A.Đặt vấn đề:
Trong thời đại tân tiến ngày nay, hình như chúng ta có thể thụ hưởng tất
cả mọi điều chúng ta muốn nếu chúng ta siêng năng làm việc và có tiền. Tiền
bạc chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều tiện nghi văn minh, có thể giúp
chúng ta thâu ngắn giờ làm việc và tìm thấy nhiều thú vui trong cuộc sống hàng
ngày. Tuy nhiên đồng thời, chúng ta thấy rằng những tiện nghi tân tiến đó
không giải quyết được những vấn đề thiết yếu cho đời sống chúng ta. Một số
đông người đang đau khổ vì những lo nghĩ vật chất cũng như tinh thần đã làm
lay chuyển căn bản cuộc sống của họ. Ðời sống chúng ta còn luôn bị đe dọa
không dứt bởi những làn sóng bất an và sợ hãi. Người hôm qua chúng ta gặp có
thể bị tai nạn và chết hôm nay. Và ngày mai, một trận thế chiến khác biết đâu
lại chẳng xảy ra để tận diệt toàn thể chúng ta. .
Ðức Phật đã giác ngộ sâu xa rằng tất cả chúng sanh hữu tình đều có
chung ý muốn ham sống và sự thể hiện nó trong những hoàn cảnh riêng của mỗi
người. Mọi người đều gắn liền với thực tại và họ chỉ có thể sống còn nhờ nương
vào sự sống của những kẻ khác. Cho nên cuối cùng, đức Phật tin tưởng rằng
con đường duy nhất chúng ta có thể áp dụng mà không làm hại lẫn nhau là thực
hiện sự đồng nhất căn bản của mọi cuộc sống. Thế giới chúng ta không gì khác
hơn ngoài sự thể hiện tánh đồng nhất của cuộc sống trong đó mọi chúng sanh,
hữu tình cũng như vô tình đều mật thiết tương quan sinh tồn.
Khi một vị đệ tử của đức Phật hỏi: “Ngài có phải là Thượng Ðế không?”. Ðức
Phật trả lời: “Không”. “Là một bậc Thánh?”. “Không”. “Vậy Như Lai là người
thế nào?”. Ðức Phật đáp: “Ta là người đã giác ngộ”. Câu trả lời của đức Phật đã
trở thành danh hiệu của Ngài, bởi đây là điều đức Phật đã thuyết bày.
Cho nên chúng ta là những vị Phật sẽ thành, và đức Phật với chúng sanh
đều có tương quan liên hệ, nghĩa là trong Phật có chúng sanh và trong chúng
1
sanh cú Pht. éõy khụng phi l mt cnh gii huyn bớ hay o tng riờng
dnh cho nhng k siờu phm mi cú th t c, m l mt cuc sng thụng
thng chỳng ta cú th thc hin trong i sng hng ngy. Giỏo lý c Pht
khụng phi tỡm thy bi s suy lun hay tranh bin m do kinh nghim trc
tip c xõy dng trờn chõn lý ca nhng lut nhõn qa. éc Pht dy: Giỏo
lý ca Nh Lai khụng gỡ khỏc ngoi li dy cuc sng l kh au v phng
phỏp dit tr au kh. Li dy ca éc Pht do ú rt thc dng v khoa hc
cựng luụn luụn liờn h n nhng vn s sng v nng lc phỏt trin tinh
thn ca chỳng ta.
Khi c Pht sp nhp dit, Ngi ó truyn dy cho c A Nan mt trong
nhng i t ca Ngi nh sau: Ny A Nan! Ngi hóy t lm ngn uc
cho chớnh ngi. Ngi hóy quay v nng ta ni chớnh ngi. éng tỡm ni
nng tng no khỏc ngoi. Hóy nm vng chõn lý lm ngn ốn soi sỏng
cho ngi. Hóy nm vng chõn lý lm ni nng ta cho ngi. Hóy tinh tn
t gii thoỏt Tri qua hn 2.500 nm. Pht giỏo dự ó c phỏt trin thnh
nhiu h thng t tng v hc thuyt nhng khụng ngoi cu cỏnh l khai th
cho chỳng sanh nhn thc c Bn Th éng Nht Ca S Sng qua c
tớnh bỡnh ng T Bi v Trớ Tu ca c Pht.
