Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

những giá trị và hạn chế của phật giáo ảnh hưởng của phật giáo ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.41 KB, 17 trang )

TiÓu luËn triÕt häc
LỜI MỞ ĐẦU
Đạo Phật một trong những học thuyết triết học – tôn giáo lớn nhất, và lâu
đời nhất trên thế giới. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng Phật tử
khổng lồ và phân bố rộng khắp. Đạo Phật được truyền bá vào nước ta từ thế kỷ
thứ hai sau công nguyên và nó đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh
hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần Việt Nam. Sau 20 thế kỷ gắn bó đạo Phật
và văn hóa của Việt Nam có sự gắn bó đặc biệt không thể tách rời.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay chúng ta đã xác định lấy chủ nghĩa Mác
– Lênin làm tư tưởng chủ đạo, là vũ khí chủ yếu, nhưng chúng ta cũng không thể
phủ nhận sự tồn tại của các triết lý khác ví dụ như đạo Phật. Sau một thời gian
dài gắn bó thì đạo Phật đã có một vị trí vững chắc, in sâu trong tư tưởng của một
bộ phận không nhỏ ngươi dân. Việc xóa bỏ nó là một điều hoàn toàn không
tưởng, không thể thực hiện được. Vì vậy chúng ta phải nghiên cứu nó thật kỹ để
có cách sử dụng nó sao cho đúng với định hướng của đảng và nhà nước đã đề ra.
Do yêu cầu đó hiện nay nên việc nghiên cứu, đánh giá các giá trị, hạn chế và các
ảnh hưởng của đạo Phật hiện nay là một yêu cầu cấp thiết. Do đó em chọn đề tài:
"Những giá trị và hạn chế của phật giáo ảnh hưởng của phật giáo ở nước ta
hiện nay"
Trong phạm vi bài tiểu luận này tôi đã cố gắng tìm kiếm và phân tích
những ưu, nhược điểm và những ảnh hưởng của đạo Phật đến Việt Nam. Bài viết
được thực hiện trong khoảng thời gian ngắn nên không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết rất mong được sự đóng góp ý kiến của thày và các ban.
Chân thành cảm ơn!
Vũ Thị Thúy Hằng

Vò ThÞ Thóy H»ng 1 Líp: Marketing 49A
TiÓu luËn triÕt häc
I.Giá trị của phật giáo
1. Phật giáo con đường trí tuệ
Giá trị của đạo Phật là con đường trí tuệ, là hiểu rõ nhân, quả, duyên. Do đó


chúng ta không mê tín sợ hãi, không tham vọng, không cần cầu cạnh, ước mơ
điều gì mà chính ta nổ lực để nắm lấy hạnh phúc trong tay. Đạo Phật nhận thức
rằng tất cả các pháp do duyên sanh thì nhân quả tùy theo duyên đó mà ứng dụng.
Khi đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan rã. Đạo Phật nhìn cuộc sống bằng pháp
như thị. Trí tuệ có nghĩa là sự nhận thức rằng các pháp do duyên sanh và căn cứ
vào nhân quả để sống một đời sống thánh thiện, giúp mình và người, không có sự
sợ hãi vào thần linh. Câu: “Đức trọng quỉ thần kinh” là người nào có đức thì quỉ
thần cũng phải tôn trọng. Khi ta có đức, có tu hành đàng hoàng thì có chư thiên
thường hộ vệ có nghĩa là có những người thích gần gũi với thiện hữu thì hay đi
theo mình và giúp đỡ, hổ trợ khi mình gặp khó khăn, trở ngại cho nên gọi là hộ
vệ. Câu: “Chở che nhờ đức cao dầy, tu sao thế mấy không bằng tu tâm” có
nghĩa là cái đức của mình che chở cho mình chứ không phải thần linh nào.
2. Giá trị nhận thức
Trong Phật giáo: tôn giáo, triết học, đạo đức học, tâm lý học và xã hội học
được thể hiện như một hệ thống tư tưởng tổng hợp nhất có liên hệ trực tiếp đến
những khát vọng của xã hội hôm nay. Tóm lại, đạo Phật là một hệ thống minh
triết có thể áp dụng vào mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Một trong những
mục tiêu của Phật giáo là giúp đỡ con người thông qua việc phát triển sự tỉnh
thức nội tại và những nỗ lực hành trì cao cả của mỗi cá nhân để trực nhận và phát
triển tiềm năng kỳ diệu nhất của mỗi người. Mục tiêu này không hề tạo nên một
tương phản nào đối với mục tiêu của nền giáo dục hiện đại. Mục tiêu của nền
giáo dục hiện đại là phát triển các năng khiếu, năng lực, sở trường của mỗi người
thông qua việc cung cấp tri thức và những kinh nghiệm hữu ích cho học sinh.
Trong khi các nhà giáo dục và tâm lý chưa thể giải thích tại sao con người có
những năng khiếu và khả năng riêng biệt thì Phật giáo đã đưa ra lời giải thích
thông tuệ rằng: những yếu tố riêng biệt đó chính là kết quả của những nghiệp
nhân trong đời trước. Đức Phật đã xác chứng rằng Duyên khởi là giáo lý nền tảng
trong giáo pháp của Ngài: "Khi cái này sinh thì cái kia sinh; khi cái này diệt thì
cái kia diệt".
Phật giáo luôn nỗ lực xây dựng những mối quan hệ của nhân loại bằng

