làm áp lực cho các xí nghiệp trong nước cố gắng vươn lên để có thể cạnh
tranh mà không cần bảo hộ.
Nhận Bản rất sợ các công ty xuyên quốc gia của phương Tây sẽ chi phối
nền kinh tế của mình nếu tự do hoá đầu tư của các xí nghiệp nước ngoài vì
vậy Nhật Bản rất dè dặt trong việc tự do hoá tư bản. Trong thời gian từ 1967-
1975, Nhật Bản có 5 lần tự do hoá tư bản và bắt đầu từ những ngành trong

nước có sức cạnh tranh hoặc những ngành truyền thống mà các công ty nước
ngoài hầu như không quan tâm.
6
Song song với việc trì hoãn tự do hoá tư bản, chính phủ Nhật tích cực
khuyến khích, sắp xếp các công ty trong nước tạo thành các công ty lớn, đủ
sức cạnh tranh với các công ty xuyên quốc gia sau khi mở cửa thị trường đầu
tư ra nước ngoài.
b. Xây dựng chiến lược phát triển và tăng sức cạnh tranh của các ngành công
nghiệp
_Thứ nhất,Nhật Bản đã chon các ngành có lợi thế so sánh động-lợi thế so
sánh có được trong tương lai- và đưa ra cơ cấu công nghiệp trung và dài hạn.
Đó phải là các ngành có khả năng tăng năng suất lao động nhanh, những
ngành mà Nhật Bản có khả năng hấp thu công nghệ nhập khẩu một cách có
hiệu quả và là những ngành mà nhu cầu sẽ tăng nhanh khi lợi nhuận tăng. Với
lực lượng lao động có kĩ năng cao cùng với nhiều yếu tố khác, Nhật đã chọn
hầu hết các ngành công nghiệp nặng và ngành có công nghệ cao.
_Thứ hai, Nhật Bản đã đưa ra các chính sách nuôi dưỡng ngành công
nghiệp chẳng hạn như ban hành các luật hoặc pháp lệnh cho từng ngành đồng
thời có biên pháp trợ giúp về giá và về tín dụng…
_Thứ ba, các chính sách, chiến lược công nghiệp được chuẩn bị với sự
tham gia rộng rãi của nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt là sự liên kết, hợp tác
giữa chính phủ với lãnh đạo các doanh nghiệp và học giả kinh tế.
c. Xây dựng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp gồm 2 phần:
Một là, khả năng tổ chức của các công ty tư nhân. Đó là sự hình thành
của các tổng công ty thương mại. Các tổng công ty này có các tính chất cơ
bản sau:
_Tính tổng hợp: kinh doanh nhiều mặt hàng.
_Tính đa dạng: kinh danh xuất nhập khẩu, bán buôn trong nước, bán
buôn giữa các nước bên ngoài Nhật Bản.
_Tính tổ chức: đóng vai trò tích cực trong việc cung cấp vốn, tín dụng

cho các doanh nghiệp nhỏ, giới thiệu công nghệ mới, tìm đối tác và đầu tư
trực tiếp trong các liên doanh ở nước ngoài.
Hai là, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu của chính phủ: Trong quá trình
phát triển các ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu, vai trò của Chính phủ
Nhật rất to lớn. Chính phủ Nhật đã áp dụng :
_Chính sách ưu đãi cho các xí nghiệp xuất khẩu, chính sách miễn giảm
thuế cho các công ty xuất khẩu.
_Thiết lập cơ quan, tổ chức hỗ trợ xuất khẩu. Trong lĩnh vực này, Chính
phủ Nhật Bản lập ra chế độ thừa nhận xí nghiệp cống hiến xuất khẩu , lập ra
7
ngân hàng xuất khẩu để hỗ trợ tín dụng cho các dự án xuất khẩu có kim
nghạch lớn, lập hội nghị tối cao bàn về xuất khẩu gồm đại diện chính phủ và
giới kinh doanh,lập chế độ kiểm tra hàng xuất khẩu và cuối cùng lập tổ chức
chấn hưng mậu dịch để hỗ trợ về mặt thông tin và tiếp thị.
Khả năng tổ chức và nỗ lực của các công ty tư nhân kết hợp với các
chính sách hỗ trợ của chính phủ đã làm cho xuất khẩu của Nhật Bản tăng
nhanh và chiếm thị phần lớn trên thị trường quốc tế.
Như vậy, sự thành công trong phát triển kinh tế và nâng cao sức cạnh
tranh của các ngành công nghiệp Nhật Bản do các yếu tố sau đây tạo nên :
*Chiến lược mở cửa hội nhập đã kết hợp được với chiến lược, chính
sách làm cho các ngnàh công nghiệp ngày càng có sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới và chiến lược tranh thủ nhiều nhất cơ hội của thị trường thế
giới thông qua việc tổ chức, đẩy mạnh sản xuất.
*Các chiến lược này đưa ra được thực thi cao và có hiệu quả nhờ huy
động được sức mạnh tổng hợp thể hiện ở năng lực phẩm chất của công chức
nhà nước, của lãnh đạo doanh nghiệp, ở sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ
với doanh nghiệp và trí thức trong việc định ra chiến lược, ở sức mạnh của
các tập đoàn kinh tế.
1.2. Trung Quốc:
Trung Quốc vốn là một nước xã hội chủ nghĩa, trước kia nền kinh tế

cũng theo chế độ kế hoạch hoá tập trung. Kể từ sau Hội nghị lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá XI(1978), Trung Quốc bước vào giai đoạn
thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từng bước sang cơ chế thị trường với tiêu
chí xây dựng 1 nước xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc.
Bằng việc áp dụng nhiều chính sách mới phù hợp, Trung Quốc đã đưa
nền kinh tế phát triển vượt bậc.Dưới đây là những kinh nghiệm của Trung
Quốc trong lĩnh vực công nghiệp và ngoại thương được coi là những nguyên
nhân trực tiếp tạo nên sức cạnh tranh của hàng công nghiệp Trung Quốc trên
thị trương thế giới.
Thành công lớn nhất của Trung Quốc trong lĩnh vực hàng công nghiệp
xuất khẩu là trong một thời gian không lâu đã đẩy nhanh xuất khẩu khiến cho
cán cân thanh toán theo chiều hướng có lợi.
Để đạt được nhữnh thành công to lớn như vậy chinh là nhờ Trung Quốc
đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa đẩy mạnh sản xuất, đổi mới kĩ thuật trong
công nghiệp với những chính sách ngoại thương đúng đắn.
8
_ Trung Quốc đã có rất nhiều biện pháp để hạ giá thành sản phẩm. Đây
là những giải pháp “gốc” vì sản phẩm sản xuất ra có giá thành thấp sẽ dễ tiêu
thụ trên cả thị trường trong nước và ngoài nước. Kinh nghiệm của Trung
Quốc cho thấy có thể hạ giá thành sản phẩm cần có các biện pháp:
Một là, về mặt sản xuất:
+Trung Quốc đã tìm nhiều biện pháp đổi mới công nghệ làm cho năng
suất của các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước tăng lên, giá
thành sản phẩm hạ.Một trong những việc làm tích cực là tìm cách thu hút vốn
đầu tư nước ngoài bằng những c hính sách thông thoáng.
+Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng rất chú trọng học tập kinh nghiệm tổ
chức và quản lý xí nghiệp của nước ngoài bằng cách hang năm cử rất nhiều
người ra nước ngoài tham quan học tập đông thời thông qua việc nhận thầu
các công trình và cử người đi lao động ở nước ngoài để học tập
+Lựa chọn những mặt hàng là thế mạnh của Trung Quốc như hàng công