Pht giỏo ó tr thnh 1 tụn giỏo khụng th thiu i vi ngi dõn Vit
Nam.Vỡ vy trong tiểu luận triết học em xin chọn đề tài :
Những giá trị và hạn chế của phật giáo ảnh hởng của nó ở nớc ta
hiện nay .
B. NộI DUNG
Ngy nay, cn c cỏc ti liu (1) v cỏc lp lun khoa hc ca nhiu hc gi,
gii nghiờn cu hu ht u ng ý rng o Pht ó c truyn vo Vit
2
Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua
hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
I. Phật Giáo du nhập qua con đường Hồ Tiêu:
Con đường Hồ Tiêu (Chemi des epices) tức là đường biển, xuất phát từ các hải
cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt Nam...lợi dụng được
luồng gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở
khu vực Đông Nam Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán
bằng những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các thương
nhân thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn
và các vị tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông
Nam Á. Giao Châu tiêu biểu bấy giờ là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ
chân giao lưu của các thương thuyền. Lịch sử chính thức xác nhận năm 240
trước Tây lịch, Mahoda-con vua A dục (Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam
(2). Tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có
mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ
trước công nguyên 2879-258). Đó là câu chuyện công chúa Tiên Dung, con gái
vua Hùng Vương thứ 3 lấy Đồng Tử. Chuyện kể rằng Đồng Tử và Tiên Dung
lập phố xá buôn bán giao thiệp với người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo
một khách buôn ngoại quốc đến Quỳnh Viên và tại đây Đồng Tử đã gặp một
nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều. Nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên Dung đã biết
đến Đạo Phật (3). Qua dữ kiện này ta thấy sự hiện diện của Phật Giáo do các
tăng sĩ Ấn Độ truyền vào Việt Nam khá lâu trước Tây lịch.
II. Phật Giáo du nhập qua con đường Đồng Cỏ:
3
Con đường Đồng Cỏ (Chemin des Steppes) tức là đường bộ còn gọi là con
đường tơ lụa (6) con đường này nối liền Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông Bắc
Ấn Độ, Assam hoặc phía Trung Á, một nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu
qua các vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở Trung Á tới Lạc Dương bằng
phương tiện lạc đà. Cũng có thể các thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng
và các triền sông Mekong, sông Hồng, sông Đà mà vào Việt Nam. Cuốn Lịch
sử Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương nhân xuất phát
từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông
Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối liền
cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con sông
Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông
Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do
những di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn Độ
vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây vượt
Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
Nói chung căn cứ theo các tư liệu trên thì chúng ta có thể khẳng địng rằng Phật
Giáo truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch bằng những phương
tiện hòa bình và vì thế không một giọt máu nào đã chảy, không một giọt lệ nào
rơi vì sự truyền bá Đạo Phật vào Việt Nam.
III.Những giá trị của học thuyết Phật giáo:
1.Đặc điểm của Phật giáo:
Thứ nhất, đặc điểm của Phật giáo là 'In như sự thật': Lý thuyết, phương pháp,
kết quả đều hợp lý, đều như thật. Phật giáo không chen chủ quan của mình vào
4
trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận
sau sự suy nghiệm chung thực ấy. Cho nên đạo Phật cũng gọi là Đạo Như Thật.
Đặc điểm thứ hai là 'tôn trọng sự sống'. Không sát sanh, ăn chay, là những điều
tượng trưng cụ thể cho đặc điểm ấy. Đạo Phật xem sự sống trên tất cả. Hết thảy
cái gì gọi là có giá trị là phải bảo vệ sự sống ấy.. Đạo Phật đặc biệt chú trọngvà
nêu cao chủ nghĩa lợi tha, nhưng chữ lợi ấy là phải hướng về mục đích tôn
trọng sự sống.
Đặc điểm thứ ba của đạo Phật là chỉ thừa nhận sự 'tương quan sinh tồn'. Đạo
Phật dạy cho người ta thấy ở đời phải tự lập chứ không phải biệt lập. Phật tử
không thấy, không tạo nên một đối phương. Bởi thế cho nên phân ly là tự tạo
một ung nhọt, mà chiến đấu (theo nghĩa hẹp) chỉ là tương đối.