cách khơi nguồn những giá trị luân lý đạo đức cao đẹp của loài người. Phật giáo
giúp chúng ta khám phá ra bản chất đặc trưng của thế giới là vô thường, vô ngã
và khổ đau. Một khi con người chưa nhận thức đúng đắn ba nguyên lý này của
thế giới thì họ vẫn còn khao khát về một đời sống vĩnh cửu ảo tưởng tách biệt bởi
bản chất của sự vật. Khát vọng mông muội đó không những tạo nên khổ đau cho
Vò ThÞ Thóy H»ng 2 Líp: Marketing 49A
TiÓu luËn triÕt häc
người ấy mà còn khiến người khác cũng bị đau khổ theo. Làm sao khổ đau của
nhân loại có thể tan biến? Làm sao có thể mang lại nền hòa bình và niềm hạnh
phúc trường cữu cho xã hội hôm nay? Những câu hỏi muôn thuở này chính là
những thao thức của Phật giáo. Phật giáo đã đưa ra lời giải đáp thỏa đáng cho
những vấn đề này qua tám vạn bốn ngàn pháp môn được giảng dạy trong các
kinh điển, các pháp thoại, các thi kệ. Chúng ta có thể biết rằng trong 84.000 pháp
môn đó thì phần lớn do Đức Phật giảng dạy và một phần nhỏ còn lại do các đệ tử
kiệt xuất của Ngài đưa ra.
3. Giá trị giáo dục của Phật Giáo – một giá trị nhân bản sâu sắc
Đạo Phật đã ra đời trong một thực tại đa diện, phồn tạp của nền văn minh
Ấn Độ, xuất hiện để dung hòa các trào lưu tư tưởng đối nghịch, để san bằng
những ngăn cách xã hội giữa các đẳng cấp. Rồi từ những căn bản đó, Phật giáo
đã duỗi dài nguyên lý vào cuộc sống con người khắp mọi nơi. Trong cội rễ sâu
xa, ngay từ khởi thủy tư tưởng giáo dục của triết lý Phật giáo đã mang trong
mình những giá trị nhân bản chung toàn nhân loại. Đặc trưng cơ bản nhất đó là
tính toàn vũ trụ, toàn diện, tổng hợp. Với triết lý cơ bản là việc hướng con người
đến những hành động đúng đắn, hướng con người ta đến cái chân, thiện, mỹ.
Phật giáo kêu gọi mọi người hãy chấm dứt các việc làm ác mà hãy hành thiện,
khuyên con người dang rộng vòng tay ôm vũ trụ vào lòng đừng bao giờ khép kín
tâm tư lại. Hãy phát triển nhân đạo và từ bi quên đi những cái ta ích kỷ, hẹp hòi
để được yêu vũ trụ rộng lớn. Vì thế tính giáo dục của Phật giáo đã đến với nhân
loại với tinh thần khoan dung kêu gọi mọi người nhường cơm xẻ áo góp phần
hình thành nên nền đạo đức xã hội. Đức Phật đã từng dạy: “Một hạnh phúc vĩnh

cửu chỉ sống mạnh trong tâm hồn giải thoát và tâm hồn giải thoát chỉ có thể thực
hiện một khi cá nhân chịu nhường bước. Một bản ngã đứng riêng ngoài không
thể tồn tại được. Đó là mục đích giáo dục con người hoàn thiện cả về tài lẫn đức
trong một xã hội văn minh.
Vì vậy nội dung giáo dục của triết lý Phật giáo chẳng khác gì lời kêu gọi
hòa bình – một nhu cầu luôn cần cho mọi người, mọi nhà, và là tài sản quý báu
nhất của toàn nhân loại. Đây là giá trị nhân đạo nhất và khác với mọi tôn giáo
khác, trong suốt lịch sử tồn tại và phát triển thì Phật giáo luôn xuất hiện, thâm
nhập vào các đân tộc như sứ giả của hòa bình và an lạc.
4. Giá trị của Phật giáo với mỗi cá nhân
Phật giáo chỉ cho ta nguồn gốc của sự khổ Đối với những người đã biết rõ
về khổ và thật sự muốn thoát khổ thì cần phải hiểu rằng Đức Phật chỉ dạy một
chân lý duy nhất là Diệt Đế, sự diệt khổ, chứng Niết bàn, thành Phật. Ngài đã
dạy: “Ta chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời, đó là chỉ cho chúng
sanh tri kiến Phật để ngộ nhập”(kinh Pháp Hoa), đó là thấy rõ chỉ có một cái duy
nhất chân thật là Niết Bàn, ngoài ra đều là giả dối. Diệt Đế, Niết Bàn có nghĩa là
Vò ThÞ Thóy H»ng 3 Líp: Marketing 49A
TiÓu luËn triÕt häc
thấy rõ Khổ, thấy rõ đây là thấy rõ nó không thật, chỉ hiện hữu một cách huyễn
hoá, không thật. Vì khổ không thật có nên mới có thể đoạn trừ dễ dàng, nếu khổ
là thật thì đoạn trừ cũng uổng công vô ích mà thôi. Khổ không thật có, nhưng ta
vẫn thấy rõ ràng có khổ là vì sao? Tìm nguyên nhân, ta được biết cái sai lầm căn
để là do ở lối nhìn của ta về thân, tâm, vũ trụ, một lối nhìn lệch lạc, bệnh hoạn đã
thành tập quán nhiều đời nhiều kiếp. Vậy chỉ cần sửa cái nhìn lại cho đúng, cũng
như hư không vốn không có hoa đốm mà người tự thấy ra có hoa đốm là vì mắt
bị bệnh. “Tập đế” nguyên nhân của khổ là nói về lối nhìn sai lạc ấy, căn để là
thấy thật có cái tôi, sở hữu của tôi, thấy có một tự ngã tiếp tục. Muốn đoạn trừ lối
nhìn sai lạc ấy cần chữa cái bệnh của con mắt, theo phương pháp của Phật dạy là
Bát Chánh Đạo, đó phần thứ tư trong Tứ Diêu Đế. Vì lối nhìn quan trọng như thế
nên đứng đầu Bát Chánh Đạo là Chánh Kiến tức là thấy cho đúng như thật. Thấy

đúng như thật thì Niết Bàn chân thật được hiển lộ, Khổ, Tập tự tiêu tan, như khi
mắt đã được chữa lành lặn bình thường thì bệnh mắt hết, mắt hết bệnh thì không
còn thấy hoa đốm lăng xăng giữa hư không.”
5. Giá trị của Phật giáo trong thời đại ngày nay
Trong thời đại ngày nay, hình như chúng ta có thể thụ hưởng tất cả mọi
điều chúng ta muốn nếu chúng ta siêng năng làm việc và có tiền, tiền bạc chắc
chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều tiện nghi văn minh, có thể giúp chúng ta thu
ngắn giờ làm việc và tìm thấy nhiều thú vui trong cuộc sống hàng ngày. Tuy
nhiên, chúng ta cũng thấy rằng những tiện nghi sang trọng đó không giải quyết
được những vấn đề thiết yếu cho đời sống chúng ta. Sự có một chiếc xe hơi hay
một gian nhà không bù đắp được niềm lo âu và sợ hãi ở nội tâm chúng ta, một số
đông người đang đau khổ vì những lo nghĩ vật chất cũng như tinh thần đã làm lay
chuyển căn bản cuộc sống của họ. Ðời sống chúng ta còn luôn bị đe dọa không
dứt bởi những làn sóng bất an và sợ hãi: người hôm qua chúng ta gặp có thể bị
tai nạn và chết hôm nay và ngày mai, một trận thế chiến khác biết đâu lại chẳng
xảy ra để tận diệt toàn thể chúng ta. Nhu cầu vật chất là thiết yếu, nhưng không
phải là phương tiện tuyệt hảo có thể làm cho cuộc sống chúng ta phong phú.
Chúng ta nên nhận thức rằng chúng ta phải làm chủ bản thân, chứ không là
những kẻ nô lệ cho mọi nếp sống thường tình trong bản thân chúng ta.
Ðức Phật đã giác ngộ sâu xa rằng tất cả chúng sinh hữu tình đều có chung
ý muốn ham sống và sự thể hiện nó trong những hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Mọi người đều gắn liền với thực tại và họ chỉ có thể sống còn nhờ nương vào sự
sống của những kẻ khác. Đức Phật tin tưởng rằng con đường duy nhất chúng ta
có thể áp dụng mà không làm hại lẫn nhau là thực hiện sự đồng nhất căn bản của
mọi cuộc sống. Thế giới chúng ta không gì khác hơn ngoài sự thể hiện một cánh
đồng nhất của cuộc sống trong đó mọi chúng sinh, hữu tình cũng như vô tình đều
mật thiết tương quan sinh tồn.
Trên căn bản này sự cuộc sống, con người phải xóa bỏ mọi sự phân biệt và
chấm dứt cái ý tưởng gọi là “Của Ta” hoặc “Không Phải Của Ta”. Sự phân biệt
Vò ThÞ Thóy H»ng 4 Líp: Marketing 49A

