Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

cơ hội kinh doanh năng lượng sinh khối tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 90 trang )































Cơ hội kinh doanh


Năng lượng sinh khối
tại Việt Nam

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012








Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 3 / 90

Colofon
Ngày
Tháng 3/2012
Tình trạng
Hoàn thành


Nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ Chương trình Năng lượng sinh khối
Bền vững của Hà Lan, thực hiện bởi

Tên Tổ chức
Tổ chức Phát triển Hà Lan SNV

Người liên hệ
Dagmar Zwebe



Mặc dù bản báo cáo này được nghiên cứu và biên soạn rất cẩn thận, sai sót là điều không thể
tránh khỏi và tổ chức NL Agency không chịu trách nhiệm đối với những sai sót này.



Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 5 / 90

Liên hệ
Chương trình Năng lượng sinh khối Bền vững của Hà Lan

Carmen Heinze
NL Agency
NL Energy and Climate Change
Croeselaan 15, 3521 BJ Utrecht
P.O. Box 8242, 3503 RE Utrecht
The Netherlands
Email:
ĐT: +31 - 88 - 602 2407
www.agentschapNL.nl/biomass

Tổ chức phát triển Hà Lan SNV tại Việt Nam


Ir. Dagmar Zwebe
Quản lý Chương trình Năng lượng Tái tạo
Tổ chức Phát triển Hà Lan SNV
Tầng 6, Nhà B, Khách sạn La Thành
218 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội
Việt Nam

Email:
Điện thoại: +84 (0) 1238163324

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 6 / 90

Phụ lục
1 Giới thiệu 12
1.1 Giới thiệu sơ lược về ngành năng lượng của Việt Nam 12
1.2 Các hoạt động 13
2 Năng lượng sinh khối sẵn có tại Việt Nam 15
2.1 Tiềm năng năng lượng sinh khối – thuật ngữ và các vấn đề cần xem
xét 16
2.2 Loại hình năng lượng sinh khối có sẵn 17
2.2.1 Tre 17
2.2.2 Sắn 18
2.2.3 Dừa 20
2.2.4 Cà phê 21
2.2.5 Ngô 22

2.2.6 Cây cọc rào (jatropha) 23
2.2.7 Chất thải chăn nuôi 25
2.2.8 Chất thải rắn đô thị (hữu cơ) (OMSW) 26
2.2.9 Lúa gạo 27
2.2.10 Mía đường 28
2.2.11 Gỗ phế liệu 30
2.2.12 Chất thải chế biến cá 31
2.2.13 Chè 32
2.2.14 Miscanthus 32
2.2.15 Tảo 32
2.3 Tóm tắt các nguồn lực 32
2.4 Công nghệ chuyển đổi 36
2.5 Các vấn đề về tính bền vững 38
2.6 Tính bền vững và các vấn đề về kinh tế xã hội 40
3 Chính phủ Việt Nam và Năng lượng 41
3.1 Chính sách về Năng lượng 41
3.1 Các chính sách về môi trường 43
3.2 Cơ cấu Chính phủ 44
3.2.1 Bộ Công thương 45
3.2.2 Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN & MT) 46
3.2.3 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN & PTNT) 47
3.2.4 Bộ Xây dựng 47
3.2.5 Bộ Khoa học và Công nghệ (Bộ KH & CN) 47
3.2.6 Vụ Hợp tác Quốc tế (ICD) 47
3.3 Dự án Đầu tư Nước ngoài (FDI) 47
4 Cơ hội 50

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012




Trang 7 / 90

4.1 Xây dựng năng lực và kiến thức 50
4.1.1 Nghiên cứu 50
4.1.2 Xây dựng năng lực 50
4.1.3 Tiêu chí về tính bền vững 50
4.1.4 Tóm tắt về xây dựng năng lực và kiến thức 51
4.2 Từ quan điểm của nhà lãnh đạo: Quản lý và tư vấn 51
4.3 Các cơ hội cho khí sinh học và khí từ rác thải 51
4.3.1 Các chất thải rắn hữu cơ (OMSW) 52
4.3.2 Sản xuất khí sinh học và ứng dụng 52
4.3.3 Các cơ hội khác liên quan đến khí sinh học 53
4.3.4 Công nghệ khí sinh học hộ gia đình 53
4.3.5 Tóm tắt các cơ hội về công nghệ khí sinh học 54
4.4 Từ quan điểm về công nghệ 54
4.4.1 Giới thiệu công nghệ nén 54
4.4.2 Chuyển đổi năng lượng sinh khối nhiệt thành năng lượng 56
4.4.3 Bếp đun cải tiến – ICS (quy mô hộ gia đình) 59
4.5 Từ quan điểm năng lượng sinh khối 60
4.5.1 Trấu 60
4.5.2 Rơm 60
4.5.3 Bột xơ dừa 61
4.5.4 Bã mía 62
4.5.5 Chất thải cà phê 62
4.5.6 Tóm tắt thông tin về năng lượng sinh khối sẵn có 62
4.6 Từ quan điểm tài chính 62
4.7 Khuyến nghị về hợp tác 63
5 Các rào cản 65
5.1 Kinh doanh năng lượng (vận chuyển) 65

5.1.1 Bán điện cho mạng lưới 65
5.1.2 Các dạng năng lượng khác 66
5.2 Thiết bị đầu tư với chi phí cao 66
5.3 Xuất khẩu năng lượng sinh khối và tính sẵn có của năng lượng sinh
khối 67
5.4 Trình độ kiến thức 67
5.5 Khu vực tư nhân 68
6 Phân tích các bên liên quan của ngành năng lượng sinh học 69
7 Kết luận và khuyến nghị 70
7.1 Kết luận 70
7.2 Khuyến nghị 71
Danh sách tài liệu tham khảo 74

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 8 / 90

Phụ lục 1. Công nghệ chuyển đổi 77
Phụ lục 2. Các nhà đầu tư năng lượng sinh học Việt Nam 80
Phụ lục 3. Các bên có liên quan Hà Lan 84



Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 9 / 90


Tóm tắt
Trong thập kỷ trước, quá trình công nghiệp hóa và sự tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng của Việt Nam đã dẫn tới mức tiêu thụ năng lượng ngày càng gia tăng. Việt
Nam lúc đó được dự đoán là nước phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhiên liệu hóa
thạch, và hiện đang là một quốc gia nhập khẩu ròng về năng lượng. Mục tiêu của
Việt Nam là tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng thương mại sơ cấp
từ 3% năm 2010 đến 5% năm 2020 và 11% năm 2050. Điều này cho thấy tiềm
năng rất lớn về năng lượng sinh học trong tương lai gần. Thông qua bản báo cáo
này, NL Agency sẽ xác định tiềm năng kinh doanh năng lượng sinh khối tại Việt
Nam.

Sinh khối ở Việt Nam sẵn có và dồi dào, được phẩn bố cả tập trung và rải rác trên
toàn quốc. Việt Nam không có nhiều nhận thức cũng như kiến thức về tiêu chuẩn
bên vững của Châu Âu và Hà Lan. Các vụ mùa năng lượng không dược trồng nhiều
và vì thế không tạo được một nguồn sinh khối đáng kể. Với nghị định mới tập trung
vào mảng nghiên cứu và phát triển (Research & Development – R&D), sử dụng các
sản phẩm của cây cọc rào (Jatropha), và áp lực ngày càng tăng đối với thị trường
sắn, các vấn đề về tính bền vững ngày càng trở nên quan trọng và cần được theo
dõi. Vì vậy, cần tăng cường nâng cao nhận thức liên quan đến vấn đề bền vững.