Đặc điểm thứ tư của đạo Phật là xác nhận 'người là trung tâm điểm của xã hội
loài người'. Đạo Phật không nói duy tâm, không nói duy vật, mà tất cả đều do
người phát sinh và đều phát sinh vì người. Kết luận này thực tế ở đâu cũng rõ
rệt cả.
Đặc điểm thứ năm của đạo Phật chú trọng 'đối trị tâm bịnh con người trước hết'.
Lý do rất dễ hiểu. Con người là trung tâm điểm của xã hội loài người, xã hội ấy
tiến hóa hay thoái hóa là hoàn toàn do hoạt động con người chi phối; mà hoạt
động con người lại do tâm trí con người chủ đạo, vậy xã hội phản ánh trung
thành của tâm trí con người. Cho nên muốn cải tạo xã hội, căn bản là phải cải
tạo con người, cải tạo tâm bịnh của con người.
Đặc điểm thứ sáu, mục đích đạo Phật là 'đào luyện con người thành bi, trí,
dũng'. Bi là tôn trọng quyền sống của người khác. Trí là hành động sáng suốt
lợi lạc. Dũng là quyết tâm quả cảm hành động. Dũng không có bi và trí thì sẽ
5
thành tàn ác và manh động. Trí không có bi và dũng thì sẽ trở thành gian xảo và
mộng tưởng. Bi không có trí và dũng sẽ thành tình cảm và nhút nhát. Bi là tư
cách tiến hóa, trí là trí thức tiến hóa, dũng năng lực tiến hóa. Con người như thế
là con người mới, căn bẳn của xã hội mới.
Đặc điểm thứ bảy của đạo Phật là 'kiến thiết một xã hội mới' mà căn bản là con
người mới. Cho nên tranh đấu cho xã hội mới ấy, trở lại vấn đề, là phải chiến
thắng chính mình trước hết.
Đặc điểm thứ tám của đạo Phật là 'tiến lên vô thượng giác'. Đào luyện một con
người mới, kiến thiết một xã hội mới rồi, không phải mục đích của đạo Phật
cứu cánh ở đó. Cao xa, đạo Phật còn hướng dẫn con người lên chóp đỉnh của sự
tiến hóa là địa vị vô thượng giác, địa vị vô minh toàn diệt, trí tuệ toàn giác, địa
vị Phật đà.
Đặc điểm thứ chín của đạo Phật là đạo Phật dạy phải 'tự lực giải thoát'. Đấy là
một tinh thần tuyệt đối cần thiết. Đức Phật chỉ là một đạo sư dẫn đạo con đường
sáng cho chúng ta. Còn chúng ta phải tự thắp đuốc trí tuệ của mình mà soi
đường, phải tự động cặp chân năng lực của mình mà đi.
Đặc điểm thứ mười của đạo Phật là 'hiện chứng thể nghiệm'. Đức Phật chỉ
hướng dẫn chúng ta, chứ chân lý không phải là thứ đem quay phim cho người
thấy được. Đức Phật là đạo sư, nhưng trí giác không phải là thứ ai dạy khôn cho
ai. Cho nên đối với chân lý tối cao, ta phải tự lực thể nghiệm. Sự tự lực thể
nghiệm ấy, không những áp dụng với tinh thần tự lực giải thoát mà thôi, mà còn
đặc biệt chú ý đến sự hiện chứng. Đối với chân lý chưa hiện chứng, chúng ta
chỉ nói học, không nói biết. Tinh thần tu chứng đạo Phật l
2.Nhân sinh quan Phật giáo:
6
2.1. Thuyết luân hồi là gì?
Phật giáo chủ trương “thuyết luân hồi”, hễ chúng sinh nào chưa được
giác ngộ đều phải luân hồi mãi mãi trong bể khổ sống chết. Do đó, con người
mới phải trải qua hàng ngàn, hàng vạn cuộc đời. Thậm chí có người kiếp trước
chỉ là động vật như trâu, bò, lợn, chó, rắn rết.. nhưng chúng ta chưa được giác
ngộ thực sự, chưa hiểu điều đó một cách trí tuệ nên không biết đó thôi.
Mọi người đều biết “không sát sinh” là giới cấm của Phật giáo. Phật giáo
chủ trương mọi chúng sinh trong thế gian này đều phải bình đẳng, chính vì vậy
con người cần phóng sinh những động vật nhỏ, yếu; không được đang tâm chà
đạp chúng.