TiÓu luËn triÕt häc
này phát sinh bởi lòng dục vọng vô minh, nguồn gốc sâu xa từ vô thỉ đã buộc
ràng con người. Cũng bởi lòng tham mù quáng này đã dẫn đến sự chấp ngã “cái
Ta” của con người và do đó sinh ra tính xấu vị kỷ, vì dục vọng vô minh con
người đã chống lại bản thể đồng nhất của sự sống để tạo nên một thế giới giả dối
với muôn ngàn cuộc sống sai biệt, một thế giới không thật có, mà chỉ do những
vọng tưởng điên đảo của con người tạo ra.
Cho nên, bản ngã đồng nhất này là một chân lý cao siêu nhất và đức Phật
được tôn xưng là bậc Toàn Giác, đấng đã giác ngộ thấu suốt tận cùng bản thể của
sự sống muôn loài. Giáo lý đức Phật không phải tìm thấy bởi sự suy luận hay
tranh biện mà do ở kinh nghiệm trực tiếp được xây dựng trên chân lý của những
luật nhân qủa. Ðức Phật dạy: “Giáo lý của Như Lai không gì khác ngoài lời dạy
cuộc sống là khổ đau và phương pháp diệt trừ đau khổ” Tạp chí Tiếng Nói Phật
Giáo” (Voice of Buddhism) số tháng 7 năm 1964 phát hành tại Kuala Lumpur
(Mã Lai)lời dạy đó của Ðức Phật rất thực dụng và khoa học cùng luôn luôn liên
hệ đến những vấn đề sự sống và năng lực phát triển tinh thần của chúng ta.
6. Đạo Phật hướng con người tới việc xây dựng một xã hội văn minh và
tự do
Thế giới này đang sôi sục chiến tranh, mọi bảng giá trị hầu như được con
người quy chiếu bằng thước đo đồng tiền. Thái độ “chấp thủ” của từng cá nhân
ngày càng nhân lên, thay vì “xả ly” họ lại tự trói mình bằng gông cùm trong hiện
hữu. Con người hiện đại ít nhiều đã tự đánh mất phẩm chất cao quý của mình để
chạy theo lợi nhuận.
Dù vậy, Đạo Phật đã dạy một đời sống tốt đẹp không chỉ tạo bằng thức ăn
ngon, áo mặc đẹp, mái nhà xinh xắn, mà còn được sinh động bởi ý định trong
sạch, một lòng từ bi không giáo điều cũng không triết lí bác học. Mà đó là lòng
kính trọng phẩm giá quyền lợi của mọi người. Để hết chiến tranh, xây dựng xã
hội văn minh, con người phải hết tham lam, thù hận cố chấp. Muốn sống hòa
bình an lạc, con người phải có tình thương và hiểu biết. Hòa bình không thể có
được chỉ bằng cầu nguyện, ký tên, hay hội thảo kêu gọi suông mà phải làm sao

cho mọi người tỉnh thức và chuyển hóa. Những lời kêu gọi đó hết sức có giá trị
và nhắc nhở cảnh tỉnh nhân loại hãy đoàn kết góp phần tích cực vào công cuộc
giữ gìn hòa bình.
Mặt khác trong điều kiện sản xuất chưa phát triển mạnh của xã hội, nhu
cầu vật chất ngày càng cao, nên cuộc sống con người gặp khó khăn, nên cái khổ
vẫn là điều tất yếu, đôi khi con người cảm thấy bi quan thất vọng. Do vậy, sự giải
thích cuộc đời con người chỉ quẩn quanh trong nổi khổ “nhân sinh là khổ” hết
sức có ý nghĩa. Việc đưa ra con đường diệt khổ, tự giải thoát mà không chờ bất
kỳ cứu nhân độ thế nào đã trở thành tư tưởng giáo dục đầy khích lệ hấp dẫn,
mang tính nhân văn sâu sắc.
Vò ThÞ Thóy H»ng 5 Líp: Marketing 49A
TiÓu luËn triÕt häc
II. Những hạn chế của Phật giáo
1. Hạn chế trong Tứ diệu đế
1.1. Hạn chế về cách tiếp cận
Bên cạnh mặt tích cực của đạo Phật là hỉ xả vô lượng vô biên thì cũng
không thể phủ nhận rằng cách tiếp cận của đạo Phật với thế giới và con người là
góc nhìn bi quan, thương cảm. Bản thân Tứ diệu đế là sự minh chứng rõ nhất cho
điều này khi tiền đề đầu tiên của Tứ diệu đế chính là Khổ đế. Chân lý này nói
rằng: “mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, không trọn vẹn”. Nói như
triết lý này thì chúng ta ngay từ khi sinh ra đời đến khi mất đi, phải tiếp xúc, chịu
đựng cái khổ.
1.2. Nguồn gốc của cái khổ
Đạo Phật đã có cái nhìn phiến diện về những nhu cầu của con người. Dưới
góc nhìn vô thường, vô ngã của Phật giáo thì tất cả mọi sự cố chấp, tham luyến
của con người đều là nguyên nhân hàng đầu của sự khổ cả. Song, với góc nhìn
của một con người, đang sống và đang tồn tại, đang ăn và hít thở không khí thì
không phải lúc nào cũng cần tới sự tư duy thấu triệt và cực đoan như thế. Không
thể chối cãi rằng chúng ta tồn tại và phấn đấu không đơn thuần vì bản năng sinh
tồn, mà còn vì để cho sự tồn tại của mình, trong dòng chảy vô thường của sự