nghiệp nhẹ (đồ chơi, dệt may, hang ngũ kim, hang mây tre…), hàng sử dụng
nhiều lao động… là những hàng hoá có tính truyền thống của Trung Quốc,
không cần vốn lớn lại dễ đổi mới công nghệ.
+Hơn nữa Trung Quốc cũng rất chú trọng khoa học-kĩ thuật, coi trọng
chất xám.
+Trung Quốc còn đưa ra các biện pháp về đổi mới quan hệ sản xuất. Đó
là tách rời chức năng chính quyền và xí nghiệp làm tăng tính tự chủ của doanh
nghiệp và hạn chế những tiêu cực, trì trệ nảy sinh từ quan hệ này. Đó là tách
quyền sở hữu với những quyền sử dụng càng làm tăng thêm một bước quyền
tự chủ, chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp.
Thứ hai, về các chính sách tài chính và tiền tệ: để giảm giá hàng công
nghệ phẩm, bên cạnh những biện pháp tác động vào sản xuất, nhà nước Trung
Quốc rất chú trọng vào những giải pháp ngoài sản xuất mà tài chính tiền tệ là
một công cụ quan trọng.Việc cho phéphình thành giá cả hàng hoá dựa trên cơ
sở giá trị, việc từng bước hình thành thị trường vốn, việc tận dụng quan hệ với
người Hoa ở nước ngoài để thu hút vốn đầu tư và công nghệ, việc trợ giá hoặc
miễn giảm thuế cho hàng xuất khẩu cũng như việc nhà nước Trung Quốc rút
được nhiều kinh nghiệm thành công và thất bại trong việc xử lý các vấn đề
lạm phát, giá cả trên thị trường…đã đóng góp nhiều vào việc phát triển sản
xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghệ phẩm trung Quốc trên thị
trường khu vực và thế giới.
9
_Hơn nữa để nâng cao sức cạnh tranh của công nghiệp, bên cạnh những
biện pháp tác động vào sản xuất, Nhà nước Trung Quốc rất chú trọng xử lý
hài hoà các mối quan hệ giữa sản xuất với mậu dịch mà trước hết là ngoại
thương.
+Luôn gắn sản xuất với thị trường, thể hiện dưới hình thức cho xí nghiệp
góp vốn với bên ngoài, hoặc cho xí nghiệp được tìm thị trường xuất khẩu
trực tiếp để xí nghiệp có thể mở rộng xuất khẩu.
+Thực hiện chiến lược mở cửa, xây dựng các đặc khu kinh tế. Các đặc

khu này đóng vai trò “cửa sổ”, “phòng thí nghiệm” để quan sát học tập tiến
tới hoà nhập với bên ngoài, thu hút vốn, kĩ thuật, thu thập và cung cấp thông
tin, mở ra các kênh xuất khẩu.
+Trung Quốc rất coi trọng mở rộng thị trường và sử dụng nhiều biện
pháp đồng bộ cho việc mở rộng thị trường.Bên cạnh các điểm nêu trên, nhà
nước trung Quốc còn sử dụng nhiều giải pháp khác như: tăng quyền hạn cho
các doanh nghiệp chuyên là kinh tế đối ngoại đồng thời với việc xoá bỏ độc
quyền ngoại thương của các công ty ngoại thương, để cho các công ty này
được xuất nhạp khẩu trực tiếp và làm đại lý cho các xí nghiệp, tăng cường mở
rộng.
+Nhà nước trung Quốc mở rộng quan hệ đối ngoại để tạo ra môi trường
nhằm mở rộng thị trường.Kinh nghiệm sử dụng sự gắn kết giữa chính trị với
kinh tế hơn ở đâu hết được Trung Quốc sử dụng một cách nhạy bén từ khi
triển khai công cuộc đổi mới và thực tế đã mang lại hiệu quả to lớn.
Có thể nói xét từng trường hợp cụ thể, các kinh nghiệm trên không mới,
nhưng vấn đề là ở chỗ toàn bộ các kinh nghiệm đó đã được sử dụng đồng bộ,
hài hoà với liều lượng vừa đủ nên đã tạo ra thành công vượt bậc cho trung
Quốc như vậy.
2. Năng lực cạnh trang của các sản phẩm nông nghiệp:
Qua nghiên cứu sản xuất và xuất khẩu nông nghiệp ở một số nước như
Mĩ, Trung Quốc, Malaixia, Thái Lan…cho thấy, chính phủ các nước này rất
quan tâm tới việc phát triển các ngành nông sản xuất khẩu. Đặc biệt nhiều
nước xây dựng những chiến lược riêng đối với từng ngành có lợi thế so sánh
để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả.
Các nước này trong quá trình phát triển nông nghiệp nói chung và xây
dựng các ngành nông sản xuất khẩu nói riêng đều xuất phát từ các lợi thế vốn
có và biết tạo ra các lợi thế mới trên cơ sở đổi mới chính sách, khoa học-công
10
nghệ, vốn đầu tư và thị trường. Từ thực tiễn của một số nước chúng ta có thể
rút ra một số nhận xét có tính chất kinh nghiệm như sau:

Thành công của các nước trước hết là ở chỗ đã xác định đúng vị trí đặc
biệt quan trọng của nông nghiệp và tập trung nỗ lực cho phát triển nông
nghiệp để tạo đà và đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nền nông nghiệp hướng ra xuất khẩu là chủ yếu.
Đặc biệt các nước chú trọng phát huy các lợi thế so sánh thực hiện chiến
lược sản phẩm, tạo vùng và quy hoạch đầu tư đồng bộ cho các vùng sản xuất
chuyên canh tập trung sản xuất hàng hoá. Đổi mới công nghệ nâng cao chất
lượng sản phẩm và hạ giá thành, phản ứng nhanh nhẹn trước yêu cầu và thị
hiếu của thị trường về hình thức, chất lượng của hàng hoá nhằm nâng cao lợi
thế trong cạnh tranh.Tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thị, phát triển các kênh
sản xuất-tiêu thụ-xuất khẩu, coi trọng chữ tín để mở rộng và tạo lập thị trường
mới. Đồng thời rất chú ý công tác đào tạo. Đây là một trong những nhân tố
quyết định thành công và ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh
kinh tế tri thức đang ảnh hưởng sâu rộng tới mọi hoạt động của nền kinh tế xã
hội.
Còn nhà nước sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để can thiệp gián
tiếp và điều tiết sản xuất nông nghiệp có hiệu quả, tuỳ thuộc từng giai đoạn sẽ
có những chính sách và giải pháp đồng bộ để đạt mục tiêu đã đề ra.
III. Thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam:
1. Trước khi gia nhập WTO
1.1. Thành tựu:
Sau 20 năm tích cực đổi mới một cách toàn diện, triệt để (1986-2006),
kinh tế Việt Nam đã đạt được những thay đổi đáng kể. Từ một nước nghèo
đói, bị chiến tranh tàn phá, giờ đây Việt Nam đã lột xác trở thành một bạn
hàng đầy tiềm năng và đáng tin cậy với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Trong những năm qua chúng ta đã đạt được các điểm sáng ấn tượng.
Xin lấy một ví dụ năm 2005:
Một trong những điểm sáng ấn tượng mang tính nhạy cảm trong trào lưu
hội nhập, có thể đơn cử từ thực tế công tác xuất khẩu năm 2005. Kim ngạch
cả năm ước đạt 32,233 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm 2004. Kim ngạch của

khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 57% kim ngạch xuất khẩu của cả
nước, trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy xuất khẩu của cả nước.
Tổng kim ngạch năm 2005 bằng l04,9% chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ đặt
ra từ đầu năm (30,7 tỷ USD).
11
Lượng xuất khẩu và giá xuất khẩu của hàng hóa xuất khẩu đều tăng ở
mức trên dưới 9 và l l%, lần lượt đóng góp 42% và 58% vào giá trị gần 5,5 tỷ
USD tăng trong năm nay so với năm 2004. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu
đều đạt tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao. Đặc biệt, một số mặt hàng đạt
tốc độ tăng kim ngạch ấn tượng như gạo (+49%) (l), rau quả (+36,1%), cao su
(+25,2%), dầu thô (+35%), than đá (+80,6%), hàng điện tử, linh kiện máy tính
(+36,4%), sản phẩm gỗ (+43, 1%), dây cáp điện (+33, l%).
Thị trường xuất khẩu tăng trên tất cả các khu vực trên thế giới trong năm
2005. Trong đó, thị trường Châu Phi có tốc độ tăng cao nhất (+84%), Châu
Đại Dương có tốc độ tăng cao thứ hai (+53%), thị trường Châu Mỹ tăng gần
22%, Châu á tăng 2l ,6% (riêng khu vực ASEAN tăng 39,3%), Châu Âu tăng
6,7% (EU tăng 8,1%). Xuất khẩu dịch vụ tiếp tục có những thành công: năm
2005 ước đạt 4 tỷ USD, tăng l4,7% so với năm 2004. Doanh thu từ hoạt động
du 1ịch ngày càng tăng (Năm 2005, cả nước đón 3,5 triệu lượt khách quốc tế,
tăng khoảng 20% so với năm 2004). Nhiều loài hình dịch vụ khác mang lại
ngoại tệ, bổ sung tích cực vào hoạt động xuất khẩu dịch vụ của cả nước như
vận tải hàng hoá tăng, viễn thông quốc tế tăng mạnh so với năm 2004. Xuất
khẩu dịch vụ năm 2005 đạt 4 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu cả thời kỳ 5 năm
dự kiến đạt trên 21 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân l5,7%/năm, bằng khoảng
l9% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, xấp xỉ mức bình quân của thế giới (thế
giới là 20%).
Kết quả xuất khẩu năm 2005 đã góp phần nâng tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hoá giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 110,6 tỷ USD, tốc độ tăng
trưởng bình quân 5 năm đạt 17,4%, cao hơn so với mục tiêu đặt ra trong
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001-2010 là 1,3%. Kim ngạch

xuất khẩu bình quân đầu người năm 2005 dự kiến đạt 390 USD/người. Quy
mô xuất khẩu 5 năm 2001-2005 gấp hơn hai lần so với 5 năm 1996-2000 (đạt
51,824 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao là nhân tố quan trọng góp
phần vào kết quả tăng trưởng GDP 8,7% của cả nước. Một số mặt hàng đã
vượt qua những thách thức trong và ngoài nước cũng như biến động bất lợi
trên thị trường thế giới tiếp tục tốc độ tăng cao (giày dép tăng trên 7%, thủy
sản tăng trên 14%). Riêng mặt hàng may mặc, mặc dù phải chịu sức ép cạnh
tranh rất lớn trên thị trường thế giới do việc bãi bỏ hạn ngạch dệt may đối với
các thành viên WTO nhưng xuất khẩu mặt hàng này đã vượt qua những tháng
đầu năm khó khăn, về đích với tốc độ tăng khoảng 10% so với năm 2004.
Nếu so với các đối thủ cạnh tranh thì đây là một thành tích đáng nể vì xuất
12
khẩu hàng may mặc của nhiều nước đã giảm so với năng 2004 do ảnh hưởng
của việc bãi bỏ hạn ngạch này.
Cơ cấu xuất khẩu tiếp tục đạt được những tiến bộ: tăng các mặt hàng chế
biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn
và thị trường tương đối ổn định. Chất lượng hàng xuất khẩu từng bước được
nâng lên; năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu được cải thiện, thể hiện ở
chỗ các doanh nghiệp Việt Nam có thể đáp ứng được các đơn hàng lớn, đồng
thời hàng hóa Việt Nam đã vươn tới nhiều thị trường mới.
Trong tổng số 20 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2005,
ngoài dầu thô có kim ngạch xuất khẩu trên 7 tỷ USD còn có thêm 6 mặt hàng
khác có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là dệt may, thủy sản, giày dép,
hàng điện tử, linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ và gạo. Với cơ cấu này, chúng
ta đã bước đầu thực hiện được mục tiêu cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng
tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt
hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định, chất lượng hàng xuất
khẩu từng bước được nâng lên; năng lực cạnh tranh được cải thiện. Các mặt
hàng gạo, cà phê tiếp tục duy trì thứ 2 trên thế giới, hạt tiêu đứng đầu thế giới,
hạt điều đứng thứ 3 thế giới…