2.2, Phật giáo phủ định thuyết định mệnh
Thế nào là thuyết định mệnh? Nói giản đơn là con người sinh ra ở đời
lành, dữ, phúc, hoạ đều là do định sẵn từ trước không thể nào thay đổi được.
Những người tin vào thuyết định mệnh cho rằng tất cả đều do trời xếp đặt kể cả
việc sống và chết. Người đã có số thì dù có cố gắng đến đâu cũng không thể
thay đổi được số mệnh của mình. Ví dụ số đã không nghèo thì dù có tiêu pha
hoang phí đến đâu cũng không thể nghèo đi. Hoặc người hay làm điều ác thì số
đã giàu có phong lưu cũng không vì thế mà gặp nghiệp chướng.
2.3. Thuyết “Nhân quả”
Học thuyết “Nhân quả” của Phật giáo, đó là một giáo lý có tinh thần đặc
sắc và tinh hoa. Theo Phật giáo thì “làm lành được lành, làm ác bị ác báo, nếu
không chịu quả báo là do thời gian chưa đến mà thôi". Điều đó chứng tỏ
những người ăn ở hiền lành mà chịu cuộc sống bất hạnh không phải là việc
7
nhân quả báo ứng sai mà vì người này trước kia đã từng làm nhiều việc ác mà
đến đời này phải chịu quả ác đó. Phật giáo còn cho rằng việc báo ứng nhân quả
có khi đời này làm thì đời này sẽ báo ứng, có khi phải đến đời sau hoặc sau
nhiều đời mới có báo ứng. Người xưa đã từng nói: “Thiện ác cuối cùng tất sẽ
báo ứng, đạo trời vốn luân hồi, không tin thì ngẩng đầu lên xem, trời xanh
đâu có buông tha ai?”
2.4. Quan niệm của Phật giáo về hạnh phúc thật sự của loài người
Con người muốn được an lạc thực sự đại khái phải thoả mãn được các
yêu cầu sau đây:
_Tâm thần thanh thản, không phiền não.
_Ðối với những khổ đau trước mắt thì tuỳ cảnh ngộ mà giải quyết ổn
thoả, không oán trời trách người.
_Ðối với các vấn đề vũ trụ, nhân sinh được giải đáp hợp lý.
_Ðối với tương lai (đời sau) có đáp án thoả đáng.
_Tiền đồ, vận mạng, cuộc đời, thành bại, vui khổ của mình không được
do người khác thao túng.
2.5. Thế giới vĩ mô và vi mô của Phật giáo
a) Vũ trụ quan của Phật giáo.
Phật giáo cho rằng 1000 thái dương hệ hợp thành 1000 tiểu thế giới 1000
tiểu thế giới hợp thành 1000 trung thế giới và 1000 trung thế giới hợp thành
1000 đại thế giới gọi là một quốc độ Phật (nơi mà Phật giáo hoá). Như vậy là
8
một quốc độ Phật có bao nhiêu thái dương hệ? Có tất cả là 1000
3
bằng
1.000.000.000 thái dương hệ, tương đương với một tinh vân thiên văn học
Thế thì trong vũ trụ cuối cùng có bao nhiêu quốc độ Phật? Kinh A di đà
nói rõ: “Từ Tây phương vượt qua 10 vạn triệu triệu quốc độ Phật có thế giới gọi
là cực lạc!” nghĩa là từ trái đất ta ở Cực lạc Tây Phương có đến 10 vạn ức Phật
độ. Cho nên Đức Phật Thích Ca nói: “10 phương hư không là vô cùng tận, thế
giới là mênh mông không bờ bến” (10 phương hư không đồng nghĩa với chữ
“Thái không” mà ta thường nói). Ðiều này nói với chúng ta rằng, trong hư
không có vô vàn hành tinh không kể xiết, hư không là mênh mông, không bờ
bến.
b) Trong một bán ước có 8 vạn 4 ngàn chúng sinh
Khi đức Phật thuyết pháp. Người đã báo rất rõ cho chúng ta biết rằng:
“Chúng sinh trong vũ trụ là không thể đếm được, là không thể tưởng tượng
được”. Ngoài trái đất chúng ta ở có chúng sinh ra vô vàn hành tinh trong vũ trụ,
cũng có chúng sinh mà chúng ta không thấy được. Đức Phật chỉ một bát nước
trên bàn nói: “Trong bát nước này có 8 vạn 4000 chúng sinh” (có nghĩa là số
lượng rất nhiều).