Một số chính sách liên quan đến năng lượng và môi trường hiện nay chủ yếu tập
trung vào các mục tiêu nhưng đồng thời cũng phản ánh được các khuyến khích, hỗ
trợ về đất đai và vốn, miễn giảm thuế, lệ phí cho hoạt động bảo vệ môi trường, ….
Tuy nhiên, những ưu đãi này được nhìn nhận rằng không đủ tính khả thi cho dự án
năng lượng sinh học tại Việt Nam. Những ưu đãi dành cho biểu giá bán điện năng
lượng tái tạo (feed-in-tariff) chưa có và các cuộc đàm phán hợp đồng mua bán điện
được thực hiện đơn lẻ và chưa bao giờ đạt mức giá cao hơn mức giá bình quân. Vấn
đề này được nhận diện là một trong những rào cản chính.


Hợp tác và đầu tư tại Việt Nam đòi hỏi sự tham gia của chính phủ. Cơ cấu của Chính
phủ và các Bộ ngành được xây dựng dựa trên cơ sở hợp tác đó. Các tổ chức nước
ngoài sẽ làm việc với cán bộ của Vụ Hợp tác Quốc tế (VHTQT) (International
Cooperation Department). VHTQT là một đơn vị hoạt động trong các cơ quan trực
thuộc Bộ và chịu trách nhiệm xây dựng và quản lý quan hệ hợp tác quốc tế.

Nhiều cơ hội hợp tác đã được xác định giữa các tổ chức của Việt Nam và Hà Lan. Các
cơ hội chính được chia thành các lĩnh vực sau:
 Chuyển giao kiến thức và xây dựng năng lực
Nhu cầu chung về chuyển giao kiến thức và xây dựng năng lực, tập trung vào
các công nghệ năng lượng sinh học. Lĩnh vực hợp tác khác có thể kể đến là hợp
tác trong lĩnh vực Nghiên cứu và Phát triển.
 Kỹ năng quản lý và tư vấn
Quản lý và tư vấn quốc tế cũng là một cơ hội, đặc biệt liên quan đến các dự án
công nghiệp có quy mô lớn. Mặc dù đã có một số công ty Hà Lan hoạt động tại
Việt Nam trong lĩnh vực này nhưng phần lớn các công ty Hà Lan đều chưa nhận
thấy bất cứ cơ hội nào từ ngành năng lượng sinh học.
 Khí sinh học và khí từ các bãi chôn lấp rác thải
Khí sinh học là một trong các ngành đang phát triển bùng nổ nhất tại Việt Nam.
Điều này tự tạo ra nhu cầu lớn cho các dự án trước đây và trong tương lai. Khí

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 10 / 90

thu hồi từ các bãi chôn lấp rác thải chưa được giới thiệu, và đây chính là lĩnh vực
có tiềm năng hợp tác cao.
 Yêu cầu về công nghệ

- Công nghệ nén (viên nén, đóng bánh) cũng như công nghệ đốt và công nghệ
(đồng) phát điện (nhiệt điện kết hợp) chưa phổ biến rộng rãi tại Việt Nam.
Việt Nam hiện đang mong muốn được cung cấp công nghệ cũng như kiến
thức cần thiết.
- Ở cấp hộ gia đình, bếp đun cải tiến là một cơ hội kinh doanh cho cả Tổ chức
Phi Chính phủ cũng như các bên kinh doanh thương mại.
 Năng lượng sinh khối sẵn có
Các nguồn năng lượng sinh khối sau đây không chỉ có sẵn mà còn có hại cho môi
trường hiện nay như trấu, rơm rạ, bột xơ dừa, bã mía và chất thải cà phê. Việc
tận dụng các loại năng lượng này chính là cơ hội và mang lại lợi ích cho môi
trường. Rơm rạ được xác định có tiềm năng lớn nhất, nhưng đồng thời cũng là
thách thức lớn nhất.
 Các vấn đề về tài chính
Hợp tác về tài chính dưới nhiều hình thức khác nhau, tạo ra một môi trường cho
vay vốn với nhiều điều kiện thuận lợi là nhu cầu hiện tại ở Việt Nam. Nhu cầu
này hiện đứng trong nhóm đầu trong danh mục ưu tiên.

Rào cản lớn nhất được xác định đó là thiếu sự hỗ trợ hoặc biểu giá bán điện dành
cho nguồn năng lượng xanh. Nhìn chung, để thúc đẩy năng lượng tái tạo thì những
sự hỗ trợ này là cần thiết do vốn đầu tư ban đầu cho công nghệ rất tốn kém (thường
nằm ngoài phạm vi hoạt động kinh doanh chính của công ty). Rào cản này có thể
được giảm thiểu bằng cách tập trung vào sản xuất phân tán, khuyến nghị một dạng
tương tự, và cần hợp tác với các nhà sản xuất/ chủ sở hữu của một nguồn sinh khối
nào đó. Gánh nặng tài chính có thể được chia sẻ thông qua đồng sở hữu mua năng
lượng sinh khối và cung cấp năng lượng cho các nhà sản xuất năng lượng sinh khối
và từ các nhà sản xuất.

Có năm rào cản đã được xác định; trong đó rào cản quan trọng nhất liên quan đến
biểu giá điện từ năng lượng sinh học. Không có chính sách ưu tiên bổ sung đối với
lĩnh vực nhiên liệu sinh học và chất thải. Hơn nữa, đầu tư vào thiết bị có xuất sứ từ

châu Âu có chi phí tương đối cao đối với thị trường Việt Nam và do đó công nghệ cần
phải có chi phí thấp và điều chỉnh phù hợp với bối cảnh trong nước. Các rào cản
khác bao gồm nguồn năng lượng sinh khối có sẵn nhưng phân tán, trình độ kiến
thức, và khó thâm nhập vào khu vực phi chính phủ.

Các khuyến nghị quan trọng nhất bao gồm:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập mạng lưới và thúc đẩy các doanh
nghiệp Hà Lan cải thiện thương hiệu của mình trong lĩnh vực năng lượng sinh
học.
- Phối hợp với các chính phủ khác đang tiến hành khảo sát tương tự tại Việt Nam,
cũng tập trung vào năng lượng sinh học, như chính phủ Đức và Đan Mạch. NL
Agency có thể hợp tác với chính phủ của hai quốc gia này để cùng hỗ trợ thị
trường năng lượng sinh học tại Việt Nam
- Cung cấp trợ giúp, hỗ trợ cũng như kiến thức cho chính phủ Việt Nam trên con
đường duy trì và tăng cường mở rộng thị trường năng lượng tại Việt Nam.
- Cấp vốn cho các hoạt động đồng sáng kiến và nghiên cứu liên quan và tập trung
vào khu vực tư nhân
- Tăng cường nhận thức về các cơ hội ở Việt Nam để thu hút sự quan tâm nhiều
hơn của các doanh nghiệp Hà Lan.

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 11 / 90

- Các giải pháp quy mô nhỏ, như bếp đun cải tiến (ICS), không nên bị bỏ qua và
cần được hỗ trợ.
- Tài trợ và/ hoặc hỗ trợ cho giai đoạn phát triển sau của thị trường năng lượng
sinh học.

- Hỗ trợ tài chính có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản vay cho các doanh
nghiệp địa phương nếu có sự hợp tác với một tổ chức của Hà Lan.
- Không chỉ tập trung vào công nghệ biến đổi năng lượng mà còn bao gồm xử lý
năng lượng sinh khối.

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 12 / 90

1 Giới thiệu
Thông qua các quy định và chương trình khác nhau, NL Agency tạo điều kiện thuận
lợi và khuyến khích các dự án cũng như nghiên cứu bổ sung để thu được kinh
nghiệm trong sản xuất và các chứng nhận năng lượng sinh khối bền vững.