1.2. Hạn chế:
Những kết quả đạt được trong thời gian qua là rất lớn, rất ý nghĩa, chúng
ta có quyền tự hào; nhưng thách thức cũng không nhỏ và còn đang ở phía
trước!
Cần phải thừa nhận môt điều, cạnh tranh ở nước ta vẫn còn những điều
bất cập, in dấu vết của cơ chế cũ.
_Thứ nhất, cạnh tranh trong nền kinh tế nước ta còn ở trình độ thấp, tiềm
ẩn nhiều nhân tố không lành mạnh, chưa phù hợp với quy luật kinh tế khách
quan như: cạnh tranh về chất lượng hàng hoá còn hạn chế, tệ hàng giả, cạnh
tranh theo kiểu “chụp giật”, “đánh quả” đang là phổ biến.
Chính vì còn tồn tại nhiều doanh nghiệp vẫn đứng ngoài các quy định
kinh tế của nhà nước ta và thế giới nên trên thị trường người tiêu dùng trong
và ngoài nước rất bát mãn.
Đó chính là thực trạng hàng hoá lưu thông tràn lan trên thị trường. Tình
trạng hàng giả ngày càng mở rộng về quy mô và địa bàn hoạt động, đa dạng
về chủng loại với những thủ đoạn, kĩ thuật làm tinh vi, phức tạp đã gây ảnh
hưởng một cách nghiêm trọng đến lợi ích, thậm chí đến tính mạng của người
tiêu dùng. Nghiên cứu sự “sôi động” của “thị trường hàng giả” ta có thể nhận
13
diện các thủ đoạn làm hàng giả như sau: hàng nội giả hàng ngoại, hàng nội
giả hàng nội, hàng ngoại giả hàng ngoại, hàng ngoại giả hàng nội.
Một trong những vấn đề gần đây đang nổi cộm đó là việc tôm xuất khẩu
của Việt Nam có vấn đề:
Trong thời gian gần đây, phía Nhật Bản liên tục phát hiện nhiều lô hàng
tôm của Việt Nam nhiễm dư lượng các chất kháng sinh bị cấm bất chấp
những cảnh báo đỏ đã được nước này phát ra. Tỉ lệ vi phạm thậm chí đã vượt
ngưỡng cho phép các cơ quan chức năng của Nhật Bản xem xét tiến tới ban
hành lệnh cấm nhập khẩu tôm của Việt Nam. Nguy cơ mất thị trường Nhật
Bản là có thật.
Tình hình nghiêm trọng đến mức Thủ tướng chính phủ mới đây đã phải

yêu cầu Bộ Thủy sản và Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
(VASEP) tăng cường chỉ đạo quản lý chất lượng thủy sản xuất khẩu, cương
quyết không để tái diễn tình trạng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm.Tỉ lệ vi
phạm Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm Nhật Bản của sản phẩm tôm Việt Nam
tiếp tục gia tăng trong tháng 12 và tháng 1/2007, dù đến cuối tháng 11/2006,
tỉ lệ này đã ở mức 6,7%. Trong khi đó, nếu phát hiện tỉ lệ vi phạm ở mức 5%,
tức là 3 lô trong tổng số 60 lô hàng liên tục được kiểm tra, cơ quan chức năng
nước Nhật Bản đã có thể xem xét ban hành lệnh cấm nhập khẩu đối với toàn
bộ nhóm hàng bị nhiễm kháng sinh từ nước xuất khẩu, dù 60 lô hàng được
kiểm tra đó chỉ xuất phát từ một hoặc một vài doanh nghiệp.
Hơn 30 doanh nghiệp vi phạm Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật
Bản, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, đã ảnh hưởng tiêu cực tới việc xuất
khẩu tôm của hơn 300 doanh nghiệp khác. Mặc dù chưa cấm nhập khẩu hoàn
toàn, nhưng từ cuối tháng 10/2006, phía Nhật đã ra lệnh kiểm tra 100% đối
với tất cả sản phẩm tôm có xuất xứ từ Việt Nam. Quyết định này khiến các
doanh nghiệp "làm ăn nghiêm chỉnh" bị "vạ lây".
Ông Trần Thiện Hải, Giám đốc Công ty Cổ phần thuỷ sản Minh Hải,
Chủ tịch Uỷ ban tôm cho biết: "Lượng hàng hoá mà các khách hàng mua của
chúng ta phải nằm chờ ở các kho hải quan của Nhật Bản để chờ nhập hàng
vào. Trước đây, có khi chỉ 3 ngày là thông quan, hiện nay lên tới 3 tuần lễ,
thậm chí lên tới một tháng mới lấy được lô hàng vào. Việc đó làm cho chi phí
ở cảng tăng lên rất lớn. Do vậy, các doanh nghiệp Nhật Bản có thể mua hàng
thay thế của các quốc gia khác, không mua từ Việt Nam nữa".
ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Công ty
cổ phần thuỷ sản Minh Phú nói: "Tốc độ nhận hàng của phía Nhật giảm đi thì
14
cung sẽ vượt cầu. Cung vượt cầu ảnh hưởng đến giá. Chính ra vào thời điểm
trái vụ như thế này, giá tôm phải lên, nhưng trên thực tế nó không lên được,
vẫn ở mức bình thường".
Nhiều cuộc họp tìm giải pháp cải thiện tình hình đã được Hiệp hội Chế

biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) tiến hành. Tuy nhiên, hầu hết
các doanh nghiệp đã vi phạm lại không nằm trong hiệp hội. Vì thế, giải pháp
toàn diện được trông chờ chính là việc thực thi quyết định của Bộ Thuỷ sản
về việc đăng kí xuất khẩu và kiểm tra dư lượng hóa chất, dư lượng kháng sinh
cấm trong hàng thủy sản xuất khẩu vào Nhật Bản.
Ông Trương Đình Hoè, Phó Tổng thư kí Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu
thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết: "Đối với doanh nghiệp chưa có sản
phẩm bị phát hiện nhiễm, họ phải đăng kí với cơ quan có thẩm quyền là cơ sở
của mình phải đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Nhật. Đó là một giải pháp về
nhận thức trong vấn đề kháng sinh. Còn các doanh nghiệp đã có trong danh
sách có lô hàng bị nhiễm, phải tuân thủ theo yêu cầu kiểm 100%, tức là kiểm
bắt buộc trước khi xuất sang Nhật".
Quy định của Bộ Thuỷ sản có hiệu lực từ 20/12/2006, nhưng theo
VASEP, ngay trong nửa đầu tháng 1/2007, đã lại có thêm 2 doanh nghiệp
Việt Nam bị phát hiện xuất hàng có dư lượng kháng sinh cấm sang Nhật Bản.
Cảnh báo, kiểm tra 50%, rồi 100% không mang lại hiệu quả, Bộ Y tế, Lao
động và Phúc lợi Nhật Bản đã thông báo sẽ xem xét việc áp dụng lệnh cấm
nhập khẩu đối với sản phẩm tôm của Việt Nam. Đến lúc đó, con tôm Việt
Nam có "mọc cánh" cũng không bay được vào thị trường Nhật Bản.
Qua những thực trạng như trên, các doanh nghiệp Việt Nam thật sự cần
sự thay đổi rất lớn để tránh hiện tượng “con sâu làm rầu nồi canh” làm ảnh
hưởng đến đất nước và các doanh nghiệp khác.
_Thứ hai, bên cạnh đó, môi trường cạnh tranh hiện nay chưa thông
thoáng, thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh.
Môi trường cạnh tranh được hiểu là những yếu tố, những mối liên hệ
nằm ngoài khả năng kiểm soát của các chủ thể cạnh tranh như: chính trị, luật
pháp, các chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước, dân tộc, tập quán, nghiên
cứu điều kiện tự nhiên…Trong đó luật pháp và các chinh sách quản lý vĩ mô
cụ thể của nhà nước có ý nghĩa quan trọng đến quá trình cạnh tranh của các
chủ thể kinh tế. Nhưng chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước trong nhiều