Cách đây 2500 năm, Thích Ca Mâu Ni không hề dùng kính hiển vi quan
sát mà nói được ra một sự thực phù hợp với khoa học hiện đại, thực đáng để
chúng ta khâm phục.
2.6. Ngũ phúc là gì?
Ngũ Phúc, danh từ này nguyên ở trong thiên “Hồng Phạm” của Kinh
Thư. Bây giờ đã trở thành từ ngữ mà mọi gia đình đều biết. Hầu như ai ai đểu
9
quen thuộc thành ngữ “ngũ phúc lâm môn”. Nhưng rất ít người bìết cái mà ngũ
phúc là chỉ 5 loạì ngũ phúc nào. Còn nói về nguyên lý của ngũ phúc lâm môn,
người hiểu nó lại càng ít.
Phúc thứ nhất là “trường thọ”, phúc thứ hai là “phú quý”, phúc thứ ba là
“khang ninh”, phúc thứ tư là “hiếu đức”, phúc thứ năm là “thiện chung”.
Trường thọ là không bị chết non, phúc thọ là lâu dài.
Phú quý là tiền của rất nhiều, địa vị tôn quý.
Khang ninh là thân thể khoẻ mạnh, tâm hồn yên lành.
Hiếu đức là tính lương thiện, nhân hậu, bình tĩnh.
Thiện chung là có thể tiên liệu thời kỳ chết của mình. Khi lâm chung
không gặp tai họa, thân thể không đau đớn vì bệnh tật, trong lòng không vương
vấn và phiền não, ôn hoà tự tại rời khỏi nhân gian.
IV.Đạo đức Phật giáo:
1 .CÁC NÉT KHÁI QUÁT VỀ CƠ SỞ ÐẠO ÐỨC PHẬT GIÁO
1.1 Phật giáo đặt trọng tâm vào con người:
Trên con đường giải thoát khổ đau, Phật giáo dạy con người quay trở về nương
tựa mình trong hiện tại và tại đây. Ðức Phật dạy:
"Hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp”
"Ngươi là hòn đảo là nơi nương tựa của chính ngươi"
10
Giáo lý nhân quả nghiệp báo xác định rõ con người là chủ nhân của nghiệp và
là kẻ thừa tự của nghiệp. Thế nên, địa bàn chính để đoạn trừ khổ đau là chính
mỗi người trong hiện tại và tại đây. Nếu khổ đau phát sinh từ đó, thì cũng từ đó
phát sinh sự dập tắt khổ đau, hay phát sinh hạnh phúc.
1.2 Tính thiết thực hiện tại của sự đoạn khổ sinh lạc:
Ðức Phật đã nhiều lần xác định Ngài ra đời chỉ vì lợi ích, an lạc cho Chư thiên
và loài người chỉ vì lòng thương tưởng cuộc đời. Giáo lý nền tảng của Phật giáo
là Tứ đế chỉ đưa ra vấn đề khổ đau và con đường giải quyết khổ đau. Câu
chuyện nắm lá Simsàpa và câu chuyện mũi tên độc là các ảnh dụ nhấn mạnh
vào tinh thần thực tế và thực tiễn khẩn thiết loại bỏ khổ đau khỏi con người và
cuộc đời.
1.3 Tinh thần Bi, Trí, Dũng:
Trên đường loại bỏ khổ đau, chánh kiến (hay trí tuệ, bao gồm chánh tư duy)
luôn luôn dẫn đầu các pháp hành. Hành giả trước nhất cần nhận rõ thực trạng
khổ đau và các nguyên nhân gây khổ đau để nhận ra con đường loại bỏ chúng.
Thiếu nó thì hành giả sẽ đi chệch hướng giải thoát.
1.4 Mục tiêu là hạnh phúc, giải thoát ngay tại đời này:
Ðức Phật chỉ dạy khổ và con đường đoạn tận khổ có nghĩa là chỉ nói đến hạnh
phúc và sống đời sống tâm thức hạnh phúc ngay trong hiện tại, tại đây, ở trên
đời này.
11