Các chương trình Năng lượng sinh khối Bền vững của Hà Lan (The Netherlands
Programmes Sustainable Biomass - NPSB) tập hợp kiến thức từ danh mục các dự án
năng lượng sinh khối của NL Agency, và hoàn thiện kiến thức này thông qua các
nghiên cứu bổ sung. Danh mục đầu tư dự án cho NPSB bao gồm các chương trình:
Chương trình Năng lượng sinh khối Bền vững Toàn cầu và Nhập khẩu Năng lượng
sinh khối Bền vững (Global Sustainable Biomass and Sustainable Biomass Import)
cũng như các dự án có liên quan của Quỹ Daey Ouwens. Thêm vào đó, kinh nghiệm
của các chương trình và đối tác khác cũng được sử dụng. Nhiệm vụ của NPSB là tạo
ra một nền sản xuất năng lượng sinh khối bền vững nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho việc chuyển đổi sang nền kinh tế dựa vào sinh học.

Vào tháng 7, NL Agency đã làm việc với Bộ Tài nguyên và Môi trường của Việt Nam
để tiếp tục thảo luận về tiềm năng và cơ hội cũng như các rào cản đối với các dự án
năng lượng sinh khối ở Việt Nam. Dựa vào kết quả của cuộc họp này, kết hợp với kết

luận của đoàn đại biểu Cleantech thăm Việt Nam vào tháng 6 năm 2011, NL Agency
kết luận rằng các thành phần của khối tư nhân của Hà Lan cần có một cái nhìn cụ
thể và thống nhất hơn. Trong đó các ưu tiên, phát triển chính sách liên quan của
chính phủ Việt Nam, luật pháp và tiêu chí về tính bền vững cần được xác định rõ
ràng. Những cái nhìn này cũng sẽ đem lại lợi ích cho chính phủ Việt Nam bằng cách
giúp tìm kiếm các lựa chọn khả thi để xây dựng nhu cầu về một môi trường thuận lợi
phục vụ thị trường năng lượng sinh khối/ nhiên liệu sinh học bền vững. Vì vậy NL
Agency xuất bản cuốn “Điều khoản Tham chiếu các cơ hội kinh doanh năng lượng
sinh khối tại Việt Nam” trong đó đề cập đến quan điểm cần thiết này.

SNV đã được chọn và thực hiện nhiệm vụ này từ tháng 10 năm 2011 đến tháng 2
năm 2012. Thông qua bản báo cáo này, Tổ chức Phát triển Hà Lan SNV tại Việt Nam
sẽ trình bày các kết quả của mình.
1.1 Giới thiệu sơ lược về ngành năng lượng của Việt Nam

Trong thập kỷ vừa qua, quá trình công nghiệp hóa và sự tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng của Việt Nam dẫn đến tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng nhanh. Tổng năng
lượng sơ cấp tiêu thụ của Việt Nam tăng từ 32.236 KTOE năm 2000 lên 53.364
KTOE năm 2008, đạt hơn 8% mỗi năm. Trong thời gian từ năm 2000-2008, nhu cầu
khí đốt đã tăng ở mức cao nhất là 20,5%/ năm (IoE, 2010).

Tuy nhiên, lĩnh vực năng lượng của Việt Nam dự báo sẽ mất cân bằng trong tương
lai gần do phụ thuộc ngày càng nhiều vào nhiên liệu hóa thạch. Tỷ lệ nhiên liệu hóa
thạch trong tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp được dự báo tăng từ 42% năm 2002 lên
69% năm 2030, trong khi tỷ lệ này của nguồn năng lượng tái tạo giảm từ 58% còn
22% so với cùng kỳ (Bal, 2011).

Trong khi Việt Nam hiện vẫn còn là một nước xuất khẩu năng lượng, kế hoạch phát
triển năng lượng quốc gia chỉ ra rằng dự kiến vào năm 2015, Việt Nam sẽ trở thành


Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 13 / 90

nước nhập khẩu năng lượng với nguồn nhập khẩu gia tăng đều đặn mỗi năm. Dự
kiến nhập khẩu năng lượng sơ cấp sẽ chiếm 36% tổng mức tiêu thụ năng lượng sơ
cấp vào năm 2020 và sẽ tăng lên 57% vào năm 2030.

Ngành điện hiện nay đang chịu áp lực do nhu cầu tăng cao và phụ thuộc nhiều vào
thủy điện (hơn 30% năm 2009), do đó việc cắt giảm điện sẽ xảy ra nhiều hơn do
hạn hán ngày càng xuất hiện thường xuyên. Về lâu dài, nhu cầu điện dự báo tăng
đáng kể với công suất tăng gần gấp đôi vào năm 2020 so với năm 2008. Một trong
những mối quan tâm trong ngành điện của Việt Nam là trợ giá điện, việc này dẫn
đến tiêu thụ điện năng không hiệu quả trong nhiều lĩnh vực kinh tế (giao thông vận
tải, xây dựng, công nghiệp). Một phương pháp đo lường để tăng cường an ninh năng
lượng và giảm tác động của trợ giá nhằm khuyến khích sự tham gia của các nhà sản
xuất điện độc lập là phát triển một thị trường phát điện cạnh tranh. Tính đến năm
2014, các nhà sản xuất điện độc lập (IPP) sẽ vẫn không được EVN cho phép bán
điện trực tiếp cho thị trường, trong khi các nhà sản xuất điện độc lập ước tính chiếm
gần 20% công suất phát điện tại Việt Nam (7% trong năm 2002) (Trường et al.
2004). Sau năm 2014, EVN sẽ chuyển đổi thành 1 công ty phân phối điện độc lập,
quá trình này sẽ hoàn thành vào năm 2022. Năm 2022, thị trường sẽ được mở và
khách hàng trên toàn quốc sẽ có quyền lựa chọn một nhà cung cấp điện (Bộ Tài
chính, 2011). Bằng cách công bố những thay đổi này trên thị trường, nhiều bước đi
mới đã được tạo ra và những thay đổi như vậy tạo ra một môi trường thu hút sự
tham gia của các tổ chức nước ngoài (Hà Lan).

Nhận thức được vấn đề này, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Luật Năng lượng Hiệu

quả có hiệu lực từ ngày 1/1/2011. Theo tài liệu chiến lược năng lượng quốc gia
(được gọi là Quy hoạch Tổng thể VII), tỷ lệ năng lượng tái tạo trong ngành điện tăng
(mặc dù khá chậm) từ 3,5% năm 2010 lên 4,5% năm 2020 và 6% năm 2030. Để
thích ứng với tình trạng thiếu nhiên liệu, thì nhiên liệu sinh học là một lựa chọn
trong chiến lược phát triển năng lượng. Quyết định số 177/2007/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ đã đề ra mục tiêu phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2025 (chủ
yếu là sản phẩm E5 và B5). Mục đích là để đạt 5 triệu tấn E5 và B5 tương đương
1,0% nhu cầu quốc gia về xăng và dầu diesel vào năm 2015; đến năm 2025, chính
phủ mong muốn đạt 1,8 triệu tấn ethanol và dầu thực vật, hoặc 5% nhu cầu xăng
dầu vào năm 2025.

Với thách thức và cơ hội trong lĩnh vực năng lượng cho năng lượng tái tạo nói chung
và năng lượng sinh học nói riêng, Việt Nam sẽ cần phải có sự tham gia tích cực hơn
của khu vực kinh tế tư nhân với quy mô quốc gia và quốc tế.
1.2 Các hoạt động

Mục tiêu của cuộc khảo sát này là để cung cấp một cái nhìn thống nhất và cụ thể
hơn trong đó các ưu tiên, quá trình xây dựng chính sách có liên quan của chính phủ
Việt Nam, luật pháp và các tiêu chuẩn bền vững được giải quyết một cách rõ ràng
nhằm đem lại lợi ích cho khu vực kinh tế tư nhân của Hà Lan, đồng thời thúc đẩy
mối quan hệ hợp tác Hà Lan-Việt Nam và hỗ trợ chính phủ Việt Nam tìm kiếm các
lựa chọn khả thi để phát triển môi trường thuận lợi mong muốn cho một thị trường
năng lượng sinh khối/ nhiên liệu sinh học bền vững.

Phạm vi của cuộc điều tra được nêu dưới đây.


Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012




Trang 14 / 90


Đối tượng
hưởng lợi
Chính phủ Việt Nam
Lĩnh vực sinh khổi của Hà Lan
Mục tiêu và
câu hỏi
 Tiềm năng năng lượng sinh khối/
nhiên liệu sinh học ở Việt Nam?
 Làm thế nào để có thể sử dụng
tối ưu và bền vững nguồn năng
lượng sinh khối tiềm năng này?
Cơ hội kinh doanh năng lượng sinh
khối/ nhiên liệu sinh học tại Việt
Nam?
Trình bày
Thảo luận về khảo sát và kết quả
trong phạm vi các bộ có liên quan
Hội thảo dựa vào khảo sát (Tổ chức
và thực hiện bởi NL Agency)

Các hoạt động sau đây được SNV xác định để thực hiện nhằm đạt được mục tiêu của
dự án:
1. Năng lượng sinh khối sẵn có tại Việt Nam (Chương 2)
2. Chính phủ Việt Nam và Năng lượng (Chương 3)
3. Các cơ hội và rào cản khi thâm nhập thị trường Việt Nam (Chương 4 & 5)
4. Phân tích các bên liên quan của ngành năng lượng sinh học (Chương 6)

5. Kiến nghị (Chương 7)


Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 15 / 90

2 Năng lượng sinh khối sẵn có tại Việt Nam
Năng lượng sinh khối là một nguồn năng lượng quan trọng dồi dào của Việt Nam
được thiên nhiên ban tặng. Ước tính khoảng 90% tiêu thụ năng lượng trong nước ở
khu vực nông thôn có nguồn gốc từ năng lượng sinh khối như củi nhiên liệu, chất
thải nông nghiệp (như rơm và trấu) và than. Hơn nữa, nhiên liệu sinh khối cũng là
một nguồn năng lượng quan trọng cho các ngành công nghiệp nhỏ nằm chủ yếu ở
vùng nông thôn.

Báo cáo này sẽ đánh giá việc sử dụng tiềm năng năng lượng sinh khối từ các nguồn
sau đây: chất thải nông nghiệp, cây trồng/vụ mùa năng lượng và chất thải, rừng và
các nguồn khác. Các nguồn năng lượng này được mô tả trong Hình 1.


Hình 1. Chất thải được lựa chọn để nghiên cứu thêm

Những nguồn này đã được lựa chọn dựa trên danh sách sản lượng của các mặt hàng
thực phẩm và nông nghiệp quan trọng nhất tại Việt Nam (năm 2009) (xếp hạng
theo giá trị của chúng). Giá trị hàng hóa được tính theo giá quốc tế của mặt hàng
(FAOSTAT, 2010). Gỗ được thêm vào danh sách các nguồn tài nguyên này, và các
nguồn tài nguyên nào không có đủ lượng chất thải hoặc không có tiềm năng được
loại bỏ ra khỏi danh sách.


Xếp
hạng
Hàng hóa
Sản xuất
Sản lượng
(triệu tấn)
($1,000)
1
Lúa gạo
38.895.500
10.405.074
2
Mía đường
15.246.400
495.139
3
Sắn
8.556.900
893.879
4
Rau tươi
6.313.390
1.189.702
5
Ngô
4.381.800
78.43
Agricultural
Residues

OtherForest
Energy Crops &
residues
Rice
Coffee Bamboo
Coconut
Corn
Cassava
Sugar Cane
Jatropha
Manure
MSWWood
(Additional) Liquid Waste

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 16 / 90

6
Thịt lợn tại địa
phương
2.906.330
4.467.730
7
Hoa quả tươi
2.616.910
913.391
8

Chuối
1.532.420
431.577
9
Khoai lang
1.207.600
82.087
10
Cà phê
1.176.000
1.263.447
11
Dừa
1.128.500
124.782

2.1 Tiềm năng năng lượng sinh khối – thuật ngữ và các vấn đề cần xem xét

Đánh giá ban đầu về phế thải sinh khối có sẵn tại Việt Nam cho thấy đây là một
nguồn lực lớn vì Việt Nam là một quốc gia giàu tài nguyên nông nghiệp. Tiềm năng
lý thuyết là năng lượng sinh khối tối đa theo lý thuyết và/ hoặc phế thải phục vụ
mục đích năng lượng, nhưng không giải thích các hạn chế về mặt kỹ thuật. Khi các
yếu tố hạn chế đó được xem xét đến để xác định lượng phế thải sinh khối có sẵn
phục vụ cho việc sản xuất năng lượng, tiềm năng lúc đó được gọi là tiềm năng kỹ
thuật.

Hầu hết các nghiên cứu tại Việt Nam liên quan đến tiềm năng năng lượng sinh khối
chỉ tập trung vào tiềm năng lý thuyết hoặc tiềm năng kỹ thuật. Cách tiếp cận cụ thể
này được cho là không thỏa đáng, một số yếu tố bị bỏ qua như tính bền vững, quyền
sở hữu, phân phối và thời vụ, và tính điển hình dẫn đến việc đánh giá quá cao tiềm

năng của nguồn này. Trong báo cáo này, thuật ngữ tiềm năng thực tế được sử
dụng để mô tả các nguồn năng lượng sinh khối có sẵn đã tính đến các yếu tố bị loại
trừ nêu trên.

Tiềm năng thực tế xem xét tính bền vững trong tương lai của nguồn tài nguyên.
Tuân theo yêu cầu chung của NL Agency là thúc đẩy tính bền vững, nghiên cứu này
mô tả tính sẵn có của năng lượng sinh khối về mặt tiềm năng tiếp tục sử dụng trong
tương lai.

Tiềm năng thực tế đồng thời xem xét những phế thải/phụ phẩm sinh khối thông
thường nằm rải rác và thay đổi theo mùa, tạo ra thách thức cho việc thu gom và vận
chuyển, cũng như chi phí đắt và nhiều lao động. Hơn nữa, một số phế thải loại này
đã được thị trường khai thác phục vụ mục đích năng lượng phi tập trung/ quy mô
nhỏ - VD: chất thải trong ngành chăn nuôi lợn quy mô nhỏ để sản xuất khí sinh học.
Phế thải sinh khối cũng có thể được sử dụng hiệu quả cho các mục đích phi năng
lượng khác – VD: xơ dừa (vỏ dừa) trong ngành chế biến dừa được sử dụng để làm
dây thừng, thảm và các sản phẩm sợi khác. Xem xét một nguồn tài nguyên đã được
sử dụng một cách hiệu quả hoặc kinh tế là điều không thực tế. Tuy nhiên, không
nên bỏ qua các tiềm năng trong việc cải thiện hiệu quả năng lượng, cải tiến cách
thức sử dụng hoặc cải tiến cả hai.

Quyền sở hữu cũng là một vấn đề quan trọng khi nói đến năng lượng sinh khối. Cụ
thể hơn, ai là chủ sở hữu hợp pháp và, giá trị hiện tại và mong đợi của sinh khối là
gì. Do vận chuyển năng lượng sinh khối có nghĩa là vận chuyển rất nhiều nước (chứa
trong sinh khối) và không khí (khoảng trống giữa các đơn vị sinh khối), nên quyền
sở hữu, phân phối và hậu cần đóng vai trò rất quan trọng.

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012




Trang 17 / 90

2.2 Loại hình năng lượng sinh khối có sẵn

Dữ liệu được thu thập theo cách tích cực và có hệ thống. Hệ thống ở đây ám chỉ
rằng các dữ liệu được trình bày ở đây được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy và có
kiểm chứng. Với cách tiếp cận tích cực, SNV liên lạc với nhiều chủ sở hữu nguồn
năng lượng sinh khối (quy mô lớn), các hiệp hội và các bên thuộc khu vực tư nhân
đại diện cho ngành. Các cố vấn của SNV đã trực tiếp đến thăm các tổ chức, hiệp hội
hàng đầu trong ngành để thu thập dữ liệu và thông tin cơ bản. Một danh sách các
chuyên gia tham gia phỏng vấn sẽ được cung cấp cho NL Agency, và danh sách này
không nằm trong bản báo cáo cuối cùng vì những lý do bảo mật. Cách tiếp cận này
đã cung cấp một bộ thông tin toàn diện và đáng tin cậy đã được kiểm chứng đem lại
những hiểu biết thực tế về thị trường và cơ hội có thể có được.