sống sao cho có ý nghĩa. Chúng ta phấn chấn, hạnh phúc, hồ hởi khi sự tồn tại
của chúng ta được ghi nhận và thừa nhận về ý nghĩa.
1.3. Hạn chế trong phương pháp giải quyết “cái khổ”
Phương thức giải quyết tất cả những nỗi khổ đó đều xuất phát từ ý thức,
tâm linh, từ sự tự rèn tập tính tình, từ sự tự diệt dục. Tức là, xét từ phía góc độ
sống tích cực, đã quay lưng lại với hiện thực và để cho con người tuyệt giao với
hiện thực bằng cách tự triệt tiêu tất cả lòng ham sống của bản thân. Đó là cách
lựa chọn của Phật giáo. Trong khi các triết thuyết khác, người ta lại cố gắng tìm
cách tích cực hóa mối quan hệ giữa con người với thế giới, như con người có khả
năng cải tạo thế giới theo những mong muốn của chính mình.
2. Hạn chế trong cơ cấu tổ chức
Tổ chức Phật Giáo không chặt chẽ: Phật Giáo không có giáo quyền, không
thống nhất cách tu hành, có nhiều tông phái và sơn môn. Vì vậy mà giữa các tông
phái, sơn môn giữa các nước cũng như trong cùng một nước không có sự thống
nhất về cách tu hành.
III. Ảnh hưởng của Phật giáo với nước ta hiện nay
Chúng ta đều biết, ảnh hưởng của Phật Giáo trên nền văn hóa dân tộc thực
là sâu đậm, sâu đậm đến độ người ta không còn phân biệt được đâu là văn hóa
Phật Giáo và đâu là văn hóa dân tộc. Đây là một sự kiện không ai có thể phủ bác.
Sở dĩ như vậy là vì Phật Giáo đã đi vào dân tộc Việt Nam, không bằng con
Vò ThÞ Thóy H»ng 6 Líp: Marketing 49A
TiÓu luËn triÕt häc
đường giáo điều khô cứng, không bằng con đường ru ngủ dân chúng (có tác dụng
như thuốc phiện) với những hứa hẹn hão huyền, mà bằng con đường trí thức, con
đường phát triển trí tuệ, tự lực tự cường, và nhất là không chống lại những truyền
thống của dân tộc Việt Nam. Với những giáo lý nhân bản và những triết thuyết
cao siêu, phù hợp với tinh thần khoa học, Phật Giáo đã đáp ứng được những đòi
hỏi suy luận trí thức của giới có học. Với bản chất hòa bình, bao dung, bình đẳng,
và những giáo lý giản dị, Phật Giáo cũng đã đáp ứng được khao khát của giới
bình dân, ít học. Từ đó, Phật Giáo đã đi vào dân gian, hội nhập trong dân gian,

trên mọi giới, đề tạo nên một tinh thần Phật Giáo dính liền với một tinh thần yêu
nước cao độ.
1. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng triết học và đạo lý
1.1 Về mặt tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ
Diệu Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái
phật giáo, nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân
Việt.
Đạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới
hiện tại. Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại.
Không những các sự kiện thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà
tất cả những hiện tượng về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng
theo luật duyên khởi mà sinh thành, tồn tại và tiêu hoại. Có 4 loại duyên cần
được phân biệt: thứ nhất là Nhân Duyên. Có thể gọi là điều kiện gần gũi nhất,
như hạt lúa là nhân duyên của cây lúa. Thứ hai là Tăng Thượng Duyên tức là
những điều kiện có tư liệu cho nhân duyên ví như phân bón và nước là tăng
thượng duyên cho hạt lúa. Thứ ba là Sở Duyên Duyên tức là những điều kiện làm
đối tượng nhận thức, thứ tư là Đẳng Vô Gián Duyên tức là sự liên tục không gián
đoạn, cần thiết cho sự phát sinh trưởng thành và tồn tại.
Luật nhân quả cần được quán sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh
mới có thể gọi là luật nhân quả của Đạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân
đơn độc không bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng
vai trò quả, cho một nhân khác. Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo
của Đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã
trở thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu
biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng
là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích hợp với
giới bình dân mà còn ảnh huởng đến giới trí thức. Có thể nói mọi người dân Việt
điều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu
đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho

đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân
quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con
Vò ThÞ Thóy H»ng 7 Líp: Marketing 49A
TiÓu luËn triÕt häc
người. Thậm chí trẻ con mười tuổi cũng tự nhiên biết câu: "ác giả ác báo". Chúng
phát biểu câu rất đúng hoàn cảnh sự việc xảy ra cho đối phương, hay "chạy trời
không khỏi nắng". Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp
mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở
đời, đột nhiên những tai họa, biến cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước
mình vụng đường tu nên mới gặp khổ nạn này. Không than trời trách đất, cam
chịu và tự cố gắng tu tỉnh để chuyển hóa dần ác nghiệp kia.
1.2. Về mặt đạo lý
Người Việt đang chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý của đạo phật là đạo lý
Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sanh. Đạo lý này
được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát triển của tâm lý về tình
cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ thân đến xa, từ tình
thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối quan hệ xã hội
với thầy bạn, đồng bào quê hương đất nước và mở rộng đến quê hương cao cả
đối với cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta
thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của
người Việt. Vì đạo phật rất chú trọng đến hiếu hạnh, và được Đức Phật đã thuyết
giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nhau như Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh
Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Đại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan nhắc đến
công lao dưỡng dục của cha mẹ, Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, không gì hơn
công ơn nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục
dạy: "cùng tốt điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác không gì hơn bất
hiếu". Bởi Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với nếp
sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.
2. Ảnh hưởng của phật giáo đến những nét văn hóa xã hội
2.1 Ảnh hưởng về ngôn ngữ