trường hợp tỏ ra còn bất cập, thậm chí gây cản trở các hoạt động của các chủ
thể sản xuất kinh doanh.
15
Đó là tình trạng có quá nhiều cửa trong quá trình thẩm định, xét hồ sơ
thành lập doanh nghiệp và có quá nhiều giấy phép cần phải có để doanh
nghiệp hoạt động được xem là hợp pháp.
Đó là tình trạng một sân chơi gập ghềnh, một luật chơi bất bình đẳng
giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh trong quá trình cạnh tranh…
Những bài học thành công và hạn chế của sau 20 năm đổi mới chính là
những bài học kinh nghiệm sâu sắc nhất cho Việt Nam phát huy năng lực
cạnh tranh cho hàng hoá nước ta khi gia nhập WTO.
2. Sau khi gia nhập WTO
Cuối năm 2006, Việt Nam gia nhập WTO chính là một cơ hội cho các
doanh nghiệp nước ta
Tính đến nay Việt Nam mới gia nhập WTO chưa đầy nửa năm- một
khảng thời gian quá ngắn để xác định những thành công và thất bại của Việt
Nam. Do vậy chúng ta chỉ đề cập đến cơ may và thách thức của Việt Nam khi
gia nhập WTO
2.1. Trước hết xin đề cập đến những nguyên tắc nền tảng của WTO:
• Thương mại không phân biệt đối xử: gồm 2 quy chế
_Quy chế tối huệ quốc: các thành viên của WTO phải đối xử bình đẳng
với các thành viên khác
+Mỗi thành viên phải đối xử với các thành viên khác 1 cách công bằng
như nhưng đối tác thương mại “ưu tiên nhất”.
+Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một số ưu
đãi thì nước đó phải đối xử tương tự như vậy với tất cả các thành viên khác
của WTO.
Không cho phép bất kì quốc gia thành viên nào có những ưu đãi mang
tính biệt lệ cho một hoặc một vài đối tác của mình.Bởi lẽ điều đó sẽ phá vỡ
tính thống nhất của tổ chức, tạo ra cạnh tranh không bình đẳng trên thương

trường
_Đãi ngộ quốc gia: phải đối xử đẳng với sản phẩm nước ngoài và sản
phẩm nội địa. Các quốc gia thành viên không được ban hành những chính
sách thương mại nội địa nhằm hạn chế việc tiêu thụ hàng nhập khẩu trên thị
trường trong nước của quốc gia đó
• Tự do hoá thương mại từng bước và bằng con đường đàn phán
• Dễ dự đoán nhờ ràng buộc cam kết cùng chính sách minh bạch
• Thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng
16
WTO chấp nhận cạnh tranh nhưng đó phải là cạnh tranh bình đẳng. Các
hiệp định về từng lĩnh vực có quy định rõ sự khác nhau giữa cạnh tranh bình
đẳng với thể chế mậu dịch tự do hoàn toàn và quy định rõ thế nào là bình
đẳng và thế nào là không bình đẳng. Nguyên tắc không phân biệt đối xử, quy
định về chống bán phá giá, chống trợ cấp… nhằm đảm bảo cạnh tranh bình
đẳng. WTO cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa với những cạnh tranh
không bình đẳng để bảo đảm thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng.
• Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế
2.2. Cơ may
*Thương mại:
Thương mại là động lực của sự phát triển kinh tế và thị trường. Trong
khi đó WTO, với tư cách là một tổ chức quốc tế đã và đang quản lý, kiểm soát
và tạo ra thị trường cho sự phát triển của thương mại toàn cầu. Vì vậy, khi gia
nhập WTO, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với thương mại thế giới
trong vị thế được đối xử bình đẳng với các quốc gia là thành viên của tổ chức
này. Việt Nam sẽ được hưởng các ưu đãi trong thương mại hàng hoá, dịch vụ,
đầu tư mà các nước thành viên giành cho nhau thông qua Chế độ đãi ngộ Tối
huệ quốc (MFN), Chế độ Đãi ngộ quốc gia (NT), và sẽ ngày càng nâng cao
thế và lực trong thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ được thừa
hưởng nhiều thành tựu của các vòng đàm phán đa phương về thuế quan của
các tổ chức tiền thân WTO là thỏa ước thuế quan và mậu dịch.

Thị trường xuất khẩu sẽ ngày càng được ổn định do có nhiều thuận lợi
cho việc tiếp cận thị trường. Chúng ta có thể dự báo được thị trường cho hàng
xuất khẩu dài hạn trong tương lai và tạo ra mối quan hệ thương mại chắc chắn
hơn, góp phần tạo thuận lợi cho việc hoạch định các chính sách về đầu tư và
phát triển sản xuất công - nông nghiệp, giảm thiểu những rủi ro trong thương
mại quốc tế.
*Người tiêu dùng hưởng lợi nhiều hơn khi cạnh tranh tự do và bình
đẳng:
Việc gia nhập WTO hỗ trợ việc gia tăng cạnh tranh trong mọi ngành
kinh tế. Người tiêu dùng Việt Nam sẽ là những người hưởng lợi trực tiếp khi
cạnh tranh mang lại nhiều sự lựa chọn hơn, giá cả thấp hơn và chất lượng cao
hơn. Nền kinh tế Việt Nam sẽ có lợi từ sự phát triển của ngành dịch vụ - bảo
hiểm, tài chính, phân phối - mà các công ty nước ngoài muốn đưa vào Việt
Nam sau khi nước này gia nhập WTO. Cạnh tranh trong lĩnh vực này sẽ kích
17
thích ngành dịch vụ trong nước, mang lại cho các công ty nội địa và người
tiêu dùng thêm nhiều sự lựa chọn.
Cạnh tranh sẽ mang lại hiệu quả và năng suất lao động cao hơn, làm tăng
cường sức mạnh kinh tế của Việt Nam về lâu dài và nâng cao khả năng cạnh
tranh của các công ty Việt Nam với các công ty đa quốc gia mạnh nhất trên
bất kỳ thị trường nào.
*Thu hút hơn nữa đầu tư nước ngoài
Tư cách thành viên WTO sẽ làm Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn đối với
các nhà đầu tư nước ngoài do tạo ra được sự tin tưởng vào cơ chế, chính sách
ổn định. Và việc đó đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ có thêm nhiều công việc
được trả công cao, nguồn thu thuế của Chính phủ tăng lên và có thêm chuyển
giao công nghệ. Mặt khác, là thành viên WTO, Việt Nam còn tranh thủ được
sự hỗ trợ của các định chế tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc Tế (IMF),
Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
Ngoài ra, khi gia nhập WTO, Việt Nam buộc phải thực hiện Hiệp định