Lượng sinh khối tiềm năng được trình bày theo số lượng và nếu có thể, cung cấp
thêm thông tin về kênh phân phối trong nước. Đề xuất cho các công nghệ chuyển
đổi khác nhau được cung cấp ở cuối chương này.
2.2.1 Tre
Tre là một loại lâm sản nội địa chủ yếu được sử dụng để sản xuất hàng thủ công ở
thôn bản phục vụ thị trường địa phương và sản xuất ván sàn với quy mô công
nghiệp để xuất khẩu. Tre được sử dụng và sản xuất hàng thủ công mang lại khả
năng cạnh tranh thấp và hiện nay có một số vấn đề về sức khỏe và môi trường liên
quan đến chế biến các sản phẩm tre. Theo Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam
(Vietrade), tre là 1 trong 10 mặt hàng xuất khẩu có tốc độ phát triển nhanh nhất,
chủ yếu từ ngành công nghiệp ván sàn (HRPC, 2007), (Smith, 2011).

Diện tích trồng tre ước tính ở Việt Nam là 800.000
ha rừng trồng với năng suất trung bình từ 10 - 13

tấn hàng năm cho mỗi ha và 600.000 ha rừng hỗn
hợp, bao gồm 70% tre (IPSARD, 2003).

Sử dụng tre được tập trung vào ba tiểu ngành chính
ở khu vực phía nam, gia công gia tăng giá trị (20%
đối với sàn gỗ ép), gia công đại trà (80% đồ dùng
gia đình, đũa và hàng thủ công mỹ nghệ), vật liệu
xây dựng (keo) và ngành sản xuất măng tre mới
xuất hiện ở địa phương (Ding, 2011).

Ở miền Nam Việt Nam, sản xuất tre được tập trung ở tỉnh Lâm Đồng, trong đó có
6,2% khu rừng chuyên trồng tre và 16% rừng tre hỗn hợp (Smith, 2011). Ở miền
Bắc Việt Nam, sản xuất tre được tập trung ở bốn tỉnh phía đông bắc tỉnh Tuyên
Quang, Sơn La, Bắc Kạn và Yên Bái. Các tỉnh này chiếm 7% rừng trồng tre và 43%
rừng hỗn hợp (FIPI, 2008).

Hiện nay nhu cầu về tre ở Việt Nam lớn hơn nguồn cung. Sản xuất tre đang phải đối
mặt với các áp lực về đất đai do nhu cầu đa dạng về các loài thực vật khác nhau và
luật bảo vệ rừng. Thân tre thường được thu hoạch trước khi trưởng thành, và điều
này ảnh hưởng đến năng suất tiềm năng của cây tre.


Hình 2. Sản phẩm mây tre thủ
công xuất khẩu của Vietrade

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 18 / 90


Tại các cơ sở chế biến tiểu thủ công nghiệp chủ yếu liên
quan đến sản xuất đũa và tăm tre, phế thải chủ yếu
được sử dụng để sản xuất giấy và bột giấy. Các mấu tre
được các hộ dân sử dụng làm nhiên liệu đun nấu và sản
xuất than củi. Than củi được sản xuất theo công nghệ có
hiệu suất thấp tại các cơ sở này và được sử dụng tại địa
phương như là một loại nhiên liệu sử dụng trong các hộ
dân.

Các cơ sở chế biến sản phẩm ván sàn tre quy mô lớn có
lượng phế thải khác nhau, chiếm từ 50% đến 70% tổng
số tre được chế biến (Ding, 2011), (PI, 2006). Với quy
mô công nghiệp, tất cả chất thải thường được sử dụng
như là nguồn năng lượng sơ cấp để đun nước nóng và
cung cấp nhiệt cho nhà máy. Với khối lượng liên quan và
hình thức chuyển đổi năng lượng kém hiệu quả này, tre
có tiềm năng đáng kể cho nguồn năng lượng tái tạo tích
hợp và sản xuất nhiệt ở các nhà máy này.

70% tổng số tre ở Việt Nam hiện được sử dụng trong các doanh nghiệp sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ và tiểu thủ công nghiệp. Các chất thải sinh khối thu được từ
ngành này là đáng kể và hiện đang được khai thác để sản xuất giấy và sử dụng như
một nguồn nhiên liệu trong nước. Tăng cường sử dụng chất thải này được coi là thực
sự không khả thi do khối lượng sản xuất phân tán và không thường xuyên.

Các bên liên quan chủ yếu là Cơ quan Viện trợ Quốc tế (GIZ, Winrock, OXFAM,
GRET, v.v ), UNIDO, và Bamboo Consortium Mekong. Cho đến nay khó xác định
được khu vực tư nhân. Các cơ quan Chính phủ bao gồm các cơ quan như viện Chính
sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn - IPSARD và lâm trường quốc

doanh - SFE.
2.2.2 Sắn
Sản xuất sắn đã phát triển nhanh chóng tại Việt Nam, từ 1,99 triệu tấn năm 2000
lên 9.45 triệu tấn năm 2009 (xem hình dưới đây). Đó là kết quả của việc mở rộng
canh tác từ 237.600 ha đến 560.400 ha và năng suất tăng từ 8,36 tấn/ ha năm
2000 lên đến 16,90 tấn/ ha năm 2009. Việt Nam đã đạt được những tiến bộ kỹ thuật
vượt bậc ở châu Á trong việc lựa chọn và nhân giống sắn. Có một nhu cầu lớn về sắn
lát và tinh bột sắn. Sự kết hợp giữa phát triển và sản xuất sắn chế biến tinh bột,
thức ăn chăn nuôi và ethanol sinh học đã tạo ra nhiều việc làm, tăng xuất khẩu, thu
hút đầu tư nước ngoài và góp phần vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa một số khu
vực nông thôn.


Hình 3. Cơ sở chế biến quy
mô nhỏ: mấu tre (phải) để
làm đũa (trái)

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 19 / 90


Theo Nguyễn, et al. (Nguyễn, et al., 2004), Việt Nam có thể thu được 1,25 triệu tấn
chất thải sắn từ 4,15 triệu tấn sắn nguyên liệu, với nguồn năng lượng chính khoảng
12.625 (GJ). Với năng suất sản lượng sắn của Việt Nam trong năm 2009 là khoảng
9,5 triệu tấn, ước tính Việt Nam có thể thu được gần 3 triệu tấn chất thải sắn tương
đương với 30.000 GJ năng lượng sơ cấp.


Sắn là cây trồng hàng năm, mùa thu hoạch sắn khác nhau ở từng vùng của Việt
Nam. Do đó, nguồn chất thải sắn đề cập ở trên có thể được thu thập trong suốt cả
năm. Mặc dù khối lượng chất thải sắn là thân cây sắn khá lớn nhưng tỉ lệ thu gom
thực tế hiện nay là không có. Tại các khu vực mà người nông dân được tổ chức
thành nhóm hoặc hợp tác xã, thì việc thu thập thân cây sắn khả thi hơn.