Ngôn từ của người Việt vô cùng phong phú trong đó cũng có một số lượng
lớn là từ mượn của tiếng nước ngoài mà chúng ta chưa chắc đã biết đó là những
từ mượn. Không thể phủ nhận sự ảnh hưởng vầ ngôn ngữ đạo Phật trong cuộc
sống hàng ngày.
Trong đời sống thường nhật Việt Nam ta thấy có nhiều từ ngữ chịu ảnh
hưởng ít nhiều của Phật Giáo được nhiều người dùng đến kể cả những người ít
học. Tuy nhiên không phải ai cũng biết những từ ngữ này được phát xuất từ Phật
Giáo, chẳng hạn như khi ta thấy ai bị hoạn nạn, đau khổ tỏ lòng thương xót,
người ta bảo "tội nghiệp quá". Hai chữ tội nghiệp là từ ngữ chuyên môn của Phật
Giáo. Theo Đạo Phật tội nghiệp là tội của nghiệp, do nghiệp tạo ra từ trước, dẫn
tới tai nạn hay sự cố hiện nay, theo giáo lý nhà Phật thì không có một hiện tượng
hay sự cố tai nạn nào xảy ra là ngẫu nhiên hay tình cờ, mà chỉ là kết quả tập
thành của nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước. Những nguyên đó (theo đạo Phật
Vò ThÞ Thóy H»ng 8 Líp: Marketing 49A
TiÓu luËn triÕt häc
gọi đó là nhân duyên) khi chín mùi, thì đem lại kết quả. Mọi người điều nói tội
nghiệp nhưng không phải nhiều người biết được đó là một từ ngữ nói lên một
chủ thuyết rất căn bản của Phật :"thuyết nhân quả báo ứng" thuyết này cũng đi
sâu vào nhận thức dân gian với những cách như "ở hiền gặp lành, gieo gió gặp
bão" hay là câu thơ bình dân:
Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời mai sau
2.2. Ảnh hưởng trong văn học
2.2.1 Ảnh hưởng trong ca dao và dân ca
Ca dao dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, dễ hiểu trong dân gian,
được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Không ai biết rõ xuất xứ cũa những lời
ca hát đó ở đâu, chỉ biết rằng nó thường được thể hiện dưới hình thức câu hát ru
em, những câu hò đối đáp giữa các chàng trai cô gái tuổi đôi mươi hay để kết
thúc mỗi câu chuyện cổ tích mà các cụ già kể cho con cháu nghe mang tính chất
khuyên răn dạy bảo. Ca dao dân ca phổ biến dưới dạng thơ lục bát bao gồm

nhiều đề tài khác nhau, tư tưởng đạo lý củaphật giáo cũng thường được ông cha
ta đề cập đến trong ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc
nhở, khuyên răng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp
với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.
a. Ảnh hưởng của hình ảnh ngôi chùa
Có thể nói trong tâm hồn của mỗi con người Việt Nam đều có chứa đựng
ít nhiều triết lý nhà phật và những hình ảnh về ngôi chùa, về phật, trải qua hàng
ngàn năm gắn bó mật thiết với làng xã Việt Nam. Từ lâu hình ảnh ngôi chùa đã
trở thành hình ảnh in sâu trong tâm hồn môi người dân Việt. Ngôi chùa vừa là
nơi thờ phụng thiêng liêng nhưng cũng là một thắng cảnh là niềm tự hào của quê
hương:
Tây Ninh có núi Bà Đen
Có sông Vàm Cỏ, có toà Cao Sơn
Ở cố đô huế:
Đông Ba, Gia Hội hai cầu
Có chùa Diệu Đế bốn lầu hai chuông
Ở thành cổ Thăng Long:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem câu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn … v.v
….
b. Ảnh hưởng của quan niệm “hiếu”
Có thể nói rằng một trong những truyền thống văn hóa tốt đẹp nhất của
người Việt chính là việc con cái hiếu thảo với ông bà, cha mẹ. Đây là truyền
thống tốt đẹp do cha ông ngàn đời để lại. Nhưng cúng không thể phủ nhận sự ảnh
hưởng lớn của những tư tưởng Phật giáo - một tôn giáo, một nền giáo dục đã có
Vò ThÞ Thóy H»ng 9 Líp: Marketing 49A
TiÓu luËn triÕt häc
mặt với dân tộc từ buổi đầu của công nguyên, mà đạo phật là đạo hiếu, lời dạy
của phật về việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong
lòng của người Việt, và đã thể hiện linh động và triền miên ngang qua ca dao dân

ca, mà chúng ta thấy tràn ngập khắp dân gian Việt Nam:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Hay:
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm cho mẹ, mẹ già yếu răng.
Mến cảnh chùa chiền, phật tượng, nhưng hiếu hạnh của người con vẫn đặt
lên trên vì công ơn trời biển của cha mẹ trong suốt quá trình dưỡng dục sinh
thành, biết bao nhọ nhằn, gian khổ đối với con. Do đó:
Vô chùa thấy phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đành.
Cũng vì thương kính cha mẹ, nên người con luôn luôn cầu nguyện phật trời
gia hộ cho hai đấng từ thân:
Đêm đêm khấn nguyện phật trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
…v.v
2.2.2 Ảnh hưởng trong các tác phẩm văn học
Bên cạnh ca dao bình dân, trong các tác phẩm văn học của các nhà thơ, nhà
văn chúng ta cũng thấy có nhiều bài thơ, tác phẩm chịu ảnh hưởng nhiều hay ít
của Phật giáo. Cái ảnh hưởng đó có ngay từ khi Phật giáo du nhập vào nước Việt,
nghĩa là khi chữ Hán còn thịnh hành. Có thể kể đến những tác giả tiêu biểu sau:
_ Nguyễn Trãi:
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý Từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của
Phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn Nguyễn Trãi (1380
- 1442), một nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng Việt Nam kiệt xuất, ông đã
khéo vận dụng đạo lý Từ bi và biến nó thành đường lối chính trị nhân bản đem
lại thành công và rất nổi tiếng trong lịch sử nước Việt. Ông nói điều đó trong
Bình Ngô Đại Cáo rằng:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. “
Bằng cách:
Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Đem chí nhân để thay cường bạo.
v.v…
_ Nguyễn Du:
Qua thế kỷ thứ mười chín, với thi hào Nguyễn Du (1765 - 1820) ta có được
một án văn bất hủ là Truyện Kiều, là một truyện thơ Nôm viết bằng thể lục bát
Vò ThÞ Thóy H»ng 10 Líp: Marketing
49A
TiÓu luËn triÕt häc
dựa theo tác phẩm Kim Vân Truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung
Quốc), gồm 3254 câu thơ. Đây là một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật
giáo, trong đó ta thấy nổi bật nhất là thuyết về Khổ Đế, một phần quan trọng của
giáo lý Tứ Diệu Đế, kế đó là tinh thần về hiếu đạo và thuyết về Nhân quả và
Nghiệp báo. Điều đó có lý, vì lẽ chính Nguyễn Du đã tự nhận mình là một Phật
tử và từng đọc Kinh Kim Cang Bát Nhã đến cả ngàn lần.
Chị sao phận mỏng đức dày,
Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai?
Tâm thần đã thấu đến trời
Bán thân là hiếu, cứu người là nhân.
Một niềm vì nước vì dân
Âm công cất một đồng cân đã già.
Đoạn trường sổ rút tên ra
Đoạn trường thơ đã đem về trả nhau
Còn duyên hưởng thụ về sau
Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào.
v.v…
Và còn rất rất nhiều những tác giả và tác phẩm chịu ảnh hưởng của tư tưởng