về Sở hữu trí tuệ. Một khi điều này được thực thi, nó cũng là một yếu tố quan
trọng góp phần không nhỏ vào việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Thành phố đang hướng vào việc thu hút nhiều đầu tư vào lĩnh vực cộng
nghiệp có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao, lĩnh vực dịch vụ, tài chính ngân
hàng…
*Củng cố được hệ thống pháp luật trong nước
WTO là một tổ chức có những quy định và “luật chơi” chặt chẽ kiểm
soát thương mại toàn cầu. Các hiệp định của WTO không ngừng nâng cao
tính minh bạch của chính sách thương mại và tập quán thương mại quốc tế.
Do đó, nếu trở thành thành viên, nhất là các nước đang phát triển và nước có
ngành kinh tế chuyển đổi sẽ có điều kiện xây dựng và tăng cường các chính
sách và thể chế điều hành, quản lý nền kinh tế của mình phù hợp với luật pháp
và thông lệ quốc tế nhằm tăng cường sự ổn định trong môi trường kinh doanh
nâng cao hiệu quả và năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế.
Có lẽ quan trọng nhất là người tiêu dùng cũng như các công ty sẽ được
hưởng nhiều lợi ích từ một nhà nước pháp quyền được phát triển khi Việt
Nam thực hiện các cam kết WTO, đặc biệt là những cam kết hướng tới mức
độ minh bạch cao nhất và không phân biệt đối xử liên quan đến thương mại.
Hơn nữa, phải thừa nhận các nguyên tắc của tổ quốc này sẽ đưa ra các
định hướng rõ ràng hơn cho công cuộc cải cách kinh tế tại Việt Nam. Các
biện pháp cải cách kinh tế theo đúng tinh thần và tôn chỉ của WTO sẽ đem lại
18
lợi ích cho Việt Nam. Nếu Việt Nam tiếp tục theo đuổi công cuộc cải cách
toàn diện nền kinh tế theo đúng tinh thần WTO và tận dụng tốt những cơ hội
mà việc gia nhập WTO mang lại thì vốn đầu tư nước ngoài sẽ đổ vào nhiều
hơn, khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài cũng tăng lên và chúng ta sẽ
được chứng kiến những bước chưa từng thấy ở Việt Nam.
*Tranh chấp quốc tế
Khi đã là thành viên của WTO, các tranh chấp về thương mại của Việt
Nam sẽ được giải quyết dựa trên những điều luật của tổ chức này. Cơ chế giải

quyết tranh chấp của WTO thông thoáng, ít tốn thời gian, trên cơ sở tự động
và có tính ràng buộc. Việt Nam có thể tranh thủ cơ chế giải quyết tranh chấp
thương mại đa biên để giải quyết một cách công bằng hơn các vấn đề nảy sinh
trong quan hệ kinh tế thương mại với các nước khác, đặc biệt là với các
cường quốc thương mại do cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương không cho
phép các nước phát triển áp đặt luật của mình trong giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế. Các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ có lợi từ sự đảm bảo
chắc chắn là các đối tác thương mại của họ buộc phải tuân thủ các quy tắc của
WTO.
2.3. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội cho kinh tế Việt Nam tất yếu còn tồn tại những
thách thức mà nếu chúng ta không giải quyết được, chắc chắn nền kinh tế sẽ
tụt hậu nhanh chóng.
Các thách thức đó là:
_Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên
bình diện rộng hơn, sâu hơn.
_Hai là: Trên thế giới sự "phân phối" lợi ích của toàn cầu hoá là không
đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở
mỗi quốc gia, sự "phân phối" lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân
cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá;
nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng
lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách
phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ
trương của Đảng: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển".
_Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước
19
có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế
thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ.

_Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc
bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Thủ tướng đã nêu rõ: Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, hội nhập kinh tế
quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội
tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào
khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp
nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng
ta. Cơ hội và thách thức không phải "nhất thành bất biến" mà luôn vận động,
chuyển hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác
phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy
lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ
hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những
khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất
nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là quyết định nhất.
Thủ tướng cũng bảy tỏ tin tưởng: "Với thành tựu to lớn sau 20 năm Đổi mới,
quá trình chuyển biến tích cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế những
năm vừa qua, cùng với kinh nghiệm và kết quả của nhiều nước đã gia nhập
WTO, cho chúng ta niềm tin vững chắc rằng: Chúng ta hoàn toàn có thể tận
dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó khăn,
thậm chí lâm vào cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững
và vươn lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia thị trường và toàn bộ nền
kinh tế sẽ phát triển theo mục tiêu và định hướng của chúng ta".
IV. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
1. Xây dựng chiến lược phát triển và chiến lược cạnh tranh tích cực:
Đất nước bước vào thời kì mới, chúng ta đã xây dựng Chiến lược phát
triển kinh tế xã hội 2001-2010 là “…đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2002 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Quan điểm cơ bản của chiến lược
trong thời kì này là phải bảo đảm phát triển nhanh hiệu quả và bền vững, phải

đặt trọng tâm vào chất lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế trên cơ sở đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, chuyển
dịch và nâng cấp cơ cấu kinh tế. Đây chính là bước đầu tiến tới nâng cao năng
suất và sức cạnh tranh. Song như thế chưa đủ, mà cần phải có một chiến lược
20
cạnh tranh tích cực. Chiến lược cạnh tranh tích cực là một bản luận cứ có cơ
sở khoa học cung cấp tầm nhìn của một quá trình làm cơ sở cho xây dựng quy
hoạch và kế hoạch phát triển trung và ngắn hạn nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế
của các doanh nghiệp và của quốc gia trong hoạt động xuất khẩu lẫn các hoạt
động chỉ phục vụ thị trường trong nước cạnh tranh với nhập khẩu.
Nhưng để xây dựng một chiến lược cạnh tranh tích cực cần phải điều
chỉnh cơ cấu kinh tế ngành sâu hơn nhằm loại trừ tận gốc rễ những căn
nguyên làm suy yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế, chọn mô hình cơ cấu
ngành phát triển bền vững, coi trọng cả thị trường trong nước và ngoài nước,
cạnh tranh hội nhập thắng lợi.
Việc điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế đáp ứng yêu cầu của chiến lược
cạnh tranh tích cực cần theo các hướng cơ bản sau:
 Xác định các ngành có thế mạnh để mở cửa tham gia cạnh tranh:
Dựa vào kinh nghiệm của Nhật Bản và những bài học thành công và thất
bại của Việt Nam trong thời gian qua, xin đưa ra một số đặc trưng của các
ngành hàng có năng lực cạnh tranh:
+Có lợi thế so sánh dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên như: điều kiện
địa lý, khí hậu, đất đai, mặt trời, khoáng sản và có chi phí thấp nhờ sử dụng
nguồn tài nguyên dồi dào với giá rẻ.
+Đang chiếm vị trí xuất khẩu chính, lượng nhập khẩu thành phẩm hầu
như không đáng kể trong khi nhập nguyên liệu gia công là chủ yếu. Đối với
những mặt hàng này, khả năng mở rộng sản xuất chưa đạt tới mức giới hạn,
ngoại trừ mặt hàng chịu hạn ngạch với những lý do đặc biệt.
+Có khả năng tăng năng suất lao động, khả năng tiếp thu công nghệ mới
hoặc có nhu cầu lớn khi lợi nhuận tăng .