Chất thải xơ trong ngành chế biến tinh bột sắn được bán làm nguyên liệu thô sản
xuất thức ăn gia súc hoặc sử dụng làm phân hữu cơ. Nước thải từ chế biến tinh bột
sắn và ngành công nghiệp sản xuất ethanol có thể được sử dụng để sản xuất khí
sinh học tại hơn 70 nhà máy chế biến tinh bột sắn và 5 nhà máy sản xuất ethanol ở
Việt Nam (từ 50 - 100 triệu lít/ năm/ nhà máy). Chưa có số liệu về sản xuất khí sinh
học, nhưng công nghệ hồ phủ bạt đã được áp dụng (trong một số trường hợp, cơ
chế Phát triển sạch (CDM) được áp dụng, xem dưới đây). Nhà máy sản xuất tinh bột
sắn quy mô vừa với công suất khoảng 22.000 tấn mỗi năm cần khoảng 1.400 tấn
than (70 kg than/ tấn tinh bột sắn sấy khô). Với mức giá than khoảng 3.000 đồng/
kg, chi phí năng lượng rơi vào khoảng 4,2 tỷ đồng mỗi năm, tương đương với
210.000 USD.

Một số nghiên cứu CDM đã được tiến hành bởi các công ty của Nhật Bản và Thụy
Điển ở tỉnh Bình Dương, Bình Phước, và Quảng Ngãi. Khoảng 70 nhà máy sản xuất
tinh bột sắn sẽ tạo ra 2.000 - 4.000 m
3
nước thải/ ngày chính là tiềm năng lớn cho
các dự án CDM. Ở tỉnh Quảng Trị thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, trong năm 2010 một
dự án CDM có giá trị 2 triệu USD được AES (Công ty Năng lượng của Mỹ) xây dựng
cho nhà máy chế biến tinh bột sắn Hướng Hóa, trong đó nước thải chế biến tinh bột
sắn được xử lý tại công trình khí sinh học để tạo ra điện và nhiệt cho nhà máy.

Ngành công nghiệp sản xuất ethanol tại Việt Nam hiện nay chiếm 50% sản lượng
sắn hiện tại. Sự gia tăng nhu cầu sắn để sản xuất hàng hóa sơ cấp đang đối mặt với

vấn đề canh tác lương thực. Chính phủ đã tăng cường thúc đẩy trồng sắn, tuy
nhiên, không có kế hoạch tổng thể nào tích hợp cả quy hoạch sử dụng đất và biện
pháp canh tác bền vững.


Hình 4. Sản xuất sắn trong những năm qua
Hình 5. Diện tích trồng sắn qua các năm
(FAOStat, 2010)
-
1,000,000
2,000,000
3,000,000
4,000,000
5,000,000
6,000,000
7,000,000
8,000,000
9,000,000
10,000,000
1961
1964
1967
1970
1973
1976
1979
1982
1985
1988
1991

1994
1997
2000
2003
2006
2009
Production (tonnes)
-
100,000
200,000
300,000
400,000
500,000
600,000
1961
1964
1967
1970
1973
1976
1979
1982
1985
1988
1991
1994
1997
2000
2003
2006

2009
Area Harvested (Ha)

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 20 / 90

2.2.3 Dừa
Việt Nam có 130.000 ha đồn điền trồng dừa
và thu hoạch khoảng 700 triệu quả dừa mỗi
năm. Việt Nam là nước xuất khẩu dừa tươi
lớn nhất trên thế giới với nhu cầu cao từ thị
trường Trung Quốc. Sản xuất dầu dừa kém
hấp dẫn là do biến động lớn về giá và thị
trường cạnh tranh cao của dầu cọ. Do đó,
sản xuất cùi dừa khô còn thấp và sản phẩm
phụ là dầu dừa được nhập khẩu từ Philipin
để làm thức ăn chăn nuôi.

Trồng dừa được tập trung ở khu vực đồng
bằng sông Cửu Long miền Nam Việt Nam,
mang lại 84% tổng sản lượng quốc gia. Tỉnh
Bến Tre có mật độ rừng dừa cao nhất và sản xuất 30% sản lượng thu hoạch quốc
gia (Smith et al., 2009). Cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh xuất khẩu ở đồng
bằng sông Cửu Long đã tiếp tục cải thiện trong những năm gần đây dưới sự hỗ trợ
của ngành.

Dữ liệu phân tích ngành dừa ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long như sau:


Quả
dừa
Kết quả sản xuất
Chất thải
31%
Chế biến kẹo dừa và dừa nạo sấy xuất khẩu
Vỏ dừa và gáo dừa
30%
Chế biến kẹo dừa cho thị trường trong nước
Vỏ dừa và gáo dừa
32%
Dừa thô xuất khẩu quốc tế (loại bỏ lớp vỏ
ngoài tại địa phương)
Vỏ dừa
7%
Dừa thô được bán tại địa phương để tiêu thụ
Vỏ dừa – khoảng 50%
dừa nước có vỏ dừa

Phế thải từ chế biến dừa tại Việt Nam thường thấp hơn so với các quốc gia sản xuất
dừa khác. Thực tế, vỏ dừa được sử dụng 100% để sản xuất than hoạt tính hoặc làm
nhiên liệu cho ngành công nghiệp trong nước hoặc các ứng dụng nhiệt. 96% vỏ dừa
chế biến thành xơ dừa (sợi vỏ dừa) và được sử dụng để làm dây thừng, thảm, lưới
và nhiều các sản phẩm bằng sợi khác. Sản phẩm phụ sau khi tạo ra xơ dừa là chất
bột mịn được gọi là bột xơ dừa chiếm khoảng 12% trọng lượng quả dừa, chủ yếu để
làm chất nền trồng cây và cải thiện đất. Tuy nhiên, ở Việt Nam chỉ có 20% dừa được
gia tăng giá trị theo cách này và phần còn lại, hơn 80.000 tấn, được đổ xuống sông
Cửu Long tạo ra gánh nặng về môi trường (Smith et al., 2009).
Các bên liên quan trong nước bao gồm: hai nhà xuất khẩu chính các sản phẩm chế

biến là Wonderfarm (Bến Tre) và Betrimex (TP HCM). Prosperity Initiative là tổ chức
phi chính phủ hoạt động tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long và là một nguồn
thông tin có giá trị. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm về sản
xuất và kinh doanh các sản phẩm từ dừa.

Hình 6. Hình thái học của quả dừa

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 21 / 90

2.2.4 Cà phê
Cà phê là hàng hóa xuất khẩu quan trọng thứ
2 tại Việt Nam về giá trị và số lượng
(FAOSTAT, 2010). Ngày nay, Việt Nam là nước
sản xuất cà phê lớn thứ 2 thế giới (IPSARD,
2011). Sau khi bùng nổ số lượng các đồn điền
cà phê cuối những năm 1990 và đầu năm
2000, sự tập trung chuyển dịch theo hướng cải
tiến công nghệ chế biến để có được một sản
phẩm cuối cùng có chất lượng cao hơn, nhằm
phát triển thị trường xuất khẩu.

Có 500.000 ha rừng trồng cà phê tại Việt Nam.
Trong đó 93% Robusta trồng tập trung ở vùng
Tây Nguyên và 7% Arabica được trồng ở khu
vực phía Bắc. Phần lớn cà phê Việt Nam được
thu hoạch giữa tháng Mười và tháng Giêng.

85% sản lượng cà phê được trồng bởi các hộ gia đình nhỏ (thường có hạn điền dưới
2 ha) và 15% là doanh nghiệp nhà nước (các trang trại lớn hơn).

Việt Nam áp dụng các công nghệ chế biến khác nhau; chế biến ướt cho cà phê
Arabica; chế biến bán ướt hoặc chế biến khô cho cà phê Robusta. Mục tiêu của mỗi
quy trình là để loại bỏ vỏ và thịt từ quả cà phê khô, cuối cùng thu được hạt cà phê.

Công nghệ chế biến khác nhau sản xuất ra các phế thải có đặc điểm khác nhau liên
quan đến độ ẩm và thành phần. Chất thải cà phê chiếm 15% trọng lượng quả cà phê
khi sấy khô. Năng suất cà phê trung bình trên mỗi ha là 1,8 tấn, do đó có 270 kg
chất thải cho mỗi ha, mang lại tổng số 135.000 tấn cà phê tại Việt Nam.