và đạo lý của Phật giáo.
3. Ảnh hưởng đến các phong tục tập quán của người dân
Phong tục tập quán là những tập tục đẹp, đặc sắc mang những nét đặc thù
của văn hóa dân tộc. Hiểu được phong tục tập quán một dân tộc, người ta có thể
biết được một cách khái quát những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc đó.
Cũng giống như sự ‘xâm nhập' của ngôn ngữ nhà Phật vào ngôn ngữ đời
thường, phong tục tập quán Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng bởi đạo Phật khá
nhiều, cụ thể là các tập tục trong đời sống hàng ngày như: tập tục thờ Phật, ăn
chay, phóng sinh, bố thí, cúng rằm, mùng một âm lịch, đi lễ chùa, các nghi thức
ma chay, cưới hỏi v.v
3.1 Tập tục thờ Phật:
Tập tục thờ Phật rất phổ biến trong cộng đồng dân cư, cả với những người
không phải là Phật tử. Đi trên các chuyến xe tốc hành, xe bus, ta vẫn có thể thấy
những bức tượng Phật nho nhỏ được đặt trang trọng ở đầu xe, cạnh tài xế. Người
lái xe thờ tượng Phật để cầu sự bình an trên chặng đường dài. Lẽ dĩ nhiên không
phải ỷ vào thờ Phật mà không cẩn thận trên đường. Nhưng, người ta tin và đặt
một đức tin vào Phật, vào sự an bình và trang nghiêm ấy.
3.2 Tập tục ăn chay
Ăn chay gần như đã trở thành một nếp văn hóa của một bộ phận không
nhỏ người Việt. Có người ăn chay trường (quanh năm); có người ăn chay bốn
ngày mỗi tháng vào các ngày 01, 14, 15, 30 (hoặc 29) âm lịch; có người ăn chay
hai ngày mùng một và rằm; có người ăn chay cả tháng (thường là tháng bảy âm
Vò ThÞ Thóy H»ng 11 Líp: Marketing
49A
TiÓu luËn triÕt häc
lịch - tháng xá tội vong nhân); có người phát nguyện ăn chay ba tháng ròng vì lý
do đặc biệt nào đó.
Ăn chay, dù dưới hình thức nào, trong khoảng thời gian ra sao cũng được
ghi nhận là xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo. Giới thứ nhất - tôn trọng
sự sống: " nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc ".

Mọi người mọi loài đều có sự sống. Và sự sống ấy tất thảy đều đáng quý. Căn
bản của lòng từ bi là yêu thương mọi loài, không sát sanh.Tình yêu thương đó
được thể hiện cả trong suy nghĩ và hành động. Ăn chay, ta không sát sanh, không
ăn thịt, không uống máu. Ăn chay, lòng ta thanh tịnh. Ăn chay, một phương thức
giữ gìn sức khỏe nhất là trong thời đại mà thực phẩm, hoa màu luôn chứa độc tố
nhiều do dư lượng thuốc trừ sâu, các chất bảo quản, kích thích tăng trưởng quá
mức. Người Việt vốn ăn rất nhiều rau xanh, trái cây, ít chất đạm thực vật. Do đó,
ăn chay với việc sử dụng ngũ cốc thay cho đạm động vật rất phù hợp với nếp ăn
uống của người Việt. Thực phẩm chay vẫn cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cơ
thể hàng ngày. Chất dầu mỡ ít, rau xanh trái ngọt tạo cảm giác thư thái nhẹ
nhàng. Cuộc sống ngày nay đang tràn ngập cao lương mỹ vị và đang có khuynh
hướng quay về với các món ăn dân dã, truyền thống. Ăn chay, ở một góc độ
khác, có thể xem như một trào lưu mang tính tích cực đối với những người không
phải Phật tử. Nhưng cũng có khi vì ăn chay mà con đường đến với đạo của họ
gần hơn.
3.3 Tập tục cúng vào ngày rằm, mùng một và đi lễ chùa:
Ngày rằm, mùng một còn được gọi là ngày Bồ tát và ngày sám hối. Vào
những ngày này, Phật tử đến chùa dự các lễ sám hối, cầu nguyện. Ngoài ra, họ
cũng sắm nhang, đèn, hương, hoa để cúng tổ tiên ông bà tại nhà để thể hiện lòng
tôn kính người quá cố. Phật tử thường có bàn thờ Phật và bàn thờ tổ tiên tại gia.
Một bàn thờ nho nhỏ nhưng đầy sự trang nghiêm khiến lòng người thanh tịnh.
Nơi đó, họ có thể trút bỏ những ưu phiền và cầu nguyện bỏ ác làm lành, tu tâm
dưỡng tính.
Cổng chùa rộng mở đón khách thập phương. Đông đảo dân chúng tụ tập
về chùa. Có người đến để bày tỏ lòng thành kính với Đức Phật; có người đi vãn
cảnh chùa; có người thích dự các lễ hội; có người đến để mong cầu bình an cho
gia đình, bản thân; cho lòng mình lắng lại trước những hỉ nộ ái ố đời thường. Và
trước không khí trang nghiêm, linh thiêng của cửa Phật, lòng người trở nên trầm
tĩnh lạ thường; những lợi những danh những bạc những vàng nhường chỗ cho
hơi thở nhẹ nhàng mà sâu, cho trí tuệ minh mẫn và lòng bình an.

Đi lễ chùa không còn thuần túy vì lý do tín ngưỡng nữa. Nó đã trở thành
một tục lệ đẹp đối với người dân Việt.
3.4 Ảnh hưởng đến tập tục ma chay, cưới hỏi
Đây cũng là sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt. Về ma
chay, theo phong tục của người Việt Nam và Trung Hoa trước đây rất là phiền
Vò ThÞ Thóy H»ng 12 Líp: Marketing
49A
TiÓu luËn triÕt häc
phức và hao tốn. Tuy nhiên nhờ có sự dẫn dắt của chư Tăng thì tang lễ diễn ra
đơn giản và trang nghiêm hơn.
Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo tỏ ra ít phức tạp hơn so với
Thiên Chúa giáo, Khổng giáo hay Hồi giáo. Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều
đôi bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến Chùa khấn nguyện với chư
Phật phù hộ cho mối lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió. Đến ngày
cưới hỏi, họ được hướng dẫn về Chùa để chư Tăng làm lễ "hằng thuận quy y"
trước khi rước dâu. Đó là một lễ chúc lành ngắn gọn và được chư Tăng khuyên
dạy một số nguyên tắc đạo đức Phật giáo, để làm kim chỉ nam cho cuộc sống
mới.
3.5 Ảnh hưởng đến những phong tục tập quán khác
Ngoài những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo đã
được kể trên, chúng ta còn thấy một số tập tục khác cũng tương đối phổ biến và
có ít nhiều liên quan đến Phật giáo mà chúng ta phải ghi nhận:
- Tập tục đốt vàng mã .
- Tập tục coi ngày giờ .
- Tập tục cúng sao hạn .
- Tập tục xin xăm, bói quẻ.
4. Ảnh hửơng của Phật giáo đến những loại hình nghệ thuật
4.1 Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu (Hát bội, hát chèo, cải
lương và kịch nói).
Trước hết, loại hát chèo xuất hiện ban đầu chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng

Bắc Bộ, thu hút nhiều tinh hoa nghệ thuật dân gian như múa, hát và diễn các vở
truyện Nôm truyền thống. Đáng kể nhất là vở "Quan Âm Thị Kính" đã đi vào
dạng tuồng tiêu biểu chính thống khi nhắc đến môn nghệ thuật này. Còn có các
vở "Trương Viên", "Lưu Bình Dương Lễ", "Kim Nhan", "Chu Mãi Thần" đều
mang tính thưởng thiện phạt ác và các vở này gọi là tiêu biểu nên có tên gọi là
"chèo cổ".
Thứ hai, hát bội ban đầu đi vào nếp sống cung đình, khác với chèo cổ,
nghệ thuật này trở nên một loại hình giải trí cao cấp dành cho vua chúa và giới
thượng lưu, một phía khác là nó dành cho những ai có trình độ thưởng thức nghệ
thuật, tương đối thì mới có thể xem và cảm nhận được chủng loại độc đáo này.
Có thể nói xuyên suốt thế kỷ thứ 19 là thời đại hoàng kim của nghệ thuật hát bội.
Các vở "San Hậu"; "Tam Nữ Đồ Vương"; "Diễn Võ Đình", "Nghiêu Sò Ốc
Hến" là những vở mang tính chất dân tộc chính thống và chứa đựng toàn vẹn
triết lý "nhân quả báo ứng" và hướng thiện một cách cao đẹp.
Từ nhạc cổ, nhạc tài tử trở thành hình thái "ca ra bộ", để từ đó trở thành
nghệ thuật sân khấu cải lương từ đầu những năm hai mươi (1922) của thế kỷ này
ở Nam Bộ. Có thể nói chưa có nghệ thuật dân tộc nào phát triển nhanh chóng, có
Vò ThÞ Thóy H»ng 13 Líp: Marketing
49A
TiÓu luËn triÕt häc
sức cuốn mạnh mẽ và dung nạp nhiều mãng dân ca như bộ môn cải lương. Chính
vì yếu tố phóng khoáng đó, cải lương dễ dàng tiến sâu vào chân lý của Phật giáo,
mở ra cánh cửa được sự tích Phật Thích Ca và nhiều điển tích khác của Phật giáo
vào gia sản nghệ thuật của mình. Đây là một loại hình nghệ thuật được đông đảo
bà con lao động Việt Nam nhất là các vùng ngoại ô mến chuộng và ưa thích
Sau cùng là kịch nói, đây là loại hình nghệ thuật được du nhập từ phương
Tây sau thế chiến thứ hai (1938 - 1945), ban đầu chủ yếu biểu diễn các vở phóng
tác từ các vở tuồng của nước ngoài để phục vụ cho Thực Dân và Quan Lại thừa
sai. Sau thập niên 60, kịch nói mới có vị trí thật sự trong sân khấu Việt Nam và
được người dân hưởng ứng bằng các vở diễn do chính người Việt Nam dàn dựng.

Kịch nói chưa có đóng góp gì đáng kể cho Phật giáo như các loại hình nghệ thuật
khác. Tuy nhiên nội dung cũng hàm chứa nhiều căn ban đạo đức dân tộc trong đó
có ảnh hưởng Phật giáo.
Không chỉ trong nghệ thuật sân khấu, diễn xuất người ta mới thấy sự yêu
mến của đông đảo quần chúng đối với Đạo Phật mà chúng ta còn thấy được điều
này qua nghệ thuật tạo hình.
4.2 Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ thuật tạo hình :
- Về kiến trúc : Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, cố nhiên đã đem theo
các kiểu kiến trúc chùa tháp, lầu chuông gác trống theo mô hình kiến trúc của Ấn
Độ, Miến Điện và Trung Hoa. Tuy nhiên theo thời gian, tinh thần khai phóng của
Phật giáo phối hợp cung với lối tu duy tổng hợp của dân tộc Việt đã tạo ra một
mô hình kiến trúc rất riêng cho Phật giáo ở Việt Nam. Chùa tháp ở Việt nam
thường được xây dựng với lối kiến trúc đặc biệt, mái chùa bao giờ cũng ẩn dấu
sau lũy tre làng, dưới gốc cây đa hay ở một nơi có cảnh trí thiên nhiên đẹp hoặc
thanh vắng. Theo Nguyễn Quân và Phan Cẩm Thương thì kiến trúc Chùa Tháp ở
Việt Nam là "một quần thể kiến trúc có quy mô không lớn, tương xứng với tầm
vóc con người, phân bố lớp kiến trúc theo một trục dọc kéo dài gây cảm giác đi
sâu không cùng, đưa tự nhiên xen kẻ trong các thành phần, chú trọng cảnh quan
sông nước, vườn chùa, làm cho công trình có tính chất cởi mở luôn lớn hơn khối
thực thể của nó".
- Về điêu khắc : Ngày nay có dịp tham quan viện bảo tàng lớn ở Việt Nam,
chúng ta sẽ thấy nhiều cốt tượng, phù điêu của Phật giáo được trưng bày, đó
không những là một niềm tự hào của nền văn hóa dân tộc Việt mà còn là dấu vết
chứng minh sự ảnh hưởng của Phật giáo có mặt trong lĩnh vực này. Tiêu biểu ta
thấy có các tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay (28). Chùa Hạ
(Vĩnh Phú, Bắc Việt, cao 3,2m), 16 pho tượng tổ gỗ của chùa Tây Phương (Hà
Tây, Bắc Việt), Bộ tượng Thập Bát La Hán chùa Phước Lâm (Hội An, Quảng
Nam Đà Nẵng), Bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho), tượng Tuyết Sơn
chùa Trăm Gian (Hà Tây). Tượng Phật Thích Ca, cao 1,07m bằng đồng là hiện
vật Bảo tàng lịch sử TPHCM là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc độc đáo