Ở Việt Nam, những ngành có thế mạnh để mở cửa cạnh tranh bao gồm:
lúa gạo, cà phê, cao su, chè, hạt điều, thuỷ sản, dệt may, giày da, rau quả,thực
phẩm chế biến, cơ khí nhỏ, điện tử…Đối với nhóm ngành này, những biện
pháp điều chỉnh khái quát là:
+Một là đổi mới và nâng cao công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản
xuất, chế biến, vận chuyển, dịch vụ và chú trọng tính đồng bộ trong đầu tư
giữa sản xuất, chế biến, vận chuyển, dịch vụ và chú trọng tính đồng bộ trong
sản xuất giữa đầu tư, chế biến và cung cấp nguyên liệu.
+Hai là ổn định và mở rộng thị trường xuất khẩu, xây dựng hệ thống
thông tin dự báo thị trường, thành lập trung tâm xúc tiến thương mại đối với
từng ngành hang.
21
+Ba là Nhà nước tạo những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt
động sản xuất-kinh doanh, xuất khẩu, hỗ trợ gián tiếp như nâng cấp hệ thống
hạ tầng cơ sở vật chất, kể cả hệ thống dịch vụ như ngân hàng, tư vấn quản lý,
pháp luật…
 Xác định các ngành và lĩnh vực cần tập trung hỗ trợ để có thể cạnh
tranh trong tương lai:
Đây chính là lựa chọn hệ thống ưu tiên một số ngành , lĩnh vực thông
qua cá biện pháp can thiệp bằng chính sách của chính phủ nhằm lợi bỏ những
ách tắc tạo cơ hội cho chúng hát triển để có thể cạnh tranh trong tương lai.
Thực chất đây chính là những ngành mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân.Các
ngành đó không chỉ có vai trò quyết định thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã
hội của đất nước, mà còn là ngành khai thác các thế mạnh đặc biệt của đất
nước. Việc phát triển các ngành và lĩnh vực này sẽ giúp tạo vị thế vững chắc,
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Trong những năm tới ở nước ta cần tập trung vào phát triển mạnh mẽ các
ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giày và các ngành chế biến sản phẩm
từ nông, lâm, ngư nghiệp. Đồng thời, cũng cần rất tích cực chuẩn bị các điều
kiện và tranh thủ chuyển mạnh sang phát triển nhanh các ngành cơ khí, điện

tử và công nghệ thông tin, các ngành có công nghệ cao. Phát triển một số
ngành sản xuất nguyên liệu cơ bản theo hướng ưu tiên phát triển ngành công
nghiệp dầu khí, công nghiệp luyện kim và một số sản phẩm hoá chất cơ bản.
Các ngành dịch vụ cần được ưu tiên phát triển là dịch vụ thương mại, ngân
hang tài chính, dịch vụ du lịch, viễn thông, vận tải, dịch vụ xây dựng, bảo
hiểm, tư vấn, kết cấu hạ tầng, giáo dục và đào tạo.Cần phải có chính sách hỗ
trợ để các ngành này phát triển thao kịp trình độ các nước trong khu vực và
ngày càng hiện đại để phục vụ kịp thời có hiệu quả các ngành sản xuất kinh
doanh, góp phần giảm chi phí đầu vào, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá
trong nền kinh tế.
Sau đây là các giải pháp chủ yếu hỗ trợ các ngành này phát triển:
+Xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển ngành phù hợp với yêu
cầu của một ngành cần tập trung hỗ trợ.
+Nghiên cứu thị trừờng và có chính sách thị trường thích hợp với từng
ngành, lĩnh vực.Chính sách thị trường đúng là một bảo đảm quan trọng cho
tính ổn định phát triển của các ngành này.
+Tập trung nguồn lực xứng đáng để phát triển, bao gồm vốn, đầu tư,tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao.Trước đây Việt Nam nổi tiếng là nước có
22
nguồn nhân lực rẻ,dồi dào vì trình độ lao động Việt Nam quá thấp.Nhưng
trong tình hình hiện nay,đó không còn là lợi thế cho Việt Nam trong cạnh
tranh nữa mà là vấn đề cấp bách kìm hãm nền kinh tế phát triển.Nếu không
giải quyết được vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao, chắc chắn Việt Nam
sẽ thụt lùi so với các nước khác nhiều lần.
+Hoàn thiện hệ thống chính sách để thực hiện ưu tiên hỗ trợ phát triển.
+Có chính sách thu hút vốn và cho phép các nhà đầu tư nước ngoài vào
phát triển các ngành cần tập trung phát triển ở nước ta.
 Đẩy mạnh các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp,các
hoạt động bảo hộ và bảo hiểm sản xuất nhằm bảo vệ các chủ thể kinh
doanh:

_Một là bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp:
Trong các chủ thể kinh tế hiện nay, các chủ thể kinh tế người nước ngoài
nhận thức rất sâu sắc lợi ích của mình đối với việc bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp trong quá trình cạnh tranh còn các chủ thể kinh tế người Việt Nam yêu
cầu bảo hộ quá nhỏ bé. Điều này phản ánh năng lực cạnh tranh của các chủ
thể kinh tế và sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta hiện nay là quá yếu, chưa
định hình được trình độ công nghệ, tính độc đáo của sản phẩm, vòng đời của
sản phẩm quá ngắn, sản phẩm chưa kịp bảo hộ đã bị loại khỏi “cuộc chơi”.
Để đẩy mạnh công tác bảo hộ sở hữu công nghiệp nhằm góp phần bảo vệ
các chủ thể cạnh tranh, cần hướng vào những mặt sau:
+Tiếp tục đẩy mạnh và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước,theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là phương hướng mang tính nền tảng, bởi xét cho cùng,các hoạt
động sở hữu công nghiệp hiện nay hiệu quả chưa cao, chưa thu hút được
nhiều sự tham gia của các chủ thể kinh tế khác nhau là do nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay chưa phát triển.
+Tiếp tục phát huy những hình thức bảo hộ sở hữu công nghiệp đã có và
từng bước tiếp cận những hình thức bảo hộ mới trên cơ sở đa dạng hoá các
đối tượng bảo hộ sở hữu.Cùng với việc củng cố, phát huy bảo hộ các đối
tượng: sang chế, giải pháp hữu ích,kiểu dáng công nghiệp,nhãn hiệu hàng
hoá…thì đồng thời tiếp cận với những hình thức bảo hộ mới nhằm đáp ứng
yêu cầu của thị trường trong nước và trong khu vực và thế giới như:bảo hộ
chống cạnh tranh không lành mạnh, bảo hộ những thông tin bí mật, giống
cây…
23
+Cần tuyên truyền rộng rãi nhằm nâng cao năng lực nhận thức chung
của xã hội về ý nghĩa,cách thức bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Đồng thời
cần tổ chức nghiên cứu chuyên sâu lý luận và thực tiễn vấn đề sở hữu công
nghiệp, đào tạo chuyên gia giỏi trong lĩnh vực này.
+Ngày nay, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đang gia tăng do đó đòi hỏi

hoạt động sở hữu công nghiệp phải hội nhập vào hoạt động chung của thế
giới.
_Hai là, tăng cường các hoạt động bảo hộ và bảo hiểm sản xuất nhằm
khắc phục rủi ro, phá sản trong cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Thực tế cho thấy, trong cạnh tranh kinh tế giữa các nước, dù ở trình độ
phát triển kinh tế như thế nào đều thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước nhằm
tránh sự đổ vỡ, rủi ro, phá sản của các doanh nghiệp trong môi trưồng cạnh
tranh quốc tế.Như vậy, áp dụng bảo hộ đối với một số sản phẩm do các doanh
nghiệp trong nước sản xuất là cần thiết và đối với nước ta lại càng trở nên bức
thiết hơn song đó phải là bảo hộ hợp lý.
Tuy vậy căn cứ vào xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thì quan điểm sau về
lâu dài là không thích hợp nên cần công bố rộng rãi lộ trình giảm thuế nhập
khẩu và giảm dần các hàng rào phi thuế quan đối với các mặt hàng của từng
ngành cho các doanh nghiệp để họ có kế hoạch phấn đấu cụ thể.
Tuy nhiên cũng cần chú ý ở những ngành non trẻ, những ngành có tính
chất nhạy cảm đối với sự ổn định chính trị, xã hội, thì vẫn tiếp tục duy trì bảo
hộ và phải có sự điều chỉnh hợp lý có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn.
Có một chính sách bảo hộ hợp lý có chọn lọc, có điều kiện và có thời
hạn sản xuất trong nước là hợp lý khi nó thực sự tạo điều kiện, giúp đỡ việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và tăng sức cạnh tranh của
hàng hoá trên thị trường.Nhà nước cần lựa chọn các ngành, các lĩnh vực ưu
tiên(có lợi thế so sánh) để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cung cấp vốn ưu
đãi, đào tạo nhân lực, giúp đỡ về nghên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, về
tiếp thị, thông tin thị trường…Đặc biệt dành ưu tiên các nguồn lực đầu vào
như đất, vùng biển, vốn, lao động được đào tạo cho đầu tư phát triển hàng
xuất khẩu và cho đổi mới thiết bị công nghệ tại các doanh nghiệp.Thực hiện
chế độ bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn cần đến một chính sách
thuế hợp lý theo hướng ưu tiên các ngành, lĩnh vực cần bảo hộ.
_Áp dụng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu:

24
Định hướng chính sách lớn trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu mà
nước ta cần áp dụng là tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm mới,các
sản phẩm đã qua công nghiệp chế biến, chế tạo sâu và tinh,tiến tới tăng dần
tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng khoa học-công nghệ cao, giảm
dần, tiến tới hạn chế tối đa việc xuất khẩu các công nguyên liệu thô và sơ
chế.Tạo thêm mặt hàng, nhóm hàng xuất khẩu có khối lượng và giá trị lớn,
tăng khối lượng các mặt hàng đặc sản có giá trị.
Thực hiện đa dạng hoá việc sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt
với các sản phẩm xuất khẩu chủ lực trên cơ sở tìm kiếm lựa chọn lợi thế so
sánh động, vừa phù hợp với việc khai thác phân phối hiệu quả cao nhất các
nguồn lực của đất nước, vừa phù hợp với những biến đổi thường xuyên của
quan hệ cung-cầu, giá cả thị trường thế giới và khu vực.Tận dụng lợi thế so
sánh của đất nước về nguồn lực phát triển các loại hình xuất khẩu vô hình như
dịch vụ sản xuất, gia công, tái chế, lắp ráp hang hoá, dịch vụ xuất khẩu
chuyển khẩu và các dịch vụ thu ngoại tệ khác.
Các giải pháp:
+Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu: cần đẩy
mạnh hoạt động thông tin về các thị trường phát triển tiềm năng thị trường, xu
hướng phát triển của thị trường các nước để định hướng chiến lược đầu tư
đúng vào những mặt hàng có khả năng xuất khẩu cao, có sức cạnh tranh lớn,
định hướng vào thị trường xuất khẩu cụ thể.Doanh nghiệp cần phải phối hợp
với các tổ chức xúc tiến thương mại để nhận được sự hỗ trợ về các thông tin
nói trên, hỗ trợ về tham gia hội chợ triển lãm chắp mối kinh doanh tổ chứ
khảo sát thị trường, tư vấn xuất khẩu…Doanh nghiệp phải lựa chọn sản xuất
sản phẩm để xuất khẩu đồng thời phải coi trọng nhập thiết bị và định hướng
đầu tư đúng.
+Đối với nhà nước:cần phải có chính sách lựa chọn ưu tiên phát triển các
ngành mũi nhọn có tác dụng hỗ trợ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu các sản
phẩm chủ lực.Tiếp tục đổi mới hoàn thiện cơ sở pháp lý tạo môi trường kinh

doanh minh bạch, rõ ràng, bình đẳng để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài
nước. Đồng thời nhà nước cần giảm gánh nặng thuế và phí cho các doanh
nghiệp chẳng hạn như xoá bỏ chế độ phụ thu đối với sản phẩm xuất khẩu và
nhập khẩu, giảm thuế xuất khẩu đối với những mặt hàng không hạn chế xuất
khẩu; giảm mức thu đối với những loại phí và lệ phí quá cao so với các nước;
xem xét lại mức đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và công đoàn phí và
phát triển dịch vụ tư vấn thuế.
25

×