Có khoảng 500.000 hộ sản xuất nhỏ cung cấp cho 1.500-2.000 thương lái nhỏ và
các nhà thu gom chính. Sau đó sẽ cung cấp hàng hóa cho
 5-6 công ty đa quốc gia
 140-150 doanh nghiệp tư nhân trong nước và
 5-6 công ty cổ phần
Chất thải chủ yếu được thải ra từ các cơ sở cuối cùng này.

Các biện pháp xử lý vỏ cà phê hiện nay tương tự như phương pháp loại bỏ vỏ trấu,
đốt ngoài trời hay trải trên các con đường làng ở nông thôn, làm phân bón, hoặc
chất đống bên lề đường. Trong hệ thống chế biến bán ướt, nguồn nước được tái sử
dụng và bùn được sử dụng làm phân bón. Chất thải không được tích hợp vào chuỗi
cung cấp năng lượng có hiệu quả tại Việt Nam; do đó, trong quá trình chế biến ướt
và bán ướt, sử dụng bùn để làm khí sinh học và phát điện là một cơ hội đầy hứa
hẹn, đặc biệt là trong quy trình chế biến cà phê Arabica

Chất thải từ hạt cà phê trong quy trình chế biến khô đôi khi được sử dụng làm nguồn
nhiên liệu chính cho các máy sấy cà phê ở một số cơ sở chế biến quy mô nhỏ. Tuy
nhiên, chỉ có khoảng 35% sản lượng hiện đang được chế biến tại các nhà máy công

nghệ cao có nhu cầu về điện và nhiệt.

Sản xuất cà phê cần một lượng năng lượng lớn (thường là diesel) để bơm nước và có
nhu cầu sử dụng phân bón tổng hợp. Chất thải sinh học dạng bùn của quy trình chế
biến ướt và bán ướt có tiềm năng lớn cung cấp năng lượng cho máy bơm nước và
phụ phẩm khí sinh học để làm phân bón.

Hình 7. Hình thái học của hạt cà phê

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 22 / 90


Các bên liên quan bao gồm: Chương trình Người trồng cà phê 4C (được Nestle giới
thiệu tại Việt Nam), Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột(BCEC), Công ty
DAKMAN, Hợp tác xã sản xuất cà phê bền vững Di Linh, Công ty Cổ phần Đầu tư và
xuất khẩu cà phê Tây Nguyên (thuộc sở hữu nhà nước), Cục Trồng trọt Bộ NN &
PTNT, Cục Chế biến - Bộ NN & PTNT, Công ty Nam Nguyệt (Công ty tư nhân), Công
ty Nestle Việt Nam (rang cà phê), Công ty Thái Hòa, Trung tâm Nghiên cứu Cà phê
Ca cao EaKmat, ViệnKhoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI), Công
ty Trung Nguyên, VICOFA, VINACAFE (Tổng Công ty Cà phê Việt Nam), Công ty Cổ
phần VINACAFE Biên Hòa (Chế biến và rang cà phê), Vinacontrol (Kiểm soát chất
lượng và cấp chứng nhận). Hiện nay, các dự án ODA tài trợ nhằm mục đích thực thi
các dự án sản xuất bền vững mà không xem xét vấn đề sử dụng chất thải,
Rainforest Alliance, Hiệp hội 4C, và tiêu chuẩn Utz Certified và Fairtrade. Chứng
nhận theo tiêu chuẩn EUREPGAP cũng được áp dụng rộng rãi trong ngành.
2.2.5 Ngô

Trong 10 năm qua, sản lượng ngô Việt Nam đã từng bước tăng đáng kể chủ yếu là
do tăng nhu cầu về thức ăn gia súc. Tại Việt Nam, sản lượng ngô trong năm 2010
đạt 4,6 triệu tấn so với 2 triệu tấn năm 2000. Số liệu này phản ánh sự gia tăng từ
730.000 ha lên đến 1.125.000 ha so với cùng kỳ (Tổng cục Thống kê, 2010).

Các khu vực sản xuất ngô chính ở Việt Nam nằm ở khu vực đông bắc (50%) và đông
nam (10%), phần còn lại nằm rải rác trên cả nước. Mùa sản xuất chính là mùa Đông
Xuân (từ tháng 12 - tháng 4) và Hè Thu (từ tháng 4 -tháng 8).

Trong kế hoạch sản xuất ngô giai đoạn 2011-2015, Bộ NN & PTNT duy trì diện tích
sản xuất 1,2 triệu ha với trọng tâm chính tăng năng suất cây trồng. Hiện nay, sản
lượng ngô ở Việt Nam là 51,6 tấn/ ha, so với 55,5 tấn/ ha ở Trung Quốc và 96,5 tấn/
ha ở Mỹ. Trong năm 2010, nhập khẩu ngô ở Việt Nam đạt 1,8 triệu tấn, so với 1,49
triệu tấn năm 2009 (Trần, 2011). Sự gia tăng này là do ngành thức ăn chăn nuôi
hiện nay tăng trưởng ở mức 8-10% hàng năm và vượt xa tốc độ tăng trưởng của
nguồn cung trong nước. Tỉ lệ chất thải trung bình của ngô là 2.5 (Cường, 2009).




Hình 8. Chất thải ngô
Hình 9. Lõi ngô


Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 23 / 90


Khi thu hoạch hạt ngô, khoảng 3-5 lá xanh trong tổng số 12-15 lá được loại bỏ và
được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi khi ngô còn non. Sau khi thu hoạch ngô, phần
trên của cuống ngô được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi, còn lại phần lõi ngô và
thân cây ngô. Bắp ngô ngọt được thu hoạ ch khi hạt ở “giai đoạn sữa”, sau khi thụ
phấn, nhưng trước khi hình thành tinh bột (VNFOREST, 2011) (FAO, 1997). Chất
thải ngô bao gồm bắp ngô đã loại bỏ hạt, thân cây ngô và lá bao ngoài bắp ngô.

Chất thải ngô được sử dụng chủ yếu
làm thức ăn chăn nuôi và nhiên liệu tại
địa phương. 18% thân ngô, lá xanh và
một phần lõi ngô sử dụng làm thức ăn
chăn nuôi. Lõi ngô được bà con thôn
bản sử dụng làm nhiên liệu đun nấu,
tuy nhiên, tại khu vực trồng ngô chính
trên cả nước, tình trạng chất đống lõi
ngô sau khi thu hoạch vẫn còn phổ
biến và có thể ảnh hưởng đến môi
trường.

Các bên liên quan chính bao gồm: Viện
Nghiên cứu Ngô Việt Nam (VASS), Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Đại học Nông Lâm
Hồ Chí Minh, Đại học Nông Lâm Huế (Viện Nghiên cứu), Cục Trồng trọt (cơ quan
chính phủ), Vinafood2, Bioseed Việt Nam, Vinafood1 (kinh doanh, xuất nhập khẩu).
2.2.6 Cây cọc rào (jatropha)
Jatropha curcas là cây năng lượng sống lâu đời tại các khu vực có điều kiện khó
khăn. Sau khi thu hoạch, vỏ của hạt giống bị tách bỏ. Nhân hạt được ép bằng máy
hoặc chiết xuất, và lọc lấy dầu. Tỷ lệ khai thác dầu thường là 75-85% (BTG, 2009).
Cả dầu và sản phẩm phụ (bã lọc ép và vỏ hạt) có thể được sử dụng để sản xuất
năng lượng và chế biến thêm. Dầu của cây cọc rào là một nguồn sản xuất dầu diesel
sinh học, sản xuất điện và/ hoặc nhiên liệu đun nấu. Dầu cọc rào thường liên quan

tới các chủ sở hữu nhỏ và tạo thu nhập cho người nghèo.