của Việt Nam còn có những công trình điêu khắc quy mô và mang tính lịch sử
như tượng "Phật Nhập Niết Bàn" dài 49m ở núi Trá Cú, Phan Thiết được kiến tạo
Vò ThÞ Thóy H»ng 14 Líp: Marketing
49A
TiÓu luËn triÕt häc
năm 1962, tượng Đức Phật Thích Ca ngồi kiết già cao 11m tại Vũng Tàu, Khánh
Thành ngày 10/3/963 ; tượng "Kim thân Phật tổ" cao 24m ở chùa Long Sơn, TP.
Nha Trang được thực hiện vào năm 1964.
-Về hội họa : Mái chùa cổ kính giữa núi non tĩnh mịch hay các lễ hội viếng
chùa ngày đầu xuân hoặc tư tưởng độc đáo của triết học, của thiền học Phật giáo
luôn là đề tài gây nhiều cảm hứng cho các nghệ nhân và họa sĩ Việt Nam. Nhiều
trang lụa, tranh màu nước, sơn dầu, sơn mài đề cập đến Phật giáo đã được các
họa sĩ, nghệ nhân lên tuổi ở Việt Nam thể hiện một cách sống động và tinh tế qua
các tác phẩm như "chùa Thầy" của Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1938, "Lễ
Chùa" của Nguyễn Siêu, "Bức Tăng" của Đỗ Quang Em, "Đi Lễ Chùa" của
Nguyên Khắc Vịnh. Đặc biệt từ thập niên tám mươi trở lại đây, có "Thiền Quán",
"Quan Âm Thị Hiện"; "Bích Nhãn", "Rừng Thiền" của họa sĩ Phượng Hồng,
"Hồi Đầu Thị Ngạn" của Huỳnh Tuần Bá; "Nhất Hoa Vạn Pháp" của Văn Quan
Vò ThÞ Thóy H»ng 15 Líp: Marketing
49A
Tiểu luận triết học
KT LUN
Dù còn những khuyết điểm, hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận
những giá trị đạo đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trng hớng nội của
Phật giáo giúp con ngời tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của
mình để không gây ra đau khổ bất hạnh cho ngời khác. Nó giúp con ngời sống
thân ái, yêu thơng nhau, xã hội yên bình. Tuy nhiên, để giáo dục nhân cách đạo
đức của thế hệ trẻ thì nh thế vẫn cha đủ. Bớc sang thế kỷ XXI, chuẩn mực nhân
cách mà một thanh niên cần có đòi hỏi phải hoàn thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh
thần, phải có đủ khả năng chinh phục cả thế giới khách quan lẫn thế giới nội tâm.

Đạo đức thế kỷ XXI do vậy có thể khai thác sự đóng góp tích cực của Phật giáo
để xây dựng đạo đức nhân văn toàn thiện hơn, tự giác cao hơn vì sang thế kỷ XXI,
bên cạnh sự phát triển kỳ diệu của khoa học, những mâu thuẫn, chiến tranh giành
quyền lực rất có thể sẽ nổ ra và dới sự hậu thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ đợc
chế tạo hiện đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng thoả mãn cái ác của vài cá nhân và nguy cơ
gây ra sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp hơn. Khi đó đòi hỏi con ngời phải có đạo đức,
nhân cách cao hơn để nhận ra đợc cái ác dới một lớp vỏ tinh vi hơn, sch s hn
Nh vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tơng lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại và
gắn liền với cuộc sống của con ngời Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân tích cực
hợp lý của Đạo Phật nhằm xây dựng nhân cách con ngời Việt Nam, đặc biệt là
thế hệ trẻ, là một mục tiêu chiến lợc đòi hỏi sự kết hợp giáo dục tổng hợp của xã
hội - gia đình - nhà trờng - bản thân cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực cả
truyền thống và hiện đại. Chúng ta tin tởng vào một thế hệ trẻ hôm nay và mai
sau cờng tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo đức
tác phong trong sáng kế thừa truyền thống cha ông cũng nh những giá trị nhân
bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ và xây dựng xã hội ngày càng ổn định, phát
triển.
Vũ Thị Thúy Hằng 16 Lớp: Marketing
49A
Tiểu luận triết học
đề cơng chi tiết
LI M U
I.Giỏ tr ca pht giỏo
1. Pht giỏo con ng trớ tu
2. Giỏ tr nhn thc
3. Giỏ tr giỏo dc ca Pht Giỏo mt giỏ tr nhõn bn sõu sc
4. Giỏ tr ca Pht giỏo vi mi cỏ nhõn
5. Giỏ tr ca Pht giỏo trong thi i ngy nay
6. o Pht hng con ngi ti vic xõy dng mt xó hi vn minh v t do
II. Nhng hn ch ca Pht giỏo

1. Hn ch trong T diu
1.1. Hn ch v cỏch tip cn
1.2. Ngun gc ca cỏi kh
1.3. Hn ch trong phng phỏp gii quyt cỏi kh
2. Hn ch trong c cu t chc
III. nh hng ca Pht giỏo vi nc ta hin nay
1. nh hng Pht giỏo v mt t tng trit hc v o lý
1.1 V mt t tng
1.2. V mt o lý
2. nh hng ca pht giỏo n nhng nột vn húa xó hi
2.1 nh hng v ngụn ng
2.2. nh hng trong vn hc
2.2.1 nh hng trong ca dao v dõn ca
2.2.2 nh hng trong cỏc tỏc phm vn hc
3. nh hng n cỏc phong tc tp quỏn ca ngi dõn
3.1 Tp tc th Pht:
3.2 Tp tc n chay
3.3 Tp tc cỳng vo ngy rm, mựng mt v i l chựa:
3.4 nh hng n tp tc ma chay, ci hi
3.5 nh hng n nhng phong tc tp quỏn khỏc
4. nh hng ca Pht giỏo n nhng loi hỡnh ngh thut
4.1 Pht giỏo th hin qua ngh thut sõn khu (Hỏt bi, hỏt chốo, ci lng
v kch núi).
4.2 nh hng Pht giỏo qua ngh thut to hỡnh :
KT LUN
danh mục tài liệu tham khảo
1. Tạp chí tiếng nói phật giáo (Voice of Buddhism) số tháng 7 năm
1964 phát hành tại Kuala Lumpur
2. Ca dao tục ngữ Việt Nam
3. Kinh pháp hoa

4. Các trang Web: từ google.com
Vũ Thị Thúy Hằng 17 Lớp: Marketing
49A

×