Khi các điều kiện sinh trưởng tối ưu, và chỉ có nước và độ dinh dưỡng quyết định
năng suất của cây cọc rào, năng suất của cây cọc rào và sản lượng hạt giống tiềm
năng được ước tính dưới đây đối với lượng nước cấp và cung cấp dinh dưỡng khác
nhau (xem bảng dưới đây).

Bảng 1. Năng suất hạt Jatropha dự kiến theo lượng nước cấp và độ màu mỡ của đất (FACT
Foundation, 2010)

Cung cấp nước
Độ màu của đất
Hạt giống khô
(kg/ha/năm)
Tối ưu
Cao
6

Trung bình
2.5

Thấp
750
Thông thường
Cao
3.5

Trung bình
1.5


Thấp
500
Không tối ưu
Cao
1.5

Hình 10. Lõi ngô được trực tiếp dùng để đun nấu

Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 24 / 90


Trung bình
750

Thấp
250

Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy có nhiều quan điểm về tính hiệu quả của Jatropha.
Bên cạnh các công ty và viện nghiên cứu thực sự đã hoạt động trong lĩnh vực này
(có khoảng 10 công ty Việt Nam và 5 công ty nước ngoài trồng cây cọc rào và tập
trung vào các dự án về cây cọc rào tại Việt Nam (Tường, 2008), hầu hết các chuyên
gia nhiên liệu sinh học khác tại Việt Nam đều hoài nghi như Ông Mẫn (Mẫn, 2011),
Bà Thoa (Thoa, 2011) và Ông Đơ (Đơ, 2011). Họ đã đưa ra những câu chuyện thất
bại về cây cọc rào. Theo báo cáo, sản lượng của các dự án này đạt từ 1 - 5 tấn/ ha
tại Việt Nam.


Bảng 2. Diện tích trồng jatropha được xác định tại Việt Nam
(lớn hơn so với thí điểm)
Jatropha đã được trồng ở Việt
Nam từ năm 2006. Hơn 2.000
ha Jatropha được trồng chủ yếu
ở Lạng Sơn, Sơn La, Nghệ An và
Lai Châu. Các khu vực phía nam
của tỉnh Quảng Trị dự kiến có
điều kiện thuận lợi hơn để phát
triển cây Jatropha. Jatropha nở
hoa vào tháng hai, và đơm trái
vào tháng ba và có thể thu
hoạch vào tháng năm (Võ Thị
Mai Hương, 2010). Mùa thu
hoạch bắt đầu vào năm thứ hai
và được thu hoạch hàng năm
vào các năm tiếp theo với sản
lượng dự kiến ổn định từ năm thứ 3 đến năm thứ 6, tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu
ngành này tăng cường ứng dụng của cây jatropha thì chất thải của cây jatropha sẽ
mang lại một cơ hội khác. Bã ép từ hạt Jatropha để làm phân bón hoặc khí sinh học
và cùi hạt (30% trọng lượng của hạt) (BTG, 2009) có thể sử dụng để sản xuất năng
lượng sinh học hoặc nhiên liệu sinh học.

Theo báo cáo, nhu cầu trong ngành chủ yếu là:
1. Hỗ trợ và trao đổi kiến thức trong lĩnh vực kỹ thuật canh tác, và hỗ trợ
thêm cho nông dân.
2. Hỗ trợ tài chính cho các khu vực trình diễn lớn hơn và/ hoặc tăng quy
mô thương mại (30.000 ha trở lên)
3. Hỗ trợ kỹ thuật cho công nghệ biến đổi thành dầu đới với bối cảnh hiện
tại và các nhà cung cấp của Việt Nam. Các công nghệ đang áp dụng trên

toàn cầu chưa có mặt tại Việt Nam hoặc chưa phù hợp với bối cảnh Việt
Nam.

Gần đây, một dự án mới có quy mô lớn đã được thực hiện, Tập đoàn Kỹ nghệ Gỗ
Trường Thành (TTF) và Công ty JATRO Singapore Pte. Ltd cùng lập kế hoạch phát
triển 100.000 ha Jatropha curcas ở miền Trung Việt Nam. Ngoài ra, các đối tác quốc
tế khác như JICA và ADB cũng đã thể hiện sự quan tâm và khả năng tài trợ.
Công ty
Diện tích
Năng suất
được báo
cáo
Công ty Liên danh với
Eco-Carbone
250 ha
1 tấn/ha
Công ty Núi Dầu
150 ha
-
Năng lượng sinh khối
Năng lượng Xanh
850 ha
Cung cấp
theo yêu
cầu
Đại học Thành Tây
1.080 ha
-
Tổng
2.330 ha



Cơ hội Kinh doanh Sinh khối tại Việt Nam – Tháng 3/ 2012



Trang 25 / 90

2.2.7 Chất thải chăn nuôi
Ngành chăn nuôi ở Việt Nam không ngừng thay đổi. Tỷ trọng của ngành chăn nuôi
trong tổng giá trị ngành nông nghiệp đã tăng từ 19,3% năm 2000 lên 27,1%năm
2009. Thống kê cho thấy tổng số hộ chăn nuôi lợn đang giảm dần, trong khi số
lượng động vật nuôi trong mỗi hộ đang gia tăng. Đối với gia cầm, cả số hộ chăn nuôi
cũng như số lượng động vật nuôi ngày càng tăng, điều này là do nhu cầu tăng cao
về sữa và các sản phẩm từ sữa
1
. Khi xem xét các trang trại hộ gia đình, con số này
cao hơn đáng kể, ước tính có khoảng 2 triệu trang trại chăn nuôi lợn.

Hình 11. Số lượng động vật nuôi tại Việt Nam (FAOStat, 2010)

Hơn nữa, tổng số trang trại chăn nuôi lợn và gia súc quy mô vừa và lớn ngày càng
tăng. Chính phủ hỗ trợ phương thức chăn nuôi tập trung và công nghiệp hóa và xác
định các trang trại lớn là một trong những giải pháp chống lại bệnh dịch lây lan trên
cả nước (một vấn đề tái phát tại Việt Nam).

Việt Nam có khoảng 8,5 triệu hộ chăn nuôi gia súc trong năm 2010. Xu thế nêu trên
dẫn đến một vấn đề môi trường ngày càng tăng do thiếu hệ thống quản lý phân bón
thích hợp. Pháp luật Việt Nam về quản lý phân bón rất khó thi hành và nhận thức
của người nông dân về vấn đề này cũng như các giải pháp liên quan còn yếu kém.


Ước tính sản xuất phân bón tại Việt Nam đạt khoảng 95 triệu tấn mỗi năm (Tổng cục
Thống kê, 2010). 50% phân ở thể rắn và 80% phân ở thể lỏng không được xử lý
trước khi tái sử dụng hoặc được thải vào nguồn nước (Đoàn, 2006).

Việt Nam có lịch sử lâu dài với việc sử dụng hầm khí sinh học để xử lý phân. Các bên
liên quan lớn nhất ở cấp hộ gia đình là Bộ NN & PTNT. Bộ NN & PTNT đang thực hiện
“Chương trình Khí Sinh học cho ngành chăn nuôi Việt Nam” trên toàn quốc từ năm
2003 với sự hỗ trợ của SNV và nguồn tài trợ từ Chính phủ Hà Lan (DGIS). Hơn
115.000 hầm khí sinh học đã được xây dựng từ năm 2003 - 2011.Bộ NN & PTNT
cũng đang triển khai 2 chương trình khí sinh học quy mô hộ gia đình do Ngân hàng

1 Việt Nam hiện không thể đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm thịt và sữa sản xuất trong nước. Thay vào đó, Việt
Nam nhập khẩu thịt lợn với số lượng lớn và phần lớn sản phẩm sữa bột.
-
5,000,000
10,000,000
15,000,000
20,000,000
25,000,000
30,000,000
35,000,000
40,000,000
1961
1964
1967
1970
1973
1976
1979

1982
1985
1988
1991
1994
1997
2000
2003
2006
2009
Pigs
Cattle
Buffaloes

×